Friday, August 27, 2021

Vi Diệu Pháp 09- Tám Tâm Tham - tiếp theo - (Chương 3) - TT Sán Nhiên

 Tám Tâm Tham - Tiếp Theo (Chương 3) - Vi Diệu Pháp 09 - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 09" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Bốn tâm tham đã học trong tuần trước:

1) Tâm tham câu hành hỉ tương ưng với tà kiến vô dẫn - tội nặng nhất

2) Tâm tham câu hành hỉ tương ưng với tà kiến hữu dẫn - tội nặng nhẹ hơn một chút

3) Tâm tham câu hành hỉ bất tương ưng với tà kiến vô dẫn - tội nặng nhẹ hơn một chút nữa

4) Tâm tham câu hành hỉ bất tương ưng với tà kiến hữu dẫn - tội nhẹ nhất

 Hôm nay chúng ta học tiếp phần 8 tâm tham. Sư được nghe một số qúi Phật tử bị khó khăn về thí dụ 8 tâm tham chưa kịp hiểu thì hôm nay Sư ôn lại cho qúi Phật tử nghe.

Tám tâm tham Sư muốn nhắc qúi Phật tử đầu tiên là 

1) Câu Hành Hỉ Tương Ưng với Tà Kiến Vô Dẫn.

Chữ vô dẫn là trạng thái một cách mau lẹ không có sự dẫn dắt, không có sự thúc dục thúc đẩy của ta hay của người.

 Còn chữ Hữu Dẫn là người thúc dục ta, và khi ta trạng thái muốn làm cái gì đó mà đắn đo, suy nghĩ, chần chừ, lưỡng lự, đó là Hũu Dẫn. 

Thí dụ:

- Một cách mau lẹ đứa bé ăn cắp một trái xoài và nghĩ rằng việc làm đó không có tội.

Đó là tâm tham thứ nhất thí dụ như vậy. Thì chúng ta sẽ thấy ở đây, Câu Hành Hỉ là việc tham của mình cùng một lúc với việc tham của mình là có sự hoan hỉ thỏa thích, đó là Câu Hành Hỉ.  

Có hai trạng thái tham dính mắc, có trạng thái tham dính mắc với sự hoan hỉ và có trạng thái dính mắc nhưng trong sự thản nhiên bình thản một cách rất bình thường không có gì bị lôi cuốn ham muốn hấp dẫn trong đó là Xả Thọ và Hỉ Thọ, 

Chữ Tương Ưng với Tà Kiến, chữ Tà Kiến tiếng Pali là Micchā-diṭṭhi, 

Tà Kiến là thấy sai,

 Kiến là thấy

 Tà là sai, 

Sự thấy sai chấp lầm gọi là tà kiến. 

Thí dụ: Một cách mau lẹ đứa bé ăn cắp một trái xoài và nghĩ rằng việc làm đó không có tội

- ăn cắp là tham (tham là dính mắc vào đó)

- một trái xoài là đối tượng của tâm tham

- và nghĩ rằng việc làm đó không có tội (không có tội là tà kiến)

Qúi Phật tử ăn cắp một việc nào người ta không cho mà mình nghĩ không có tội, đó là nghĩ sai. Đứa bé nghĩ nó là đứa con nít ăn cắp không có tội, nhưng dù nhỏ hay lớn, dù trẻ hay già khi ăn cắp những thứ không được cho là có tội. Nhưng đứa bé này nghĩ việc ăn cắp của nó không có tội, trạng thái này là tà kiến.

 Nên thí dụ này để giải thích cái tâm tham thứ nhất là Câu Hành Hỉ Tương Ưng với Tà Kiến Vô Dẫn 

Chúng ta có thể dùng một thí dụ khác.

Một người Phật tử vào chùa lấy một trái xoài không xin phép thầy trụ trì nghĩ rằng việc làm đó không có tội.

Phật tử đến chùa lấy một vật dụng gì là phải được sự đồng ý hay sự cho phép của người trông coi, nếu không có sự đồng ý hay sự cho phép, qúi Phật tử lấy cái nào thì phạm tội cái đó là vì lấy của Tam Bảo, nhưng người Phật tử nghĩ rằng là họ là người Phật tử, thậm chí có người nói họ là người Phật tử lâu năm của chùa này, thậm chí họ là người gầy dựng ngôi chùa này họ nghĩ rằng họ có quyền lấy nhưng điều đó vẫn là sai lầm trong kiến chấp hay là tà kiến, cho dù là một cái đinh hay là một miếng bánh hay một trái cây ở trong chùa nếu của Tam Bảo muốn lấy phải có sự đồng ý của người quản lý ngôi chùa. 

Do đó, nhiều người nghĩ của chùa lấy không có tội, đó gọi là tà kiến.

2) Câu Hành Hỉ Tương Ưng với Tà Kiến Hữu Dẫn

Là sự tham muốn với sự vui thích và thấy sai trách lầm có sự thúc dục của ta hay của người.

Đắn đo suy nghĩ một thời gian đứa bé hoan hỉ lấy cắp một trái xoài và nghĩ rằng việc làm đó không có tội.

Tâm đắn đo suy nghĩ là hữu dẫn, sự thúc dục của ta, trợ duyên cho ta, lôi kéo ta, thúc đẩy ta, là hữu dẫn.

Chữ đắn đo suy nghĩ là hữu dẫn. 

Hồi xưa dùng chữ Vô Trợ sau này đổi là Vô Dẫn, 

Hồi xưa là Hữu Trợ sau này là Hữu Dẫn. 

Trợ là trợ giúp, dẫn là sự dẫn dắt, thúc đẩy, lôi kéo.

3) Câu Hành Hỉ Bất Tương Ưng với Tà Kiến Vô Dẫn 

Thí dụ: Một cách mau lẹ đứa bé ăn cắp một trái xoài vui mừng thoả thích và nghĩ rằng việc làm đó là xấu xa tội lỗi.

Câu này đứa bé nghĩ có tội, có nghĩa là nó không sai nhưng đói quá nên nó ăn cắp. 

Trạng thái câu 3 với trạng thái câu 2  khác nhau, cũng một cách mau lẹ nhưng câu 2 nó nghĩ không tội, còn câu 3 nó nghĩ xấu xa tội lỗi.

