Thursday, September 30, 2021

Vi Diệu Pháp 10 (tiếp theo) - Pháp Độ Tinh Tấn Balamật - TT Sán Nhiên

 Pháp Độ Tinh Tấn Balamật - Vi Diệu Pháp 10 (tiếp theo) - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 10" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên

5) Pháp Độ Tinh Tấn Balamật hay Tinh Tấn độ. 

Khi hành Tinh Tấn Độ, chúng ta phải siêng năng, nỗ lực, tinh cần, đó là những danh từ để giải thích chữ tinh tấn.

Khi siêng năng hay nỗ lực hay tinh cần chúng ta sẽ thấy con đường phải hành Balamật. Hạnh nguyện Tinh Tấn Balamật của người Bồ Tát khác với người siêng năng thông thường.

 Những bậc có kiến thức ở trong đời này gọi là những bậc trí thức hay bậc thiện trí thức, họ hiểu biết cách sống trong đời này nhưng họ không suy nghĩ theo cách Trí Tuệ Balamật. Giống như bác sĩ, kỹ sư, những nhà bác học thông thái có những kiến thức  trong lãnh vực chuyên môn của họ, với pháp thế gian của họ, cái mà họ đang học hỏi và họ nghiên cứu qua. 

Nhưng với Trí Tuệ Balamật thì đối với những hàng Bồ Tát họ đi vào lãnh vực chuyên môn của họ làm sao dẹp được màn vô minh, lúc đó trí tuệ mới phát triển được nhanh.

Như vậy, khi qúi Phật tử đọc một bài kinh, hay đọc một quyển kinh, hay đọc một quyển sách lời dạy của Đức Phật, hiểu biết một sự thật, Nhân Quả, Khổ Đế, Duyên Sanh, Duyên Dệ trong bài kinh đó là qúi Phật tử đã có Trí Tuệ Balamật.

Như một ngày làm việc của Sư, Sư dịch một số kinh điển, Sư viết một số lời dạy của Đức Phật, đó là Sư đang hành Trí Tuệ Balamật.

Còn Tinh Tấn có hai loại. Có những loại tinh tấn sai lầm gọi là Tà Tinh Tấn, có loại tinh tấn chơn chánh gọi là Chánh Tinh Tấn.

Có những loại Tà Tinh Tấn chúng ta thấy nhan nhãn trong cuộc đời này, họ đạt được sự tinh tấn là vì họ sống trong cuộc sống của bất thiện pháp, những pháp họ duyên theo là tham, sân, si và họ làm những điều như; sát sanh, trộm cắp, tà hạnh v.v... họ đang nỗ lực nhưng nỗ lực đó tầm cầu sai lệch, sai lầm, sống trong bất thiện pháp dẫn họ đi vào con đường khổ thú gồm có: địa ngục, ngạ qủi, atula, súc sanh.

Đối với những người Chánh Tinh Tấn, họ sống trong đời sống thiện pháp để ly tham, ly sân, ly si. Họ lại tiếp tục sống cuộc đời; xả thí, trì giới, tu tập  (tham thiền), họ được đến cõi Nhân, Thiên, Niết-bàn.

Như vậy, giữa hai lằn ranh giới, giữa Chánh Tinh Tấn và Tà Tinh Tấn nó nằm ở ngay giữa gọi là Tinh Tấn Balamật, nếu như không có Tinh Tấn Balamật này ta sẽ rớt vô một là Tà Tinh Tấn, hai là Chánh Tinh Tấn. Ở chính giữa là Tinh Tấn Balamật luôn luôn đi về hướng Chánh Tinh Tấn và chống đỡ lại Tà Tinh Tấn có xu hướng kéo ngược lại. Đó là Tinh Tấn Balamật.

Những người siêng năng là họ có tinh tấn, nhưng có 2 xu hướng đi, một là Chánh hai là Tà phân biệt rõ ràng. Nhưng loại tinh tấn Balamật này đứng giữa lằn ranh giữa hai bên, họ dằn co tâm linh của họ, dằn vặt với tâm lý của họ đang bị kéo lôi, không khéo họ rớt một cái vào Tà Tinh Tấn, họ không khéo họ rớt vào trong Chánh Tinh Tấn của Nhân Thiên bị lầm con đường Tinh Tấn Balamật, qua khỏi hai lãnh vực này thì họ có Tinh Tấn Balamật.

Hai loại này cũng có 2 góc độ nhân quả. Ở đây nếu Tà Tinh Tấn làm nhân thì bất thiện pháp hiện bày là quả, và bất thiện pháp hiện bày là nhân thì tham sân si hiện bày rồi sát sanh trộm cắp tà dâm hiện bày là quả, nhân của sát sanh trộm cắp tà dâm hiện bày là quả của khổ thú.

Như vậy thì tinh tấn chúng ta phải cố gắng trọn lọc đúng hạt giống tốt và với tác ý khôn khéo của Balamật thì tinh tấn đó gọi là Tinh Tấn Balamật. Qúi Phật tử thường được nghe danh từ thường lập đi lập lại trong hàng tu tập Phật tử chúng ta "Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả".  Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả là Bồ Tát phải siêng năng, sợ mà không siêng năng thì kéo lôi trong trạng thái quả trổ sanh không kịp diệt trừ.

 Tinh tấn Balamật là qúi Phật tử phải đứng ở giữa lằn ranh giới kéo lôi giữa Tà Tinh Tấn và Chánh Tinh Tấn kéo lôi qúi Phật tử rớt vào con đường 4 ác đạo hay kéo lôi qúi Phật tử rớt vô con đường Nhân và Thiên, chúng ta phải có Chánh Tinh Tấn Balamật, chúng ta phải tiến tới giải thoát Niết-bàn không phải ở Nhân Thiên và cũng không rơi vào 4 ác đạo, đó là Tinh Tấn Balamật.

Muốn được Tinh Tấn Balamật vị đó phải biết được đâu là Nhân đâu là Quả, chọn lộc hạt giống tiến tu con đường tinh tấn họ gặt hái được giải thoát. 

Có những lúc trong cuộc đời ta hay trong đời sống hàng ngày ta khởi lên trạng thái siêng năng tu tập, niệm Phật, ngồi thiền, công phu v.v... ta coi lại tác ý tinh tấn đó là loại tinh tấn nào. Nếu chúng ta thấy những tác ý đó trong trạng thái chỉ là Chánh Tinh Tấn thôi thì chúng ta sẽ được biết quả phước báu Nhân Thiên. Nhưng, nếu chúng ta nỗ lực công phu tiến tu, công phu tu tập thức khuya dạy sớm ngồi thiền để cầu mong giác ngộ giải thoát, chấm dứt vô minh, chấm dứt sanh già bệnh chết, sự tinh tấn đó là Tinh Tấn Balamật. Có những lúc qúi Phật tử buổi sáng ngồi dậy không nổi, uể oải mệt mỏi, thân già yếu, lúc đó qúi Phật tử không ngồi dậy nổi nhưng qúi Phật tử nghĩ là nếu còn lười thì quả trổ sanh khổ thú cho người lười biếng, ráng ngồi dậy mà đi, sự dằn co giữa trạng thái tâm lý của ta, đó là Tinh Tấn Balamật.

Thiền sinh: Thưa Sư, vấn đề là trong lãnh vực như vậy thì duyên khởi duyên sinh làm sao giải thích được?

TT trả lời: Chúng ta đang nói Tinh Tấn Balamật liên quan đến Trí Tuệ Balamật, không có duyên sinh duyên hệ ở đây, chỉ có nỗ lực siêng năng và nhân quả.

Tinh Tấn Balamật là tranh đấu hay rượt đuổi xa rời con đường bốn ác đạo tuyệt đối trong kiếp này, người Tinh Tấn Balamật phải đi như vậy, tức là qúi Phật tử không có dễ dui để mà tạo nên một chủng tử một hạt giống nhân nào còn trở lại địa ngục, ngạ qủi, atula, sát sanh, phải chấm dứt ngay nỗ lực này và tiêu trừ ngay mầm giống trở lại cõi thú, mới có Tinh Tấn Balamật ngay trong kiếp này. 

Khi nghĩ tới địa ngục, nhân nào sanh vô địa ngục? tâm sân là nhân sanh vô địa ngục. Khi nào qúi Phật tử có tâm sân, nhân đó đưa qúi Phật tử đi vào địa ngục liền, dù bất cứ lý do gì, mẹ giận con, tâm sân rơi vô địa ngục liền, con giận mẹ rơi vô địa ngục liền. Do đó qúi Phật tử phải nhìn cái tâm để mà diệt trừ, đó là qúi Phật tử đang Tinh Tấn Balamật, chấm dứt cái sân chứ không phải vì cái pháp nó đến với chúng ta hiện bày, qúi Phật tử phải giải quyết cái đó thì qúi Phật tử mới là Tinh Tấn Balamật. 

Những người hạnh nguyện Tinh Tấn Balamật trong kiếp này họ phải thoát ra khỏi con đường bốn ác đạo ngay trong kiếp này, phải cố gắng kiểm soát tâm, giữ tâm của họ và huấn luyện tâm của họ, trau dồi tâm của họ để không rớt vào trong lãnh vực của tham, sân, si, để không rớt trong 4 đường ác đạo, đó là Tinh Tấn Balamật.

Thiền sinh: Bạch Sư, khi cái tham sân si của mình vừa khởi lên mà mình ghi nhận được liền thì làm sao?

TT trả lời: Cắt đứt liền, một phút giây có chánh niệm cắt đứt một con đường đi vào địa ngục, một phút giây có chánh niệm cắt đứt con đường vào khổ thú, còn một phút giây mất niệm hay thất niệm khổ thú tạo thêm một chủng tử. 

Thiền sinh: Thưa Sư, pháp này với pháp trì giới có vẻ giống nhau.

TT trả lời: không, pháp trì giới là mình giữ giới nguyện của mình hoàn hảo, đó là mình trì giới Balamật, khi qúi Phật tử trì giới Balamật là qúi Phật tử giữ 5 giới trọn một ngày trọn một tuần trọn một tháng, trọn một năm hay trọn một cuộc đời không đứt 5 giới, đó là qúi Phật tử đang trì giới Balamật.

Qúi Phật tử phát nguyện trước bàn thờ Phật "Bạch Đức Thế Tôn, con hôm nay xin phát nguyện là trì giới Balamật" thì từ khi qúi Phật tử nói câu trì giới Balamật cho tới ngày qúi Phật tử nhắm mắt trong kiếp này qúi Phật tử không được để đứt giới.

Còn trì giới thông thường qúi Phật tử có thể để đứt giới thì ta nguyện lại, còn trì giới Balamật là không được đứt giới và cái giới thứ tư giới nói dối là giới nguy hiểm nhất của qúi Phật tử, cái đó là qúi Phật tử phải cẩn thận vô cùng, người Phật tử chúng ta không thể nào tránh được giới nói dối, mấy giới kia qúi Phật tử có thể lướt qua được nhẹ nhàng không bị ảnh hưởng nhưng giới thứ tư này khó lòng.

Giới nói dối có 4 chi; 

1) Nói dối,

2) nói thêu dệt, 

3) nói lưỡi hai chiều, 

4) nói lời hung ác. 

Điều không thật tác ý nói điều không thật, khởi lên tâm nói cho người ta nghe điều không thật, mà người ta tin là đứt giới nói dối. 

Trì giới Balamật khác với tinh tấn Balamật. Tinh tấn Balamật bao chùm cả thiện và bất thiện, không để rớt trong bất thiện mà phải nỗ lực trong thiện và không nằm ở trong Hiệp Thế, phải giải thoát trong đời thì mới là Tinh Tấn Balamật, không cho phút giây được lười biếng, không cho phút giây giải đãi dễ dui, không cho phút giây quên mình luôn luôn phải nỗ lực siêng năng, Tinh Tấn Balamật là vậy. Giống như một người lính canh phòng ở ngoài biên địa chỉ cần chớp mắt là địch tới liền, lúc nào cũng phải mở con mắt nhìn chăm chăm và sáng suốt tỉnh táo, không có trạng thái muội lượt mê mờ, đứng ngoài biên địa mà muội lượt mê mờ là kẻ thù xâm nhập liền, Tinh Tấn Balamật là phải giữa lằn ranh. 

Tinh tấn Balamật là luôn luôn vượt qua những con đường nhân thiên làm sao đi tới Niết-bàn giải thoát, vậy thì ở trong đời này khi nào qúi Phật tử tinh tấn, qúi Phật tử phải nhắc nhở cho hành động tinh tấn của mình là nhằm mục tiêu gì mục đích gì, nếu qúi Phật tử không thấy được sẽ rơi vào trong trạng thái Chánh Tinh Tấn thông thường chứ không phải là Tinh Tấn Balamật. Qúi Phật tử đang mệt mỏi nghe một cú điện thoại kêu cấp cứu qúi Phật tử bước ra đi liền đó là Tinh tấn Balamật, nhưng mà hẹn ngày mơi đó là Chánh Tinh Tấn cho ngày mai chứ chưa phải là Tinh Tấn Balamật.

6) Pháp Độ thứ sáu là Nhẫn Nại.

Nhẫn là kiên nhẫn, Nại là cái khó.

Gọi là Nhẫn Nại là kiên nhẫn với cái khó. Với những người có tánh nhẫn nại là họ có tính chịu đựng. Nhưng ở góc độ chịu đựng có hai; chịu đựng trong thông thường, và chịu đựng bền bỉ. Có những người chịu đựng một cách thông thường với khả năng của họ, nhưng vượt ra ngoài khả năng của họ gọi là bền bỉ, họ chịu đựng một cách thông thường thôi, thí dụ,  khi với thời tiết nóng tương đối họ không cần mở quạt mở máy điều hòa không khí, nhưng đối với sức nóng họ không chịu đựng được nữa, họ bắt buộc phải mở quạt, mở máy điều hòa không khí, sức bền bỉ sức chịu đựng của họ không còn có. 

Có hai loại người nhẫn nại chịu đựng: 

- Hạng người chịu đựng thông thường với khả năng và có giới hạn theo khả năng của họ. Nhẫn nại thông thường thường chỉ là một sự kham nhẫn thói quen hay là hiệp thế.

- Hạng người nhẫn nại bền bỉ, có khi vượt giới hạn, có khi vượt khả năng chịu đựng của họ đang có, họ bền bỉ, cái đó là nhẫn nại. Như vậy thì những loại chịu đựng nhẫn nại này là Nhẫn Nại Balamật.

Ở trong đời này có những cái mình chịu đựng có giới hạn trong khả năng và thời gian mà mình có thể chịu đựng được, đó là chịu đựng thông thường. Thí dụ như nghe người ta chửi mắng mình qúi Phật tử có thể chịu đựng được, nhưng sự chịu đựng của qúi Phật tử có thể chịu đựng trong khả năng của mình, chịu đựng trong khả năng có giới hạn thôi, còn quá thì bùng nổ, mất sức chịu đựng, mất sức nhẫn nại, lúc đó lá qúi Phật tử đang ở trạng thái đứt sự Nhẫn Nại Balamật của mình, nếu qúi Phật tử không có nguyện nhẫn nại Balamật thì lúc đó không sao, nếu qúi Phật tử nguyện nhẫn nại Balamật thì lúc đó mình bị đứt nhẫn nại Balamật.

