Ba Pháp Cao Thượng
Được nghe để học và ghi chép theo sự hiểu của Minh Hạnh qua băng giảng "Ba Pháp Cao Thượng" do HT Chánh Minh giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ cùng các Thiện Tri Thức.
TT Chánh Minh:Đề tài hôm nay chúng tôi xin trích giảng ba chi pháp được ghi nhận trong Trường Bộ bốn cũng như là trong kinh Trung Bộ. Những chi pháp này Đức Thế Tôn Ngài dạy cho Chư Tỳ Khưu là ở trên đời người ta quan niệm sự thấy, sự nghe, hay sự gặp, những điều được gọi là tốt đẹp. Nhưng thấy như thế nào là tốt đẹp và cách thực hành như thế nào gọi là tốt đẹp. Nhân đó Đức Thế Tôn Ngài dạy những chi phần gọi là anuttarariya.
Anuttara là không thể sánh được,
uttara là cao tột,
nhưng chữ anuttarariya nghĩa là điều không thể so sánh được,
riya nghĩa là điều đó.
Tạm dịch là ba pháp cao thượng, ba pháp cao thượng đó Đức Thế Tôn Ngài dạy:
Thứ nhất là thấy cao thượng,
Thứ hai là thực hành cao thượng,
Và thứ ba là giải thoát cao thượng.
1) Thấy Cao Thượng
Chúng ta sẽ đi vào chi pháp thứ nhất đó là "Thấy cao thượng." Trong đời này có những người quan niệm thấy những điều kỳ diệu mà người khác không thể thấy được là hạnh phúc. Trước mắt thì chúng ta thấy những điều hạnh phúc thì an ) những điều hạnh phúc đó, hoặc thấy những cảnh sắc đẹp, hoặc thấy những thiên cung, hoặc thấy cõi trời, nhưng điều thấy đó chưa hẳn gọi là cao tột. Vì sao vậy? Vì trong những mảnh lực một người khéo tu tập thì người đó có thể nhìn thấy được những điều mà những người khác không thể thấy, là do có một năng lực kỳ diệu, nhưng điều đó chưa hẳn đem lại sự lợi ích, bởi vì sự thấy này chỉ ích lợi cho người đó mà thôi. Đại khái như có những chúng sanh do năng lực thiền tập cũng có, do phước riêng cũng có, hoặc là do một cái biến đổi nào đó khiến người đó có thể nhìn thấy được những loại sắc pháp mà mắt thường chúng ta không nhìn thấy, như nhìn thấy được những cảnh giới của Chư Thiên, hoặc thấy được những hàng phi nhân, nói chung thì đó là những hàng ngã qủi, nhưng thấy những điều này không mang lại lợi ích tốt đẹp bởi vì thấy những hình ảnh ghê rợn của hàng ngã qủi đó đôi khi chúng ta kinh tâm tán đởm, hoặc giả là thấy những cảnh thù diệu của cõi thiên cung, chẳng hạn vậy.
Thì đôi khi chúng ta lại có hướng sai lầm vì thích thú những cảnh đó để rồi tạo những việc phước nhưng lại tái sanh vào những cảnh giới mà mình không hiểu biết rằng cảnh giới đó không an lạc lắm. Điển hình trong bản sớ giải kinh Bổn Sanh, Ngài Bồ Tát của chúng ta có một thời Ngài sinh làm Bồ Tát có tên là Vidhurapandita, vị này luôn luôn giữ lời nói chân thật và trong suốt cuộc đời hành trình của vị Bồ Tát có tên gọi là Vidhurapandita không bao giờ nói sai lời tức là nói theo đúng với chân pháp.
Thì tương truyền là trong một quá khứ có bốn gia chủ, bốn gia chủ này lại là những người hộ độ cho bốn vị ẩn sĩ, bốn vị ẩn sĩ là những người tu tập được những thắng trí. Một người thường dạo chơi ở cõi rồng, một người thì thường dạo chơi ở cảnh giới thiên cung, một người thì thường dạo chơi ở cảnh giới của loài chim thần gọi là chim Sí Điểu, một người khác thì thường thích vào dạo chơi ở vườn ngự uyển của Đức Vua.