Trong Nhị Thập Tứ Hiếu có 24 câu chuyện về lòng hiếu thảo. Trong đó có câu chuyện của Mạnh Tông ngoài trời mùa đông tuyết giá lạnh đã nằm ủ lên  bụt măng để măng lên rồi hái vào nấu bát canh măng cho mẹ ăn. Còn có câu chuyện của Lục Tích, được vua đãi tiệc ăn xong thấy trái quít ngon bỏ trong tay áo 2 trái quít để đem về cho mẹ ăn, rồi khi đảnh lễ ông vua ra về 2 trái qúit rớt ra từ tay áo, vị vua phán "nhà ngươi đã ăn rồi chưa no sao mà còn lấy trái quít đem về". Lục Tích nói không phải đem về ăn nữa mà đem về cho mẹ, vua hoan hỉ tha tội chết vì thấy Lục Tích có hiếu chứ không là tội khinh quân. 

Hồi xưa chúng ta nghe như vậy đó, nhưng nói như vậy chỉ là biện minh cho việc làm là không tội. 

Thật ra trong pháp môn luật về trộm cắp có 5 chi: 

1) Vật có chủ, (parapariggahitaṃ).

2) Biết vật có chủ (parapariggahitasaññitā).

3) Khởi tâm muốn ăn cắp (theyyacittaṃ).

4) Cố gắng trộm cắp (payogo).

5) Lấy được của cải ấy do sự cố gắng (avahāro).

Phạm 1 trong 5 chi trộm cắp là bị đứt giới trộm cắp. Cho dù lý do này lý do gì đi nữa cũng là sự biện minh nhưng giới chúng ta đã bị đứt trong việc làm đó, chúng ta càng biện minh mình không có tội thì ta còn thêm tà kiến.

Do đó, một số qúi Phật tử sống trong tâm từ có tình thương chúng sanh tuy nhiên họ thiếu trí tuệ, có những lúc họ dùng những ngôn từ lời nói sai trật với sự thật để cứu một người khác, nghĩ rằng việc làm đó là đem lòng thương cứu một người đang gặp khó khăn, nghĩ rằng mình không phạm tội nói dối. Thật ra, vẫn bị phạm vào tà kiến vì mình thiếu trí tuệ, mình đã dùng ngôn từ không chơn thành để uốn nắn sự thật đó qua vấn đề khác làm cho người ta đỡ lo, nhưng thực ra trong đó mình chịu lấy trách nhiệm này.

Do đó Đức Phật Ngài nói có hai loại chúng ta luôn luôn nhớ là:

Saccavādī - là chơn ngôn - lời nói chân thật

Saccakiriya - là chơn hạnh - hành động chân thật 

Hai cái này có năng lực phi thường, đem lại cho ta nhiều lợi lạc, khi ta dùng lời nói không thật hay hành động không thật chúng ta không có năng lực, ngay trước mắt là tâm ta hoảng hốt lo sợ  vì chúng ta không có bảo chứng một sự thật.

Ở đây, Bất Tương Ưng với Tà Kiến và trạng thái Tương Ưng với Tà Kiến khác nhau ở chỗ đó.

Có những người họ nghĩ rằng không tội. 

Nhưng có người họ hiểu rõ họ biết đây là có tội nhưng hoàn cảnh của họ không làm thay đổi họ được thì họ phải nhúng vào. Có những người chịu lỗi lầm với chúng sanh khác để cứu một chúng sanh nào đó, nhưng họ biết đây là tội thì họ phải chọn đó là trạng thái đa phần người ta gọi là hàng Bồ Tát.

Đứng trước một màn lưới nhện, có con nhện nằm trên màn lưới đó và một con ruồi vô ý lọt vô màn lưới nhện, qúi Phật tử đi ngang qua màn lưới nhện đó thấy con ruồi nằm trong màn lưới nhện đang dãy dụa muốn thoát ra mà thoát không được, thì lúc đó qúi Phật tử sẽ nghĩ nếu ta cứu con ruồi thì con nhện sẽ bị chết đói, tại vì nhện giăng tơ mà không có mồi thì nhện sẽ đói, và nếu như ta làm lơ không cứu con ruồi thì nhện được no bụng và ruồi sẽ bị chết. 

Đứng trước bối cảnh đó chúng ta phải quyết định làm sao? Nếu ta thò tay vô lấy con ruồi ra khỏi lưới nhện, thì nhện với ta oan trái, ta phá miếng mồi của nó, nó oan trái với ta. Nhưng, ta cứu con ruồi thì ruồi với ta có sự thân thiện hay là có sự quyến thuộc sau này.

 Đứng giữa ngưỡng cửa đó qúi Phật tử phải có quyết định dứt khoát và sáng suốt tại nơi đó. Mà cho dù qúi Phật tử có quyết định cách nào qúi Phật tử cũng đứng ở góc độ phải là một vị Bồ Tát hành động với một trạng thái ý thức giác ngộ của mình mới được, còn không qúi Phật tử sẽ đi vào trong pháp hiện bày, biện hộ cách nào cũng bị ảnh hưởng của luật pháp ở nơi đó mà thôi.

Thiền sinh: Thưa Sư, có lần Sư giảng có một người tỳ kheo ngồi gốc cây thấy con nai chạy qua, vị tỳ kheo đó đổi chỗ ngồi, người thợ săn rượt theo con nai, vị tỳ kheo nói là "từ lúc tôi ngồi đây tôi không thấy con nào chạy qua", như vậy tị tỳ kheo đúng hay sai?

TT trả lời: Vị tỳ kheo làm đúng, vị tỳ kheo nói câu đó là chơn ngôn, và ông đổi chỗ ngồi là chơn hạnh. Nếu như ông ngồi tại chỗ cũ mà con nai vừa chạy qua người thợ săn tới hỏi ông mà ông nói: "từ lúc tôi ngồi đây tôi không thấy con nai chạy qua" thì ông phạm 2 lỗi, vừa tà ngôn vừa tà hạnh, khi ông đổi chỗ ngồi là ông tác ý khôn khéo, vừa cứu được mạng con nai và ông nói lời chơn ngôn. Do đó qúi Phật tử cũng phải như vậy. 