Sư kể một câu chuyện một vị Thiền Sư ngồi thiền, ông tuyên bố với mọi người ông là vị Thiền Sư nhẫn nại, có một chú tiểu nghe như vậy tìm hiểu xem Thầy của mình có nhẫn nại hay không, thấy ông ngồi thiền chú tiểu lại gõ đầu, ông ngồi nhẫn nại, chú đi trở lại gõ đầu cái nữa, vẫn nhẫn nại và không biết là chú tiểu của mình, chú tiểu lại gõ đầu cái nữa, khi đó biết là chú tiểu của mình ông thầy la lên "tao đập mày chết", nếu mà vị Thiền Sư này đã nguyện nhẫn nại Balamật là bị đứt Balamật liền.

Mình đây cũng vậy, sức nhẫn nại có hạng, sức nhẫn nại có sức chịu đựng chứ không phải vô hạn chịu đựng, thì khi nào qúi Phật tử không có sự chịu đựng bền bỉ mà vượt giới hạn vượt khả năng thì đừng nên nguyện Nhẫn Nại Balamật. 

Nhẫn nại bền bỉ là nhẫn nại phải đối diện với 3 pháp là, không tham, không sân và không si. Mọi cám dỗ trong đời này 3 pháp này không được hiện bày lúc đó qúi Phật tử nguyện Nhẫn Nại Balamật được. Chứ không phải nhẫn nại trong cảnh khó, không phải nhẫn nại trong cảnh nghịch.

Mà nhẫn nại với lòng của qúi Phật tử là, đừng tham, đừng sân, và đừng si. Lúc đó là pháp môn Balamật là:

- Cái đáng tham phải tham phải nhẫn nại phải chịu đựng đừng tham. 

- Cái đáng phải sân, cái đáng hiện bày sự sân hận qúi Phật tử phải nhẫn nại chịu đựng bền bỉ để không khởi lên tâm sân. 

- Cái đáng si mê và phải bị si mê trong trạng thái thật sự là si mê, qúi Phật tử phải ráng nhẫn nại, chịu đựng bền bỉ để không bị trạng thái si mê mờ tối tăm.

Ba pháp đó chịu đựng được thì đó là Nhẫn Nại Balamật.

Còn qúi Phật tử nhẫn nại trong cái khó, trong nghịch cảnh, trong lời khen lời chê, trong lời tán thán, trong sự phỉ nhổ, nhẫn nại đó không đáng để nói, đó chỉ là thông thường.

Như vậy thì, khi qúi Phật tử ngồi thiền:

- Khi qúi Phật tử ngồi thiền, lúc đó đầu tiên ngồi thiền khởi lên thích, phải nhẫn nại để không bị dính mắc trong thích.

- Khi ngồi thiền trạng thái đau nhức sanh lên khó chịu, phải nhẫn nại để không hiện bày sự khó chịu trong tâm.

- Khi ngồi thiền không thấy lợi ích, thì phải nhẫn nại để tầm cầu được thấy sự lợi ích.

Đó là qúi Phật tử đang Nhẫn Nại Balamật, đó là thí dụ khi thiền toạ.

Như vậy thì khi qúi Phật tử ngồi thiền, qúi Phật tử khởi lên thích, qúi Phật tử phải nhẫn nại để đừng bị dính mắc trong thích, qúi Phật tử ngồi thiền mà thấy khó chịu qúi Phật tử phải nhẫn nại để chế ngự khắc phục tâm đang gây khó chịu chi phối bị chinh phục. Qúi Phật tử đang ngồi thiền mà qúi Phật tử thấy không lợi ích mình phải nhẫn nại tìm cầu thấy được lợi ích trong trạng thái còn đang bị si mê, lúc đó qúi Phật tử đã có nhẫn nại. 

Ở đây Sư không nói trạng thái nhẫn nại để ngồi được lâu, Sư không nói qúi Phật tử nhẫn nại để vượt qua trạng thái, tê, nhức, mỏi, đau, nhưng qúi Phật tử phải nhẫn nại để khắc phục cái tâm bị chi phối bởi tham sân si ngay lúc qúi Phật tử đang ngồi thiền tọa hay thiền hành, đó là Nhẫn Nại Balamật.

Cũng như vậy, trong đường tu tập người nào phát tâm nguyện Nhẫn Nại Balamật, qúi Phật tử không đếm thời gian, không kể công phu qúi Phật tử đang có, "tôi tu 15 năm, 20 năm, 30 năm", không nói cái đó, nhưng qúi Phật tử phải thấy được pháp Nhẫn Nại Balamật của qúi Phật tử nếu qúi Phật tử nguyện Balamật gọi là gặt hái thành tích chưa gọi là đủ, mà sự thành tựu của đạo quả là điều mình nhắm tới Nhẫn Nại Balamật. 

Do đó, với trạng thái đó qúi Phật tử sẽ bị dính vô trạng thái tham khi nói tới thành tích, thời gian chiều dài của sự tu tập, cái đó nó làm cho qúi Phật tử mất đi pháp nhẫn nại mà đúng ra là một pháp tham dục đang kéo lôi bởi trạng thái tham. Khi qúi Phật tử thấy chiều dài tu tập 45 năm của mình không gặt hái được quả thành tựu một lợi ích gì đó, trạng thái khó chịu khởi sanh lên qúi Phật tử không nhẫn nại khắc phục để đi tới hay là con đường gần có để được hưởng, qúi Phật tử không bền bỉ không chịu đựng được thì sẽ đổ vỡ hết tất cả một rừng công đức của mình, thì nhẫn nại này là Nhẫn Nại Balamật. Nhưng nếu qúi Phật tử khởi lên trạng thái sân, tu bao nhiêu năm mà không gặt hái gì cả qúi Phật tử bất toại nguyện khởi lên là cắt đứt hạnh nguyện Nhẫn Nại Balamật của qúi Phật tử, qúi Phật tử sẽ rớt trong trạng thái sân không còn nhẫn nại.

Qúi Phật tử đang tu tập với trạng thái tu tập một chiều dài tu tập lâu dài nhưng thấy không gì an vui, không thấy gì là hỉ lạc, mà toàn là phiền não, ngã chấp, chấp thủ, trạng thái si mê lúc đó qúi Phật tử phải nhẫn nại tìm cầu diệt tan sự si mê thấy được sự lợi ích trong sự tu tập đó dù ít hay nhiều qúi Phật tử đang có Nhẫn Nại Balamật.

Có những người họ không đủ sức nhẫn nại họ gạt bỏ tất cả những công đức tu tập trong thời gian chiều dài họ tu tập, họ tu không có gì cả, họ không được hưởng gì cả, không thấy lợi ích gì cả thì nói như vậy là hoàn toàn sai lầm và họ không có pháp nhẫn nại để thấy tâm họ đang đã tu đã sửa đã thay đổi nhiều lắm rồi nhưng họ cho rằng họ không có gì cả, chính đó là họ không có pháp nhẫn nại để nhìn thấy được tâm những gì mà họ đang có.

Nhẫn nại Balamật là nhẫn nại với tham, sân, si, còn nhẫn nại thông thường, nhẫn nại trong sự nhường nhịn, nhẫn nại trong sự chịu đựng khắc phục, đó là nhẫn nại thông thường mà thôi. 

Thí dụ như con hỗn với cha, con bất hiếu với cha, người cha nhẫn nại để cho qua câu chuyện hỗn hào của đứa con bất nghịch với mình, cái dó là nhẫn nại thông thường. Nhưng nhẫn nại với cái tâm mình đang sân lên vì trạng thái khó chịu này, nhẫn nại đó là Nhẫn Nại Balamật. Qúi Phật tử không đánh con là qúi Phật tử đang nhẫn nại thông thường, nhưng qúi Phật tử phải giữ tâm sân không cho khởi sân lên là qúi Phật tử đang nhẫn nại của Balamật diệt tâm sân.

 Do đó, những điều đó những pháp nhẫn nại Balamật này dẫn đến con đường tu tập con người hành giả Bồ Tát là phải thấy được con đường diệt tham sân si, chứ không phải nhẫn nại với một trạng thái thông thường nhường nhịn khuất phục hay là vượt khó khăn mà người ta nói là người ta nhẫn nại.

Trời mưa đổ nặng nề người ta nhẫn nại để đi qua con đường này không phải con đường làm cho ta có pháp nhẫn nại, nhưng nhẫn nại với cơn mưa đổ thật to mà qúi Phật tử đi qua con đường này để chúng ta khắc phục để cứu một người đang bị bịnh nặng đang chờ sự giúp đỡ của mình, nhẫn nại để khắc phục khó khăn này, nhẫn nại để khắc phục tâm mình đang trì kéo lôi kéo mình ở lại hết cơn mưa này mới đi, thì lúc đó chúng ta đang nhẫn nại Balamật, nó gần giống như Tinh Tấn Balamật, nhưng mà cái này qúi Phật tử phải nhẫn nại với tâm qúi Phật tử đang kéo lôi qúi Phật tử lại với cái tham, sân, si.

Như vậy thì, Nhẫn Nại Balamật là qúi  Phật tử phải nhẫn nại trong sự bền bỉ, trong sự bền bỉ này qúi Phật tử vượt ngoài giới hạn của mình, vượt ngoài khả năng chịu đựng của mình vẫn có và mình có khả năng chịu đựng như vậy đó, qúi Phật tử phải vượt qua, đó gọi là nhẫn nại Balamật.

Còn tiếp phần III  Chân Thật Balamật

Thursday, September 23, 2021

Vi Diệu Pháp 10 - Pháp Độ Trí Tuệ Balamật - TT Sán Nhiên

  Pháp Độ Trí Tuệ Balamật - Vi Diệu Pháp 10  - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 10" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Hôm nay chúng ta tiếp tục học Pháp Độ Ba-la-mật, trước khi đi tiếp Sư ôn bài học trước.

Người hành Ba-la-mật gọi là Bồ Tát.

Tiếng Pali (Nam Phạn) là Bodhisatta.

Còn nói theo tiếng Sanskrit (Bắc Phạn) là Bodhisattva. 

Bodhi nghĩa là Bồ Đề, sattva nghĩa là tát đỏa. Khi hai từ ngữ đó kết hợp lại có từ ngữ chung là Bồ Tát. Chữ Bồ Tát chỉ là tiếng âm chứ không được dịch ra, Bồ Tát có nghĩa vị này là chúng sanh có tình cảm hay là một loại hữu tình, ta gọi vị đó là Giác Hữu Tình tức là chúng sanh có ý thức về sự giác ngộ, thì chúng ta sẽ thấy là Bodhisatta từ tiếng Pali là (Nam Phạn)

 Bodhisatta âm là Bồ Đề Tát Đỏa có nghĩa là chúng sanh có tình cảm và có ý thức về giác ngộ gọi là Giác Hữu Tình, họ có ý thức giác ngộ nhưng họ chưa giác ngộ, họ tầm cầu con đường tu tập để được sự giác ngộ, từ đó bắt đầu tu tập những pháp để phòng hộ cho chính họ đưa đến sự giác ngộ, những pháp đó gọi là Paramitta, âm là Ba La Mật Đa dịch là Đáo Bỉ Ngạn nghĩa là đến bờ an vui.

Chúng sanh nào ý thức giác ngộ phải trao dồi những pháp môn để phòng hộ cho họ được an vui không bị đắm say trong Tam Giới, do đó còn gọi là Pháp Độ độ cho chính họ đưa đến bờ an vui, còn gọi là Pháp Độ hay pháp Balamật.

Khi nói như vậy, do đâu họ có ý thức giác ngộ rồi từ sự giác ngộ đó lo tu tập Pháp Độ hay pháp Balamật?

- Đó là, khi họ thấy đời là Vô Thường, Khổ, và Vô Ngã. Thấy được 3 yếu tố này họ bắt đầu thức tỉnh, giác ngộ. Thức tỉnh rồi họ không bị lầm mê nữa và bắt đầu tu tập con đường Pháp Độ dẫn đến sự an vui giải thoát không còn ở trạng thái luân hồi trong Tam Giới. Đó chính là Balamật. 

Tuần rồi chúng ta đã nghiên cứu qua một số về pháp môn Balamật hay còn gọi là pháp môn Pháp Độ. Ta đi tuần tự lại:

1) Pháp độ thứ nhất,  xả thí.

2) Pháp độ thứ hai là, trì giới

3) Pháp độ thứ ba là, ly dục 

4) Pháp độ thứ tư là, trí tuệ

5) Pháp độ thứ năm là, tinh tấn

6) Pháp độ thứ sáu là, nhẫn nại

7) Pháp độ thứ bảy là, chân thật

8) Pháp độ thứ tám là, chí nguyện 

9) Pháp độ thứ chín là, từ ái

10) Pháp độ thứ 10 là, hành xả vi diệu 

Đó là những pháp môn tu tập là những pháp độ độ cho ta hay độ cho các bậc giác hữu tình, hay độ cho bậc Bồ Tát có con đường đi đến bờ an vui. Nói rõ hơn, 10 Pháp Độ này là con thuyền đưa chúng ta bỏ bờ mê đi đến bến giác như chúng ta qua sông đến bờ thì bỏ lại con thuyền, thì con thuyền này là con thuyền Balamật hay là con thuyền Pháp Độ đưa ta đến bến giác. 

Thì ở đây, bây giờ qúi Phật tử đang làm việc của một vị Bồ Tát.

Trong cuộc sống chúng ta đã nhìn thấy; sự già, sự bịnh, sự chết thì mình có sự thức tỉnh, như vậy mình đã có ý thức về sự Giác Ngộ. 

Ở tôn giáo khác, họ không bao giờ nói về; Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Họ nói Phật Giáo bi quan yếm thế tại vì lúc nào cũng nói đời là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Họ nói, đời sống của họ phải hồn nhiên và vui chứ không có trạng thái bi quan sầu bi. Nhưng mà, sự thật nghiệt ngã khi người ta có sự thức tỉnh thấy đời sống này là; Vô Thường, khổ đau, Vô Ngã, qua một hình ảnh nào đó của một người hay của một chúng sanh khác thì họ bắt đầu Giác Ngộ. Sự thức tỉnh này họ đã là Bồ Tát rồi.

Thực ra qúi Phật tử là Bồ Tát rồi. Sư thường nói câu:  "Người chết ta xót xa, chẳng phải vì thương tiếc, tu hành chưa đạt đạo, lần lượt đến phiên ta." Hiểu được câu này là thức tỉnh rồi, người chết ta xót xa giựt mình nghĩ tới mình, người ta chết có người lo lắng, còn tới phiên mình không biết ra sao? Người ta chết ở trong nhà còn mình chết ở đâu? Trạng thái người ta chết bình yên an lành còn nếu mình chết ra sao có được an lành không hay đau thương? Mình không biết nên mình phải chuẩn bị cho mình và lo tu tập nương vào con đường Pháp Độ. Ý thức như vậy mình là Bồ Tát rồi, mình là vị Giác Hữu Tình rồi đó, mình là người có ý thức về sự Giác Ngộ.

