Monday, May 23, 2022

Vi Diệu Pháp 21 (tiếp theo) - Thiền Sắc Giới - HT Sán Nhiên giảng

Thiền Sắc Giới - Vi Diệu Pháp 21 (tiếp theo) - HT Sán Nhiên 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm gọn theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 21" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm t

Xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến chư thiên và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh


Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Chúng ta đi tiếp qua phần Thiền Sắc Giới.

Có tất cả 36 đề mục về Sắc Giới theo 6 tánh tình của người tu tập. Hành giả sẽ chọn 1 trong 36 đề mục phù hợp trong loại tánh nào mình đang có. Khi có 1 trong 6 loại tánh đó hành giả sẽ chọn đề mục thích hợp. Nhưng đề mục phổ thông nhất cho cả hai Thiền Chỉ và Thiền Quán là đề mục hơi thở đề mục rất phổ thông sẵn có trong con người chúng ta.

Có 4 đề mục về vô sắc giới.

Với phương pháp của Thiền Chỉ và đề mục hơi thở, thì bất cứ tâm của hành giả đi ra khỏi hơi thở, hành giả trở lại hơi thở, hành giả không cần phải biết cái gì nữa hết. Hành giả nghiên cứu và tu tập để  được đắc định của Thiền Chỉ, hành giả đi làm sao để không rời khỏi hơi thở. 

Hành giả chăm chú vào hơi thở với 5 chi thiền là: Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Thống Nhất (định) 

- Tâm tìm hơi thở gọi là Tầm.

- Quán sát hơi thở, theo dõi hơi thở là Tứ.

- Giữ gìn được hơi thở đó là Hỉ.

- An lạc trong trạng thái ngồi thiền không bị phóng tâm bấn loạn gọi là Lạc.

- Lúc đó hơi thở với mình là một là Nhất Thống (định).

Tâm của ta để vô hơi thở, tâm vừa phóng ra trở về hơi thở, giống như con cóc nhảy ra khỏi dĩa bắt bỏ lại vào dĩa, nó búng ra mình bắt bỏ vô, tâm ta phóng ra khỏi đề mục hơi thở kéo tâm trở lại hơi thở.

Và 5 triền cái là: Tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo hối, hoài nghi

1) - Tham. Người hành giả Thiền Chỉ mà dính mắc vô hơi thở lúc đó là tham triền cái che lấp liền. 

Luôn luôn khắn khích với hơi thở là qúi Phật tử không có trạng thái dính mắc với hơi thở.

Như thế nào là dính mắc? Thí dụ, khi qúi Phật tử theo dõi hơi thở biết hơi thở đó thôi. Khi qúi Phật tử theo dõi hơi thở mà nói hơi thở dài, hơi thở ngắn, nó nặng, nó nhẹ, nó nhanh, nó chậm là qúi Phật tử dính mắc vô nó. Giống người gác dan giữ cửa, khách vô ông mở cửa thôi, nhưng khi thấy ông lăng xăng với một người nào ngoài vị trí ông ngồi ở cửa để mở cửa cho những người khách vào hoặc ra, là  ông ra lăng xăng nhiệt tình năng nổ nói chuyện với người đó là ông đang dính mắc vào người đó. ông thích hay thưong người đó thì không biết nhưng ông ra khỏi vị trí là mình biết ông dính mắc rồi.

2) - Sân -  Với trạng thái hơi thở vô và ra mà mình không hoan hỉ, mình bực bội hay mình không thấy rõ, hay một trạng thái mệt mỏi chán chường, lúc đó mình nhìn thấy mình đang bị ở trong mức độ sân.

3) - Hôn trầm thụy miên - Ngồi thiền ngồi không ngủ gục, phải sáng suốt tỉnh táo trong hơi thở. 

4) - Trạo hối - Ngồi thiền không để  tâm tán loạn, giữ tâm yên tĩnh, 

5) - Hoài nghi - Ngồi thiền không thắc mắc gì hết, chỉ thấy hơi thở mình ra vào thôi.

Đó là 5 pháp triền cái che lấp làm chúng ta không nhìn thấy hơi thở.

Nói một cách khác. Khi ta ngồi nhìn hơi thở, ta lấy hơi thở làm đề mục, ta thấy hơi thở thôi và không để tâm đi chỗ khác, và không cần phải theo dõi hơi thở để mình dính mắc với nó quá đáng, chỉ biết và biết thôi chứ không thắc mắc hơn. Và cũng không khó chịu bực bội với hơi thở nó như thế nào. Không ngủ gục khi ta ngồi theo dõi hơi thở. Và luôn luôn không thắc mắc hơi thở ta ra sao như thế nào, không thắc mắc, thấy như thấy, nhìn nó như nhìn, nghĩ như nghĩ, hiểu như hiểu, biết như biết, chứ không thắc mắc hơi thở đó. Đó là Thiền Chỉ.

 Như vậy, khi ngồi thiền Chỉ là qúi Phật tử biết ta và hơi thở thôi, gác bỏ mọi cái gì làm cho tâm của ta rời khỏi hơi thở.

Thiền sinh: Thưa Sư, nếu coi cái hơi thở lúc bắt đầu. lúc giữa, và lúc cuối, như vậy là Thiền Chỉ hay là Thiền Quán?

HT trả lời: Là Thiền Quán. Còn Thiền Chỉ thì chỉ theo dõi hơi thở vô và ra, giống như người gác cửa, chứ không cần biết nó vô tới đâu, nó ra tới đâu, làm như một người máy móc, người đi ra, mở rồi đóng lại, người vô, mở rồi đóng lại. Qúi Phật tử mới giữ được  mình với hơi thở là một.

Thiền sinh: Khi ta ngồi thiền muốn thấy Hỉ Lạc có phải là tham không? 

HT trả lời: Không phải, Hỉ mà dính với hơi thở là trạng thái tâm của mình càng ngày càng khắc khích với hơi thở, giống như mình đi tới căn nhà mình đi tìm, thấy căn nhà đó hiện lên thì lúc đó niềm vui của mình khởi lên là mình sắp sửa đi tới căn nhà mình đang đi tìm, như vậy không phải là tham, nhưng mình Hỉ (vui) là mình không đi lạc đường, Hỉ là mình đang đi tới nơi, Hỉ là mình không mất công mất sức, như vậy là vui rồi, không gọi là tham, chỉ khi nào mình đi sâu vào chi tiết mới gọi là tham.

 Với trạng thái của Thiền Chỉ là việc nào ra việc đó chứ không đi sâu vào chi tiết và cũng không để ý kiến mình trong việc làm của mình tại nơi đó là Thiền Chỉ là xong, thích hoặc không thích gác bỏ hết, còn Thiền Quán là đi vào chi tiết.

Hỉ là mình đi không lạc đường và sắp sửa đến nơi, sắp sửa đến Nhất Thống (định) là mình khởi sanh Hỉ. 

An lạc là buông bỏ bao nhiêu cực khổ, nhọc nhằn, mệt mỏi, trao dồi tu tập cực khổ mồ hôi nước mắt mình đổ ra, giờ mình an lạc rồi là biết tới nơi rồi. Lạc đưa đến trạng thái ta với hơi thở là một.

Con đường tu tập của ta với Thiền Chỉ cơ bản là như vậy, hết sức là dễ dàng.

Qúi Phật tử có thể lấy cây viết làm đề mục cho Thiền Chỉ. Thí dụ, khi Sư nhìn thấy cây viết, Sư chỉ chăm chú nhìn cây viết thôi, không nhìn những gì khác xung quanh, bây giờ có người kêu Sư không nghe vẫn giữ tâm nơi cây viết, có người làm hiệu để Sư nhìn họ Sư không nhìn mà chỉ chăm chú vào cây viết, những nghĩ suy của Sư là "việc làm của mình chưa xong vẫn còn nhiều việc đang cần làm giờ mình ngồi đây ngó cây viết này là uổng phí thời gian không đáng", Sư cắt tư tưởng đó, và tiếp tục nhìn cây viết.

Chỉ có như vậy thôi. Giống như ngồi câu cá, ngồi nhìn cần câu chờ cá cắn câu ngoài ra không để ý gì khác chung quanh mình, nếu không chăm chăm nhìn cần câu mà nhìn qua nơi khác cá cắn câu mình không hay, dù kiến có cắn chân mình thì mắt vẫn không rời cần câu mà chỉ dùng tay sờ dưới chân mình phủi kiến mà thôi mắt vẫn không rời cần câu.

Do đó, khi qúi Phật tử ngồi thiền qúi Phật tử có thể nhúc nhích tay chân và không cần niệm nhúc nhích à, không cần niệm như thiền quán, mà chỉ chăm chú vào hơi thở. 

Với Thiền Quán bắt qúi Phật tử mỗi một phút giây gì, mỗi cử chỉ hành vi cử động nhỏ to gì của thân và tâm (danh và sắc) đều phải theo dõi một cách sắc bén và chính xác không bỏ một chi tiết nhỏ, là Thiền Quán.

Còn Thiền Chỉ, chỉ cần chăm chú vào hơi thở và vẫn có thể nhúc nhích thay đổi oai nghi, miễn sao tâm vẫn theo sát hơi thở.