Đó là Sư đã nói về hạng Bồ Tát. 

Mình đứng trước cái đó nó có mãnh lực gọi là duyên, tất cả đều có mãnh lực là duyên, nó có sự tương ưng với duyên, nó sẽ hiện bày kết hợp có sự bất tương ưng duyên, có sự hiện bày không thích hợp, rồi lúc đó mãnh lực duyên xen ra để chỗ mình thò bàn tay của mình trong trạng thái không hiểu biết mãnh lực duyên này thì lúc đó mình xen vào mãnh lực này tạo nên bao nhiêu chuyện xảy ra nữa.

Khi học Paṭṭhāna  về Mãnh Lực Duyên, qúi Phật tử sẽ thấy nó trùng trùng duyên khởi mà mình không thể nào cắt khúc này để giải quyết câu chuyện này, cắt khúc kia với tư kiến của mình để giải quyết vấn đề kia, không có cách nào hết. 

Do đó, đối với những người quyết lòng tu muốn giải thoát đầu tiên là không tạo nghiệp, và không muốn tạo nghiệp thì mình chỉ có cách là làm theo hình ảnh của 3 con khỉ mà thôi. Nghĩa là lấy tay, bịt mắt, bịt tai, bịt miệng và ngồi im nơi đó. Còn ngoài ra qúi Phật tử sẽ thấy muôn trùng, mở mắt ra là thấy, mở tai ra là nghe, mở miệng ra là muốn nói, không cách nào dừng lại được. Do đó, mình lọt vô trong một cái hệ thống hay là một qũy đạo cuốn con người mình vào trong hệ thống đó và mình không thoát ra được trừ khi mình muốn thoát ra phải làm cách 3 con khỉ, mà làm cách đó thì chúng sanh hay là xã hội nhân loại không đồng ý cách đó, lập dị, kỳ thị, cách biệt, xa cách mọi người, đâu ai cho phép, sống kiểu đó vô rừng mà sống, sống kiểu đó ai chơi được.

Do đó trăn trở của vị Bồ Tát là người ý thức giác ngộ họ trăn trở trong cuộc sống nhưng thật sự qúi Phật tử là vị Bồ Tát, cuộc sống của qúi Phật tử thật sự là còn phiền não, còn quấy nhiễu, không phút giây nào yên lặng, vì chúng sanh không ngừng tạo tác, mà mình ở trong qũi đạo của chúng sanh, mình cũng bị tương tác bởi qũi đạo đó. 

Trừ khi như, Thượng Hoàng Lý Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ, Trần Thủ Độ đi ngang qua nói "nhổ cỏ phải nhổ tận gốc", Thượng Hoàng Lý Huệ Tông  suy nghĩ rồi treo cổ tự vận, tại vì không chịu sống cuộc sống xã hội này. Nên cuộc đời của qúi Phật tử chỉ đứng trước một bối cảnh con nhện con ruồi là qúi Phật tử đã nan giải rồi, còn đứng trước con người với một con người dù người đó là cao hay thấp, người đó tốt hay xấu, người đáng thương hay người đáng ghét còn nan giải hơn con ruồi với con nhện này, khổ lắm mà tu cũng chưa được bình yên nữa. Đó là tâm trạng của những người xuất gia họ ở trong bối cảnh đó họ thấy kinh khiếp lắm, xã hội chúng sanh không ngừng tạo tác.

 Người đi bắt kẻ trộm, thì mình khuyên người đi bắt hay khuyên người ăn trộm đừng đi ăn cắp, một bên bảo vệ công lý thương người bị mất của, một bên mình thương cảnh nghèo khổ của họ phải đi ăn trộm, mình phải bảo vệ người nghèo khổ này sa cơ thất thế, mình phải cứu giúp cuộc đời họ, mình làm sao vượt qua cảnh này, mình cho của cho người ăn trộm, mình năn nỉ người đi bắt đừng bắt kẻ trộm, cho của cho nó sống, qúi Phật tử làm được bao lâu. 

Đó là chúng ta xen vào nghiệp của chúng sanh rồi.

Sư chưa thấy ông vua nào cótâm từ như vua Thái Lan Phumiphon Adunyadet, trước khi lên ngôi vua ông xuất gia tu 7 năm. Sau khi lên làm vua nhiều người đến qùi đảnh lễ dưới chân vua xin ông ban luật từ đây đất nước không được sát sanh, không được giết gà, giết vịt, giết heo. Ông nói không làm được, vì đó là nghiệp của chúng sanh, giờ mà ông ban bố luật một số người thực thi ai phạm luật thì bị bắt ở tù. Mà khổ con người cái gì cấm thì lại làm dữ hơn, nên qúi Phật tử thấy thương cho ông vua, ông là ông vua giữ những điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh, mỗi buổi sáng ông thọ giới rồi mới lâm triều, mà sáng đó, trưa đó, tối đó không được ăn những món ăn của người ta giết rồi dâng lên ông ăn, mà quyền bính trong tay lịnh vua là tối thượng tất cả toàn dân đều qúi kính ông, mà ông không làm được điều đó. Đức Phật Ngài cũng vậy thôi. Đề Bà Đạt Đa xin với Đức Phật 5 điều tuyệt đối người xuất gia không ăn thịt ăn cá, Đức Phật nói điều nên làm nên làm còn không làm cũng không sao không bắt buộc, do đó ngày hôm nay ai mà ăn chay người đó là con của Đề Bà Đạt Đa, còn người ăn qua ăn lại là con Đức Phật. 

Rồi tối nằm suy nghi, còn nói thêm một câu nữa "mình có ăn người ta mới giết". Câu đó không nên nói, vì khi mình nói câu đó mình đồng ý cộng nghiệp với người đang giết các con thú, mình lại mang thêm tội, mình phải đóng hai tai, hai mắt và cái miệng không nói gì nữa, nói ra còn kẹt nữa.

4) Câu Hành Hỷ Bất Tương Ưng với Tà Kiến Hữu Dẫn.

Thì cũng như vậy chúng ta sẽ thấy câu thứ hai chúng ta qua câu này và nghĩ rằng là có tội.