Khi ý thức như vậy, ta bắt đầu lo tu tập, có nhiều pháp môn tu tập nhưng gom lại những pháp môn cần đưa đến sự giác ngộ tỉnh thức để thoát ra khỏi cảnh khổ, Đức Phật đưa ra 10 điều.

Khi đi tới hướng này chúng ta nhìn thấy có 10 pháp môn để tu tập thì ở nơi đây khi qúi Phật tử sẽ thấy tại sao 10 pháp môn này chúng ta phải tu tập. 

Chúng ta thức tỉnh khi thấy sự thật: Đời là vô thường chúng ta bắt đầu bỏ tham. Đời là khổ đau chúng ta bắt đầu lìa khỏi sân. Thế gian này là vô ngã, bản chất không có chi là của tôi thì bắt đầu thức tỉnh không còn si.

Do đó 3 pháp, tham, sân, si, bây giờ mình thấy đời là vô thường mình không còn tham nữa, thấy đời là khổ đau mình không còn sân hận nữa, thấy đời là vô ngã minh không còn si mê nữa. 

Khi thức tỉnh như vậy qúi Phật tử thấy Pháp đầu tiên là:

1) Pháp độ thứ nhất,  xả thí.

1)  Xả thí là buông bỏ, là cho ra, chúng ta mất đi cái tham, thấy đời Vô Thường mình buông hết không còn dính vào đó, nếu còn dính vào cái gì thì cái đó nó cột ta lại.

Một chai nước qúi Phật tử không đụng tới nó chỉ cần tháo nắp ra thôi để chai nước đó một thời gian sau không biết bao lâu chúng ta rờ vào chai nước cảm thấy có đóng nhớt và nước đó không dùng được tại vì chất bám chất dính nó dính vào trong đó. Thì cũng như vậy, Đức Phật nói khi ở trong Tam Giới này một thời gian lâu chúng ta bám dính vào trong Tam Giới. Từ đó con người mình không buông ra được, cái gì cũng bám giữ lấy mà bám giữ không được gì cả, tại vì có cái gì ta bám được vì tất cả là Vô Thường, không gì tồn tại được. 

Do đó, pháp môn đầu tiên vị Giác Hữu Tình thức tỉnh, bước đi vào con đường họ bắt đầu buông bỏ không còn dính mắc gì cả, tài sản, gia đình, của cải, họ bỏ hết.

 Do đó xả thí là buông bỏ cho ra.

2) Pháp độ thứ hai là, trì giới

Đời sống trì giới là mình trau dồi hạnh kiểm, trau dồi đức hạnh. Sự trau dồi hạnh kiểm làm cho người mình tốt lên, trong sạch hơn, thanh tịnh hơn, hoàn hảo hoàn hơn. Mình không muốn hơn thua với đời, không bon chen với đời và không dành giựt với đời, họ buông bỏ hết và bắt đầu trau dồi đời sống tâm linh của mình.

3) Pháp độ thứ ba là, ly dục 

Ly dục là buông bỏ những gì ái luyến dính mắc. Dục có 3 là; tham dục, tác dục, pháp dục. Thì khi bắt đầu trau dồi đời sống hạnh kiểm hay trau dồi đời sống tâm linh thì họ buông bỏ những ái luyến dính mắc không còn đeo níu ở trong đời, họ bắt đầu; ly tham dục, ly tác dục, họ tầm cầu con đường duy nhất là pháp dục. Bỏ tất cả những điều đó để đi vào con đường pháp dục mà thôi.

Chúng ta biết tham dục có 6: sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp.

Tham dục về sắc, tham dục về thinh, tham dục về khí, tham dục về vị, tham dục về xúc, tham dục về pháp, họ luôn luôn dính mắc đeo đuổi trong đó không rời xa. Người ưa thích cảnh sắc dính mắc trong cảnh sắc, người ưa thích âm thanh dính mắc trong cảnh thanh, người ưa thích về mùi hơi dính mắc trong mùi hơi, người ưa thích mùi vị dính mắc trong cảnh vị, đó là tham dục.

Tác dục có hai là thiện và bất thiện. Cái gì chúng ta cũng muốn làm chúng ta đeo dính, đó là hạng người tác dục, làm thiện cũng muốn làm bất thiện cũng muốn làm.

Như vậy, khi chúng ta ly dục là không còn muốn dính mắc trong Tam Giới, muốn thoát ly, mình luôn luôn lúc nào cũng nghĩ suy phải ra khỏi căn nhà Tam Giới: Sắc Giới, Dục Giới, Vô Sắc Giới. Lúc nào cũng muốn ra đi không muốn ở trong đời cho dù ở cảnh dục, cho dù ở cảnh sắc, cho dù ở trong cảnh vô sắc giới, tất cả 3 cõi giới này còn phải sanh tử luân hồi còn khổ đau mình muốn ra khỏi nhà Tam Giới này. Hạng người ly dục là muốn tầm cầu con đường giải thoát, những người như vậy là những hạng Bồ Tát kiên cố, không còn lay chuyển trước mọi sự diễn biến ở trong Tam Giới của 6 pháp dính mắc bởi tham dục; sắc; thinh, khí, vị, xúc, pháp, họ luôn luôn muốn ra đi. 

Những người thấy được con đường dính mắc, còn trói buộc trong Tam Giới là họ còn sợ hãi trong trạng thái Khổ Khổ: sanh già đau chết, ái biệt ly, oán tắng khổ, cầu bất đắc, rồi ngũ uẩn là khổ, họ bắt đầu ra đi không còn muốn đeo dính, đó là ly dục, 

Phần trên là phần ôn bài tuần rồi chúng ta đã qua phần xả thí, trì giới và ly dục. 

Hôm nay chúng ta đi tiếp qua phần pháp độ thứ tư, và chúng ta cần nghiên cứu tìm hiểu để xem có thuận duyên với chúng ta để làm pháp độ hạnh nguyện hay không.

4) Pháp độ thứ tư là, Trí Tuệ Độ

 Trí Tuệ Độ ngược lại với vô minh. Khi chúng ta nói đến những bậc trí tuệ những hành giả Bồ Tát hạnh nguyện Trí Tuệ Độ họ luôn luôn đối diện với vô minh, họ phải thấy rõ vô minh là pháp nghịch của con đường trao dồi trí tuệ của họ. 

Người vô minh là người không biết về Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo)

Những người không biết Nhân Quả liên quan với nhau thì những người đó gọi là Vô Minh. Tất cả mọi pháp sanh khởi lên bởi duyên và chính do duyên thúc đẩy hiện bày các pháp, những người không hiểu biết những điều đó, họ là người vô mình.

Có Nhân này thì có Quả kia, có Quả này thì tất phải có Nhân hiện bày, có Nhân thì Quả trổ sanh, những người có sự hiểu biết như vậy, họ là những bậc trí tuệ. 

Như vậy, ở đây, với những hành giả Bồ Tát trau dồi Trí Tuệ Độ phải liễu tri con đường diệt Vô Minh. Vậy thì, khi chúng ta muốn phát nguyện Trí Tuệ Balamật trong đời này với kiếp này qúi Phật tử phải thấu rõ Tứ Đế, thấu rõ pháp nào là Nhân, pháp nào là Quả, pháp nào là Duyên Khởi Sanh và pháp nào là Duyên Liên Hệ pháp đang hiện bày. Qúi Phật tử sẽ thấy duyên nào khởi sanh ra pháp đó và duyên nào làm cho pháp đang hiện bày còn đang tồn tại. Điều này mới diệt được Vô Minh. 

Chẳng hạn như một trạng thái bất toại nguyện, một sự trái ý nghịch lòng, tiếng Pali là paṭigha.  Như vậy thì ở đây, nhân nào, duyên nào, khởi sanh ra trái ý nghịch lòng. Thì duyên nào làm cho trái ý nghịch lòng này không cắt đi mà để nó còn tồn tại, đó là pháp Mãnh Lực Duyên.

Đối với vị Bồ Tát hạnh nguyện về Trí Tuệ Balamật, vị đó tìm hiểu ra con đường diệt vô minh là người đó hành được Trí Tuệ Balamật. Nếu như vị đó không hành được con đường diệt vô minh người đó chưa hành được Trí Tuệ Balamật trong đời này hay kiếp này. 

Khi qúi Phật tử khởi lên trái ý nghịch lòng bất toại nguyện là do dục khởi duyên si mê, vì si mới khởi lên sân, nếu chúng ta tỉnh giác có trí tuệ thì không có trái ý nghịch lòng.

Do đó, khi bị si mê chúng ta khởi sanh tâm sân, tức là giận quá mất khôn hay là mất khôn hóa giận.

Duyên do bởi nhân là sân là si mê khởi lên cho ta quả sân đang hiện bày. Thì duyên nào làm cho pháp si mê này còn tồn tại đó là duyên thủ, không buông bỏ vì chấp thủ làm duyên cho pháp trái ý nghịch lòng này được tồn tại và không buông bỏ được. Như vậy, khi ta là một bậc Trí Tuệ Balamật chúng ta phải diệt trừ vô minh đang che ám đang bao phủ ta. 

Như vậy, tất cả mọi pháp khởi sanh lên do bởi duyên, pháp nào đang hiện bày còn tồn tại cũng bởi duyên, tìm hiểu được duyên đó là diệt được vô minh do bởi Trí Tuệ Balamật.

Nói đến Tứ Đế, Đức Phật Ngài nói có 4 sự thật là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. 

Đức Phật Ngài nói có 4 loại hiện bày, bao gồm có 2 là Khổ Đế và Diệt Đế  là Quả, Tập Đế và Đạo Đế là Nhân.

Khi chúng ta nói hai loại này, chúng ta bắt qua Pháp Nhân Quả.

khi chúng ta nói sanh lão bệnh tử, nhân nào làm ta bị sanh lão bệnh tử? Đó là nhân ái dục làm chúng ta bị sanh lão bệnh tử.

Khi chúng ta nói; ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, làm ta khổ đau trong đời này do nhân nào làm ta bị vậy? Đó là do ái dục.

Vậy khi ta nói được điều đó là chúng ta đã có trí tuệ để diệt màn vô minh rồi từ đó ta hành pháp Trí Tuệ Balamật để tiến tu đến đạo quả là như vậy.

 Khi nào không tìm thấy được những điều đó thì chúng ta loanh quanh luẩn quẩn trong câu hỏi: "ai sinh ra tôi" đổ thừa là người mẹ người cha, rồi "ai sanh ra người mẹ người cha" đổ thừa người ông người bà v.v... bắt đầu chúng ta bị luẩn quẩn trong trạng thái hiệp thế hay trong thế gian hay là trong chế định này. Khi qúi Phật tử thấy được sự thật Tứ Đế bao gồm cả hai Nhân và Quả, thấy Nhân là thấy Quả, nhìn thấy Quả là hiểu biết về Nhân tạo tác hiện bày.

Chúng ta sẽ thấy bởi Mãnh Lực Duyên khởi sanh. Duyên nào làm sanh quả này, duyên nào làm khởi sanh nhân này, chúng ta tự tìm ra được cái nhân này hay là cái duyên của quả này là chúng ta dùng Trí Tuệ Balamật.

Như vậy, khi một hành giả là Bồ Tát hạnh nguyện về Trí Tuệ Balamật hành giả luôn luôn tìm ra pháp Tứ Đế, tìm ra pháp nhân quả, tìm pháp duyên sinh duyên hệ, và khi tìm ra 3 phương pháp đó là qúi Phật tử đang hành trau dồi Trí Tuệ Balamật. Khi qúi Phật tử trau dồi Trí Tuệ Balamật đó là con đường hưởng lợi trong sự đưa đến sự giác ngộ đắc đạo đắc quả.

Rồi bây giờ ở đây qúi Phật tử sẽ thấy mỗi pháp sanh lên trong cuộc đời của mình, qúi Phật tử thấy sự thật chắc cuộc đời này làm qúi Phật tử suy tư nghĩ ngợi thế gian này là khổ đau. 

Chẳng hạn như Sư trình bày cho qúi Phật tử thấy trong phần Khổ Đế

 Khổ Đế có 3: Khổ Khổ, Hành Khổ, Hoại Khổ. Tất cả cho chúng ta thấy có 3 yếu tố là Khổ Đế, khổ nhiều lắm Đức Phật nói là Khổ Khổ, chúng ta tìm ra 8 nguyên nhân

Khổ Khổ có 8 nguyên nhân là:

1) Sanh

2) Già

3) Đau

4) Chết

5) Ái biệt ly (thương phải xa)

6) Oán tắng hội (ghét phải gần)

7) Cầu bất đắc

8) Ngũ thủ uẩn

Tám điều này gọi là Khổ Khổ, gốc mạnh nhất trong 8 cái khổ này là Ngũ Thủ Uẩn nó sanh ra cầu bất đắc, oán tắng hội, ái biệt ly, chết, đau, già, sanh đều nằm trong Ngũ Thủ Uẩn cả. Vì chấp vào ngũ thủ uẩn này là những cái gì thay đổi một cái thì mình thấy nó là khổ:

- Vì ngũ thủ uẩn làm cho cầu bất đắt không được sanh khổ, 

- vì ngũ thủ uẩn làm cho oán tắng hội không được sẽ khổ, 

- ngũ thủ uẩn làm cho ái biệt ly không được là sẽ khổ, 

- ngũ thủ uẩn thấy sự đau già chết không hoan hỉ là khổ, 

Chính Ngũ Thủ Uẩn là cội gốc của 8 cái khổ này, nói chung là vì ta có thân mạng này, vì có sự hiện hữu này chúng ta mới khổ trong đời này.

Nhưng, tại sao trong đời này ta được sanh ra lại bị già, tại sao được sinh ra lại bị bịnh, sinh ra lại bị chết, lại có những điều ta không được toại ý vừa lòng, vậy thì tại sao? Vì do sự vận hành của nó, do sự vận chuyển của nó hay ta nói do tất cả pháp đang thay đổi, như vậy mới khổ.

Khi sự vận hành như vậy nó không đứng yên, nó vận hành thì nó phải tiêu hoại mất đi, vì do sự vận hành nó bị tiêu hoại mất đi thì đó là khổ, vận hành vận chuyển thay đổi mà lại còn bị tiêu hoại đó là khổ.

Như vậy thì ở đây

- Hoại khổ là nhân cho quả Hành Khổ. 

- Hành khổ là nhân cho quả Khổ Khổ.

Chúng ta tiếp tục. Khi thấy Khổ Khổ như vậy là qúi Phật tử thức tỉnh, ta gọi là thấu hiểu được Tứ Đế:

- khi thấy Khổ Khổ này ta thức tỉnh gọi là thấu hiểu pháp Khổ,

- khi thấy Hành Khổ thay đổi qúi Phật tử thức tỉnh được pháp Vô Thường.

- Khi thấy sự Hoại Khổ này thì qúi Phật tử phát hiện được pháp Vô Ngã;

Đó là Trí Tuệ Balamật.