Và vì mỗi người có một khuynh hướng riêng như vậy cho nên được những người gia chủ hộ độ mình, những vị ẩn sĩ này tường thuật lại những điều mình thấy, một vị thường đi xuống dạo ở long cung để hưỡng những cảnh vui ở cõi rồng thì mô tả những cảnh rồng thật là xin đẹp. Người thường đi tới những lâu đài của loài chim thần chim Sí Điểu lại mô tả những cảnh thù diệu ở cõi đó. Người đi đến thiên cung Đạo Lợi lại mô tả những cảnh thù diệu cõi thiên cung Đạo Lợi, một vị nữa thì thường mô tả sự an lạc của Đức Vua. Nghe được như vậy cho nên những gia chủ này mới tạo những việc phước và ước nguyện sau khi thân hoại mệnh chung sẽ tái sanh về cảnh giới mà thầy của mình đã mô tả, và chẳng những được thầy của mình mô tả mà có những lần thì những vị ẩn sĩ này dùng thần lực riêng của mình để đưa người đệ tử của mình ngắm nhìn những cảnh đẹp đó, và do mảnh lực của những sắc đẹp thù diệu đó quyến rủ cho tâm tham mặc dù làm những việc phước nhưng tái sinh vào những cảnh giới tốt đẹp đó, cho nên khi mệnh chung cả bốn gia chủ tùy theo hạnh nguyện hay ước nguyện của mình. Và do cộng với phước của mình đã tạo nên một gia chủ tái sinh làm rồng chúa ở cõi rồng, một vị thì đã tái sinh làm Kim Sí Điểu Vương tức là một loài chim thần rất đặc biệt, một vị tái sinh làm vua trời Đế Thích, một vị tái sinh làm Đức Vua ở kinh thành và Bồ Tát chúng ta tái sinh làm dân kinh thành đó. Với sự thông minh tài trí cho nên Bồ Tát chúng ta được Đức Vua đó mời làm vị cố vấn đại thần tương tự giống như chức vụ quân sư của người Trung Hoa vậy, những ý kiến của vị cố vấn đại thần này luôn luôn được Đức Vua tôn trọng, bởi vì quân sư có nghĩa là thầy của vua.
Một ngày nọ vào ngày Bát Quan Trai Giới, do thói quen ở quá khứ những gia chủ ngày xưa cũng thường vào ngày lễ Bố Tát thọ trì quan trai giới thì đức vua cảm thấy khó chịu vì các cung nữ luôn luôn vây quanh cho nên đức vua đến vườn thượng uyển tìm nơi thanh vắng để thọ trì giới hạnh của mình.
Và tình cờ thì vua trời Đế Thích trong ngày Bát Quan Trai giới cũng cảm thấy cần nơi yên tịnh nên đi vào vườn ngự uyển của Đức Vua.
Tương tựa như vậy thì một vị cõi rồng cũng vào ngày Bát Quan Trai Giới thọ Bát Quan Trai Giới rồi cũng thấy là những long nữ những long hậu quấy rối mình, cảm thấy mình không được an tịnh nên cũng đi tìm một nơi thanh vắng và hội ngộ ở vườn ngự uyển.
Chúa của loài chim thần kim sí vào ngày đó cũng thọ trì Bát Quan Trai Giới cũng bị quấy nhiễu bởi đoàn chim thần mái thấy không được yên tịnh lại hội ngộ ngay tại đó.
Thì bấy giờ cả bốn vị họp nhau hỏi giới của ai cao thượng nhất.
Đức Vua mới nói là giới của tôi thì cao thượng hơn các Ngài bởi vì tôi có hàng ngàn vương phi nhưng tôi từ khước dục lạc đó để sống đời sống phạm hạnh trong trọn ngày nay, thì tôi cảm thấy giới của tôi cao thượng nhất.
Vua trời Đế Thích nói là giới ta cao thượng hơn bởi vì ta sống ở giữa những nàng thiên nữ rất sinh đẹp mà ta từ khướt dục lạc của thiên giới đã đi về cõi nhân giới để thọ trì giới hạnh thì giới hạnh của ta tốt đẹp hơn.
Long Vương nói rằng giới hạnh của tôi mới thật sự tốt đẹp, các Ngài mới chỉ từ khướt dục lạc thôi nhưng mà riêng cá nhân tôi từ khướt được sự sợ hãi bởi vì loài rồng chúng tôi rất căm ghét kim sí điểu bởi vì kim sí điều thường thường bắt loài rồng chúng tôi để ăn thịt, sự hận thù của loài rồng đối với kim sí điểu dường như nó là mối thù truyền kiếp nhưng khi tôi đối diện với kim sí điểu vương tôi không hề sợ sệt và tôi từ bỏ cái hận thù thì xem ra giới của tôi được trong sạch nhất.