Thí dụ, đứa bé suy nghĩ một thời gian nó lấy cắp một trái xoài với trạng thái vui mừng thoả thích nhưng nghĩ rằng điều này có tội. 

Thì lúc ăn cắp trái xoài đó trong tay thì vui mừng thoả thích nhưng nghĩ lại thì hối hận tại vì điều đó là xấu, ăn cắp là không tốt, là phạm giới trộm cắp.

Phạm giới trộm cắp thì kiếp sau sanh lên đầu tiên là nghèo khổ không có của cải, đó là quả báo đến cho người trộm cắp trong đời sau này sinh trở lại làm người sống trong nghèo khổ thiếu thốn và không có của cải không có tài sản, tại vì lấy của người ta thì quả báo trở lại là nghèo khổ lại thiếu thốn không bao giờ được đầy đủ, cái điều trổ sanh ngay trong đời hiện tại với người trộm cắp là bị người ta nguyền rủa đánh đập và, kiếp sau trở lại làm người nghèo khổ đói khát thiếu thốn và không có đầy đủ tài sản của cải.

Do đó, qúi Phật tử sẽ thấy, nhưng mà bây giờ trong hoàn cảnh thì làm sao, đứa bé ăn cắp trái xoài vui mừng thoả thích nhưng nghĩ rằng điều này có tội. 

Người ta thường nói "phú qúi sanh lễ nghi, còn bần cùng sanh đạo tặc", nghèo quá sanh ăn trộm, nghèo quá hết cách rồi họ phải đi vào con đường đó. Qúi Phật tử phải cẩn thận điều đó.

Do đó với trạng thái lấy của không cho là qúi Phật tử phải nhắc cho tâm qúi Phật tử là đó là trộm cắp.

Như vậy thì, lấy của không cho là qúi Phật tử phạm vào giới trộm cắp. 

Vậy, văn chương chữ nghĩa của người ta viết ra qúi Phật tử lấy của người ta mà không xin phép là trộm cắp, những sáng kiến, những phát minh của người ta, mình lấy của người ta mình không xin phép là trộm cắp, chứ đừng nói đó là của thế gian hay là của mạng xã hội là mình có quyền lấy, những văn chương chữ nghĩa, những sáng kiến, những phát minh người ta tạo ra mà mình lấy là phạm tội trộm cắp.

 Do đó, những cái đó làm cho chúng ta có một suy nghĩ như vậy. Như vậy thì đối với những trường hợp trong hoàn cảnh khó khăn, trong tình trạng khó xử lúng túng không giải quyết được thì mình phải thực hiện điều đó, điều này điều kia, lúc bấy giờ chúng ta phải nghĩ đó là một hoàn cảnh, hay nữa qúi Phật tử sẽ nói cái đó là đó là cái nghiệp của ta đưa đẩy tới không thoát ra được. Có những người nghèo quá họ nghĩ tới hai con đường họ phải đi, một là chịu chết đói để trong sạch, hai họ phải nhúng vào cái tội lỗi là đi ăn cắp tiếp tục tạo nghiệp. Trong xã hội loài người vẫn còn có những trường hợp đó xảy ra. 

Như cậu của Sư trong thời gian 9 năm rưỡi bị đi tù cải tạo tại Thanh Hoá, cậu Sư nói lúc đó đói quá không còn biết nhân cách của con người là gì hết, đụng cái gì cũng lấy, đụng cái gì cũng ăn cắp, con gì chạy qua cũng lấy, con bò con heo, lúc đó không còn nhân cách của con người là gì hết, ai làm rớt cái gì cũng lượm liền, không còn giữ cái vị trí nào ngày xưa nữa vì đói. Khi được thả ra khỏi trại về gặp mẹ Sư ông khóc vì ăn năn xấu hổ mắc cở 9 năm rưỡi, nhưng mà cái đó nó kéo theo một chuỗi dài không bình yên vì bị xấu hổ qua đây mặc cảm không muốn gặp ai, ngày xưa mình một thời vàng son như thế nào. Do đó qúi Phật tử thấy những lúc như vậy đó đứng trong bối cảnh đó làm sao, đặt cái tâm mình trong hoàn cảnh đó mình rất là thông cảm cho chúng sanh đó nhưng mình không thể nào đồng ý với việc làm đó, điều đó Sư biết.

Một câu chuyện khác, trên đường Sư rời khỏi chùa Bửu Long, chùa Bửu Long là một ngôi chùa lộng lẫy cao sang giàu có, tiền của Phật tử cúng dường nhiều lắm, nhưng hai bên đường toàn là nhà tranh vách lá vách tôn, trên đường Sư đi Sư nghe có tiếng khóc, Sư dừng lại hỏi thăm thì được nghe là gia đình bà cụ đó nghèo quá tới khi bà chết con cháu không có tiền mua cái quan tài, chạy lên chùa xin tiền mua quan tài cho bà cụ vì bà là Phật tử, thì chùa nói không biết không cho, thì gia đình con cháu của bà chạy qua bên nhà thờ, trên con đường một bên là chùa một bên là nhà thờ, thì xin nhà thờ thì nhà thờ cho nhưng phải làm lễ rửa tội mới cho cái quan tài, thì gia đình đồng ý để được cái quan tài.

Qúi Phật tử thấy không, không có cách nào khác hơn. Do đó qúi Phật tử sẽ thấy đối với những cảnh đó đến với con người của chúng ta lúc đó chúng ta phải suy tư trằn trọc đắn đo để giải quyết vấn đề, mình nói chúng sanh vậy đó chứ tới phiên mình kinh khủng lắm, Khi ông kể về cuộc sống đói khổ trong trại tù cải tạo, cả gia đình anh chị em con cháu ngồi lại nghe đều rúng động. 

Thí dụ, một đứa bé đang bị đói nó suy nghĩ một thời gian nó lấy cắp một trái xoài với trạng thái vui mừng thoả thích nhưng nghĩ rằng điều này có tội. 

Biết là tội, biết là xấu xa, biết đó là không tốt nhưng phải làm vì để cứu mạng sống mình, đó gọi là Bất Tương Ưng với Tà Kiến.