Sư trở lại, khi qúi Phật tử thấy khổ trong đời đó là kết quả của sự thay đổi của đời, đời thay đổi là bao cái khổ trong đời này hiện bày, thì đời mà thay đổi đó là Hành Khổ là nhân hiện bày biết bao nhiêu nhân khổ, khổ trong đời là quả mà đời đã thay đổi còn bị tiêu hoại mất mát nữa không còn tồn tại  đó là nhân hiện bày của sự thay đổi khổ trong đời, khi thấy sự tiêu hoại mất mát đó là nhân hiện bày của bao nhiêu sự thay đổi như vậy thì chúng ta thấy đó là quả hiện bày trong đời là khổ do bị thay đổi, và mất đi bởi sự khổ đau luôn luôn chi phối bởi Vô Thường và Vô Ngã, đó là Trí Tuệ Balamật, đó là Trí Tuệ Độ.

Tóm lại. Người có trí tuệ thấy được bản chất sự thật ở trong đời, khi chúng ta nói đến người hành Trí Tuệ Balamật là họ phải tìm ra con đường thấy sự Vô Minh, mà tìm ra con đường thấy được sự Vô Minh họ phải liễu tri được Tứ Đế, khi họ liễu tri được Tứ Đế ngắn gọn và tìm ra được nguồn cội của nhân quả, nguồn cội của nhân quả bởi những pháp biết và làm sinh ra những liên hệ để được tồn tại là người đó nắm được Trí Tuệ Balamật.

Thiền sinh: Thưa Sư, nếu mà tìm ra vô ngã trước, mình biết rồi mình mới tìm hiểu đến Khổ, rồi đến Vô Thường?

TT trả lời: Tìm ra Vô Ngã rất khó, mình thấy cái khổ trước, thấy được sự Hoại khổ mà sự thật đó là mình thức tỉnh rồi, chứ mình tìm Vô Ngã chưa chắc mình tìm ra được, không khi nào mình nói "thân này không phải của tôi" mình thấy khổ cái thân này mới thấy được Vô Ngã sau đó, cũng đi con đường thấy khổ trước rồi mới thấy Vô Thường rồi mới thấy Vô Ngã. Bậc Trí Tuệ Balamật là bậc tìm ra được nhân trước rồi mới ra được quả, còn đối với những người đang tu tập hay là những người phàm phu thì họ tìm thấy quả trước rồi mới tìm ra nhân, thường thường con người chúng ta tìm thấy quả trước rồi bắt đầu tìm hiểu từ đâu cho ra quả này rồi ra được nhân, từ nhân này hỏi duyên nào sanh ra nhân này ra được cái đó, qúi Phật tử đi tìm cái dễ qúi Phật tử nắm được, Balamật của qúi Phật tử không bị đứt, qúi Phật tử đi tìm cái khó mà qúi Phật tử nắm không được thì Balamật qúi Phật tử bị đứt.

Thiền sinh: Thưa Sư, nếu Trí Tuệ Balamật bị đứt thì mình ra sao?

TT trả lời: Trí tuệ Balamật bị đứt thì mình thành người vô minh, tức là bị mất hạnh nguyện Trí Tuệ Balamật của mình trước đó. Thí dụ như qúi Phật tử nguyện không sát sanh mà qúi Phật tử giết con gián con kiến là qúi Phật tử phạm giới sát sanh. 

Khi qúi Phật tử nguyện Trí Tuệ Balamật lúc nào cũng phải dùng trí tìm thấy được một pháp đem theo pháp Nhân Quả, pháp Tứ Đế, hay theo pháp Duyên Sinh Duyên Hành, qúi Phật tử phải dùng cái trí đó tìm, rồi do đó mình tìm ra thì trí tuệ phát triển lên và trí tuệ này là Trí Tuệ Balamật là qúi Phật tử không có duyên ở trong đời nữa, không còn thích trong đời nữa, không còn nghĩ ở trong đời nữa, trí tuệ này có rồi để giải thoát chứ không phải để làm danh làm lợi hơn thua trong đời này nữa đó là trí tuệ Balamật. Có những người phát triển con đường trí tuệ để cầu danh thơm tiếng tốt được tán thán được khen ngợi, nhưng những người mà trí tuệ Balamật này họ lấy trí tuệ họ tu tập con đường trí tuệ phát triển con đường trí tuệ họ chỉ cầu mong được giải thoát thôi họ không mong gì cả, họ không mong được danh thơm tiếng tốt, được khen ngợi, hay được tán dương trong đời này hay là họ được bổng lộc được phát sanh mà họ muốn giải thoát, đó là Trí Tuệ Balamật, những người hiểu biết như vậy họ trau dồi rốt ráo để đi ra khỏi Tam Giới, đó là trí tuệ Balamật.

Như vậy thì mỗi pháp sanh lên đầu tiên qúi Phật tử sẽ không quen, nguyện Trí Tuệ Balamật sẽ không quen, do đó qúi Phật tử làm theo tập quán hay tập khí hay là thói quen của mình, cái gì không biết thì hỏi, không biết thì tìm tòi nghiên cứu hay không biết thì phải đi tìm tòi giải đáp, nhưng đối với những bậc Trí Tuệ Balamật họ phải tìm hiểu tìm hiểu suy tư suy tư nghĩ ngợi nghĩ ngợi.

Có 3 loại trí tuệ là, Văn, Tư, Tu. 

- Những người có trí tuệ do Văn, họ phải tìm tòi học hỏi, đọc và biết lắng nghe để lấy kiến thức. 

- Tư là người đó phải suy tư nghĩ ngợi về vấn đề, tư trong tư duy. 

- Tu là tu sửa, là thực hành, sau khi có kiến thức, đã tư duy thì họ phải tu tập trau dồi thực hiện bắt tay làm, họ mới phát triển được trí tuệ. 

Người ta nói "trăm quen không bằng một khéo", qúi Phật tử làm quen nhưng không bằng một khéo, khéo hay hơn quen, quen mà chúng ta không khéo có thể sanh ra vụng về làm cho được thôi, còn làm mà khéo thì nó hay hơn là trạng thái quen tay, do đó mà quen tay là qúi Phật tử là Văn, mà khéo là do tu tập.

Như vậy thì ở trên con đường chúng ta là một hành giả Bồ Tát mà tu tập Trí Tuệ Balamật là tìm ra hướng đi của vị Bồ Tát này làm sao phải diệt màn vô minh.

Như vậy thì ở đây Sư cho qúi Phật tử một câu thí dụ.

Một ngày qúi Phật tử tu tập hết sức tinh tấn, khi chúng ta làm việc thiện tiếng tốt được loan truyền khắp nơi, được mọi người tán thán khen ngợi, danh thơm tiếng tốt được đón nhận như vậy thì nếu một người Bồ Tát hạnh nguyện Trí Tuệ Balamật có được khen cũng không dừng lại, tán thán không dừng lại, danh thơm tiếng tốt được loan truyền đi cũng không dừng lại, họ còn tiếp tục trên con đường giải thoát. 

Khi được tán thán được khen ngợi, lúc đó họ phải nhìn cả hai hướng. Nếu  qúi Phật tử không hiểu sẽ bị lầm trong trạng thái trí tuệ chỗ này, Sư chưa nói, Sư chỉ đang nói sự khen ngợi, khi chúng ta được sự khen ngợi với một đối phương nào đó hay của nhân gian cho ta một lời tán thán khen ngợi, chúng ta phải nhìn 2 hướng:

 1) Một là đúng, họ khen mình quả thật đúng với việc mình làm thiện

 2) Hai là sai, khi mình làm sai mà họ khen mình đó là hại mình, đó là giết mình.

 Qúi Phật tử phải cẩn thận. 

Khi mà đúng chúng ta có 2 hướng là:

1) Dính mắc trong đời là Hiệp Thế

2) Tán thán trong đời này chúng ta cầu giải thoát là Siêu Thế là con đường này đúng rồi chúng ta phải đi tiếp tục, chúng ta không dừng lại ở Hiệp Thế

Khi mà sai chúng ta có 2 hướng

1) Biết sai cho ta sự thức tỉnh, nếu biết họ nói gạt mình thì mình có sự thức tỉnh, còn nếu ta thức tỉnh thì ta tách ly ra khỏi sai lầm ta quay trở lại đúng

2) Sai trong sự mê lầm, nếu chúng ta không biết thì ta rớt trong mê lầm.

Chỉ một sự khen ngợi thôi chúng ta phát hiện được Đúng hay Sai và chúng ta thấy được con đường dính mắc hay con đường giải thoát. 

Hễ là sai, một là chúng ta thức tỉnh hai là ta mê lầm dính mắc trong sự sai lầm này, chúng ta thấy điều này là do bởi Trí Tuệ Balamật.

Qúi Phật tử phải cẩn thận khi qúi Phật tử ra ngoài đời sống trong xã hội này, quí Phật tử nào đang nguyện Bồ Tát Balamật những pháp môn đó là những pháp chúng ta phải dùng trí để suy nghĩ, chứ không thì chúng ta lọt vô trong trạng thái đứt Balamật, không phải chúng ta bị hỏng con đường tu, mà là bị đứt Balamật, qúi Phật tử phải cẩn thận.

Có những người họ khen mình nhưng những cái khen đó ta phải nghiệm lại, đó có phải là lời khen đúng hay là họ đang hại mình trong sự khen này. Nhưng với người có trí tuệ Balamật họ sẽ thức tỉnh được họ không bị lầm mê, còn không, những người không dùng Trí Tuệ Balamật thì họ bị dính vào lời khen, ở trong đời này họ khổ. 

Do đó, đó là một thí dụ mà Sư dẫn chứng cho qúi Phật tử hành trí tuệ Balamật. Cẩn thận vô cùng, đó là những bẫy sập bởi sự vô minh của mình mà mình bị rơi vào trong đó vì mình không có trí tuệ để phát hiện được những bẫy sập này.

Thiền sinh: Thưa Sư, nếu mình rơi vào trong tình trạng si mê và hoài nghi?

TT trả lời: Không có hoài nghi, nó lọt vào trong hai trường hợp đúng hay sai liền, thường thường rớt trong cái đúng hay là rớt trong cái sai, không khi nào mình nghi ngờ hết, dính trong cái khen ngợi là mình nghe sự khen ngợi mà không có trí phát hiện là chúng ta dính trong đó liền. Ngay cả khen ngợi mà đúng mình cũng bị dính trong đó, chứ không có hoài nghi.

Trường hợp bị chỉ trích, chỉ trích có khi đúng có khi chỉ trích sai. Nếu đúng ta sửa ta hoàn chỉnh đó là sự thức tỉnh, còn bị chỉ trích mà chúng ta không sửa ta rớt trong sự chỉ trích đó một sự si mê của chính mình, không có tiến bộ được. 

Qúi Phật tử thấy những cái đó nó đến với chúng ta rất mạch lạc, nó rất là khéo léo, rất là vi tế, qúi Phật tử sẽ tìm cái nhân nào cho quả khen ngợi, duyên nào mà sự khen ngợi này được tồn tại, nên người đời thường hay gọi là có nhân có duyên thì quả hiện bày, quả được hiện bày tương sinh với nhân và duyên tác động, người có trí tuệ tìm ra được.

Từ đây về sau mỗi khi qúi Phật tử thấy một pháp nào đến hãy tìm xem do nhân nào sẽ cho quả nào, do duyên nào sinh ra quả nào, khi nghiệm như vậy với mọi pháp trí tuệ qúi Phật tử sẽ vô lượng vô biên.

Hôm nay ta nói về Trí Tuệ Balamật qúi Phật tử sẽ thấy đó có vấn đề, thường thường chúng ta nói Tứ Đế, nói tới Khổ Đế chúng ta thường hay nói tới Khổ Khổ mà qúi Phật tử không giải đáp được.

-  Khổ do từ nhân hành, 

-  Hành do từ nhân hoại, hoại làm cho khổ hiện bày.

Do đó, qúi Phật tử tìm ra được như vậy lúc đó qúi Phật tử đã có Trí Tuệ Khổ Đế rồi đó.

Rồi trong khi Khổ Khổ có 8 loại khổ 1) Sanh, 2) Già, 3) Đau, 4) Chết, 5) Ái biệt ly (thương phải xa), 6) Oán tắng hội (ghét phải gần), 7) Cầu bất đắc, 8) Ngũ thủ uẩn. Thì qúi Phật tử thấy tìm gốc của Khổ Khổ là Ngũ Thủ Uẩn là hiện bày cho 7 cái khổ kia. Từ đó qúi Phật tử sẽ tìm ra được tất cả những mối liên quan liên hệ giữa nhân và duyên kết hợp hiện bày ra tính chất của cái Khổ Đế này thì qúi Phật tử sẽ ra được vấn đế trí tuệ của qúi Phật tử diệt được màn vô minh.

Trước đây Sư có nói qua một lần về pháp Tứ Đế, qúi Phật tử sẽ thấy 

- Khi qúi Phật tử mở mắt ra sau một giấc ngủ ngon một đêm, qúi Phật tử vừa mở mắt ra qúi Phật tử niệm đó là sanh,

- Thì khi qúi Phật tử niệm đó là sanh, qúi Phật tử đứng dậy thì niệm đó là già.

 Tại vì nếu còn nằm một chỗ mà chưa đứng lên là còn baby, mà đứng lên ngồi dậy là bắt đầu là già, mà đi tới đâu thì tất cả những bộ phận của ta bị đau hoại sẽ bị tiêu hoại, đó là đau và chết. Nếu qúi Phật tử thấy như vậy qúi Phật tử đang có một cái khổ, đó là liễu tri Khổ Đế. 

Mỗi buổi sáng qúi Phật tử ngồi dậy là qúi Phật tử niệm được điều đó,

-  mà mình không muốn như vậy thì qúi Phật tử đang có ái biệt ly,

-  nó vẫn hiện bày như vậy, oắn tắng hội muốn nó không hiện bày nữa nhưng nó vẫn hiện bày, 

- cầu bất đắc vì chấp vô thân này là tôi đang có mặt.

Một buổi sáng thôi, qúi Phật tử làm điều đó qúi Phật tử sẽ thấy đó là sự thật, nhưng mà đối với qúi Phật tử mình là một cái máy, làm một cách mau lẹ, vận hành một cách rất uyển chuyển khéo léo, ngồi dậy là bước ra xe ra đi liền do đó qúi Phật tử không quán sát 8 cái khổ là qúi Phật tử không muốn trau dồi một cơ sở hay một nền tảng Trí Tuệ Balamật của mình.

Qúi Phật tử thấy không, buổi sáng mở mắt ra là có sự sống này sau một giấc ngủ ngon đã chết của ngày hôm qua, ngay đó qúi Phật tử đã quán sát như vậy qúi Phật tử đã có một trí tuệ. Khi qúi Phật tử quán sát được qúi Phật tử đã từng sanh, đã từng bị già, từng bị bịnh, từng bị chết trong con người này trong từng mỗi ngày như vậy, lúc đó qúi Phật tử không còn muốn dính mắc vào những cái gì còn đeo níu trong cuộc đời này nữa, qúi Phật tử phải tìm cầu thoát ly, đó là Trí Tuệ Balamật. 