Do đó cái đó mình không có bỏ qua việc mình đang tu Thiền Chỉ. Không có lý do gì mà bỏ tâm mình ra khỏi hơi thở.

Thiền Chỉ cũng có 2 hạng là tu gieo duyên và tu quyết lòng. Người tu Thiền Chỉ gieo duyên chỉ đến cận định thôi, tâm họ lắng, tâm họ an trụ nhưng họ không đắc thiền, đụng cái là họ bật ra liền giống như họ tới gần cửa họ chưa được vô nhà họ nghe ai kêu họ quay trở ra liền chứ không bước vô nhà, đó gọi là cận định.

Người tu Thiền Chỉ quyết lòng sẽ đắc định, ở trong thiền với trạng thái tâm an tịnh trong Thiền Chỉ, đó là sự quyết lòng.

Vậy thì, khi ngồi thiền ta luôn luôn có 5 triền cái là tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi,  luôn luôn có, chúng ta đè xuống chứ không có diệt. Qúi Phật tử không cần phải diệt cái tham, không cần phải diệt cái sân, không cần diệt hôn trầm, không cần diệt trạo cử, không cần diệt hoài nghi, qúi Phật tử chỉ cần làm sao để ý tới hơi thở, còn có hay không, nhiều hay ít, chúng ta không cần thắc mắc, chỉ có một chuyện duy nhất là chúng ta làm sao trở lại hơi thở là qúi Phật tử thành công.

Khi qúi Phật tử đi được Sơ Thiền và con đường đi là 5 chi thiền: Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, đi qua được 5 chi thiền này là thành tựu được sơ thiền. 

- Khi muốn qua Nhị Thiền thì từ Định (nhất thống) của Sơ Thiền đi tiếp bỏ Tầm, đi tiếp là Tứ

- Rồi từ Nhị Thiền qua Tam Thiền cũng từ Định (Nhất Thống của Nhị Thiền bỏ Tứ đi tiếp, tới Lạc

- Cứ tiếp tục như vậy cho đến Tứ Thiền thì bỏ Lạc đi tiếp tới Xả

- Đi tiếp đến ngũ thiền.

Qúi Phật tử có Định của Sơ Thiền làm nền tảng, qúi Phật tử trở lại hơi thở liền rồi bắt hơi thở này đi tiếp, qúi Phật tử không phải đi qua từ các chi thiền, tới khi qúi Phật tử thấy được như vậy nó đi rất là nhanh. Nhanh và chậm là do mình khéo tác ý chứ không phải lập đi lập lại hoài.

 Bắt đầu của những người tu Sơ Thiền thì muôn vàn phần khó, hay là chưa có kinh nghiệm, chúng ta lượm lặt lâu lắm mới có, nhưng qua đến Nhị Thiền, đến Tam Thiền, Tứ Thiền thì ta đi rất là nhanh, không khó, có căn bản, có kiến thức, có kinh nghiệm và có đủ nghị lực ở đó.

Do đó, cái này qúi Phật tử đi như thế chẻ tre, cây tre mà đầu tiên làm sao con dao qúi Phật tử cắm vô miệng cây tre rồi thì chỉ cần gõ cái là lưỡi dao đi tuốt xuống luôn. Lúc đưa lưỡi dao vào đầu ngọn tre là Tầm, xem xét kỹ rồi chẻ một cái là chẻ được cây tre.

 Khi qúi Phật tử định được hơi thở tầng thiền thứ hai là Nhị Thiền. Qúi Phật tử quay trở lại thấy hơi thở có liền là Hỉ, còn nãy mình nhìn lại hơi thở mới thấy, còn nhị thiền vừa nghĩ tới hơi thở là pháp Hỉ tới liền như nó nằm trong tay của mình không cần phải đi tìm nó nữa. Xong xuôi mình vừa Hỉ là mình an trú sâu vô mình muốn sự an lạc đến trong trạng thái hơi thở của mình an Lạc thân tâm nó đến liền, rồi an Lạc xong xuôi mình nói buông bỏ hết tất cả giữ cho hơi thở được an trú tâm mình không có phiền não sanh nữa thì Xả đến liền buông bỏ liền. Nó đi không gián đoạn và nó không ngừng, không phải đi Sơ rồi Nhị rồi Tam rồi Tứ giống như đạo quả.

Đi con đường thiền quán có 4 giai đoạn, nhưng có hai giai đoạn phân biệt rõ ràng là:

1) Thứ nhất là Sơ Đạo, còn gọi là Sơ Quả, giai đoạn này rất là khó 

2) Giai đoạn thứ hai là Tứ Đạo, còn gọi là Tứ Quả, giai đoạn này quyết liệt, rất là khó.

Ở giữa hai giai đoạn Sơ Đạo và Tứ Đạo là Nhị Đạo và Tam Đạo thì không khó, chỉ cần diệt tham và sân mà thôi. 

Nhưng mà tới giai đoạn Tứ Đạo (Tứ Quả) thì phải diệt ngã mạn, phóng dật, vô minh và ái dục, những cái đó rất quyết liệt, lúc đó qúi Phật tử sống chết với nó. 

Với người Sơ Đạo (Sơ Quả) thì vượt qua thân kiến "Tôi, Ta" mà cố hữu chúng ta đang dính mắc nó mà không buông bỏ được.

 Nhưng tới giai đoạn quí Phật tử đi tới Tứ Đạo (Tứ Quả) qúi Phật tử diệt ngã mạn, diệt ái dục, diệt vô minh, 3 cái này kinh khiếp, kế đó nói tới phóng dật, chính 3 cái này ngã mạn, ai dục, vô minh này mạnh hơn thân kiến. Thân kiến này chúng ta dừng lại cái tri kiến nghĩ về thân này qua sắc, thọ, tưởng, hành, thức và, thân kiến, ngũ uẩn. Nhưng ngã mạn là nó dính vô trạng thái hơn bằng thua cột tâm mình. 

Thân kiến qúi Phật tử không so sánh với người khác qúi Phật tử tìm thấy được chính mình và qúi Phật tử diệt bỏ. 

Còn  Ngã mạn qúi Phật tử thường hay bị cái so sánh mình với người khác do đó mình không diệt được người và cũng không cắt được mình, nó khó ở đó.

Cái thân kiến là qúi Phật tử diệt; sắc, thọ, tưởng, hành thức, của mình mà thôi, nó khởi lên cái gì không phải là của tôi.

Nhưng tới cái ngã mạn; hơn, bằng, thua, qúi Phật tử so sánh tôi so sánh người, nhìn thấy người so sánh ta, luẩn quẩn ở đây, làm sao cắt hai bên được. Do đó ngã mạn khó và vi tế. Mà trong ngã mạn tôi hơn bằng và thua tại vì có dính nó và chính nó mình đang giữ. 

Còn thân kiến qúi Phật tử không cần lo, qúi Phật tử thấy "tôi" lên là cắt, nghĩ tới tôi là diệt, không cần nghĩ tới "tôi ta" trong đó, chỉ có là thân kiến cần cắt đứt. 

--------------------------------------

Phần Thiền Sinh hỏi đạo

Thiền sinh: Thưa Sư con có câu hỏi, khi mình vô định của thiền Chỉ và định của Thiền Quán có khác nhau  không?

HT trả lời: Có khác nhau. Sư nói thế này nha:
Thiền Chỉ có 5 chi thiền:
- Tầm,
-  Tứ, 
- Hỉ, 
- Lạc, 
Nhất Thống (Định).
Nhưng Thiền Quán có 3 chi: 
- Niệm.
- Định, 
- Tuệ.
Như vậy thì Nhất Thống (Định) của Thiền Chỉ, và Định của Thiền Quán ngang nhau theo dõi hơi thở. Và Định sanh Tuệ, Tuệ quán chiếu thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã. 

Còn Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc là ngang với Niệm (của Thiền Quán) không rời bỏ hơi thở.

Khi an trú vào hơi thở rồi mình bắt đầu giữ tâm trong hơi thở rồi qua khỏi những hiện tượng phóng tâm, hoài nghi, phóng dật, rồi thì mình bắt đầu phát triển định, phát triển tuệ quán lên qúi Phật tử mới thấy được Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã trong phút giây đó của hai khối Danh và Sắc (Thân và Tâm) qua hơi thở giữ tâm mình trụ tại nơi đó.

 Như vậy, khi đạt được Định tâm mình trụ trong hơi thở để mình phát triển được Thân và Tâm. Khi thấy được Thân và Tâm con đường tuệ quán phát sanh lên.

Nếu qúi Phật tử không làm được cái này, Niệm không được Định không được thì Tuệ không có. Nên cho dù Thiền Chỉ là 5 chi, Thiền Quán có 3 chi, nhưng trong 5 chi của Thiền Chỉ mới có 2 chi của Thiền Quán là Niệm và Định, còn thiếu chi Tuệ. Thiền Chỉ có 5 chi nhưng không có Tuệ mà chỉ có Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Định, thiếu cái Tuệ. Phải có Tuệ phát sanh lên thấy sanh diệt, sự hoại diệt, sự tồn vong và hủy hoại biến mất mình ra cái Tuệ Quán, lúc đó mình chính tri thật sự về chân lý mới đạt giải thoát. Còn định của Thiền Chỉ không có chính tri không thấy được sự thật chân lý.