Ngược lại chim thần kim sí điểu trả lời là giới của tôi mới là trong sạch nhất bởi vì thường thường khi gặp loài rồng là món vật thực của chúng tôi, chúng tôi ăn những con rồng đó rất là ngon nhưng hôm nay tôi từ khướt được sự thèm khát của món ăn khoái khẩu này và tôi xem chúa rồng này cũng giống như người bạn, tôi không hành hạ, tôi không gây thương tổn đến loài rồng này vậy thì tôi thấy giới hạnh của tôi mới là cao thượng nhất.
Cả bốn vị đều tự xưng mình có hạnh cao tột nhất không ai nhường ai. Bấy giờ Đức Vua nói là ta có một bậc hiền trí tên là Vidhura, vị này hiểu được các pháp và có trí tuệ, vị này không bao giờ nói sai lệch, chúng ta hãy mời vị hiền trí Vidhura tới để giải quyết. Thì Ngài Vidhura tới mới trả lời rằng "cả bốn vị giới hạnh đều tốt đẹp" bốn vị đại vương đều hân hoan với lời phát biểu đó vì xét ở khía cạnh nào đó thì luôn áp chế được tham dục, áp chế được sân hận và hiểu rõ được giới hạnh đó là bằng trí tuệ. Một người vô tham tức là không còn tham đắm, một người từ bỏ hận thù tức là vô sân, một người hiểu rõ được trí tuệ thì ở một góc độ nào đó lấy cái này bù đắp cái kia thì cả bốn đều tốt đẹp như nhau.
Điều này nằm trong kinh Bổn Sanh nói về vị Bồ Tát Vidhura tu hành chơn thật như ở đây chúng tôi dẫn ra một đoạn nhỏ của câu chuyện này để nói rằng khi chúng ta thấy những điều kỳ diệu và thông thường thì chúng ta ưa thích nhưng đó không phải là thấy cao thượng.
Vậy thì thế nào là thấy cao thượng?
Thấy cao thượng ở đây Đức Phật Ngài dạy là thấy được thánh nhân, đó là sự thấy cao thượng. Nhưng thông thường thì thánh nhân thật tình mà nói chúng ta có duyên may gặp thánh nhân đi nữa thì chúng ta cũng không biết được rằng vị này là thánh hay không phải là thánh mà chúng ta sẽ nghĩ rằng đây là vị samon bình thường. Bởi vì Đức Phật Ngài dạy rằng với người không phải là bậc chân nhân thì không thể nào biết được bậc chân nhân, nhưng người chân nhân thì có thể biết đây là bậc chân nhân hoặc đây không phải là bậc chân nhân. Một lần nọ Đức Thế Tôn Ngài trả lời với vị đại thần Vassakara, là vị phục vụ cho hai chiều vua là vua Bình Sa Vương và vua A Xà Thế, cũng chính ông đại thần Vassakara đã giúp vua A Xà Thế thôn tính xứ Vajjis rất dễ dàng và tự hào với tài trí của mình cho nên đại thần Vassakara hỏi Đức Thế Tôn là
"Bạch Đức Thế Tôn, một người không trí có thể biết được người không trí chăng"
Đức Thế Tôn mới dạy rằng:
"Này đại thần Vassakara, điều này không thể xảy ra."
"Bạch Đức Thế Tôn, một người không có trí có thể biết được người có trí không?"
"Này đại thần Vassakara, điều này không thể xảy ra."
Đức Thế Tôn khẳng định là người không có trí thì không thể biết được người không có trí lẫn người có trí. Vì sao vậy? Vì khi biết người này không trí thì ngay lúc đó mình đã có trí, mà biết được người này có trí thì lúc đó mình đã có trí. Nhưng người không có trí thì không thể biết được người khác có trí hay không có trí. Đây là một điều mà chúng ta phải suy ngẫm.
Vị đại thần Vassakara hỏi tiếp.
"Bạch Đức Thế Tôn, người có trí có thể biết người không có trí chăng?"
Đức Thế Tôn dạy rằng: "Này đại thần Vassakara, điều này có thể xảy ra."