Còn nếu như qúi Phật tử không quán sát được điều đó tất cả những điều nào qúi Phật  tử đang thấy ở đây, đó là gì những thường hằng thường xảy ra thường xuyên như vậy, đó là thói quen, thì ngay đó qúi Phật tử mất dần trí tuệ, qúi Phật tử sẽ sống trở lại trong sự không hiểu biết thiếu sáng suốt, một hiện tượng của sự vô minh. Một phút thôi hay là 5 phút thôi để niệm thì qúi Phật tử thấy được sự việc như vậy, qúi Phật tử đã sống bao nhiêu lần rồi và đã chết bao nhiêu lần rồi, mình đã bị bịnh bao nhiêu lần rồi và mình đã già đi bao nhiêu lần rồi, mình đã bao nhiêu lần muốn cầu mà không được, thì cái đó làm cho qúi Phật tử có sự thức tỉnh. Thức tỉnh do bởi mình nhận thức, nhận thức đó từ suy nghĩ và mình lo tu tập để đạt được kết quả.

Đó là, hôm nay chúng ta đã giới thiệu qua phần hạnh nguyện Trí Tuệ Balamật.

Còn tiếp phần I I, Pháp Độ Tinh Tấn Balamật

---------------------------


Thursday, September 9, 2021

Vi Diệu Pháp 09 (tiếp theo) - Pháp Độ Balamật - TT Sán Nhiên

 Pháp Độ Balamật - Vi Diệu Pháp 09 (tiếp theo)  - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 09" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Theo sự yêu cầu của một số qúi Phật tử muốn tìm hiểu về Bồ Tát hay về Pháp Độ Ba-la-mật, hôm nay Sư giảng về Pháp Độ Balamật, trước khi ta đi tiếp qua phần Tâm Bất Thiện tiếp theo là 2 tâm sân.

Chúng ta hãy sống trong hành Balamật trước nghịch cảnh của thế gian dằn co giữa tri kiến của ta với nghiệp báo. Đứng giữa hai trạng thái dằn co, một bên là dòng đời kéo ta và một bên là nghiệp báo của ta kéo, thì lúc bấy giờ ta phải đi qua con đường Balamật ở giữa còn gọi là trung đạo, ta phải đi con đường trung đạo với pháp môn Ba-la-mật, tương tự vậy để chúng ta có con đường không va chạm dòng đời và không xúc phạm nghiệp báo, vay trả trả vay, con đường chúng ta đi phải ở giữa là Ba-la-mật nó làm điểm nương tựa, và khi ta nương tựa nơi đó chúng ta tới bờ an vui.

Tiếng Pali là Paramitta, người Việt Nam âm ra là Balamật-Đa. Ở đây chúng ta dịch là Đáo-bỉ-ngạn. Đáo là đến. Bỉ là an vui. Ngạn là con sông hay là bờ sông. Như vậy, Đáo-bỉ-ngạn là đến bờ an vui giải thoát phiền não và giải thoát luân hồi.

Khi qúi Phật tử thấy dòng đời luôn cuốn trôi con người của ta, một bên là nghiệp báo thôi thúc con người ta phải vay trả trả vay, qúi Phật tử phải đi vào con đường hành Balamật để hành Bồ Tát giác ngộ thức tỉnh, chúng ta đi  con đường đến bờ an vui giải thoát khỏi phiền não, thoát khỏi luân hồi. Thì ở đây ta thấy phiền não là nghiệp báo, luân hồi là dòng đời sanh diệt. 

Đó là, chúng ta sẽ thấy khi muốn đến bờ an vui giải thoát mọi phiền não chấm dứt tất cả nghiệp báo và, khi chúng ta muốn chấm dứt sự sanh tử luân hồi không còn muốn sống trong đời này nữa mới ra khỏi dòng đời và nghiệp báo luôn chi phối con người ta qua lại trong cuộc sống hiện hữu.

Do đó, chúng ta phải đi ở giữa lèo lái con đường Balamật. Bên đây không an lạc, bên kia cũng không an lạc, chúng ta phải đi trên con đường Balamật.

Vậy thì ở đây ta có 3 hạng người đứng ở giữa bờ sông nhìn lấn sang dòng đời hay dòng nghiệp báo và họ phải tiếp tục đi con đường Ba-la-mật của họ,  3 hạng người từ thấp lên cao là:

1) Bậc hạ là bậc đệ tử của Đức Phật, gọi là bậc Thinh Văn Giác

2) Bậc trung là, bậc Độc Giác 

3) Bậc thượng là, Chánh Đẳng Giác

 Ở đây, tùy lượng sức mình chúng ta đi tiếp, tùy lượng sức mình chúng ta rời khỏi thế gian này, vượt qua bờ sông mê biển khổ ta đến bờ giác ngộ, đó là những hạng bậc thấp, từ bỏ bờ này qua bờ kia, không còn muốn ở trong dòng đời, không muốn sống trong nghiệp báo, chúng ta muốn tới bờ giải thoát chấm dứt sanh tử.

 1) Bậc hạ là bậc đệ tử của Đức Phật, gọi là bậc Thinh Văn Giác

Đối với hạng người thứ nhất là bậc Thinh Văn Giác là nghe lời dạy của Đức Phật, nghe bậc Chánh Đẳng Giác chỉ dạy ráng lo tu tập mong cầu sao giải thoát và không muốn sinh tử luân hồi nữa.

Do đó, chữ Thinh Văn Giác được giải nghĩa:

Thinh là được nghe.

Văn là lời dạy của bậc Giác Ngộ làm cho mình giác ngộ.

Thinh Văn Giác là bậc được nghe lời dạy của bậc giác ngộ làm cho mình được giác ngộ gọi là bậc Thinh Văn Giác, được gọi là bậc hạ.

2) Hạng người thứ hai, Độc Giác: 

- Độc là đơn độc, cô độc, giác ngộ.

Vị này không nghe từ bậc Giác Ngộ để được giác ngộ mà họ tự tu tập một cách cô độc lặng lẽ một mình và họ tự giác ngộ một mình, vị này là vị Phật Độc Giác, chữ Nho còn gọi là Bích Chi Phật.

3) Bậc thượng, Chánh Đẳng Giác

Hạng người thứ ba, Bậc Chánh Đẳng Giác, là bậc cao thượng, tự tu tập, tự giác ngộ, sau khi giác ngộ độ chúng sanh khác gọi là Bậc Chánh Đẳng Giác. 

Như vậy thì, Thinh Văn Giác là đệ tử của Chánh Đẳng Giác. Độc Giác không có đệ tử. 

Hai hạng người Chánh Đẳng Giác và Thinh Văn Giác đều có một điểm giống nhau là sau khi giác ngộ thì phát tâm đi độ chúng sanh khác tùy duyên hiện bày, tùy khả năng thực hiện. 

Qúi Phật tử nhớ rõ là: 

- Tùy duyên hiện bày là có duyên mới độ được chứ không phải là vô lượng vô biên độ. 

- Còn tùy theo khả năng thực hiện, tùy theo sức lực của mình làm, chứ không phải vô lượng vô biên, không ra ngoài khả năng của mình được. Độ nhưng cũng phải có duyên họ mới độ, có khả năng đủ để thực hiện thì họ mới độ chứ không phải vô lượng vô biên, do đó hai vị này Chánh Đẳng Chánh Giác và Thinh Văn Giác giống nhau là sau khi họ giác ngộ xong thì họ phát tâm đi độ chúng sanh, thứ nhất là tùy duyên hiện bày, thứ hai tùy khả năng để thực hiện.

Thứ nhất người nữ trong kiếp này mà nguyện Chánh Đẳng Giác là không đúng, không được nguyện, dù đang là hạng Bố Tát bấy giờ. Người nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác luôn luôn phải là người nam mới nguyện.

Thiền sinh: Thưa Sư, tại sao người nữ không thể nguyện thành Chánh Đẳng Chánh Giác

TT trả lời: Chánh Đẳng Chánh Giác không bao giờ là người nữ, do đó không bao giờ có Phật bà. Chỉ người nam mới nguyện tu thành Chánh Đẳng Chánh Giác, người nữ nguyện thành Chánh Đẳng Giác là phải thực hiện 30 pháp độ, người nữ làm không nổi 30 pháp độ. 

Thí dụ, bố thí Balamật hay xả thí Balamật có 3 bậc: thấp, trung, cao, 

Xả thí bậc thấp cho gì ngoài thân ta: cho quần cho áo, cho mắt kiến, cho tài sản, cho của cải.

Bậc trung là phải cho 1 phần trong thân thể của ta, cho máu, cho tóc, cho thận.

Bậc cao, cho mạng sống của ta, mới đủ để trở thành bậc Chánh Đẳng Giác được.

Nếu như nguyện bậc Chánh Đẳng Giác mà không cho mạng sống của mình thì chưa thành tựu Chánh Đẳng Giác trong kiếp này nguyện Balamật, do đó người nữ không dám làm.

Thiền sinh: Thưa Sư, ở bên Trung Hoa, nơi một dòng sông, các tàu bè đi ngang qua dòng sông đó bị đắm chìm làm chết nhiều người. Một vị tỳ kheo trụ trì ngôi chùa bên dòng sông đó quyết định xây bức tượng Phật cao 100 thước để chấn giữ khúc sông cho tàu bè đi ngang qua không bị đắm. Vị trụ trì đó quyên được rất nhiều tiền, một vị quan địa phương đến nói phải chia tiền cho ông ta, ông trụ trì nói tiền của bá tánh không cho được nhưng thân thể của tôi có thể cho ông, vị quan đó xin con mắt của vị trụ trì, thì vị tỳ kheo móc 2 con mắt cho vị quan, sau khi bị mù  tiếng đồn khắp nơi tới tai nhà vua, nhà vua ra lệnh bắt vị quan đó. Trong nước dân chúng nghe như thế chung tiền vô để xây bức tượng đó, nhưng bức tượng đó đục trong đá chưa xong thì vị tỳ kheo chết, người đệ tử của ông tiếp tục 55 năm sau mới hoàn thành bức tượng đó. Thì như vậy vị tỳ kheo đó có phải là hành ba-la-mật.

TT trả lời: Chưa biết nữa, người đó phải nói ra mới biết được, có khi chỉ là xả thân cầu đạo thôi, thí thân này để làm Tam Bảo, thì cái đó khác, có những người nguyện như vậy nhưng đó vẫn là phước sanh thiên chứ không phải phước Balamật, mình phải biết rõ như vậy, ở trên đời này nhiều vị ở nhiều tôn giáo khác họ cũng xả thân để cứu đời nhưng không phải là Balamật, họ chỉ tạo phước báu để được sinh thiên thôi, họ làm việc cao qúi thù thắng hơn nhưng không phải là hạng người hành Balamật. 

Vì hạnh nguyện Balamật là mình phải nói ra, nguyện trong tâm hay phát ra lời hay nói với vị thầy của mình lúc đó mình nguyện Balamật thì mới biết chứ còn ngoài ra không có cách nào mà chúng ta biết được vị đó có balamật hay không.

Nói về xả thí có 30 pháp độ này là:

Bậc thấp có 10

Bậc trung có 10

Bậc thượng có 10

Tổng cộng là 30 cho bậc Chánh Đẳng Giác.

Đây mới chỉ là xả thí thôi, mất mạng sống còn 9 cái kia cũng phải liên tục mất mạng sống mới thành tựu bậc Chánh Đẳng Giác trong một kiếp còn là Bồ Tát chưa thành tựu của bậc Chánh Đẳng Giác thành tựu. Do đó người nữ không làm được

Qúi Phật tử có tín tâm và có pháp dục muốn làm đại nguyện nhưng phải coi  sức mình làm được hay không.

Thiền sinh: Thưa Sư, Đức Phật nói là không được thôi chứ Đức Phật không nói lý do tại sao không được.

TT trả lời: Đức Phật có nói lý do không làm được là do không có khả năng.

Phải là người nam, Sư chưa thấy một vị Phật nào thọ ký cho một người nữ nào để thành Phật trong ngày vị lai, thường thường khi Đức Phật thọ ký cho người nào thành  Phật là vị đó kiếp trót là người Nam sẽ thành vị Phật sau này. Khi Phật thọ ký thì người đó phải là người nam, chẳng hạn như vị tỳ khưu người nam mà bà Gotami dâng y lên thì Phật thọ ký vị đó là Phật Di Lặc. Sư chưa thấy vị nào là người nữ mà Đức Phật thọ ký sau này sẽ thành Phật trong kinh tạng Pali chưa thấy.

Thiền sinh: Thưa Sư, con có đọc một cuốn sách tại sao người nữ không thể thành Phật được, không phải không có khả năng nhưng tham sân si của họ rất mạnh 

TT trả lời: không hẳn, nếu là như vậy Sư bênh người nữ liền, tại vì tham sân si giữa chúng sanh nam và nữ đều đồng nhau. Sư quả quyết là người nữ nhiều thiện tâm hơn người nam, họ tham sân si nhẹ hơn người nam, họ tinh khiết và nhẹ nhàng hơn người nam, nhiều người nam tham sân si dãy đầy hơn nữa. Đứng trên lập luận tham sân si thì không thể nói người nào nhiều hơn.

Do đó, khi mà qúi Phật tử hành Balamật tu tập Thinh Văn Giác, qúi Phật tử người nam mà gặp một vị thầy hay một vị sư hay có khi gặp vị Phật bổ túc lại Balamật Chánh Đẳng Giác thì đi tiếp.

Thiền sinh: Thưa Sư, trường hợp Ngài Xá Lợi Phất Ngài rớt từ Chánh Đẳng Chánh Giác xuống thành Thinh Văn Giác sau đó Ngài tiếp tục tu có thể lên bậc Chánh Đẳng Chánh Giác không?

TT trả lời: Trong kinh điển Pali ghi là Ngài Xá Lợi Phất rớt xuống thành Chí Thượng Thanh Văn ra đi luôn là vô sanh không tái sanh trở lại nữa.

Khi qúi Phật tử đang hành Balamật, đang đi vào con đường Thinh Văn Giác, qúi Phật tử tu tập Balamật nhưng tới duyên gặp được vị Phật hay  một vị minh sư hướng dẫn qúi Phật tử người nam muốn đổi qua làm vị Chánh Đẳng Giác qúi Phật tử phải sửa Balamật của mình, vị tu vào Thinh Văn Giác với balamật miêm mật từ 1 ngàn cho tới 100 ngàn kiếp là đủ đắc đạo quả Thinh Văn Giác.

Đối với Chí Thượng Thinh Văn. Thinh Văn Giác có 3 bậc:

1) Bậc thứ nhất là bậc tầm thường, vị tu vào Thinh Văn Giác với Balamật miên mật từ 1 ngàn cho tới 100 ngàn kiếp đủ đắc đạo quả Thinh Văn Giác

2) Bậc thứ hai, đối với bậc Đại Thinh Văn Giác từ 100 ngàn kiếp tới 1 A-tăng-kỳ-kiếp, đó là bậc Đại Thinh Văn,  giống như các đệ tử Đức Phật có 80 vị Đại Thinh Văn, như Ngài Ca Diếp, Ananda, Đa Nậu Đà Na, Ma Ha Ca Chiên Diên v.v... Những vị này tu từ 100 ngàn kiếp tới 1 A-tăng-kỳ-kiếp.