Chúng ta thấy dòng sinh tử luân hồi của mình kéo dài ra nữa, miệng không nói, nhưng tâm suy nghĩ, hành động cố gắng rút lại để mình chấm dứt mau dòng sanh tử, mau được giải thoát, ở đời này khổ quá, sống trong đời này không phút giây nào an vui cả, phút giây đó đau khổ, do đó mình muốn cắt để ra đi nhưng mình làm không được, thấy nó trước mắt, thấy trong tầm tay của ta nhưng ta không nắm bắt được, nó cứ vuột trôi, giống như một người đứng trên bãi biển gần bờ, muốn vô trong bờ nhưng nước biển cứ đánh vô lôi ra, cái dòng nghiệp báo, dòng luân hồi sanh tử của chúng sanh, của tất cả chúng ta đây cứ như vậy đánh vô lôi ra không bao giờ ngưng, ta vừa hưởng một chút xíu tới bờ thì sóng biển lôi ta ra ngoài xa hơn, vừa đánh một chút xíu tới bờ thì sóng biển nó lôi ta ra xa hơn, tưởng là nó đẩy mình vô thật là nhanh mình mừng mình cố vượt vô nhưng mình không đủ lực, nó lại lôi mình ra lại, ba lần bảy lượt chúng ta chìm trong biển cả. Mà biển không dung chứa mình, biển không dung chứa tử thi, chết sình thì nó đẩy mình lên bờ, lên bãi biển, lúc đó sình chương rồi, lúc đó mình mới thật sự lên bờ. Qúi Phật tử nhìn thấy rõ cuộc sống như vậy đó. Các lượng sóng không cho mình vô bờ đến khi mình thành tử thi xác sình thúi nó không chứa mình trong biển cả mà nó đẩy mình vô bờ, nó bỏ trên bờ. Qúi Phật tử thấy đó.

Do đó, đứng góc độ nào qúi Phật tử phải là vị Bồ Tát, đứng góc độ nào qúi Phật tử phải có sự trí thức giác ngộ với trí tuệ để quyết định cho mình.

Dù đúng hay sai, dù Tương Ưng với Tà Kiến hay là Bất Tương Ưng với Tà Kiến, dù Vô Dẫn hay Hữu Dẫn, đứng góc độ nào qúi Phật tử phải có sự quyết định ở đó, đừng có nói trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh kia, đó là điều quan trọng.

5) Tâm tham thứ 5: Câu Hành Xả Tương Ưng với Tà Kiến Vô Dẫn 

Thí dụ: với một cách mau lẹ đứa bé ăn cắp trái xoài một cách thản nhiên.

Thì khi đó nghĩ rằng không tội vì là con nít không ai bắt tội, như ngày xưa người ta nói là chỉ bắt tội những thành niên chứ không bắt tội những vị thành niên, do đó các vị thành niên tha hồ gây tội không bị tù. Nhưng ở đây, câu số 5 chúng ta đổi qua câu số 1 là Câu Hành Xả thì ở đây một cách thản nhiên đứa bé ăn cắp trái xoài nghĩ rằng không tội. Rồi thì qúi Phật tử mình cũng vậy đó, còn người bác sĩ người y tá cũng vậy đó, đối với một bệnh nhân không muốn làm cho bệnh nhân lo sợ sự tử vong đến, họ an ủi với lời nói không chơn thật mà còn nghĩ mình không có tội vì mình muốn cứu người ta nên mới nói lời không chơn thật.

Do đó, mình cẩn thận, khi đó vì quên mình mà cứu người, mình quên mình mà cứu độ chúng sanh thì chính đó mình nói láo, thì sau này quả báo trộn ngược lại là:

1) Thứ nhất mình sống trên đời này không có người thương, 

2) Thứ hai, mình sống trong đời này luôn luôn là mình bị sự chỉ trích, 

3) Thứ ba, mình sống trong đời này ít nhiều mình bị thị phi vì lời nói của người khác chê bai chỉ trích mình, 

Là do trong quá khứ mình có tội tạo ra những lời nói không chân thật, có khi mình vì tình thương mà quên mình để cứu chúng sanh đó, mình bảo vệ đời sống người đó nhưng không bảo vệ lời nói chân thành được, do đó mình phạm vô chi nói dối sau này phải chịu quả báo trổ sanh lại cho mình.

 Do đó, qúi Phật tử sẽ thấy Tương Ưng vói Tà Kiến người này nghĩ không có tội nhưng ở đây ở trong Bất Tương Ưng với Tà Kiến ta làm đây vì cứu người, ta biết đây là tạo tội, điều đó nhẹ tội hơn, giữa tâm thứ năm và tâm tham thứ 8, hai cái đó khác nhau ở chỗ đó. 

Khi qúi Phật tử làm cái chi mà vì đời sống điều đó tốt qúi Phật tử nghĩ rằng xấu không tốt là Bất Tương Ưng với Tà Kiến. Còn khi qúi Phật tử làm điều xấu điều không tốt mà qúi Phật tử nói là không hề hà chi đó là qúi Phật tử đang rớt vào trong vừa xấu và vừa có sai lầm kiến chấp đó là tà kiến.

Do đó, hai cái đó khác với nhau là như vậy đó. 

6) Tâm tham thứ 6: Câu Hành Xả Tương Ưng với Tà Kiến Hữu Dẫn.

Như vậy thì khi qúi Phật tử ngồi thiền người ta ghi một tiếng mà chúng ta ngồi 30 phút, ta phải nói trước, còn nếu như qúi Phật tử canh ngồi một tiếng mà qúi Phật tử ngồi không hết một tiếng tự động thản nhiên đứng lên ra về hay bỏ qua đi thiền hành không thiền tọa nữa thì lúc đó qúi Phật tử phạm tội ăn cắp giờ của Thiền Sư, tại vì Thiền Sư bỏ công ra ngồi canh cho mình tọa thiền mà mình bỏ đi về hay bỏ qua đi thiền hành không thiền tọa nữa thì lúc đó qúi Phật tử đang phạm vô vi phạm nội quy là phạm tội ăn cắp giờ của Thiền Sư 

Do đó, qúi Phật tử nhớ khi qúi Phật tử ngồi thiền đúng giờ phải ngồi đúng giờ, đi đúng giờ, đúng giờ ngồi, qúi Phật tử không vi phạm.