Giữa hai người; ta và một ông bác sĩ vi trùng học ở trong một căn nhà, đối với ta đuổi được con gián đuổi được con kiến đuổi được con chuột ra khỏi nhà là ta yên tâm khỏe rồi. Nhưng đối với người bác sĩ vi trùng học gián kiến chuột ra hết rồi vẫn thấy nhà dơ vẫn có vi trùng trong nhà, họ muốn ra khỏi căn nhà, ở nơi nào họ cũng sợ vi trùng, ra đường cũng vi trùng, trong xe cũng có vi trùng, đường đi cũng vi trùng, họ không muốn ở họ muốn ra đi dù sạch đến đâu họ cũng thấy có vi trùng. Dù mình thấy tâm mình trụ thế nào nơi nào cũng thấy là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, họ phải ra đi. Quán là như vậy.

 Ngày nào qúi Phật tử là một nhà vi trùng học ngày đó mới ra khỏi tam giới này, còn qúi Phật tử chỉ là một nhà vệ sinh thông thường nơi nào mà tương đối là ở được rồi, đó là Thiền Chỉ.

Làm sao qúi Phật tử thấy được, phải tiến tu để thấy được, giống như nhà bác sĩ vi trùng học họ phải học nhiều, họ phải nghiên cứu nhiều mới ra được sự thật như vậy, đó là Tuệ, là  Thiền Quán.

Do đó, khi đi Thiền Chỉ mới có 2 chi, chỉ có Niệm và Định thôi là hết rồi, nhưng đi Thiền Quán buộc phải 3 chi, Niệm, Định, Tuệ. 

Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc chỉ là Niệm. Nhất Thống chỉ là Định còn phải tiến tu nữa để có Tuệ.

 Ngay khi tâm ta an trú trong hơi thở bởi công thức Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, ta giữ chánh niệm liên tục thì lúc đó tâm ta ở trong hơi thở và không còn bị chi phối nữa lúc đó là triền cái hết, thì lúc đó kiết sử nó lên, khi qúi Phật tử đè được triền cái xuống không còn bị nó chi phối thì kiết sử bùng phát lên rất mạnh "Tôi là nhất trong đời này" là thân kiến, mình ưa thích là tham đắm, không muốn buông bỏ là sân hận, lúc đó ngã mạn sanh lên, rồi ái luyến. Từ đó mình thấy là kiết sử lên cột mình lại. 

Qúi Phật tử thấy người học không có ra gì trong xã hội này họ đâu có ngã mạn được, họ không dám ra đường mà lên mặt, nhưng mà người học càng cao họ nhìn người đời bằng nửa con mắt hay là ra đường họ ngước mặt lên tại vì họ càng lên bao nhiêu họ càng ngã mạn bấy nhiêu. 

Con đường Thiền Chỉ là qúi Phật tử chỉ đè triền cái, tâm qúi Phật tử an trú được bao nhiêu thì kiết sử này nó lên bấy nhiêu. Có những vị Sư đâu phải người ta có tu tập đâu họ tu lâu chừng nào thì họ tăng thượng mạn chừng nấy, lúc đó họ không thấy có kiết sử, họ nghĩ là họ đang diệt những triền cái tham đắm ở đời, họ đang tu để giữ con đường đạo hạnh, nhưng thật ra họ chưa có diệt kiết sử, việc đời họ không tham nhưng mà kiết sử đang cột trói trong hành đạo, kiết sử đang giết họ dần trong cái hành đạo đó, không đi đến đạo quả Niết-bàn được. 

Đó là đường Thiền Quán ta tiến tu để ta thấy được ta mới diệt nó mới cắt nó, còn Thiền Chỉ thì chúng ta chỉ vượt qua mà thôi.

Thí dụ, một thanh niên lớn lên muốn có gia đình có vợ có con, ông sư này trẻ lớn lên lo tu lo học hành. Như vậy thì không phải là họ không có lòng tham, họ chỉ đè mà thôi trong trạng thái là họ không muốn có gia đình như người thanh niên lớn lên muốn có gia đình thôi, họ đè nén nó xuống. Nhưng khi họ lên tới 50, 60 tuổi đời mà 60, 70 tuổi hạ của họ lên rồi thì lúc đó họ đòi hỏi phải lo phục vụ họ, cung phụng họ, phải lo hầu hạ họ, phải lo chùa chiền cho họ để họ có vị trí là họ lão rồi. Thì lúc đó tham của họ khác lên với cái tham của người thanh niên không có gia đình, đó là kiết sử, họ không ra được giải thoát, họ ở trong cái hành đạo của họ.

Khi qúi Phật tử ngồi thiền mà tâm qúi Phật tử được an trú là qúi Phật tử phải cẩn thận vô cùng, đó không phải là con đường Thiền Quán, đó chỉ là con đường Thiền Chỉ với phương pháp mà chúng ta đang đi lạc hướng của Thiền Quán.

Thiền Quán là qúi Phật tử sẽ thấy nó bùng nổ ngay phút giây ban đầu ngồi xuống thiền. Tại vì khi qúi Phật tử vừa ngồi xuống tâm qúi Phật tử đang vọng móng lên "tôi muốn đắc đạo quả" là kiết sử, "tôi hành thiền kỳ này không phải như kỳ trước" là kiết sử, băng khoăn thắc mắc kỳ này có trở lại không? là kiết sử. Là bùng nổ ngay, ngồi xuống là thấy rồi, chứ không đợi ngồi xuống thấy tê nhức mỏi đau mới thấy pháp. Đó là Thiền Quán.

Nên qúi Phật tử không thể yên lặng được. Còn qúi Phật tử ngồi xuống từ từ mà tâm qúi Phật tử đang vái trời bữa nay đừng có tê nhức mỏi đau, là qúi Phật tử đâu thấy tâm mình đang vọng động trong thiền quán của mình.

Đó là qúi Phật tử phải cắt liền, cái đó là Thiền Chỉ, khi qúi Phật tử vái trời cầu nguyện là qúi Phật tử đang đi Thiền Chỉ.

Thiền sinh: Thưa Sư, khi mình theo Thiền Quán thì mình vô Định mình trụ vào Định mà mình nhận thức được pháp đó là chỉ là Danh và Sắc thôi, khi mình bắt vô thì có cảm tưởng như là có một pháp khác nó đến nữa, thí dụ như mình đau mình nhận ra là chỉ là Danh Sắc thôi rồi lúc đó mình nghe tiếng động bên ngoài, tức là một pháp nữa, thì lúc đó mình ra khỏi định hay là mình tiếp tục mình nghe.

HT trả lời. Mình vẫn trong định, mình chỉ bắt tiếng động rồi mình trở lại định với Danh Sắc này, mình vẫn tiếp tục. Tức là mình không để cho nó mất, không để bên ngoài lôi mình ra.

Khi qúi Phật tử ngồi Thiền Quán có 2 yếu tố qúi Phật tử phải tìm thấy rất quan trọng: Môi trường và nghiệp báo. Mà nghiệp báo cũng là môi trường, môi trường cũng là nghiệp báo, 2 yếu tố đó hổ trợ cho nhau. Môi trường là hành động do nghiệp chúng ta gieo ra nên có môi trường này, nghiệp báo nó làm cho ta hành động dù môi trường yên tịnh ta cũng ngồi thiền không được, 2 cái đó bổ túc nhau.

Do đó, khi ngồi Thiền Quán mà chúng ta thấy được hai cái môi trường và nghiệp báo, môi trường chính là nghiệp báo tạo ra và nghiệp báo nó hình thành ra môi trường chúng ta đang ở tại đó để phát triển tuệ quán ta phải khắc phục. Hai cái đó luôn luôn hổ trợ nhau, qúi Phật tử không thể nào tìm cái môi trường tuyệt đối, qúi Phật tử không thể nào cắt đứt nghiệp báo mà qúi Phật tử ngồi thiền cho đạt được kết quả Niết-bàn, hai cái đó song hành đánh ta khi ta đang ngồi thiền. Môi trường là môi trường tốt, nghiệp báo là ảnh hưởng, một yếu tố và một ảnh hưởng nó xâm đánh ta.

Như thế thì khi ta nói môi trường là những tất yếu ta có, mà có tất nhiên bởi nghiệp báo cho ta môi trường này. Không phải ngẫu nhiên ta có mặt học ở đây, ta có môi trường này là do nghiệp báo ta mới vô đây. Cái đó là ta phải thấy, không thể nào là từ trên trời ta rơi xuống. Mà khi ta có nghiệp báo này ta có môi trường này, chính cái đó chúng ta đang ở trạng thái quán sát thấy được cái vị trí này có.

Lúc đó nhìn thấy môi trường nhìn lại tôi, nhìn thấy được nghiệp báo nhìn lại tôi, phát triển, cắt đứt, đây là phương tiện. Tuệ Quán là như vậy.

Tất cả đây cũng là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.

Nêu qúi Phật tử thấy đi đâu cũng không ra được tam giác.

Thiền sinh: Thưa Sư, khi mình nhận diện cái thực tướng là đau bởi danh sắc, đến khi có tiếng động xảy ra trong môi trường đó thì mình có cần niệm hay không?