Tức là Đức Thế Tôn dạy rằng; "người có trí có thể hiểu biết người không có trí, và người có trí có thể hiểu biết người này có trí". Điều này cho chúng ta biết rằng mặc dầu đôi khi gặp bậc thánh nhưng với hình tướng samon chúng ta cũng chỉ nghĩ là một vị samon bình thường mà thôi và không thể nghĩ rằng đây là vị đã có một ân đức cao trọng. Chúng tôi dẫn chứng trong kinh điển qua một sớ giải ghi tương truyền rằng có một vị mà trong một tiền kiếp là người vận động những người khác cùng ông bỏ tiền ra để làm bảo tháp thờ xá lợi Đức Phật Ca Diếp nhưng do một lời nói bất cẩn cho nên vị này vào Đức Phật tái sinh làm người có giọng nói rất du dương êm dịu, người nghe phát sinh cảm mến, nhưng Ngài là một người lùn cho nên có tên là Lakumlaka. Khi mới xuất gia là sadi, thì bấy giờ có ba mươi tỳ khưu đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và nhận thấy duyên lành của ba mươi vị tỳ khưu này thì bấy giờ Ngài Lakumlaka là thị giả đang phục vụ cho Đức Thế Tôn và Ngài sadi Lakumlaka mang những vật dụng của Đức Thế Tôn ra ngoài thì Đức Thế Tôn mới hỏi ba mươi vị tỳ khưu
"Này các thầy tỳ khưu, các vị có thấy một vị trưởng lão mới vừa đi ra không?"
" Bạch Thế Tôn, con không thấy vị trưởng lão nào cả."
"Vậy này các thầy tỳ khưu, các thầy đã nhìn thấy ai."
"Bạch Đức Thế Tôn, con nhìn thấy một vị sadi lùn mang những vật dụng của Đức Thế Tôn ra ngoài."
Đức Thế Tôn mới dạy rằng:
"Này các tỳ khưu, Như Lai không gọi người có hình tướng bên ngoài là trưởng lão mà Như Lai gọi những vị là trưởng lão đó là những người đã thành tựu được những ân đức cao thượng của Pháp."
Tiếp theo thì Ngài nói lên câu kệ ngôn trong phẩm balamon và nghe xong câu kệ ngôn này thì ba mươi vị tỳ khưu đã chứng đạo quả.
Như vậy, thì hình tướng bên ngoài không nói lên một điều gì, mà là do nội tâm ở bên trong của vị đó có đầy đủ hoặc là có ẩn chứa những ân đức cao thượng hay không. Đó là vấn đề. Nhưng thường thường nhìn bên ngoài thì chúng ta không thể thấy được. Cho nên khi Đức Phật Ngài dạy là "thấy được bậc thánh là cái thấy cao thượng" thì cho chúng ta một hiểu ngầm như vầy; là bề ngoài chúng ta thấy vị samon bình thường nhưng hãy xem thân hành của vị đó không thô tháo và đồng thời không rơi vào những ác nghiệp như là sát sanh, lấy của không cho, hoặc là những tà hạnh trong việc làm, vị đó lánh xa những ác nghiệp về thân, xem ngữ hành của vị đó không rơi vào các ác thiện pháp, từ bỏ ác nghiệp về ngữ, thì ở một góc độ nào chúng ta có thể hình dung được đó là những bậc cao thượng dầu rằng chưa biết vị đó thuộc dạng nào. Bởi vì muốn biết bậc thánh thì chúng ta phải là bậc thánh mới biết được, nếu chúng ta chưa thành tựu bậc thánh thì rất là khó. Thậm chí ngay cả những bậc chứng đắc thiền định chúng ta chưa phải là người kinh qua được những giai đoạn chứng đắc thiền thì chúng ta chỉ nhìn hình ảnh bên ngoài rồi cho là vị này tu thiền có khả năng chứng đắc thiền, cái đó chưa hẳn là chính xác 100% nó cũng có thể là do một ảo tưởng nào hoặc là một cái ý nghĩ nào đó mà thôi.