3) Bậc thứ ba, Chí Thượng Thinh Văn từ 1 A-tăng-kỳ kiếp đến 2 A-tăng-kỳ kiếp như Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên. Mỗi một kiếp Đức Phật có mặt trong đời chỉ có 2: bậc trí tuệ và bậc thần thông, luôn luôn có hai không có hơn, Phật nào ra đời cũng có 2 vị.

Nếu qúi Phật tử nguyện thành Thinh Văn Giác bậc tầm thường từ 1 ngàn tới 100 ngàn. 

Thí dụ qúi Phật tử nói: "Bạch Sư, con xin nguyện Thinh Văn Giác trong kiếp này mong cầu được giải thoát".

Khi qúi Phật tử nói ra lời như vậy, qúi Phật tử đâu có biết là mình đang ở 999 kiếp của 1 ngàn kiếp, là giải thoát rồi. Rồi sau đó tiếp tục đi vào bậc 2

 Tất cả chư tăng nếu đếm trên đầu ngón tay nguyện Chánh Đẳng Giác mà thôi, bao nhiêu ngàn bao nhiêu 100 ngàn chư tăng trên thế giới ngày nay nguyện Thinh Văn Giác không dám nói Đại Chánh Đẳng Giác, mà cũng không dám nói là Chí Thượng Thinh Văn Giác. Tất cả Chư Tăng ngày nay trên thế giới họ đều nói như thế mà Sư được nghe.

Và họ rất ngạc nhiên, khi Sư nguyện Chánh Đẳng Giác, họ nói nhẫn nại lắm mới chịu nổi, các Ngài Trưởng Lão như Ngài Ratila, hay là Ngài Tam Tạng thứ 6 ở Miến Điện đều khuyến khích Sư là "phải bền bỉ nhẫn nại chịu đựng với ý nguyện Chánh Đẳng Giác, tôi nguyện Thinh Văn Giác mà thôi".

 Tại vì ta biết lửa, ta sợ, ta không dám khinh xuất, mà Ngài là người thông suốt Tam Tạng, Ngài Tam Tạng lần thứ 6, chỉ nguyện Thinh Văn Giác bậc tầm thường, không dám nguyện là Đại Thinh Văn Giác cũng không dám nguyện Chí Thượng Thinh Văn, nên qúi Phật tử phải biết cẩn thận, qúi Phật tử phải thấy Sư tu tập dễ dàng như vậy khi qúi Phật tử muốn làm giống như Sư, phải cẩn thận, liệu cơm gắp mắm.

Sư đây nói chân tình, Sư hoan hỉ lắm, Sư rất là hoan hỉ, qúi Phật tử nguyện cỡ nào Sư cũng hoan hỉ, nhưng Sư nghĩ thương qúi Phật tử không làm được mà còn sa lầy trong đó thì càng xót xa hơn nữa.

Có một người Phật tử hỏi Sư: 

- "Sư nguyện Chánh Đẳng Giác là thời kỳ nào?, thời kỳ của Sư đến thời kỳ đó có là vô lượng vô biên không?" 

Sư nghe câu này lạ vô cùng, không ai nguyện thành Phật mà vô lượng vô biên. chỉ là trong khả năng của họ thôi. Như qúi Phật tử đến nhà người ta khuyên đừng ăn mặn nữa mà ăn chay, qúi Phật tử phải năng lực lắm mới sửa được người ta, mà qúi Phật tử nguyện vô lượng vô biên độ hết tất cả chúng sanh trên thế gian này đều ăn chay như mình thì đó là một đại nguyện nhưng mà đại nguyện đó có những chúng sanh hợp với mình nhưng rất ít so với chúng sanh trên cõi đời này. Do đó, nếu nguyện vô lượng vô biên là mắc vào lời nguyện đó là qúi Phật tử kẹt. Có câu "Chúng sanh vô biên thề nguyện độ", ruồi muỗi sâu bọ độ hết, địa ngục ngã qủi atula chúng sanh độ hết, đến khi trong thế gian này không còn chúng sanh nào hết thì qúi Phật tử xong lời nguyện đó, qúi Phật tử phải cẩn thận, phải theo khả năng thực hiện, làm hết sức làm cũng được, làm cho mạng sống mình bỏ do nguyện Chánh Đẳng Giác mà, nhưng, không dám nói câu "Chúng sanh vô biên thề nguyện độ". Mà phải tùy duyên hiện bày, tùy khả năng thực hiện, chứ không dám độ hết.

Thiền Sinh: Thưa Sư, như vậy mỗi vị Phật ra đời có thể độ một số chúng sanh tỷ tỷ chúng sanh.

TT trả lời: Đức Phật Gotama giờ chót trước khi nhập Niết-bàn, Ngài đã độ được một đạo sĩ du phương hành khất tên Subhadda, đó cũng là tùy duyên hiện bày, tùy khả năng thực hiện, người đệ tử cuối cùng, phút giây 80 tuổi thọ trước khi nhập Niết-bàn Ngài vẫn làm việc phước cuối cùng, nhưng Ngài không độ hết nước Ấn Độ, Ngài không giải thoát được hết người Ấn Độ và ngày hôm nay Chư Thiên ở trên trời 800 triệu Chư Thiên đắc đạo quả khi Đức Phật lên cung trời Đao Lợi độ mẹ là hoàng hậu Maya, chứ Ngài đâu độ hết tất cả Chư Thiên trên trời.

Có 6 quả phước báu cho người hành Balamật hay người đang tu mật hạnh Balamật ngay phút hiện tại khi họ đang hành Balamật, trong những phước báu đó là cho dù họ đang tu chưa thành tựu quả giác ngộ như bậc Chánh Đẳng Giác vẫn có được 6 quả phước báu cho người hạnh nguyện Ba-la-mật Bồ Tát giống như nhau: 

1) Thứ nhất là tuổi thọ của họ sẽ được đầy đủ.

2) Thứ hai là nhan sắc của họ được đầy đủ.

3) Thứ ba là có danh vị hay danh tước đầy đủ, có địa vị trong xã hội.

4) Thứ tư, họ được sanh ra trong dòng giống cao sang.

5) Thứ năm, họ có được sự kính trọng.

6) Thứ sáu, họ có đại uy lực, năng lực dũng mạnh.

Đó là 6 quả phước báu cho người hành nguyện Balamật, cho dù là họ đang tu tập. 

1) Tuổi thọ đầy đủ.

 Tuổi thọ đầy đủ, khi họ tu hành nguyện Balamật thì tuổi thọ của họ sẽ được viên mãn đầy đủ cho họ tu tập thành tựu Balamật trong kiếp đó.

Thí dụ, như qúi Phật tử là người chưa tu hạnh Balamật thì sống theo kiếp làm người với tuổi thọ của qúi Phật tử đang đến. Chẳng hạn, kiếp quá khứ của qúi Phật tử là người sát sanh nhiều, kiếp này sanh lên sẽ là người đoản thọ không được trường thọ, đó là quả báo của người sát sanh, kiếp này sanh lên tuổi thọ ngắn. Nếu người kiếp trước không sát sanh kiếp này sanh lên được trường thọ. Thì khi lên kiếp này đang làm  người đoản thọ, đang sống trạng thái không hay biết tuổi thọ của họ sẽ ra đi một thời gian ngắn, tới khi họ hiểu được Phật Pháp, họ được sự chỉ dẫn hướng dẫn để tu tập Balamật, họ nguyện hạnh Balamật lúc đó kiếp làm người phàm của họ chuyển qua kiếp Bồ Tát không còn ở vị trí trả nghiệp báo của kiếp đó mà họ đang đi qua nghiệp báu của phước Balamật.

Có những người biết nếu tu hạnh Balamật, họ biết đổi cuộc đời qua cuộc đời của Balamật sẽ được đầy đủ phước báu v.v... nhưng họ không dám hành Balamật, không dám chú nguyện Balamật và không dám hành Balamật.

Có những người qua nước có đời sống văn minh như Mỹ và các nước Tây Phương, họ không hiểu thuốc Tây rất tốt cho việc chữa bịnh, họ vẫn tiếp tục uống rau cỏ hay uống thuốc bắc thuốc nam thì họ sẽ đi theo hướng của rau cỏ thuốc bắt. Còn những người qua nước Mỹ hay nước Tây Phương họ thấy thuốc Tây thuốc Mỹ tốt hơn thì họ dùng thuốc Tây thuốc Mỹ lúc đó tuổi thọ của họ theo hướng thuốc Tây mà đi.

Do đó; Tuổi thọ đầy đủ là, khi qúi Phật tử nguyện Balamật tuổi thọ đi theo hạnh nguyện Balamật, bắt đầu tuổi thọ của một vị Bồ Tát hành Balamật chứ không phải của tuổi thọ của chúng sanh chưa có Balamật phải trả trong kiếp này. Đó là tuổi thọ đầy đủ.

Do đó, phước đầu tiên qúi Phật tử bước vô hạnh nguyện Balamật là qúi Phật tử đang sống với kiếp sống của một vị Bồ Tát Balamật, còn qúi Phật tử chưa bước vô nguyện Balamật qúi Phật tử đang sống đời sống của một chúng sanh của tuổi thọ nhân thiên.

Thêm một thí dụ nữa. Có những người từ VN qua tuổi đời rất là trẻ, một đời của họ không bao giờ muốn vô quốc tịch Mỹ  vẫn giữ quốc tịch VN, họ không cần xin thẻ xanh, thì họ không sống ở bên Mỹ được, khi họ thấy phải vô quốc tịch Mỹ, rồi họ có những qui chế công dân Mỹ họ sẽ có những quyền lợi của người Mỹ thì lúc đó họ không còn là người VN, họ sẽ sống theo đời sống của người Mỹ. Người có Balamật là người bước qua cái ngạch của người Mỹ, người không có Balamật sống trên nước Mỹ là họ sống theo phước báu của bên VN.

Chúng ta đã qui y Tam Bảo mà chưa biết hành Balamật hay vị thầy cho qúi Phật tử qui y mà không chỉ cho qúi Phật tử hành pháp độ Balamật thì thầy đó đang đưa qúi Phật tử trên con đường sanh tử luân hồi chứ không phải đưa qúi Phật tử trên con đường giác ngộ giải thoát. 

2) Nhan sắc đầy đủ

Khi một người sống trong sự tự tin, biết làm phải, sống trong lẽ phải, cuộc đời họ an lành. Người mà sống trong sự lo sợ hồi hộp, sống nay chết mai, cuộc sống của họ gọi là nhan sắc héo hon không được an vui. Do đó, nhan sắc đầy đủ gắng liền với niềm tin của họ đang sống với một lẽ phải và họ biết con đường họ đang đi. Quí Phật tử đang đi bờ bên đây thì sợ cá mập, đi bờ bên kia thì sợ cá sấu, qúi Phật tử phải đi ở giữa trong trạng thái biết con đường mình đang đi, sự lo âu buông bỏ hết con đường của mình được an lành, còn qúi Phật tử biết bước vô bên đây hay bên kia có cá mập cá sấu với gương mặt lo âu sợ hãi không được bình yên.

Do đó nhan sắc đầy đủ là như vậy đó chứ không phải là đẹp, người có nhan sắc đầy đủ là người có phước báu tu tập.

3) Danh tước đầy đủ, 

Là người sống trong lẽ phải được danh thơm tiếng tốt, chứ không phải địa vị cao sang, họ được danh thơm tiếng tốt, họ sống trong cuộc đời của họ an lành với danh vị của họ.

4) Sống trong dòng giống cao sang.

 Một người đang làm một con đường lý tưởng, họ đang sống trong sự phục vụ hạnh nguyện lý tưởng của mình thì họ sẽ được hưởng vị trí lý tưởng của họ chứ không thể nào thấp kém được.

Đối với người  có hạnh nguyện Ba-la-mật, họ đi theo con đường của hạnh nguyện Ba-la-mật, chứ không theo truyền thống dòng giống cha mẹ của họ đang có. Một lần Đức Phật ôm bình bát vào thành Ca-tỳ-la-vệ sau một ngày khi Ngài gặp hoàng thân quốc thích, vua cha gặp Đức Phật nói: "Đức Thế Tôn làm một việc phỉ nhổ dòng họ Thích Ca của trẫm, gia đình của trẫm, dòng dõi Thích Ca của trẫm không thiếu vật thực mà sao hôm nay Đức Thế Tôn ôm bình bát đi khất thực, đó là phỉ báng dòng họ Thích Ca"

Đức Phật nói: "Như Lai là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác là dòng giống Chư Phật, chứ không phải dòng giống Thích Ca, trì bình khất thực, nếu không có người phát tâm cúng dường là phải ôm bình bát đi khất thực, đó là truyền thống Chư Phật, chứ không phải là dòng giống Thích Ca".

Chỉ khi qúi Phật tử sống trong hạnh nguyện Balamật là đi ra khỏi dòng giống họ Lê họ Nguyễn, để đi theo dòng giống của bậc Giác Ngộ, bậc Chánh Đẳng Giác, đi theo con đường chí nguyện lý tưởng của mình sống, đó là đang ở dòng giống cao sang. Người  có xả thí Balamật sống theo hạnh nguyện xả thí Balamật chứ không sống theo cuộc sống của Trần, Lê, Nguyễn, khi cho khi không cho. Người sống với hạnh nguyện Balamật khi phải cho cái gì của một bậc thánh nhân Thinh Văn Giác, Độc Giác, hay Chánh Đẳng Giác thì cho, chứ không thể cân nhắc đắn đo của họ Trần, Lê, Nguyễn.

Làm như vậy chắc chắn được kính trọng và không có gì khác hơn, làm như vậy con người mình mạnh lớn hơn và không có gi cản ngăn khi có đại nguyện, người Bồ Tát, người sống theo hạnh nguyện Balamật không bị gò bó trong những dòng giống của họ, không gò bó trong sự tiết chế của gia đình của họ, họ sống trong trạng thái không người thân người quen, sống với hạnh nguyện Balamật của họ thì họ phải có đại nguyện lực. 

Sư có hướng dẫn cho nhóm Phật tử bên Oklahoma sau 9 ngày Sư dạy tại đó thì sau đó tất cả các vị Phật tử đều phát nguyện Balamật, thì sau khi họ phát nguyện Balamật Sư mới cân nhắc Balamật nào họ phải nguyện. Có một vị đó xin nguyện là xả thí Balamật, Sư mới nói:

- "Xả thí Balamật rất tốt nhưng Sư nhìn thấy chú không có khả năng làm xả thí Balamật được."

Thì vị Phật tử đó hỏi: "Tại sao một đời con muốn xả thí mà Sư nói như vậy thì con lúng túng, con muốn biết tại sao Sư chỉ con".