HT trả lời: Có niệm "nghe à", niệm xong thì cắt không để ý nữa, niệm xong thì cắt ngay và trở lại đề mục thiền hơi thở, chứ không để ý là tiếng động từ đâu đến, do ai gây ra v.v... 

Do đó, môi trường là nghiệp báo, Tuệ quán chính là nơi đây, chính đây ta thấy được sự thật. Có những người đi tìm môi trường tuyệt đối, có những người muốn cắt hết tất cả nghiệp báo họ mới chịu tu tập, chính chỗ đây là con đường mình phải tu. Dù môi trường hay là nghiệp báo còn ta cũng phải tu, tại vì nó là bản chất, cái đó là bản chất nơi nào cũng có, chỉ có là chúng ta không biết thôi, nên gọi là Tuệ, có trí tuệ mới thấy, chứ còn không phải cho ta định tâm để chúng ta ở trạng thái là lắng tâm xuống mà nhìn thấy sự việc thôi một cách thản nhiên không phát được trí tuệ. 

Phút giây nào qúi Phật tử được bình yên, phút giây nào qúi Phật tử được thản nhiên thái bình an lạc phút giây đó là chưa phát được trí tuệ.

Qúi Phật tử có nghe câu người ta thường hay nói: "Phiền não là thiện sanh bồ đề". Tức là phiền não làm cho ta giác ngộ, cái gì bình yên không phải con đường cho ta giác ngộ được.

Nó chỉ là một phút che lấp chúng ta cơn đau đớn hay một vị đắng sao đó. Nếu thật sự có không có một sự đau khổ một vị vua một bà hoàng hậu có quyền bính trong tay họ cũng phải khóc khi trường hợp xảy ra, con họ chết, hay một cơn đau trong thân họ, như thế thì đâu có gì để người ta nói là một vị ngọt 

Do đó chính cái đó là Tuệ chứ không thể là định được, cái định này chỉ là một cái che lấp mà thôi.

Vậy thì, khi ta đi con đường Thiền Chỉ, Sư lập lại để qúi Phật tử hiểu rõ bản chất của nó để đừng có lầm nó thì mới đi ra được con đường Thiền Quán được. Người Mỹ có nói một câu "Ai sống trên đất Mỹ này không đi lạc đường không phải là người dân nước Mỹ", đã là người dân nước Mỹ phải một lần trong đời đi lạc đường.

Thiền sinh: Thưa Sư, quyết lòng là mình phải làm sao để bắt đầu tức là mình phải có nhiệt tâm mình làm bây giờ còn việc thành công hay không là tính sau.

HT trả lời: Qúi Phật tử là người lái xe giỏi, ít nhất trong cuộc đời qúi Phật tử cũng 20 năm lái xe trên đất Mỹ, tới khi con qúi Phật tử lớn lên nó có 2 điều kiện, một là mình dạy nó lái xe, hai là mình mướn người ta dạy nó. Rồi trong khi mình mướn người dạy hay là mình ra công dạy nó, mình hỏi nó một câu: "Con có quyết lòng học không, hay con muốn gieo duyên thôi?".

Nếu nó trả lời là gieo duyên là nó chưa muốn biết lái xe mà mình cố dạy nó thì rất nguy hiểm, còn nếu nó trả lời là quyết lòng là nó tìm cho bằng được để học lái xe, ai dạy cũng được, thầy hay ba dạy cũng được, quyết lòng để học. Thì cái tu của mình cũng vậy.

Đó là sự thật, nhưng đến sự thật rồi qúi Phật tử giữ, và cái sự bỏ của Sư, hai cái đó qúi Phật tử sẽ thấy cái nào là sự thật, tới một phút giây nào qúi Phật tử sẽ thấy cái bỏ hết của Sư và cái qúi Phật tử đang giữ đang có, cái nào là sự thật.

Sự thật nó như vậy đó. Tại vì Sư thấy càng nghĩ tới Đức Phật càng thấy quyết lòng, Ngài không nói cái gì mà Ngài chỉ cho mình thấy chứ Ngài không nói. Ngài thấy Ariya ngồi câu cá Ngài nói: "Đã là Ariya thì không ngồi câu cá", và Ngài giải thích cho người đang ngồi câu cá đó là với cái  tên Ariya nghĩa là thánh nhân mà còn sát sanh con cá thì không phải là bậc thánh, mà người đang làm việc đó là tại họ không biết là vô minh. Nghe Ngài nói thì ông Ariya buông cần câu liền và tìm hiểu tại sao Đức Phật nói như vậy, rồi Ngài giảng cho ông Ariya việc ông đang làm.

Mình nhìn lại trong kinh Đức Phật để cho 84 ngàn pháp môn Ngài không nói mà Ngài chỉ chúng sanh, tại vì Ngài đã qua, còn Ngài thấy chúng sanh còn ở trong đó chưa đi ra, Ngài chỉ cho đi ra. 

Vậy thì, làm cha làm mẹ qúi Phật tử không có nói con cái, nhìn thấy cái đó mới thấy qúi Đức Phật là làm cha làm mẹ không nói con cái mà làm cha làm mẹ chỉ chỉ cho con cái mà thôi.

Qúi Phật tử thấy 2 điều, tuổi thọ qúi Phật tử sẽ hết, cái thời gian qúi Phật tử không còn bao nhiêu, còn đường mình đi càng ngày càng ngắn lại mà mình chưa làm gì được cho mình thì làm sao cho người khác. 

Vậy thì, ta đến định thì ta đến Xả rồi đến Nhất Thống qúi Phật tử sẽ giữ nó đừng để hoại, giữ nó cho đến ngày cận tử lâm chung qúi Phật tử sanh về cõi trời đó, đừng để hoại thiền, qúi Phật tử hoại thiền coi như là qúi Phật tử sẽ mất công lao tạo ra tới ngày chót không có gì, như Đề Bà Đạt Đa bị hoại thiền tới giờ chót ông ta không hưởng được cái gì của thiền ông ta hết.

Thiền sinh: Hoại thiền là gì?

HT trả lời: Hoại thiền là, qúi Phật tử ở trong định với hơi thở, tâm qúi Phật tử với hơi thở là một, tâm của ta với hơi thở là một là có định.
 
Khi qúi Phật tử vì lý do nào bị hoại, 1 trong 5 triền cái đến cắt qúi Phật tử, nhất là sân, hai là tham, nó đến lôi qúi Phật tử ra, tâm qúi Phật tử không vô được hơi thở nữa để qúi Phật tử có định rồi từ trong định giữ được tâm an trụ trong hơi thở này, nó là một vòng tròn khép kín mà bây giờ nó bị mạch hở, người ta gọi là hoại. 

Qúi Phật tử thấy có một ngày hay là một giờ có một lúc qúi Phật tử ngồi không theo dõi được hơi thở, ngồi mà tâm cứ trạo cử phóng hoài, ngồi niệm hơi thở, lúc đó là qúi Phật tử bị mất cái định trong hơi thở. 

Nhưng lúc đó tại sao qúi Phật tử bị mất hơi thở đó, một là tâm qúi Phật tử phóng dật do hơi thở này, hai là tâm qúi Phật tử bị sân trong đối tượng nào đó nên ngồi thiền không được. 

Qúi Phật tử đang giận con giận vợ giận chồng hay giận ông chủ nơi mình đang làm tâm mình bị trạo cử, mình không định tâm được, mình phải cắt những phiền não những trạo cử bên ngoài mình mới ngồi thiền được, cái tâm mình bắt đầu an trú vô, nên gọi là phóng tâm hay hoại thiền mất thiền, khi đã mất thiền thì những gì trước đây mình đã luyện tập coi như mất hết, như Đề Bà Đạt Đa hiện bày được thần thông cám dỗ được vua A Xà Thế để mà làm theo ý nguyện của Đề Bà Đạt Đa nhưng mà vì tâm sân, ông ta sân với Đức Phật ganh tị với Xá Lợi Phất, ông ta mất thần thông rồi từ đó ông ta không còn trở lại thiền nữa rồi tới ngày chết ông ta với trạng thái thông thường của một người không có tu thiền. Hoại thiền là vậy. 

 Do đó,  Thiền Chỉ khác với Thiền Quán. Thiền Quán qúi Phật tử đắc được sơ đạo sơ quả không bao giờ mất cho dù qúi Phật tử mất đi sắc thân này sanh lên trời trở lại người qúi Phật tử vẫn ở vị trí của bậc Thánh Nhất Lai, nhưng người tu Thiền Chỉ qúi Phật tử mất thiền này qúi Phật tử trở lại khó lắm.

Hai điều kiện qúi Phật tử có thể trở lại được. 

1). Thứ nhất là qúi Phật tử phải trở lại môi trường mà qúi Phật tử đắc thiền trước đó, tìm lại chỗ đó.

Thí dụ như qúi Phật tử đến một thiền viện nào tu tập và đắc thiền định tại nơi đó. 

Thì khi qúi Phật tử bị hoại thiền ở nhà. 

Qúi Phật tử phải làm sao để trở lại thiền viện mà trước đây mình tu tập  nơi có duyên lành đắc thiền tại đó để tu tập thiền lại.