7) Tâm tham thứ 7: Câu Hành Xả Bất Tương Ưng với Tà Kiến Vô Dẫn. là sự tham muốn một cách thản nhiên, không có sự chấp sai lầm, khởi lên mau lẹ.

8) Tâm tham thứ 8: Câu Hành Xả Bất Tương Ưng với Tà Kiến Hữu Dẫn. : là lòng tham muốn một cách thản nhiên, không có sự hiểu sai, sanh khởi do sự thúc đẩy nhiều lần.

Vậy 8 tâm này, Sư được nghe một số qúi Phật tử thắc mắc về vấn đề 8 tâm này tuần vừa qua, giờ Sư nhắc ôn bài lại.

Còn tiếp phần II: Tìm hiểu về Pháp Đ Balamật


Wednesday, August 18, 2021

Vi Diệu Pháp 08 - Tâm Bất Thiện (Chương 3) - TT Sán Nhiên

 Tâm Bất Thiện (Chương 3) - Vi Diệu Pháp 08 - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 08" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Hôm nay chúng ta tiếp tục học Abhidhamma, bộ chú giải gồm 9 chương, chúng ta bắt đầu đi vào chương 3 nói về Tâm.

Bảng Nêu Chi Pháp có đánh số

Hai bảng nêu chi pháp, một bảng Sư đánh lên con số và một bảng có màu sắc không có con số cũng không có chữ để chúng ta học, bắt đầu từ ngày hôm nay và những tuần sau qúi Phật tử không dùng bảng nêu có chữ, 

1) Thứ nhất, những chữ đó không còn có ý nghĩa giống trong quyển sách qúi Phật tử có trong tay tại vì Sư sửa các từ ngữ định nghĩa về tâm cho phù hợp đúng theo từ  vựng Pali do đó không nên dùng bảng nêu chi pháp đã có ghi chữ trên bảng nêu đó nữa. 

2) Thứ hai, điều tất nhiên là chúng ta phải học thuộc lòng chứ không ỷ nương tựa vào trong bảng nêu, nếu không nhớ không thuộc lòng thì sau này qúi Phật tử khó dùng. 

Điển hình thứ nhất mà Sư có kinh nghiệm về Abhidhamma khi đi qua pháp hành rất lợi ích, khi qúi Phật tử ngồi thiền, tâm hiện bày lên qúi Phật tử định nghĩa được cái tâm đó như thế nào để mà giải quyết được cái tâm đó, như vậy mới có giá trị.

 Chứ còn nếu như qúi Phật tử lúc đó ngồi thiền, tâm khởi lên loại tâm nào không lý qúi Phật tử đang ngồi thiền lại mở bảng nêu ra coi. Do đó qúi Phật tử phải tự thương lấy chính mình mà học thuộc lòng để nhớ cho chính mình, để khi hành thiền qúi Phật tử biết được loại tâm nào đang khởi sanh trong tâm mình, đó là điều thứ hai lợi ích cho qúi Phật tử khi tu pháp hành.

Khi thấy được tâm hiện bày như thế nào mà mình đọc được tên của tâm mình lúc đó, nó là con đường giải đáp sự thắc mắc của qúi Phật tử ngay tại lúc ngồi thiền đó, nó đi hơn phân nửa, ngồi thấy tâm này là tâm gì mình định nghĩa được liền, khi định nghĩa được mình giải quyết được nó rất dễ dàng, đó là kinh nghiệm của Sư ứng dụng trong Abhidhamma.

Ngài Hộ Pháp qua Thái Lan ghi danh vào trường thiền dạy Vipassana tại Bangkok, họ hỏi học Abhidhamma chưa, Ngài chưa học nên Ngài phải về Việt Nam học 6 tháng môn Abhidhamma với Ngài Santakicco là Ngài Tịnh Sự  rồi mới trở qua ghi danh vào học Thiền Vipassana, nếu như vị thiền sinh không học Abhidhamma không được vô lớp học, cái đó là quả quyết.

Học và hiểu Abhidhamma, lúc đi trình pháp, không phải mình nói tâm mình theo cách mình định nghĩa, mà mình nói tâm theo bảng nêu thì đã đi hơn phân nửa việc trình pháp, vị Thiền Sư sẽ thấy rõ cái gì mình nói, có những thiền đường giảng khóa trình pháp họ nói xuyên suốt về tâm của Abhidhamma. Họ không nói giống như mình nói "tôi ngồi thấy buồn" "tôi ngồi thấy tê thấy nhức". Họ không nói như vậy, mà tâm nào, tâm sở loại nào, định nghĩa đúng chính xác Thiền Sư  mới hiểu được, đó là mình lấy được pháp hành.

Do đó pháp học đi song song với pháp hành khi mình nắm vững thì rất lợi lạc. 

Bảng Nêu Chi Pháp Có Màu Sắc

3) Điều thứ ba là màu sắc.

Trên bảng nêu có 5 màu: màu đỏ, màu xanh dương, màu nâu, màu đen, màu vàng. 

- Màu đỏ là hỉ thọ

- Màu xanh là xả thọ

- Màu nâu là ưu thọ

- Màu đen là khổ thọ

- Màu vàng là lạc thọ

Như vậy có 5 loại thọ. Chúng ta học 121 tâm.

Trong bảng nêu 3 hàng đầu là tâm bất thiện gồm:

Hàng 1 là tâm tham có 8 tâm tham

Hàng 2 là tâm sân có 2 tâm sân

Hàng 3 là tâm si có 2 tâm si

Ba hàng 1, 2, 3 là tâm bất thiện, như vậy là 12 tâm bất thiện.

Hàng thứ 4 có 7 tâm quả bất thiện vô nhân 

Hàng thứ 5 có 8 tâm quả thiện vô nhân 

Hàng thứ 6 có 3 tâm duy tác vô nhân 

 3 hàng nối tiếp nhau là hàng thứ 4, thứ 5, thứ 6 là tâm vô nhân, có 18 tâm vô nhân

Hàng thứ 7, Tâm Đại Thiện  là Tâm Dục Giới  có 8 tâm.