Sư giảng: "Xả thí Balamật là mình cho ra những gì mình có thể cho được, Sư chưa nói bậc Chánh Đẳng Giác, chỉ là bậc Thinh Văn Giác thôi, chú cho ra những gì chú cho được khi chú chưa nguyện xả thí Balamật, trước đây chú có thể cho ra được nhưng khi chú nguyện xả thí Balamật xong rồi thì chú phải cho ra những cái gì mà người ta cần phải có, chú thấy cần phải cho là chú phải cho không được hạn chế vì vợ vì con không cho, mà nếu vợ và con không cho mà chú cho là chú đứt Balamật của chú liền, Sư xin chú cái đôn, chú phải cho, mà chú còn chạy vào hỏi vợ hỏi con vợ, và vợ con chú không cho là chú đứt balamật liền, phải cẩn thận".

Đó mới là đại uy lực, cho mà không bị cản trở người đó mới gọi là có đại uy lực, còn cho mà bị cản trở người đó chưa có uy lực. Qúi Phật tử phải cẩn thận hạnh nguyện Balamật của mình, và khả năng của mình.

Do đó, qúi Phật tử ở trong khuôn khổ của gia đình bị nhiều hạn chế chúng ta làm trong khả năng với hạnh nguyện Balamật thích hợp với mình mà không đụng chạm ai và, nhất là không bị đứt Balamật hạnh nguyện của mình, đó là điều quan trọng.

Những người có đại uy lực, muốn đi là đi, muốn ngừng là ngừng, muốn ngồi là ngồi, do Balamật của họ chứ không bị hạn chế. Còn qúi Phật tử bây giờ không làm được vì bị hạn chế, công ăn việc làm, đời sống gia đình, hoàn cảnh khó khăn, đủ thứ chuyện do đó qúi Phật tử bị trở ngại trong nguyện hạnh Balamật.

Do đó, mình phải nương theo hạnh nguyện Balamật thích hợp.

Sáu quả phước báu của người có Balamật sẽ đón nhận được ngay kiếp hiện tại cho dù họ chưa đắc đạo quả.

Kế tiếp là 10 pháp Balamật hay còn gọi là Thập Độ. Độ là độ ta và độ chúng sanh, gọi là Pháp Độ.

1) Pháp độ thứ nhất,  xả thí.

2) Pháp độ thứ hai là, trì giới

3) Pháp độ thứ ba là, ly dục

4) Pháp độ thứ tư là, trí tuệ

5) Pháp độ thứ năm là, tinh tấn

6) Pháp độ thứ sáu là, nhẫn nại

7) Pháp độ thứ bảy là, chân thật

8) Pháp độ thứ tám là, chí nguyện

9) Pháp độ thứ chín là, từ ái

10) Pháp độ thứ 10 là, hành xả.

Người tu phải chọn 1 trong 10 pháp độ ở mỗi một kiếp, qúi Phật tử nghiền ngẫm trong 10 pháp balamật này thích hợp loại nào chọn ra loại đó và một ngày sẽ học sống trong hạnh nguyện đó, một tuần sống trong hạnh nguyện đó, một tháng sống trong hạnh nguyện đó, một năm trong hạnh nguyện đó, một đời sống trong hạnh nguyện đó, một kiếp chỉ cần một pháp độ mà thôi, là đủ rồi, chứ không cần phải làm hết 10 pháp độ balamật.

1) Pháp độ thứ nhất, xả thí

Có 3 loại xả thí 

1) Xả thí cho quả phước trở lại làm người đầy đủ tài sản của cải là, quả phước của nhân là phước báu hữu lậu

2) Xả thí cho quả phước rời kiếp làm người trở lại làm trời, sanh về cõi thiên cung, ở thiên giới, đầy đủ tài sản của thiên y thiên giới thiên sắc, là quả phước của thiên là phước báu hữu lậu.

3) Xả thí để được giải thoát - Niết-bàn - đó là loại xả thí Balamật, thoát khỏi sanh già đau chết, thoát khỏi phiền não luân hồi, đó là quả phước mà qúi Phật tử xả thí mong cầu Niết-bàn, là quả phước Balamật, quả báu của giải thoát là phước báu vô lậu

Khi làm bất cứ việc thiện nào qúi Phật tử phải coi tác ý của mình, chính tác ý đó trả lời việc làm đó của Phật tử, quả báu gì sẽ trổ sanh lại ngay tại đó. Qúi Phật tử phải nhìn tâm mình thấy được tác ý mình là cái gì lúc đó qúi Phật tử có được câu trả lời quả báo cho qúi Phật tử liền. 

- Với người xả thí để cầu sanh nhân thiên thì họ lựa chọn đối tượng để làm việc thiện, 

- Với những người xả thí để cầu giải thoái thì mượn chúng sanh để thực hành hạnh nguyện Balamật.

Một cái là lựa chọn, một cái là mượn, hai cái đó khác nhau, cái nào cũng phải tính, tu là phải tính nếu không tính thì bị trôi lăn, qúi Phật tử tính bằng trí tuệ chứ không phải tính hơn thua mạnh yếu, qúi Phật tử càng học nhiều thì càng phải tính toán nhiều, trí tuệ của mình phải cân nhắc từng mỗi hành động, từng mỗi cử chỉ, từng mỗi lời nói, từng mỗi suy nghĩ, từng mỗi thân lời ý nghiệp báo ta phải cân nhắc hết thì qúi Phật tử mới làm được chứ không phải sống thừa thãi như xưa nay nữa, đó là bậc Bồ Tát, phải suy nghĩ cân nhắc ý này là chúng ta làm phước báu.

Vậy thì, khi qúi Phật tử thấy đối tượng có hai là: lựa chọn và mượn.

Thấy người ăn xin đến qúi Phật tử có hai suy nghĩ là cho và không đáng cho. 

- Người đáng cho là vì mình thấy tội nghiệp hay do hoàn cảnh nên cho, sự cho đó là  nhân thiên.

- Thấy người khó vừa đến ta cho liền là tâm mượn là bổ túc Balamật, làm mau làm lẹ là Vô Dẫn. 

Có một Phật tử hỏi Sư: "Trên đường mỗi ngày sáng ra đầu ngõ là thấy một ông vô gia cư đến gặp con với tấm bảng xin tiền, mà con nghi ông này không phải là tốt, không biết mình nên cho không, ngày nào cũng thấy, đi ngang đầu ngõ là gặp mà con không có con đường nào khác hơn nên con gặp ông thì con nên cho hay không". 

 Sư nói: "Nếu balamật thì cô cho hết, còn như cô còn suy nghĩ thì đó là tâm nhân thiên".

Qúi Phật tử sẽ thấy pháp Balamật này không phải là người ngu hay, pháp Balamật này không phải người có trí tuệ. Nhưng, thật ra trí tuệ còn cao hơn hạng nhân thiên.

 Qúi Phật tử thấy xã hội người Mỹ họ quản lý người dân siêu hơn cộng sản nhiều, chứ còn cộng sản quản lý người dân quá thô thiển. Qúi Phật tử thấy không ở Mỹ họ đâu cần công an khu vực theo dõi mà mình đi đâu họ cũng biết hết.  Balamật là vậy đó, người có hạnh nguyện Balamật hơn nhân thiên ở chỗ đó, còn nếu Phật tử sẽ thấy đắn đo lựa chọn thì phước báu trở lại với mình nó cũng đắn đo lựa chọn trở lại.

2) Pháp độ thứ hai là, trì giới

Trì giới, qúi Phật tử sợ đứt giới, qúi Phật tử mong cầu được hưởng phước báu nhân thiên, hay qúi Phật tử mong cầu được giải thoát. 

- Trì giới mà sợ đứt giới thì không nên gặp người để nói chuyện về giới, gặp người để nói chuyện về giới dễ bị đứt giới. Trì giới không muốn bị đứt giới thì đừng tiếp xúc với con người vì dễ bị đứt giới lắm, hãy trốn đi không gặp ai hết vì nói ra là phạm giới liền, đó là trì giới của người nhân.

 - Trì giới của người thiên là sống trong trạng thái hoan hỉ giữ giới và còn có thể gần gủi con người này người kia, nhưng trong chỗ thân quen mà thôi.

- Còn trì giới giải thoát, người sửa ta sai ta nguyện giữ giới, người sửa ta sai ta nguyện tròn giới, người chỉ trích ta sai ta nguyện mong được đầy đủ giới, là nguyện giải thoát. Càng dũa càng mài thì người đó là trì giới Balamật.

Do đó:

- Sợ bị đứt giới là trì giới của con người.

- Mong cầu được hưởng phước trời, gặp người nhưng mà là người thân không dám gặp người lạ.

- Còn trì giới balamật là, chúng sanh đều là mượn để trao dồi phẩm hạnh trong sạch thanh cao của mình là trì giới Ba-la-mật.

3) Pháp độ thứ ba là, ly dục

3) Ly dục. Là vượt qua khỏi sự khao khát mong muốn theo các mong cầu sở nguyện sở thích. Còn ra khỏi: khao khát,  mong cầu, sở nguyện, tất cả đều là ly dục mong cầu, và giải thoát lúc đó là Balamật lên. 

Còn nếu như chúng ta nói, qúi Phật tử bây giờ đang tu được hưởng hạnh phúc, thân tâm được an lạc phước báu đầy đủ, vì lúc đó qúi Phật tử có nhân người với người sống với nhau trăm sự an vui dìu dắt nhau trong sự tu tập.

Còn qúi Phật tử muốn nhân và thiên trong khi đó qúi Phật tử xa lánh tất cả thú vui trần gian này để mong cầu sanh về cõi trời đầy đủ phước báu hơn và thù thắng hơn cõi người, qúi Phật tử ly dục ở đây và mong cầu được sanh về thiên giới, giống như tỳ khưu Nanda em trai của Đức Phật, trong ngày cưới Đức Phật giao bình bát và bảo đi theo Đức Phật. Đức Phật Ngài hỏi tu hay không tu, vì thương kính Đức Phật, hoàng tử Nanda ngay ngày lễ cưới đồng ý xuất gia. Bỏ lễ cưới đó tâm trạng Nanda đi vào sầu muộn bi ai luôn luôn nhớ tưởng tới nàng hôn thê của mình không cưới được mà phải đi theo hoàng huynh của mình để tu nhưng tu không yên. Những vị tỳ kheo đem câu chuyện đến nói với Đức Phật:

- "Bạch Đức Thế Tôn, chúng con để ý tỳ khưu Nanda buồn bã không phút giây nào an vui cả, do đó người này không thật là tu". 

Đức Phật gọi Nanda tới và dắt lên cung trời Đao Lợi, Tỳ Khưu Nanda lên gặp các thiên nữ thù thắng dung sắc, lòng rung động trở về lo tu để được lên cung trời Đao Lợi, quên hẳn công nương hôn thê của mình.

Đó là Nanda ly dục với trần gian để mong cầu cõi dục của thiên giới.

Do đó, có một số Phật tử đến chùa, họ cũng tu, họ cũng nguyện tu, nguyện  ăn chay trường, nhưng lại mong cầu sanh về thiên giới, cõi trần gian này nhiều khổ đau, chưa được gọi là giải thoát. Họ chỉ là đá đè cỏ phút giây này thôi chờ cơ hội khác cỏ bùng lên cháy cao hơn nữa và hưởng đầy đủ hơn nữa,  đó không phải là ly dục./.

----------------------------------- 

Sau khi Phật tử ngồi thiền

TT Sán Nhiên: Khi ta tu tập hạnh nguyện Balamật đang phát, ta có đại uy lực. Đầu tiên là có năng lực đó và sẽ thấy việc hành thiền hôm nay với Balamật qúi Phật tử sẽ nghĩ tới chuyện cầu được giải thoát chứ không cầu được nhân thiên.

Sự giải thoát này đưa đến với chúng ta sẽ có sự nhận thức là khi chúng ta đến những trạng thái; tê, nhức, mỏi, đau, mà chúng ta mong cầu cho mau hết; tê, nhức, mỏi, đau, thì lúc đó chúng ta đang nghĩ đến trạng thái của nhân và thiên.

Vì những thú vui của chúng ta luôn luôn được mong cầu, sự an lạc chúng ta muốn được hưởng, chúng ta sợ những gì khổ đau, do đó khi trạng thái; tê, nhức, mỏi, đau, đến thì lúc đó ta lại nghĩ đến con người chúng ta mong ra khỏi những trạng thái đó. 

Nhưng, đến khi chúng ta có được Balamật, chúng ta thấy thân này có, tê, nhức, mỏi, đau, chúng ta đổi qua vị trí khác không có, tê, nhức, mỏi, đau, nay ta còn mang cái này ta còn khổ, ở đâu cũng vậy, người và trời ở cảnh giới nào cũng vậy, người tốt người xấu hạnh phúc hay khổ đau, luôn luôn có như vậy, ta nghĩ tới Balamật ta ngồi tu tập, lúc đó tâm qúi Phật tử khắn khích trong Balamật đó ta hành thiền ta theo dõi trạng thái một cách thản nhiên của trí tuệ, rồi nó sẽ qua. Nếu qúi Phật tử đối diện với, tê, nhức, mỏi, đau, giống như qúi Phật tử đối diện với một lực lượng rất mạnh mà sức của mình rất yếu, nếu qúi Phật tử mạnh hơn thì qúi Phật tử sẽ không bị làm phiền bởi, tê, nhức, mỏi, đau. 

Khi tê, nhức, mỏi, đau, đến nếu qúi Phật tử đang yếu mà nó đang mạnh như thế thì qúi Phật tử lấy cái gì để đối trọi? 

- Lấy tâm nghị lực của mình, tâm dũng mãnh của mình và lúc đó qúi Phật tử lấy tâm Balamật gọi là tâm uy lực của qúi Phật tử để đối diện với nó. 

Sĩ Đạt Đa ngồi dưới cội cây, lúc đó Ma Vương đã đến quấy phá Ngài lấy  Balamật của ngài để đối Ma Vương và ngài chiến thắng. Khi Ngài ngồi dưới cội cây bình yên không có Ma Vương đến quấy pháp thì lúc đó là Chư Thiên ở quanh bên ngài, nhưng thiên ma đến từ cõi Tha Hóa Tự Tại binh ma đến có voi cưỡi xuống thì lúc đó Chư Thiên bỏ chạy chỉ có Balamật của Ngài ở lại với Ngài thôi.

 Qúi Phật tử nhớ trường hợp đó, thì cũng vậy thôi, khi qúi Phật tử đến giai đoạn gặp cảnh nguy hiểm đến với qúi Phật tử lúc đó chỉ có Balamật mà thôi.

 Một lần nữa Sư muốn nhắc qúi Phật tử khi sống trong đời còn bình yên mà  không nghĩ đến tu hạnh nguyện Balamật thì khi cận tử lâm chung qúi Phật tử nhớ cái gì thì cái đó qúi Phật tử sẽ mang theo. 

Qúi Phật tử hãy nhớ tới hạnh nguyện Balamật chuyển tiếp qua để tiếp tục tu, chuyển tiếp qua giai đoạn mới ta có cái phước Balamật để đi mạnh hơn phước của nhân và thiên, chắc chắn chúng ta sẽ trở lại làm người và trời nếu chúng ta chưa được giải thoát, Balamật trở lại Phật tử trong dòng giống cao sang hơn tốt hơn và có đầy đủ hơn và tiếp tục chúng ta đi trên con đường để đưọc giải thoát. Qúi Phật tử sẽ thấy mình phải đi liên tục và không gián đoạn với Balamật đi liên tục rất là tốt và rất chắc chắn.