2). Thứ hai, qúi Phật tử phải gặp lại vị Thiền Sư trước kia đã hướng dẫn mình,  người đó mới biết đường đi của qúi Phật tử, người đó mới hướng dẫn qúi Phật tử tu tập lại. 

Monday, May 9, 2022

Vi Diệu Pháp 21 - Thiền Chỉ - HT Sán Nhiên giảng

 Thiền Chỉ - Vi Diệu Pháp 21 - HT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm gọn lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 21" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Hôm nay chúng ta đi tiếp phần thiền Chỉ.

Như chúng ta biết tu thiền có hai loại là thiền Chỉ và thiền Quán. Đa phần khi mới vô tu tập thiền ta theo dõi đề mục đối tượng qua thiền Chỉ thì dễ dàng. Với người tu về thiền Quán thì hay bị nhầm lẫn và trong sự nhầm lẫn đó là do không được chỉ dẫn kỹ lưỡng là điều quan trọng nhất. Ngay cả khi qua những thiền viện chuyên về thiền Vipassana (thiền Quán), như ở Thái Lan Sư đã có tới tham quan nhiều thiền viện coi tổ chức của họ như thế nào thì thấy đa phần các vị tu tập trở lại trạng thái của thiền Chỉ. 

Thiền Chỉ giống như đá đè cỏ, tâm an tịnh trong thời gian hành giả chăm chú vào đề mục hay nhập định ở thiền Chỉ, nhưng sau khi ra khỏi thiền hay xuất khỏi thiền thì những phiền não của họ trở lại như thường, 

 Một hành giả chuyên về thiền Quán, càng tu về thiền Quán, càng theo dõi  các đề mục, theo dõi các oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi, hay, Thân, Thọ, Tâm, Pháp, nếu họ luôn giữ Chánh Niệm và luôn luôn Tỉnh Giác trong mọi diễn tiến xảy ra trong tất cả oai nghi thì lúc đó họ sẽ diệt được phiền não rất nhiều, họ thấy được pháp và có lợi lạc rất nhiều trong đời sống hàng ngày. 

Thiền Chỉ và thiền Quán hai cái hoàn toàn khác nhau. Với thiền Chỉ là đòi hỏi ở thiền viện hay đòi hỏi có thời gian để mình ngồi thiền. Riêng với thiền Quán  nếu ta thuần thục trong thiền Quán trong khi ăn cơm, hay trong khi nghỉ ngơi, nằm nghỉ trên giường, chúng ta cũng có thể áp dụng thiền Quán, lúc nào chúng ta cũng để ý theo dõi rõ ràng những diễn tiến xảy ra giữa Thân và Tâm hay ta gọi là theo dõi danh và sắc, lúc nào chúng ta cũng theo dõi được.

Do đó, trong đời sống hàng ngày ta theo dõi Danh và Sắc một cách chặc chẽ như vậy gọi là thiền Quán chúng ta mới thấy được pháp, mà pháp thường thường sanh lên giữa hai Thân và Tâm hay là Danh và Sắc thì những pháp đó làm chúng ta phát hiện được, lấy tâm quán chiếu được pháp, chính tại đó diệt trừ phiền não được dễ dàng. 

Hôm nay Sư chỉ nói về thiền Chỉ. Tuần vừa rồi chúng ta học qua phần Thiền Sắc Giới, chúng ta sẽ tiếp tục qua từng loại tâm này và những tâm thiền Sắc Giới  qua đến thiền Vô Sắc Giới, thì hai lãnh vực này chúng ta đang nói tới hoàn toàn thiền Chỉ chứ không có nói tới con đường tu thiền Quán. 

Khi ta đi tới xuống Tâm Đạo hay còn gọi là Tâm Siêu Thế, con đường nào đưa đến đắc Đạo, con đường nào đưa đến đắc Quả, Đạo và Quả liền với nhau so không chậm trễ về sát na thì con đường chúng ta đi như vậy là con đường phát triển Tuệ Quán hay là Thiền Quán. 

Bây giờ  chúng ta còn đang nghe đang tìm hiểu về lãnh vực của thiền Chỉ mà thôi chứ chưa có qua con đường Thiền Quán. Con đường thiền Chỉ này phương tiện của nó là tu tập về Thiền-na làm cứu cánh của nó là đắc thiền và cho tới ngày cận tử lâm chung nếu không bị hoại thiền thì sẽ được sanh về các cõi trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới tính theo các tầng thiền. 

Trong Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) thì có 5 Tâm Thiền Sắc Giới.

Nhưng trong Tạng Kinh, như kinh Trường Bộ Kinh - Digha Nikaya hay Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya không nói là 5 tâm Thiền mà chỉ nói 4 tầng Thiền Sắc Giới mà thôi.

Sự sai biệt giữa kinh Tạng Nikaya và Tạng Vi Diệu Pháp Abhidhamma về con số 5 và con số 4 này do từ nơi:

Tạng Vi Diệu Pháp Abhidhamma nói theo chi thiền, thì 5 chi thiền là:

- Sơ Thiền Sắc Giới, 

- Nhị Thiền Sắc Giới,

- Tam Thiền Sắc Giới,

- Tứ Thiền Sắc Giới.

- Tam Thiền Sắc Giới

 Do đó, phân biệt như vậy là nói theo chi thiền.

Còn nói theo Nikaya Kinh Tạng thì nói theo tầng thiền và các cõi trời Sắc Giới mà ta đi về đó thì với cõi trời Sắc Giới có 4 theo tầng thiền là: 

- Sơ Thiền Sắc Giới

- Nhị Thiền Sắc Giới, 

- Tam Thiền Sắc Giới

- Tứ Thiền Sắc Giới. 

Tạng Vi Diệu Pháp Abhidhamma (Vô Tỷ Pháp) có 5 là nói theo chi thiền:

- Sơ Thiền. Ở Sơ Thiền có 5 chi thiền là: Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Nhất Thống (còn gọi là định) 

- Nhị Thiền. Ở Nhị Thiền ta bỏ  chi Tầm còn 4 chi thiền là: Tứ, Hỉ, Lạc, Nhất Thống (Định)

- Tam Thiền. Ở Tam Thiền bỏ 2 chi là Tầm và Tứ còn 3 chi thiền là: Hỉ, Lạc, Nhất Thống (Định)

- Tứ Thiền. Ở Tứ Thiền bỏ 3 chi là Tầm, Tứ, Hỉ, còn 2 chi thiền là Lạc và Nhất Thống (Định)

- Ngũ Thiền. Ở Ngũ Thiền bỏ 4 chi là Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc mà lấy ra chi thiền Xả và Nhất Thống (Định). 

Đó là ta nói theo chi thiền.

Theo Kinh Tạng Nikaya. Nếu nói theo cõi trời thì có:

- Sơ Thiền Sắc Giới - có đủ 5 chi Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Nhất Thống (còn gọi là định) 

- Nhị Thiền Sắc Giới - thì bỏ Tầm, Tứ, còn Hỉ, Lạc, Nhất Thống

- Tam Thiền Sắc Giới - Thì bỏ Tầm, Tứ, Hỉ, còn lại Lạc và Nhất Thống

- Tứ Thiền Sắc Giới - Thì bỏ Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, lấy Xả và Nhất Thống

Như vậy, sự khác biệt nhau giữa Abhidhamma và Nikaya ở chi thiền cái nào là đúng, cái nào chúng ta cần phải hiểu và cái nào chúng ta nắm bắt được. Khi ta học Abhidhamma thì ta cần phải biết từng chi thiền, nhưng khi ta nghĩ ngày nào ta đắc chứng thiền này mà ta muốn sanh về cõi trời đó thì chúng ta phải nhớ theo cõi chứ không tìm ra được cõi thiền mà Abbhidhamma nói tới. 

Như vậy thì ở đây giữa Sơ Nhị của chi thiền Abhidhamma thì đứng góc độ kinh Tạng mới là Sơ thiền mà thôi.

Rồi Hỉ, Lạc, Nhất Thống (Định) theo chi thiền Abhidhamma gọi là Tam Thiền thì lúc đó mới là về cõi trời Nhị thiền mà thôi. Như vậy thì người nào ngồi thiền còn trạng thái vui mừng thoả thích, thí dụ ngồi thiền Chỉ mà họ xả thiền xong hỏi họ vui không, hoan hỉ không mà họ trả lời hoan hỉ lắm, thích thú lắm thì mình biết họ ở Sơ Nhị hay Tam thôi, tại vì họ còn thích thú họ còn hoan hỉ là họ còn ở góc độ Sơ, Nhị, Tam. 

Với những người chững chạc điềm đạm sâu xa họ chứng đắc họ đạt được nhiều kết quả của thiền ở mức độ cao họ thản nhiên bình thản không vui không buồn, không có gì hân hoan, thoải thích, phấn khởi, trong tâm tư của họ nữa, thì lúc đó họ ở mức độ xả của ngũ thiền Abidhamma và tứ thiền của cõi trời Sắc Giới họ sẽ đi về nơi đó.

 Do đó, qúi Phật tử thấy người ít nói im lặng khi họ xả thiền là họ lên góc độ cao rồi, còn người nào còn nói tới nói lui, càng thấy họ ít nói chừng nào thì càng ghê gớm chừng nấy, công lực của họ sâu xa, và họ có nội lực kiên cố, và trình độ của họ cao, còn người còn nói vui cười là còn non lắm.