Như trường hợp chúng ta thấy trong kinh điển, trong thời Đức Phật có những tôn chủ dị giáo họ với những sở hành rất kỳ lạ, hoặc loả thể đi ngoài đường, hoặc đắp y bằng vỏ cây hoặc thực hành mỗi ngày tắm dưới nước sông Hằng ba lần. Vào thời điểm Đức Phật, một số người lại cho đây là những bậc thánh cực kỳ khổ hạnh. Bây giờ chúng ta hiểu biết rằng đó là một điều sai lạc nhưng mà thời đó thì chưa chắc hiểu biết đó là điều sai lạc, nhưng với một cái nét bên ngoài như vậy những người đương thời cứ cho đó là những bậc thánh. Cho nên khi gặp được bậc thánh không phải là điều dễ dàng. Nhưng nếu chúng ta y cứ vào những điều Đức Phật dạy qua pháp học; thân người này không rơi vào ác hạnh, từ bỏ ác hạnh. Ngữ của người này đã từ bỏ ác ngữ và không rơi vào ác ngữ. Với thời gian cộng trú thì chúng ta có thể hiểu biết được ý của người này thanh tịnh hay không thanh tịnh, nó đòi hỏi thời gian cộng trú rất lâu mới có thể nắm bắt được.
Đức Phật Ngài dạy rằng thấy được bậc thánh là một điều cao thượng, trước tiên với niềm tin vào ân đức Phật, ân đức Pháp, ân đức Tăng, và với những biểu tượng cũng giống như là môn đệ của Đức Thế Tôn. Như trong thời hiện tại của chúng ta, chúng ta y cứ vào giới, tức là thân và ngữ, thì chúng ta cũng có phần nào loại trừ một số tư tưởng sai lầm, nhưng mà như vậy thì chúng ta có tỏ một sự cung kỉnh thì cũng là có hạnh phúc rồi.
Cho nên trong bài kinh Cúng Dường Phân Biệt Đức Phật Ngài dạy rằng:
Nếu cho một loài súc sanh 100 lần thì chỉ bằng một lần cho một người ác giới.
Cho người ác giới 100 lần, chỉ bằng một lần cho người có giới.
Cho một người có giới ngoài Phật giáo 100 lần thì chỉ bằng một lần cho một người có giới ở trong Phật giáo
Điều này tại sao vậy? Xin thưa với những người Phật tử chúng ta luôn cả những vị chư tăng và qúi sư cô, cái giới mà người Phật tử chúng ta thọ trì năm giới, giới đó hình dung như là thường giới bởi vì những vị đạo sĩ vẫn thọ được năm giới đó hoặc là những người không phải là Phật giáo cũng có thể thọ trì được năm giới đó, như ngày xưa khi chưa có giáo pháp Đức Phật xuất hiện thì những samon balamon khác vẫn thọ trì năm giới tức là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong dục lạc, từ bỏ nói dối, hoặc từ bỏ những chất men say, đó là thường giới. Nhưng sự khác biệt ở đây cho chúng ta thấy là sở dĩ mà cho riêng người có giới ngoài Phật giáo 100 lần hay 10 lần chỉ bằng người có giới trong Phật giáo một lần là bởi vì người có giới trong Phật giáo còn được cái rất đặc biệt mà ở ngoại giáo không hề có đó chính là ba ân đức Phật, Pháp, Tăng. Dù sao nữa những người Phật tử chúng ta luôn luôn có niềm tin nơi ân đức Phật, Pháp, Tăng. Nói một cách khác có thể là vì những người Phật tử chúng ta có được tam qui mà chính tam qui đó là một chất liệu làm tăng trưởng phước báu của năm giới mà người ta gọi thường giới, đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai nữa khi chúng ta thọ trì năm giới đó mặc dù hình thức là thường giới nhưng nó lại xuất phát từ lời dạy của Đức Phật, đó là chúng ta thọ trì năm giới đó từ nơi Tam Bảo chứ không phải là từ nơi nào khác. Do mãnh lực đó làm tăng trưởng phước của chúng ta.
Điều này nằm trong bài kinh Cúng Dường Phân Biệt kinh của Trung Bộ Kinh, từ đó chúng ta thấy rằng:
Nếu mà đảnh lễ những con thú những con linh vật 100 lần như vậy đó không bằng đảnh lễ một người ác giới.
Đảnh lễ 100 lần người ác giới không bằng một lần đảnh lễ người có giới.
Đảnh lễ 10 lần một người có giới ngoài Phật giáo không bằng một lần đảnh lễ người có giới ở trong Phật giáo.