Thiền sinh: Thưa Sư, khi mình chọn Balamật nào thì mình luôn sống với Balamật đó.

TT trả lời: Đúng, qúi Phật tử sẽ thấy khác nhau, qúi Phật tử có thể chưa hưởng, có một số qúi Phật tử ở đây đã được Sư hướng dẫn trong thời gian tu học ở chùa Kỳ Viên bây giờ họ hành được Balamật rồi. Cũng như hôm nay một số Phật tử ở tiểu bang Oklahoma họ cũng hành được Balamật, họ hoan hỉ lắm họ thấy khác nhau lắm, giống như họ đổi qua một kiếp sống mới, hạnh nguyện họ tu tập họ thấy vui lắm, do đó có nhiều người dùng được Balamật trong từng hơi thở trong mỗi phút giây trong đời sống của họ, mỗi suy nghĩ của họ là Balamật. 

Có khi qúi Phật tử sẽ thấy có Balamật mình vui thích làm, chẳng hạn như mình mượn chúng sanh để phục vụ Balamật của mình lúc đó mình dùng chúng sanh để bổ túc Balamật, chúng sanh được vui mình cũng được vui vì mình được vun bồi Balamật cao hơn để mình mau được giải thoát hơn. 

Điều này cũng hay, ngày trước mình không có Balamật, thông thường vì thương mình mới làm, thích mình mới làm, hoan hỉ mình mới làm, còn ở đây là cơ hội làm Balamật khi mình vui mình làm trong tâm mình làm qúi Phật tử sẽ thấy cái hương vị đó pháp vị đó khác hơn cái vui mình làm thích mình làm quen mình mới làm, nó khác nhau. 

Lúc đó mình coi lại cái tâm mình rộng lớn hơn nó không nhỏ bé nữa, hồi đó mình thương mình mới làm, vì mình còn hạn chế trong giai đoạn thương mình mới làm, thích mình mới làm, mình còn hạn chế trong cái thích. 

Còn cái này chúng sanh là chúng sanh, mượn chúng sanh để làm Balamật lúc đó qúi Phật tử sẽ thấy nó đến rất là mạnh, tâm qúi Phật tử làm cái đó và cái năng lực qúi Phật tử làm hết sức là chọn vẹn. Cách tu hạnh Balamật  thì khi cho qúi Phật tử cho không có đầy không có vơi, không nhiều không ít, luôn luôn phải làm. 

Đó là Sư trả lời câu hỏi nếu ta làm được thì cố gắng làm trong từng mỗi hơi thở mình trong Balamật.

Thiền sinh: Thưa Sư, khi mình trì giới, mình lỡ thấy con kiến mình lỡ giết con kiến thì mình có đứt Balamật không?

TT trả lời: Trì giới có ba loại, nhân, thiên, và giải thoát. Nếu ta muốn trì giới cho trong sạch của hàng nhân loại là không tiếp xúc chúng sanh nào cả thì mới giữ giới được trong sạch, tại vì đụng cái nào cũng bị phạm giới hết, qúi Phật tử thấy bây giờ qúi Phật tử bị bịnh ông thầy thuốc cho uống thuốc để diệt vi trùng, muốn trì giới cho trong sạch là không được dùng thuốc. Thấy con kiến qúi Phật tử sợ chứ thật ra qúi Phật tử giết bao nhiêu vi trùng trong mỗi viên thuốc qúi Phật tử đang uống để diệt những con vi trùng trong căn bịnh qúi Phật tử đang có. Cái đó mâu thuẫn và mình không có tác ý trong sạch, mình thấy mình sợ còn không thấy mình diệt được, không phải vậy, 

Cái đó nếu ta trì giới hạng chư thiên là ta phải trì giới trong chỗ thân thiện là chúng ta giữ giới trong hoàn cảnh đang có và thuận lợi mới giữ giới được còn nếu như hoàn cảnh không giữ giới được thì bị đứt giới chúng ta lo sợ ta chỉ trì giới với những người thân ta, người đó hỗ trợ ta nhắc nhở ta và giúp đỡ ta thì ta mới trì giới được, đó là trì giới của hạng thiên sanh trở về trời.

Còn trì giới của Balamật là trì giới của giải thoát là luôn luôn phải đối diện với mọi trường hợp. Tiền thân của ĐĐ Mục Kiền Liên, kiếp quá khứ Ngài là một vị tiều phu, đời sống mưu sinh của Ngài là đốn cây để kiếm củi bán cho dân làng, một hôm khi Ngài đốn cây tổ ong rớt xuống bể ra các con ong con rớt tung ra thì Ngài nguyện liền:

-  "Tôi không tác ý làm bể ổ ong này, nguyện kiếp nào đắc đạo quả tất cả những con ong này làm đệ tử của tôi, tôi độ để tu tập giải thoát hết". 

Chúng ta cũng phải nguyện liền, tại vì ta không có tác ý giết kiến, nhưng đường đi của mình là đường đi Balamật mình phải đi, lúc đó ta đang hành Balamật, ta quét nhà mà ta có tác ý giết kiến thì đừng quét, ta quét nhà cho sạch kiến thì khi quét nhà cho sạch kiến ta nguyện liền là: 

- "Ta đang trên con đường tu hạnh Balamật, ta không có tác ý hại các Ngài, khi ta đạt đạo quả ta sẽ độ Ngài, các Ngài đừng lo". Kêu nó bằng Ngài.

Do đó, bước đi của mình rộng lớn lắm nhưng phải đứng lại trong trạng thái sợ hãi gò bó, trong kiếp quá khứ Đức Phật Thích Ca có kiếp là Bồ tát Vessantara vốn là hoàng tử con vua Sañjaya nước Sivi, Ngài nguyện xả thí, bố thí vợ, bố thí con, trong 5 pháp đại thí. Khi xả thí vợ và con Ngài nguyện: "Cho ta trọn hạnh nguyện Balamật, ngày sau cha sẽ độ hai con thành đạo quả"  là Ananda và Rahula trong kiếp quá khứ là hoàng từ Jāli và công chúa Kaṇhajinā. 

Qúi Phật tử sẽ thấy có những lúc Balamật đến với qúi Phật tử, qúi Phật tử phải nhìn bởi trí tuệ, cứ đắn đo thì không thể làm được.

 Ngày xưa hồi còn bé, ngày đầu mẹ Sư dẫn Sư vào học lớp mẫu giáo ở trường La San Taberd, mẹ Sư nói: 

1) Thứ nhất, vô đó không được nói chuyện, 

2) Thứ hai vô học phải ngồi bàn đầu, không ngồi bàn cuối,

3) Thứ ba chơi với học trò giỏi không chơi học trò dở. 

Ba điều Sư thực hiện liền, Sư luôn đứng đầu lớp, lớp nào cũng vậy. 

Thì một hôm mẹ Sư nói: 

"Mẹ mắc cở với con". 

Sư mới hỏi: 

"Con luôn làm theo lời mẹ dặn, con luôn đứng đầu lớp, tại sao mẹ lại mắc cở vì con? 

Mẹ Sư trả lời: 

"Khi con đã học giỏi và luôn đứng đầu lớp mà không dẫn dắt những bạn học dở, con đã thành tựu là đứng đầu lớp thì con phải giúp đỡ những người học dở chứ"

Sư nghe lời mẹ, Sư quay trở lại giúp đỡ các bạn kém hơn mình. Balamật mình là như vậy đó. Mẹ Sư học Siêu Lý với Ngài Tịnh Sự từ khi Sư còn bé.

Khi nhỏ còn non nớt yếu kém ta chỉ lo cho ta, như tới khi chúng ta đã thành tựu cứng cáp vững vàng rồi thì lo cho chúng sanh, lo cho mình xong thì lo cho chúng sanh, đó là Balamật, là Bồ Tát. 

Do đó, bước đầu tiên chúng ta thương chúng sanh lo cho chúng sanh, nhưng sau này  không cần biết chúng sanh đó là thương hay thân cứ xả thí với tâm hoan hỉ, chúng ta vượt lên định kiến, thương mới cho, thân mới cho, quen mới cho, biết mới cho, hiểu mới cho, gần gủi mới cho, còn không quen không biết không cho, qúi Phật tử sẽ thấy rõ. 

Cũng như vậy, là người Phật tử đến chùa người thầy của mình quen mình mới thân, mình mới tiếp xúc, còn những vị thầy nào không quen không biết mình không tiếp xúc, đó là không đúng, mình phải gần gủi hết. Điều thứ hai, qúi Phật tử vô trong nhóm quen nhau mình mới chơi còn không quen không chơi thì như vậy là chưa có Balamật, qúi Phật tử phải đến gần những người yếu, những người chưa biết, đến gần những người chưa quen, chưa hiểu để nhắc nhở chỉ dẫn thì lúc đó Balamật quí Phật tử sẽ khởi lên. 

Ngài Tịnh Sự kể một câu chuyện, bạn của Ngài tu hạnh đầu đà ở trong rừng, một hôm bạn của Ngài lâm trọng bịnh, Ngài Tịnh Sự đem thuốc đi vào rừng để cứu bạn mình, Ngài đi nửa đêm khuya gặp con cọp đứng giữa đường, giữa đêm khuya Ngài nhìn thấy con mắt đỏ ngầu và nghe mùi khét của con cọp nên biết đó là cọp, Ngài đứng định thần và Ngài nguyện: "Nếu tôi có tâm trong sạch đem thuốc cho bạn của tôi hãy cho tôi được an lành không bị điều nguy hiểm." Con cọp đứng một hồi rồi nhẹ nhàn bỏ đi, rồi Ngài tiếp tục đem thuốc đến cho bạn.

Câu nói của Ngài Tịnh Sự, Sư học và nhớ hoài, Sư được may mắn diễm phúc là Sư có được vị minh Sư và, cũng như Sư may mắn có người mẹ biết Vi Diệu Pháp do được học với Ngài Tịnh Sự mẹ Sư đã dạy dỗ uốn nắn Sư từ hồi nhỏ. Hôm nay Sư nói lời chân tình nói với qúi Phật tử là Sư được hưởng từ hai nguồn di huấn tối hậu của mẹ và Thầy cho Sư rút ra liền, Sư học hỏi và thực hành để tốt cho mình và tốt cho mọi người, đó là lời mẹ dạy, còn qua trường đạo thì thầy dạy về Balamật, lúc đó mình không làm được thì không có tiến bộ được.

Thiền sinh: Thưa Sư, có trường hợp nào mình có tánh Balamật tự nhiên không, tức là mình không cần nguyện mình đã có tánh Balamật trong tâm mình không?

TT trả lời: Có 3 trường hợp có tánh Balamật tự nhiên là

1) Thứ nhất là, Bodhisatta là Bồ Tát Vĩ Cửu có Balamật thường hằng không thay đổi, tức là vị Bồ Tát được Đức Phật thọ ký thành Bodhisatta tức là Bồ Tát Vĩnh Cửu, cái đó là họ đã viên mãn và thành tựu Balamật là chỉ chờ ngày thành tựu quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là Balamật tự nhiên.

2) Thứ hai là các vị Thất Lai, Nhất Lai, Bất Lai, các vị đó luôn luôn trở lại kiếp làm người ở trên cõi trời đi lên đi xuống 7 lần hay một lần, họ có Balamật, họ không có bị chấp ngã hay họ bị đứt mà họ đi tiếp tục luôn, đó là bậc Thánh thấp. 

3) Thứ ba là những bậc đang nguyện Balamật từ trong tâm ra lời và nguyện cho tới Đức Phật thọ ký liên tục như vậy họ sẽ có thường nhiên Balamật của họ, ngoài ba trường hợp này thì không ai có Balamật thường nhiên.

Thiền sinh: Thưa Sư, nếu mình muốn có Balamật trong hành động của mình thì mình phải tập phải không?

TT trả lời: Phải tu tập.

Thiền sinh: Thưa Sư, con có nghe nói mình hành Balamật thì mình nguyện  ra lời nhiều khi bị thử thách mình không làm được. 

TT trả lời: Tại vì bài học về Balamật chưa xong, như Sư cũng giải thích đôi chút để qúi Phật tử biết.

1) Thứ nhất là, khi nguyện Balamật tuyệt đối không được nói ra cho những người xung quanh ngay cả người thân trong gia đình, tại vì sợ thử thách, do đó, ngay cả Sư khi nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác bằng trí tuệ nhưng Sư không nói hạnh nguyện Balamật của Sư là loại nào cho qúi Phật tử nghe, đó là điều thứ nhất. 

2) Thứ hai, trong 10 Balamật mà mình nguyện đây là mình phải lựa cái nào mạnh nhất mình có khả năng làm được nhiều nhất và không bị gãy đổ nhất mình mới nguyện chứ đừng có nguyện cái yếu nhất để mà thử thách. Có những người họ không có khả năng trì giới hay không có khả năng xả thí thì đừng nguyện những điều đó. Sư hỏi tại sao họ chọn cái đó, họ nói con yếu con phải nguyện cái đó để con trau dồi, trau dồi không được nó đứt. Do đó, mình phải mạnh nhất để mình lấy được cái đó nhất và mình không bị hoại bị đứt nhất, cái nguyện đó tuần sau Sư sẽ nói rõ thêm. Thì khi mình nguyện mình phải lựa cái nào mạnh nhất, chẳng hạn cái người mà họ nguyện chân thật Balamật là họ biết cái đó là mạnh nhất của họ, họ sống cuộc đời chân thật, hành động chân thật, lời nói chân thật, ý nghĩa chân thật, thì họ nguyện chân thật, họ thà chết chứ họ không nói lời gian dối, họ không có lời nói sai trật, họ không có hành động sai trật gian dối trước mặt hay sau lưng, họ là người trong sạch, đó là họ nguyện chân thật. 

Như người buôn bán mà nguyện chân thật là kẹt, như mình ra ngoài đời đi buôn đi bán do hoàn cảnh thì mình không được lựa chân thật mà phải lựa cái khác là tâm từ Balamật, lúc đó mình đổi qua tâm từ Balamật tại vì mình bán cho mọi người được an vui, mình được vui họ cũng được an vui không làm hại chúng sanh khác, nên mình nguyện tâm từ chứ đừng nguyện chân thật.

Thiền sinh: Thưa Sư, sau khi chọn Balamật rồi thì con làm sao?

TT trả lời: Sau khi tìm hiểu về Balamật xong mình chọn cái nào hợp với khả năng của mình thì nghiền ngẫm rồi đến gặp Sư, Sư sẽ giải thích cho qúi Phật tử sẽ nguyện trước bàn thờ Phật Sư sẽ hướng dẫn qúi Phật tử.

Thiền sinh: Thưa Sư, mình chọn một lần để mình nguyện rồi sau đó mình đổi qua Balamật khác được không?

TT trả lời: Không được, mình phải chính chắn trước khi nguyện, qúi Phật tử phải cẩn thận, đứt giới qúi Phật tử có thể xin lại giới chứ đừng để đứt Balamật./.