Trong sự tu tập, đầu tiên phải đi tìm kiếm đề mục thiền để khắn khích gắng bó, sau khi quen thuộc rồi ta sẽ bỏ trạng thái đi tìm và chỉ quán sát gắn bó với đề mục. Rồi khi quán sát thuần thục rồi thì hoan hỉ đến liền.

Tiến trình đi như vậy, đi từng bước từng bước như vậy, đi từng một giai đoạn như vậy, chặc chẽ như vậy, chậm như vậy, để chúng ta thấy rõ là tầng thiền chúng ta đang tiến tu nó đang đi lên. 

Nếu như chúng ta nói theo Kinh Tạng; Tầm, Tứ, rồi tới Nhị, bỏ Tầm, bỏ Tứ, qua Hỉ liền, chúng ta đột ngột một cách hụt hẫng không ngờ tại sao giai đoạn Tứ này không được nói tới giai đoạn Nhị thiền, không phải, tại vì ở đây là ta nói giai đoạn của các cõi trời, ở đây cõi trời Sơ Thiền thì phải đủ 5 chi, còn Nhị thiền gồm có 3 chi thôi là, Hỉ, Lạc, và Nhất Thống.

Thứ hai, khi ta tu thiền Sắc Giới, ta nói về các chi thiền, thì Sư cũng muốn nói, với những người sơ cơ mới bắt đầu tu thiền thì họ phải đi đúng tuần tự chi thiền này một cách chặc chẽ hay là họ phải đi đúng kỹ thuật về các chi thiền này một cách chặc chẽ mới đạt được kết quả, họ đi từ chi 1 tới chi thứ 5 sẽ có kết quả định, không nhẩy bực. Khi họ đi như vậy thì kết quả của họ đạt được như ý muốn với kết quả đó họ sẽ đắc thiền được nhập định và, sau khi họ đắc định đắc thiền lần đầu tiên lúc đó ta gọi là thiền căn bản.

Sau khi đắc thiền căn bản họ trở lại để tìm con đường họ muốn hưởng cái thiền đó họ phải trở vô tầng thiền cơ bản đã chứng đắc lần đầu tiên một sát na thôi, họ an trú ở đó, tĩnh lặng ở đó, và dưới đề mục là một, sau đó họ xuất thiền. Xuất thiền ra họ còn ngồi quán sát như là phản khán chi thiền đã qua, họ quán lại con đường nào họ đi tới và họ chứng đắc được, họ ngồi nghiệm cái đó xong thì bây giờ họ muốn trở vô để hưởng thì lúc đó họ phải vô lại cái thiền họ chứng đắc hồi nãy một sát na đó xong xuôi họ mới nguyện cho thiền định của mình được kéo dài một tiếng hay một ngày, thì lúc đó căn bản thiền mà họ chứng đắc đây họ mới đi vô trở lại 5 chi thiền này họ đắc được thì thời gian họ nguyện hồi nãy sẽ kéo dài một tiếng hay một ngày theo lời nguyện của họ.

Sư trở lại một lần nữa. Thí dụ, một người học trò khi ra trường phải qua một cuộc thi, trong 1 giờ họ làm xong một bài thi, họ nộp bài lên được kết quả đậu xong đi về nhà ngồi nghĩ lại, làm sao đậu được bài thi đó, cho mấy câu, mấy đoạn, mấy phần, họ ngồi nghiệm lại hết, họ thấy bài thi của họ giải đáp như vậy đúng rồi. 

Khi họ qua được giai đoạn đó, về nhà quán sát lại, phản kháng lại, nhìn lại sao hồi nãy 5 cái bài thi đó có 1 tiếng họ làm được, họ nghiệm việc đó họ làm xong. 

Còn bây giờ, những cái trong đời sống hàng ngày họ phải đụng va chạm với cái nghề đó, những việc làm họ cần phải dùng lại cái kiến thức mà họ đã đi qua họ thi đậu đây chỉ là một giai đoạn nhưng không phải xử dụng hết tất cả kiến thức để mà làm bài thi.

Tu thiền cũng là một trạng thái tạo ra kiến thức, nhưng đắc thiền chỉ là một giai đoạn, nhưng sau đó mình muốn hưởng lại cái tu thiền này đạt được kết quả như ý muốn thì qúi Phật tử phải đi trở lại cái mình đắc, cái đó nhớ lại giai đoạn đó mình đã thành tựu được thì qúi Phật tử mới lấy tất cả kiến thức mà đưa đến nơi này hưởng được bài thi này, qúi Phật tử mới giải đáp được mọi chuyện sau này.

Người thợ điện cũng vậy, họ muốn giỏi về điện họ phải thi cử, qua cuộc thi với những câu hóc búa trong đó mà họ gỡ được thì khi ra ngoài thực tế những khó khăn họ phải nhớ lại lúc họ thi đã được gài trong đó, họ phải hiểu kỹ thuật đã học trong thời gian ở trong trường đã học để mà hiểu kiến thức đó ráp lại.

Như vậy thì, khi qúi Phật tử đi qua đúng con đường mình đi mà đắc được tầng thiền cơ bản này, thì qúi Phật tử trở lại thiền, ở lại một tiếng, một ngày, hay hai ngày, ba ngày, là qúi Phật tử đi rất dễ dàng. Qúi Phật tử không qua được cái này thì qúi Phật tử không qua được tầng thiền một tiếng, một ngày, ba ngày.

Nên cửa ngõ đó dài, Sư hình dung cho qúi Phật tử thấy con đường hành thiền Chỉ, cái hành lang, cái đường đi của nó dài mà hẹp, tới khi đắc được thiền chỉ là bờ vách thôi, sau khi muốn được hưởng nó, ta tiếp tục đi theo khu này không thể nào qúi Phật tử muốn đi ra khỏi vị trí này được mà đi trong khuôn khổ của nó đi như vậy suốt, qúi Phật tử mới được hưởng, một ngày, hai ngày, ba ngày trong đây. Con đường hành lang này đi rất là khó, do đó đắc thiền tại đó và hoại thiền cũng tại đó, tại vì con người mình lúc nào cũng phải tập trung, còn không nó náo loạn lên là hoại thiền liền.

Đối với thiền Quán càng đi con đường càng rộng ra, con đường nãy mình tu với kiến thức thiền quán, Thân, Thọ, Tâm, Pháp (Tứ Niệm Xứ) thì mình đi đúng, nhưng tới khi quán mỗi một hướng đi nó rộng lớn, càng rộng lớn như vậy, mình dùng hết tất cả khả năng mình tìm bắt được thì pháp nó lên mình bắt được đạo quả.

Hai hướng đi, người hành giả phải thấy rõ, khi thấy rõ được như vậy thì con đường đi mình bảo vệ mới được. 

Như vậy, chúng ta có nên đi hay không nên đi, cái đó mỗi người hành giả, hay là một người đệ tử Đức Phật, suy nghĩ và quyết định.

Do đó, có những người đắc đạo quả Alahán rồi có những vị đắc thiền khô chứ không phải là thiền ướt, tức là họ chứng đắc được Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã rồi, họ chứng đắc được tầng thiền của họ, có khi họ không cần phải trở qua tu tập về thiền Chỉ. Tu tập thiền Chỉ này chỉ là một phương tiện làm cho họ tĩnh lặng, còn nếu như họ đắc đạo quả họ quán sát Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, tâm của họ đã diệt trừ phiền não, chính cái đó còn thù thắng hơn nữa. Do đó có một số các vị Thánh nhân đắc đạo quả xong họ không tha thiết đi vào con đường thiền Chỉ này, con đường thiền Chỉ này gò bó phải vừa khuôn khổ phải đúng phép tắc mới thực hiện được, còn không thì họ không đi tới được bao nhiêu. Điểm đó tùy mỗi một con người chúng ta tu học chúng ta nhận xét ta thích hợp.

Thứ hai nữa, có những người trong con đường họ tu tập từ thiền Chỉ qua thiền Quán rồi mới đến đạo quả được. Nếu như họ không dùng phương pháp thiền Chỉ này làm phương tiện thì họ không đạt được cứu cánh, không phải là Quán mà cứu cánh của họ là Niết-bàn, phải dùng thiền Chỉ, vì khi họ dùng con đường thiền Chỉ là họ diệt trừ những triền cái ngủ ngầm trong tâm của họ, khi họ ngồi thiền Quán thì họ không thể nào diệt được triền cái này, chẳng hạn như hôn trầm thụy miên.

 Với những người ngồi thiền Quán. Thứ nhất, họ ngồi thiền khi vô tới hôn trầm thụy miên họ dội ngược liền, cái đó quan trọng. Cái thứ hai khi họ vô ngồi thiền mà họ đụng tới trạng thái tâm phóng dật, họ gục ngã liền, họ không vượt qua. Rồi họ tới giai đoạn mà những nhà sách vở viết ra thiền Quán là tới tu tập tới Tứ Quả mới diệt được phóng dật thành ra họ mới thấy như vậy thì không đến nỗi lo, Sơ, Nhị, Tam Quả, vẫn còn phóng dật thì khi họ nuôi dưỡng cái đó mà họ thấy được điểm đó chính họ không quán được thấy được pháp ngay khi họ còn đang phóng dật trong lúc họ đang tu tập, cũng là một sự mâu thuẫn mà dằn co giữ hai bên như vậy đó. 