Bởi vì Đức Phật chỉ nói rằng bố thí không thôi nhưng chúng ta phải hiểu rộng rãi vấn đề, tất cả những việc lành nào đó sẽ tùy theo cấp bậc. Thí dụ như người Phật tử đảnh lễ những con rồng những con phượng hay những con linh thú như sư tử hoặc kỳ lân v.v.... có nhiều người van vái cầu khẩn những con linh vật đó nhưng mà không biết rằng cho dù là 100 lần lạy con linh vật đó không bằng một lần lạy một người ác giới. Tương tự như vậy. Cho nên nếu chúng ta thấy hình bóng của vị samon chưa biết rằng vị đó có giữ giới hay không giữ giới nhưng mà với phẩm phục này với hình thức ly trần của nhà Phật dù ít hay nhiều gì chăng nữa trong lúc xuất gia thì người này cũng có khuynh hướng là ly trần để rồi tùy theo duyên nghiệp có ly được hay không ly được đó là chuyện cá nhân của từng người. Nhưng ngay lúc xuất gia luôn luôn có mãnh lực ly trần. Cũng giống như người Phật tử chúng ta khi được xin qui y có sự hiểu biết thì ít ra ngay lúc đó chúng ta cũng muốn trở thành những vị thánh, sở dĩ mà chúng ta qui y ngay lúc đó chúng ta hi vọng rằng hoặc là chúng ta ước muốn rằng sau buổi qui y này xong mình sẽ gieo duyên lành để trở thành vị thánh, một khi đã trở thành vị thánh chính là mãnh lực ly trần thì nói chi đến bậc xuất gia ngay cả giây phút mà dám từ khướt đi những cái gì thuộc về thế gian để khoát lên mình một phẩm phục của sự ly trần, dám từ bỏ mái tóc đẹp cạo bỏ đi thì lúc đó cũng ao ước được trở thành một vị thánh thiện một hiền nhân rồi theo giòng thời gian tùy theo nghiệp duyên mà nó biến chuyển thì đó là chuyện về sau này, nhưng mà chúng tôi muốn nói ngay thời điểm đó nó tốt đẹp vô cùng, rất là tốt đẹp, cho nên chúng ta giữ được niềm tin đó và tốt nhất khi gặp những gì mà có phẩm phục samon thì chúng ta đừng có nghĩ rằng là vị A, vị C và không nghĩ vị này là Hoà Thượng, không nghĩ vị này là Thượng Toạ, không nghĩ vị này là Đại Đức mà nghĩ đây là sứ giả của Như Lai hoặc đây là hình bóng của những người con Phật thật sự là con Phật. Cho dù rằng như thế nào đi nữa thì chúng ta hướng tâm tới một góc độ là ân đức Phật Pháp Tăng, tâm trí chúng ta hướng về nơi đó thì lúc đó chúng ta gặp được thánh nhân mặc dù rằng cái hiện thể thánh nhân này chưa biết có phải là thánh nhân hay không nhưng bấy giờ tâm hướng của chúng ta sẽ hướng về thứ đó.
Chúng tôi điển hình cho qúi vị nghe, kim thân Phật chúng ta thường đảnh lễ ở trong chùa, hay chúng ta thường đảnh lễ tại nhà, những kim thân Phật đó chưa hẳn là Đức Phật, vì Đức Phật Ngài không phải là như vậy, bản chất của Đức Phật không phải là bằng đá, bằng cát, bằng sỏi, bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng giấy. Không phải. Nhưng tại sao chúng ta đảnh lễ? Bởi vì khi chúng ta đảnh lễ là chúng ta hướng tâm về ân đức Phật, ân đức bi, ân đức tuệ, chúng ta hướng tâm về ấn đức pháp, thoát ly ra khỏi triền phược, thoát ly ra khỏi những trói buột, thoát ly ra khỏi những ô nhiễm. Chúng ta đảnh lễ đó là chúng ta hướng tâm tới những đạo quả, sơ quả, nhị quả, tam quả hay tứ quả, để thoát ly ra khỏi sanh tử luân hồi, mà cái đảnh lễ đó có phước rất lớn. Người ta có thể phá bỏ tượng Phật này xây dựng một tượng Phật khác, người ta có thể không sử dụng pho tượng Phật bằng đá, người ta có thể có tượng Phật bằng gỗ trầm hương, người ta có thể dẹp bỏ đi cái tượng Phật bằng gỗ trầm hương để có một tượng Phật bằng ngọc bích, người ta dẹp bỏ pho tượng bằng ngọc bích này để thành lập pho tượng ngọc bích khác v.v.... Tức là nói cách khác người ta có thể bỏ một kim thân Phật bằng giấy để có kim thân Phật bằng gỗ, người ta có thể thay đổi được nhưng ân đức Phật, ân đức Pháp, ân đức Tăng không bao giờ thay đổi, dù bằng hình thức nào, dù kim thân Phật bằng giấy, dù kim thân Phật bằng gỗ, hoặc kim thân Phật bằng đá, hay kim thân Phật bằng ngọc đi chăng nữa thì ân đức Phật đó không bao giờ dựa vào cái vật thể hay là cái chất để làm nên kim thân Phật mà thay đổi. Một khi chúng ta hướng tâm như vậy thì phước của chúng ta lớn do sự tín tâm đó hướng dẫn chúng ta xuyên suốt cả đoạn đường dài dằn dặt để đi tới nơi cứu cánh vô sinh bất tử.