Hàng thứ 8 là Tâm Đại Quả có 8 tâm

Hàng thứ 9 là Tâm Đại Duy Tác có 8 tâm

Hàng thứ 7 , 8, 9 là Tâm Dục Giới Tịnh Hảo, có 24 tâm Dục Giới Tịnh Hảo

Như vậy là 12 tâm bất thiện + 18 tâm vô nhân + 24 tâm Dục Giới Tịnh Hảo =  54 Tâm Dục Giới trải qua 11 cõi, tuần vừa rồi chúng ta đã học qua 11 cõi.

Hàng thứ 10, Tâm Thiện Sắc Giới có 5 tâm (4 màu đỏ và 1 màu xanh)

Hàng thứ 11, Tâm Quả Sắc Giới có 5 tâm

Hàng 12, Tâm Duy Tác Sắc Giới có 5 tâm (4 màu đỏ và 1 màu xanh) 

Hàng thứ 10, 11, 12 là Tâm Sắc Giới có 15 tâm 

Hàng 13, Tâm Thiện Vô Sắc Giới có 4 tâm

Hàng 14, Tâm Quả Vô Sắc Giới có 4 tâm

Hàng 15, Tâm Duy Tác Vô Sắc Giới có 4 tâm

Hàng 13, 14, 15 là Tâm Vô Sắc Giới có 12 tâm. 

Cộng 15 Tâm Sắc Giới + 12 Tâm Vô Sắc Giới = 27 Tâm Đáo Đại (Đáo là đi đến, Đại là cõi rộng lớn) đến cõi rộng lớn vô cùng rộng lớn hơn cõi Dục Giới, do đó ta gọi là Tâm Đáo Đại

Như vậy là chúng ta đã qua tất cả tâm này thuộc về Tâm Hiệp Thế

(Từ hàng thứ 16 đến hàng thứ 23 gồm 40 tâm gọi là Tâm Siêu Thế;  20 Tâm Đạo và 20 Tâm Quả)

Hàng 16, Tâm Sơ Đạo có 5 tâm

Hàng 17, Tâm Nhị Đạo có 5 tâm

Hàng 18, Tâm Tam Đạo có 5 tâm

Hàng 19, Tâm Tứ Đạo có 5 tâm

Hàng 16, 17. 18, 19 là Tâm Đạo Siêu Thế có 20 tâm

Hàng 20, Tâm Sơ Quả có 5 tâm

Hàng 21, Tâm Nhị Quả có 5 tâm

Hàng 22, Tâm Tam Quả có 5 tâm 

Hàng 23, Tâm Tứ Quả có 5 tâm

Hàng 20, 21, 22, 23 gọi là Tâm Quả Siêu Thế có 20 tâm

Cộng lại 20 Tâm Đạo + 20 Tâm Quả = 40 Tâm Siêu Thế  

Cộng hết tất cả là 121 tâm

 Như vậy, chúng ta học hết tất cả tâm có trong thế gian này vừa Hiệp Thế vừa Siêu Thế, vừa phàm phu vừa Thánh nhân, loại nào chúng ta cũng biết thì khi qúi Phật tử tiếp xúc với người này với người kia qúi Phật tử có đủ khả năng để biết tâm của người đó là phàm phu hay tâm của bậc Thánh nhân rất rõ ràng không sai trật vì ta có đủ công thức rồi.

Do đó, khi qúi Phật tử nắm được 121 tâm ở hàng nào, sau này quen rồi khi nói tới hàng nào mình biết rõ tâm gì mình theo dõi được tâm thức của mình. 

 Ở trên bảng nêu chi pháp, ở hàng thứ 10 và hàng thứ 12 có 2 tâm màu trắng

 Hàng thứ 10, có một tâm có màu trắng là Tâm Thiện Thông hay gọi là Tâm Thiện Thánh Trí, tâm này hiện bày thần thông. Tâm hiện bày thần thông là tâm này chứ không phải là sài tâm sắc giới.

Hàng thứ 12, có một tâm  màu trắng là Tâm Duy Tác Thắng Trí. 

Những tâm này dành cho các bậc Alahán thực hiện thần thông, người phàm phu không có, người ta chỉ có tâm thiện thôi

Thiền sinh: Thưa Sư, tại sao 2 tâm đó không để trong 121 tâm?

TT trả lời: Nó không có nằm trong 121 tâm, phần này là tâm gọi là được hiện bày ra chứ nó không nằm trong 121 tâm mà Đức Phật Ngài nói.

Ý nghĩa này do Ngài Tịnh Sự đặt ra để biết khi muốn hiện bày thần thông phải đạt đến Tứ Thiền Sắc Giới mới hiện bày thần thông được, Sơ, Nhị, Tam, Thiền Sắc Giới chưa đủ khả năng để hiện bày thần thông, vì định chưa mạnh, năng lực chưa có, thánh trí chưa đủ do đó khó hiện bày thần thông, chỉ tới Tứ Thiền Sắc Giới mới hiện bày thần thông được.

Hôm nay chúng ta học phần Tâm. Tâm Bất Thiện. Chúng ta nhìn trên bảng nêu, Tâm Bất Thiện có 3 màu là: màu xanh, màu đỏ, màu nâu - hỉ, xả, ưu. 

Đầu tiên, học về Tâm Tham. Có 8 Tâm Tham, chúng ta học tuần tự như sau.

Thứ nhất, nhìn vô 8 Tâm Tham này thấy chia làm hai, 4 đỏ, 4 xanh, chúng ta bắt đầu đi theo:

- 4 đỏ là 4 Tâm Tham Câu Hành Hỉ là màu đỏ. Somanassasahagatam: Câu hành hỷ

 (chữ "câu" nghĩa là "đồng", chữ "hành" nghĩa là "hành động", chữ "hỉ" nghĩa là "vui mừng thoải thích", trong tiếng Việt thì ta nói là "sự hiểu biết dính mắc vào đối tượng)

Thí dụ, có những người ăn cắp được món đồ nào đó họ vui mừng họ có tâm hoan hỉ, thì lúc đó họ có Tâm Tham Câu Hành Hỉ . Như vậy thì khi tâm tham lên ta hành động cùng một lúc với tâm hoan hỉ (hỉ là thoả thích).