Vậy thì, khi những người muốn đi trực chỉ về thiền Quán thì họ phải thấy thế nào thù thắng mới được, không đơn giản.

Đa phần ngày hôm nay rất nhiều người đang tu tập đang nghiên cứu về thiền họ đứng ở ngưỡng cửa thiền Chỉ họ qua cửa thiền Quán, họ đang đi, thậm chí tại những trung tâm thiền viện ngày hôm nay Sư được biết trên thế giới hay tại Miến Điện cũng vậy họ cũng còn đang dùng phương pháp đó, họ cũng đang cổ vũ cho phương pháp đó, khuyến khích cho những hành giả nào muốn tu thiền Quán mà còn bị nhiều trở ngại triền cái thì họ bị dừng lại tại đó. Tại vì khi ta đến với thiền Quán ta không nói đến triền cái nữa, tới thiền Quán là chúng ta chỉ nói đến kiết sử mà thôi, nhưng cửa triền cái không qua được thì kiết sử không quán sát được, cái đó quan trọng lắm. 

Nhưng với những người trí tuệ sắc bén, họ dùng kiết sử này mới thấy được triền cái và nhìn thấy triền cái đang chập chờn khi họ đang nhìn kiết sử  (kiết sử là cột trói đeo níu: thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi.v.v..) thì chính cái đó họ cắt đứt trí tuệ sắc bén, họ sẽ làm được nhưng đa phần họ không biết kỹ thuật đó, họ chưa lấy được kỹ thuật đó, họ bị chập chờn giữa triền cái mà họ đang nói là kiết sử và chính họ không thấy rằng những triền cái đó là hiện thân của kiết sử, họ chưa biết được cách diệt trừ được tại nơi đó, do đó họ bắt buộc trở lại Thiền Chỉ hay họ đang đi Thiền Quán rồi họ đang chăm chú vào triền cái (5 triền cái ràng buột mình lại là tham dục, sân hận, hôn trầm, thụy miên, trạo cử, hối quá và hoài nghi ) . Để diệt triền cái, chẳng hạn như họ bị hôn trầm làm sao để diệt triền cái thì họ được định họ ở luôn trong Thiền Chỉ lúc nào không hay không biết rằng là đang ở trong Thiền Chỉ họ không ra lại Thiền Quán.

Hai cái đó rất là vi tế, rất là sâu sắc, rất là nhạy bén với những hành giả mà không biết được cái kỹ thuật đó 100% thì coi như rớt khoảng 90% là về Thiền Chỉ không, vì họ không nắm được cái kỹ thuật ra khỏi triền cái thì không cách nào họ đi tới kiết sử để họ cắt đứt được để mà ra khỏi cái vị trí của Thiền Quán để đạt đến cứu cánh Niết-bàn. Cái đó rất là quan trọng mà ngày hôm nay rất nhiều hành giả cứ đi tìm làm sao tâm của họ được an trú họ đang bị giao động nhưng mà thật ra cái đó là pháp nhưng tại vì con người ta không có nắm được kỹ thuật do đó không có ra khỏi được cái cột trói, loanh quanh luẩn quẩn của sự cột trói đó. Tất cả đều có kỹ thuật của nó hết cả và những kỹ thuật đó ngày hôm nay không có cái gì chúng ta không hiểu biết được hết.

Thiền sinh: Thưa Sư, lúc trước khi tâm con tham sân si con biết thì con bị luẩn quẩn ở trong đó, con biết nó là bất thiện nhưng con ra không được, con nhìn sâu vào vì sao con ra không được và con thấy tại con muốn giữ cái tham sân si đó, và tuần này con biết là con không nên tham luyến nó nữa tại vì là pháp bất thiện, con nhớ lời Sư dạy là "đối diện vớì pháp bất thiện đó là pháp thiện" thì chỉ có một cách là bỏ nó mà đi thôi, có phải vậy không thưa Sư?

HT trả lời: Đúng vậy, Cái đó quan trọng lắm, chẳng hạn như Sư nói, triền cái có tham sân si, kiết sử cũng có tham sân si. 

Triền cái có tham sân si là Pháp.

Kiết sử có tham sân si là Tôi, Ta.

Thì khi qúi Phật tử đi vào con đường triền cái ở Thiền Chỉ chúng ta thấy pháp tham sân si, ta đè nó xuống. Nhưng những kiết sử tham sân si là Tôi, Ta, mình phải cắt diệt nó.

Thí dụ như tham. Qúi Phật tử đang ngồi Thiền Chỉ, tất nhiên là phải có đề mục, qúi Phật tử lựa đề mục hợp tánh mình, khi mình ngồi thiền cái tham, qúi Phật tử đừng nghĩ đến nó, chỉ lo nhìn vô đề mục thôi, tại vì đó là pháp tham, phải nghĩ tới đề mục để so sánh. Còn khi ta ngồi thiền mà ta thấy thích hợp cái này không bị tê nhức mỏi đau ta thích lắm, cái này là có kết quả, đó là cái "Tôi, Ta" đang lên mình phải cắt nó đi. 

Thiền Chỉ là Pháp, Thiền Quán là "Tôi, Ta" mà hai cái đều có giống trạng thái như nhau, nó tham sân si như vậy đó.

Một thí dụ khác. Qúi Phật tử nghe nói tất cả cuộc đời này ta đều thích, có tham sân si. Thí dụ, như qúi Phật tử đến tiệm bán xe hơi thấy tại đây có nhiều xe, qúi Phật tử nói "thiệt, tôi ham lắm, nhưng thiệt tiếc là tất cả các xe này không phải là của tôi, nếu là của tôi, tôi lấy một chiếc đem về liền." Tại vì không phải của mình, tất cả xe để trên bãi đậu là xe của tiệm, mình nhìn thấy xe nào mình cũng thích nhưng lòng tham mình phải đè xuống vì; một là không có tiền, hai nữa người ta không cho, ba là không phải của mình, mình lấy không được, do đó mình phải đè nó xuống, nhưng tánh tham mình vẫn còn ở trong đó. Đó là Thiền Chỉ. Về tới nhà vẫn còn tiếc nuối, cái xe đó quá tốt quá đẹp mà mình không lấy được, mua không được vì không có đủ tiền, mình buồn mình đi về, nhưng vì diệt cái tham chưa hết, mình còn dính mắc cái tham đó.

Còn Thiền Quán không có cái gì để lo , dù chiếc xe đó xấu, dù xe đẹp, dù xe người ta cho hay là không cho mình phải cắt cái tham không được nghĩ tới, có là khổ, cắt liền, không để cho mình bị lôi cuốn ở trong trạng thái sự lôi cuốn hấp dẫn của nó.

Giữa cái tham của thiền Chỉ, và cái tham của thiền Quán. Thì cái Quán tham là phải diệt thẳng, dù đủ điều kiện cũng không cho nó sanh khởi còn cái kia vì đè nén, ức chế, trong hoàn cảnh mình không cho phép, tới khi người ta gọi người ta nói: "tôi đổi ý rồi, anh lại lấy xe đi tôi cho anh đó, anh không phải trả tiền". Mình chạy tới chụp liền, hiện bày nguyên một hình khối tham mình đã đè nén bây giờ khởi sanh liền.

Như vậy, ở thiền Chỉ là mình đặt mình trong khuôn khổ hẹp cứng để mình không bung lung quá đáng, còn ở thiền Quán trong môi trường rộng lớn nhưng phải thúc liễm phải diệt trừ mọi sự phát sanh lên chứ không phải để mình dễ dui.

Hai cách đó mà qúi Phật tử tìm ra được là đã có con đường đi của mình ở góc độ mà mình đã chọn, không thể nào lầm lẫn được. Không biết tại sao ngày hôm nay rất là nhiều các vị cứ đi con đường tu thiền Quán 10 lần thì rớt lại Thiền Chỉ hết 10 lần chứ không phải 9, vì sao, Sư muốn nói là qúi Phật tử sẽ thấy cái điểm mà chúng ta không thể nào đối diện được cái tê nhức mỏi đau, khi chúng ta đối diện được tê nhức mỏi đau là chúng ta bắt buộc phải giải quyết thoát ra khỏi cái này ngay, chúng ta không có cách nào mà chúng ta muốn đối diện với tê nhức mỏi đau một cách rất là phí sức uổng công lực của mình đang ngồi thiền. 

Do đó, người hành giả mà ra khỏi được tê nhức mỏi đau là họ an vui họ bám lấy liền nó sẽ rớt vô thiền Chỉ và không còn cách nào để mình quán ngược lại cái tê nhức mỏi đau để mình thấy lại một lần nữa, tâm lý rất là mạnh, chính cái đó mình đang đi lạc hướng, trong khi đó mình muốn đi tìm thiền Quán này thật ra mình ở trong thiền Chỉ.