Như thế nào cũng vậy, thì khi Đức Phật Ngài dạy rằng cái thấy cao thượng là cái thấy bậc thánh. Bậc thánh bên ngoài mà chúng ta mới vừa tìm hiểu với trí tuệ của một phàm nhân chúng ta không thể nào xác định được đây có phải là vị thánh hay không phải là vị thánh. Nhưng Đức Phật Ngài dạy rằng cái thấy cao thượng là cái thấy bậc thánh là Ngài muốn ám chỉ tự tìm trong tự tánh của chúng ta một cái thánh thiện nhất, tìm từ trong nội tâm của chúng ta sự thánh thiện nhất, tìm thấy trước tiên một cái thánh thiện trong nội tâm của chúng ta, một cái không ô nhiễm trong nội tâm của chúng ta, một cái không có tham lam, không có sân hận, không có si mê ở trong nội tâm của chúng ta. Đây là việc đầu tiên, nói cách khác là mình tìm thấy sự thánh thiện qua những phát hiện của mình ở trong nội tâm.
Điểm thứ hai, thấy như vậy chưa đủ, nó chỉ là một tiền đề rồi mình sẽ dẫn xuất làm cách nào đó để tâm tư chúng ta diệt đi những trói buột, dập tắt và vượt khỏi những chướng ngại. Đây là điểm thứ hai. Không bị những cám dỗ của cuộc đời, không bị những cái gì của cuộc đời làm ô nhiễm tâm, mặc dầu thân ở trong cuộc đời nhưng tâm đã muốn lià bỏ cuộc đời "cư trần bất nhiễm trần, nhập thế nhưng không lụy thế", xuống nước, đồng ý xuống nước là bị ướt nhưng đừng bao giờ để bị thấm lạnh, cuộc đời này như là bãi nước, cuộc đời này giống như là một giòng sông mà chúng ta phải du nhập suốt cuộc đời, chúng ta du nhập suốt giòng sông đó, phải chấp nhận ướt. Không ai nói rằng tôi xuống nước mà người tôi khô. Nhưng xuống nước có người run lập cập để rồi bị giòng nước cuốn trôi nhưng có người thì vẫn mạnh khỏe và người đó có thể vượt qua giòng nước xoáy, hạng người này là hạng người tốt qúi, chứ không phải là xuống nước rồi mặc cho giòng nước trôi thì người này thất bại vô cùng, xuống nước chấp nhận ướt nhưng mà đừng để lạnh, chấp nhận ướt nhưng đừng để nước cuốn trôi và vượt qua những giòng nước xoáy đó. Đó là điều mà cần nói tới và như vậy thì bước thứ hai, gọi là bậc thánh là người có nghị lực vượt qua những chướng ngại để đi tới mục tiêu mà người đó muốn.
Bước thứ ba là thẩm thấu được để diệt trừ đi những ô nhiễm, một ô nhiễm nào đó sinh ra thì bị diệt trừ đi, trước đây sân nhiều bây giờ làm sao đừng có sân, trước đây tham đắm nhiều bây giờ làm sao bớt thăm đắm để có an nhiên tự tại. Được tròn, đó là chuyện của thế gian không phải là của bậc thánh. Thế gian này luôn luôn bị mãnh lực vô thường, bậc thánh nhìn thấy mãnh lực vô thường. Còn, mất, được, thua, thắng, bại, tất cả thứ đó là của thế gian không phải là của bậc thánh, mà chúng ta tìm được bậc thánh đó có nghĩa là đối với cuộc thế này thăng trầm biến đổi, mình an nhiên tự tại, được cũng không vì đó mà vui, mất cũng không vì đó mà buồn phiền không vì đó đau khổ, vượt được những điểm đó là gần bước thân cận tới bậc thánh để rồi cuối cùng mình thâm nhập giòng trời của bậc thánh để thành tựu bậc thánh tức là muốn nói tới bậc tự mình chứng đắc được sơ quả, tức là dự lưu quả v.v....