Vậy thì, khi hành giả tu Thiền Quán làm sao đừng có bị, tê, nhức, mỏi, đau, thì hành giả mới hoan hỉ chứ thật ra không phải ngồi Thiền Quán để muốn thấy được Niết-bàn, xác định lại cái tư tưởng đó, chính cái đó là ta  đang đi lạc hướng. 

Ta ngồi xuống tu thiền nghe, tê, nhức, mỏi, đau, qua được cái tê, nhức, mỏi, đau, là cái tôi đi tìm chứ không phải tôi đi tìm Niết-bàn, không phải tôi tìm đạo quả để giải thoát, không có, ai làm cho tôi thoát được tê, ai chỉ cho tôi hết đau nhức, ai chỉ cho tôi không còn mỏi và đau, tôi đang tu cái đó, tôi cần tập cái đó chớ không tìm ra đạo quả Niết-bàn thì cái đó là Chỉ, cái đó là trở lại. 

Do đó mình hoàn toàn ở trong góc độ đưa cái thòng lọng vô cái cổ mình và mình muốn người ta kéo mình đi theo chủ hướng người ta chỉ chứ không phải do mình quyết định khéo quyết định mình ra đi, mà khi qúi Phật tử sẽ thấy tê nhức mỏi đau này qúi Phật tử phải quán thật sự chính ở đây là đạo quả Niết-bàn thì lúc đó mới có ra Thiền Quán, nó hoàn toàn là như vậy, hai cái đó khẳng định rõ ràng chứ không thể nào mà chúng ta đi qua được cái cửa ngõ nào mà chúng ta không có được hết. Qúi Phật tử chạy xe mà không đổ nhớt không đổ xăng thì xe không chạy được, phải cho xăng cho nhớt xe mới chạy được mới êm ái và không hư, xe đó qúi Phật tử giữ cho Thiền Chỉ an tịnh cái tâm và yên tâm khi xe lo đầy đủ hết, xe phải cháy, bùng nổ lên qúi Phật tử mới thấy được thực tướng Vô Thường, Khổ Đau và Vô Ngã, Niết-bàn.

Điều đó cẩn thận là vì biết bao nhiêu người đã dội ngược ra cái khổ đau khi ta ngồi thiền, mà khi ta ngồi thiền mà ta gặp nhiều khổ đau phải dội ngược ra là con đường ta đi tìm đạo quả không có. 

Có những người họ nói họ đi vượt biên họ mong sao ra khỏi hải phận quốc tế thôi là mừng rồi, chưa ra khỏi hải phận quốc tế mà công an bắt thì bị tù đày, do vậy ra tới hải phận quốc tế là xong, nhưng mà khi ra tới hải phận quốc tế nào là tàu bể, tàu chìm, hết xăng, hết nước, chết tại nơi đó, họ không nghĩ tới những trường hợp đó xảy ra, lúc đó họ mới thấy được thực tướng Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã. Còn cái kia họ muốn chạy trốn ra khỏi cái nghiệp báo đang đuổi bắt họ mà thôi. 

Thiền Chỉ là chúng ta đang chạy trốn nghiệp báo đang đuổi bắt. 

Còn Thiền Quán là chấm dứt sanh tử luân hồi, hai cái khác nhau.

Khi qúi Phật tử đi tới Thiền Chỉ và Thiền Quán là qúi Phật tử phải thấy con đường mình phải đi và, khi qúi Phật tử qua Thiền Chỉ và Thiền Quán thì qúi Phật tử sẽ thấy gieo duyên hay quyết lòng tự nơi nội tâm mình phát xuất lên và qúi Phật tử sẽ thấy được rõ mình ở vị trí nào lúc đó pháp hiện bày ở trong tầm tay cái tri kiến mình đang có và mình sẽ lượm được không có gì sai khác hết.

Gieo duyên thì có chủng tử của gieo duyên và quyết lòng thì cái chủng tử quyết lòng nó sẽ đến với qúi Phật tử liền.

Câu nói của Bồ Tát ngồi dưới cội cây dòng máu khô cạn, xương thịt rã tan, nếu không đắc đạo quả, quyết không rời cội cây, đó là quyết lòng.

Tu thiền Chỉ đòi chúng ta phải ngồi xuống mới được, phải có đề mục, phải có đối tượng, phải có môi trường mới ngồi được. Còn khi tu thiền quán, đi, đứng, nằm, ngồi, đi chợ búa, ngồi chờ xe bus, đi bác sĩ trong khi chờ đến giờ hẹn mình đều tu tập thiền Quán được như thường. Không phải là nhìn tê, nhức, mỏi, đau. Mà là nhìn lại cái tâm mình, thấy tâm sanh lên những phiền não những kiết sử những cái gì phát sanh là tôi ta, mình cắt diệt liền, thì lúc đó là ta đang tu tập thiền Quán, con đường đạo quả ngay tại đó.

Thí dụ, 8 giờ là giờ hẹn gặp bác sĩ, qúi Phật tử đến 7:50, qúi Phật tử nghĩ: "Tôi đi đúng giờ, không bao giờ sai hẹn" sự suy nghĩ đó là thân kiến. Vô ngồi xuống mà cô y tá không đếm xỉa đến mình chỉ lo tiếp điện thoại quá giờ hẹn rồi,  8:30 ngó đồng hồ bắt đầu ngã mạn khởi lên, sân si khởi lên, bùng nổ kiết sử lên liền, chúng ta diệt liền cái sân si khởi lên đó, chúng ta đâu cần đến thiền viện để tu, đâu cần có thiền sư để tu, mà ngay tại văn phòng bác sĩ chúng ta cũng có thể tu, có thể quán, phải diệt tôi ta liền, ngồi chờ tại văn phòng bác sĩ đâu có tê nhức mỏi đau để nhìn, mà lúc đó chỉ nhìn thấy tâm của mình thôi.

Vậy thì khi ở tại đó qúi Phật tử muốn quyết lòng thấy đạo quả hay quyết lòng để vô khám bác sĩ thôi, vậy thì cái tu của qúi Phật tử đang là gieo duyên.

Thiền sinh: khi mình thấy pháp bất thiện nổi lên mình không để ý tới nó mà mình để ý tới pháp thiện. Vậy thưa Sư có phải là mình chạy trốn nó không?

HT trả lời: Không phải chạy trốn, mình đi theo pháp, pháp dẫn mình đi. Hai con ngựa nó đến mà mình đang cần phương tiện đi, con ngựa nào tới thỉ mình leo lên đi. Mình đang chờ để đi con đường giải thoát thì con ngựa nào tới thì mình leo lên đi, chứ không phải mình ngồi đó nghĩ mình phải chạy trốn hay mình ngồi giải quyết xong mới đi, không có phải như vậy. Trên con đường muốn đi giải thoát phương tiện là thiện nó đến với mình mà con đường nào quán thấy được nó là mình đi thôi chứ không phải đợi diệt hết pháp bất thiện rồi mới đi để mình trả hết không thôi là mình chạy trốn rồi mình mới đi, không phải như vậy.

Thiền sinh: Như vậy là khi pháp bất thiện lên mình không để ý đến nó mà chú vào pháp thiện?

HT trả lời: Phải, mình đừng để ý tới pháp bất thiện mà chú tâm vào pháp thiện, không phải là chạy trốn, chuyện pháp bất thiện là của nó không phải của mình, không phải là chạy trốn. Còn chạy trốn là mình đang nghĩ là nó đang đuổi mình, mà còn đang nghĩ là nó đang đuổi mình là mình còn đang nghĩ tới pháp bất thiện chứ chưa cắt đứt. 

Bây giờ trở về tu gieo duyên hay là quyết lòng. Đi đứng nằm ngồi nơi nào chúng  ta cũng phải chánh niệm và tỉnh giác, lúc nào chúng ta cũng phải tuệ quán phát sanh nhìn thấy pháp. 

Đi ra mua tờ báo, ra hộp thơ lấy thơ, qúi Phật tử đi trong trạng thái nhìn tâm của mình. Nhưng mà qúi Phật tử đi ra lấy thơ ở trong thùng thơ, qúi Phật tử nói "tôi đi ra lấy thơ rồi tôi đi vào tôi coi thơ, bữa nay giờ này tôi đi ra lấy thơ rồi chút xíu tôi coi thơ", đó là qúi Phật tử đang gieo duyên chứ không quyết lòng, sơ hở lúc đó qúi Phật tử đi ra không biết thơ tới chưa mình đang trông thơ đó, tâm mình đang tham đang thắc mắc, tâm mình đang sân tâm mình đang si, chuyện mình biết đụng vô hộp thơ, mình biết mở hộp thơ, mình thấy có mình biết, không để tâm mình  lúc đó mình cắt, đó là mình quyết lòng vì đạo quả. Qúi Phật tử sẽ thành người có kiến thức sâu xa nói tới pháp là xối xả nhưng mà ngồi nghe pháp thôi và nói pháp thôi chứ không hành pháp.

Do đó đi đứng nằm ngồi với Thiền Quán, phải đi đứng nằm ngồi trong Thiền Quán, chứ không phải đi đứng nằm ngồi trong sinh hoạt, còn qúi Phật tử là đi đứng nắm ngồi trong sinh hoạt cuộc sống rồi đợi có duyên lành để ngồi thiền quán để mà tu tập Thiền Quán.