như vậy Đức Phật Ngài dạy rằng cái thấy cao thượng đây là cái thấy của bậc thánh muốn ám chỉ trong nội tâm của chúng ta chứ bậc thánh ở bên ngoài chúng ta thấy nhiều khi không biết, nhưng bậc thánh trong nội tâm chúng ta thấy được chúng ta biết liền, tâm chúng ta có tham chúng ta biết có tham, tâm không tham biết tâm không tham, tâm có sân biết rõ là tâm có sân, tâm không sân biết rõ là tâm không sân chứ bậc thánh bên ngoài đôi khi chúng ta không biết.
Trong Thanh Tịnh Đạo, Ngài buddhaghosa giải thích có một vị trưởng lão cùng đi với một vị tỳ khưu học trò, bất ngờ Ngài bị chứng bị đau bụng trên đường đi bát khất thực, thì đi tới nhà người Phật tử đầu tiên thì người Phật tử này biết rằng buổi sáng các Ngài mới vừa từ tự viện đi tới đây cho nên người Phật tử này mới cúng dường vị trưởng lão một bát cháo nóng và vị trưởng lão mới nghĩ rằng đây là bát cháo nóng rất lợi ích đối với chứng bịnh ta đang có bởi vì Ngài đang mang chứng bịnh đau bụng và ngay lập tức Ngài bảo người hộ độ đó:
"Này gia chủ hãy cho sư mượn một cái ghế"
Và người gia chủ mang cái ghế ra Ngài ngồi trên ghế cháo còn đang nóng Ngài uống vội vào để nó tiêu trừ đi chứng bịnh đau bụng gió của Ngài thì bây giờ một vị tỳ khưu học trò của Ngài đi theo Ngài mới suy ngẫm:
"vị trưởng lão này thật tình mà nói tại sao Ngài không áp chế được cơn đói mà Ngài dùng một cách thô tháo như vậy không hợp lý chút nào với thân phận trưởng lão của mình." Thì người trưởng lão biết được tư tưởng của người học trò của mình, Ngài thản nhiên đứng dạy trả cái bát cho gia chủ rồi tiếp tục đi bát, khi trở về tự viện thì vị trưởng lão hỏi vị tỳ khưu đệ tử:
"Này hiền giả, hiền giả có cái chân đứng ở trong giáo pháp này chưa"
"Bạch Ngài, con là bậc dự lưu ở trong giáo pháp này."
Vị trưởng lão mới nói rằng: Vậy thì này hiền giả, ông sẽ phải đứng ở chỗ đó luôn và chướng ngại của ông sẽ khởi lên rất nhiều bởi vì hồi sáng tư tưởng của ông đã xúc phạm đến vị vô nhiễm."
Nghe vậy vị tỳ khưu kinh hoàng: "ý nghĩ của ta hồi sáng như vậy mà thầy ta cũng biết được thì vị này không phải là tầm thường." Cho nên xin sám hối với vị trưởng lão và vị trưởng lão tha thứ, tha thứ là tha thứ, chướng ngại vẫn có chướng ngại và vị đó phải lỗ lực cuối cùng vượt qua được chướng ngại và thành tựu được bậc thánh về sau. Nhưng trong quá trình thực hành pháp vị đó bị nhiều chướng ngại sanh khởi, cho nên từ chỗ này cho chúng ta thấy sám hối không phải là hết tội mà nó làm giảm thiểu phần nào, và chướng ngại đó vẫn còn, tựa như người lỡ đạp phẩn sau đó rửa cho sạch và người đó nghĩ là hết phẩn, nhưng thật ra mùi phẩn vẫn còn vương vấn ở đó một ít, cũng vậy, sám hối không có nghĩa là xóa bảo mà nó lại tạo một chướng ngại. Cho nên Đức Phật Ngài dạy chúng ta thấy cao thượng là thấy được bản tâm của mình thấy được nội tâm của mình, thấy được sự sinh diệt, và thấy được sự không ô nhiễm trong nội tâm và cuối cùng chấm dứt những ô nhiễm, đó là cái thấy cao thượng. Một khi trở thành bậc thánh, trở thành bậc cao thượng và thấy rõ những đạo quả, những ô nhiễm bị diệt đó là cái thấy cao thượng nhất. Đó là chi pháp thứ nhất.
No comments:
Post a Comment