Do đó chúng ta định nghĩa: Tâm Tham Câu Hành Hỉ tức là khi tâm có sự hiểu biết dính mắc vào đối tượng đó mà đồng cùng hiện bày sự thoả thích, được gọi là Tâm Tham câu hành hỉ. 

- 4 xanh là 4 Tâm Tham Câu Hành Xả là màu xanh. Upekkhàsahagatam: Câu hành xả

(chữ "câu" nghĩa là "đồng", chữ "hành" nghĩa là "hành động", chữ "xả" nghĩa là "không buồn không vui")

Có người ăn cắp quen tay nên khi ăn cắp được món đồ họ thản nhiên không có gì đáng vui mừng hết nhưng mà vẫn tham, thì lúc đó là câu hành xả.

Thí dụ, một đứa bé quen ăn cắp ra ngoài chợ thấy trái sầu riêng nó lấy cắp một cách thản nhiên không lộ vẻ vui mừng, đó là Tâm Tham Câu Hành Xả

Chúng ta đã định nghĩa được 8 Tâm Tham ở hàng thứ nhất:

 4 tâm đầu tiên màu đỏ là Tham Câu Hành Hỉ là tham có sự vui mừng thỏa thích. 

4 tâm màu xanh là Tham Câu Hành Xả, là tham có trạng thái thản nhiên bình thản.

Có những người ngồi thiền tới lúc chân đau tê quá chịu không nổi, nghe vị Thiền Sư cho xả thiền thì mừng, đó là hỉ thọ.

Nhưng, tới lúc mình xong rồi vị Thiền Sư còn nán lại 5 phút nữa mới được xả thiền, cái tê nhức nó đau quá đau rồi, vị Thiền Sư cứ ngồi nhắm mắt hoài, lúc đó tâm tham mình đang thúc đẩy "xả thiền đi, xả thiền đi", thì lúc đó Thiền Sư cho xả thiền mình vui mừng. 

Thì lúc nãy tâm mình đang khó chịu là Sân, nhưng khi mình muốn xả thiền thì được xả rồi thì là Hỉ Thọ, đó là trạng thái Hỉ Thọ. Vậy thì, lúc đó Phật tử phải niệm liền tâm mình lúc đó mình niệm là "Tâm Tham Câu Hành Hỉ", không bỏ qua cái niệm đó. 

Lúc chưa được xả thiền mình khó chịu bực bội thì niệm "tâm sân đó", phải niệm, niệm hết để ta xả thiền, bài tập ta làm xong hoàn mãn rồi mới nghỉ chứ chưa xong chưa được nghỉ, phút chót chúng ta niệm luôn chớ lúc đó xả thiền buông ra liền là qúi Phật tử mất đi cơ hội kiểm soát tâm của mình, lúc đó cũng phải niệm, xả, thọ, hỉ, không hoan hỉ, thích thú, và không thích thú, bực bội hay dính mắc, lúc nào chúng ta cũng phải niệm tâm, không bỏ qua một sát na tâm nào cả, không bỏ qua một phút giây tâm thức nào cả, đó mới gọi là có chánh niệm từ giai đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai đoạn cuối.  Qúi Phật tử có chánh niệm khúc đầu, khúc giữa tới khúc cuối bỏ mất là thiếu chánh niệm, mà thiếu chánh niệm như vậy lâu dài ngày tháng quen, trước tiên ta tạo thói quen, sau thói quen tạo lại ta. Thường thường pháp đến với mình không có báo trước là một, hai nữa là đánh lén, ba là đến lúc nào ta không biết, người hành giả là người khéo có sự tu tập luôn luôn như người lính canh phòng ở biên giới không để phút giây sơ hở nào đột nhập vào, luôn luôn phải nhắc nhở tâm thức của mình, để sơ hở một chút nó xen vô lúc đó không niệm lâu ngày dày tháng những phút giây đó là đạo quả, qúi Phật tử mất cơ hội.

Trong kinh kể vị Sa-di Sukha tới giờ ăn cơm ngọ,  Trưởng lão Xá Lợi Phất khất thực xong rồi vội vã trở về tinh xá. Thế Tôn trong hương thất thấy biết hết, và cũng biết trước Sa-di Sukha sẽ chứng A-la-hán, nên Ngài rời hương thất đến trước cổng đón Trưởng lão đặt bốn câu hỏi để kéo dài thời gian cho Sa-di kịp chứng quả. Trưởng lão trả lời xong câu cuối thì Sa-di cũng vừa chứng quả. Lúc đó Phật mới cho phép Trưởng lão mang thức ăn cho đệ tử. Nếu lúc đó là mình, mình sẽ thắc mắc sao tới giờ ngọ không ai mang cơm đến cho mình, thì mình xả thiền để đi kiếm thực phẩm, như vậy mình mất cơ hội chứng quả.

Mình phải đi tiếp nếu không thì lúc đó mình phải trở ra Hiệp Thế, nếu mình quen chánh niệm những phút giây đó là mình đi tới Siêu Thế được, tại vì mình đang khắc phục những tâm Hiệp Thế thúc đẩy đòi hỏi mình ngay lúc đó là mình qua được giai đoạn Siêu Thế, lúc đó nó hiển lộ ra đặc tính của nó và lúc đó nó hiện bày những tâm tánh tập khí của mình tại nơi đó chứ thường thì nó không hiện bày, phút đầu qúi Phật tử không thấy nó hiện bày, 50 phút bắt đầu hiện, 55 phút bắt đầu rạng lên, 57 phút bắt đầu hiện rõ. Do đó chánh niệm là điều cần thiết nhưng nó không phải là chánh yếu, trí tuệ phối hợp với chánh niệm mới là điều chánh yếu. 

Các hành giả giữ chánh niệm, giữ chánh niệm, như thế là Thiền Chỉ chứ không phải là Thiền Quán. 

Thiền Quán là giữ chánh niệm và dùng trí tuệ nhìn thấy được bản chất sanh diệt của pháp hiện bày đó mới là Thiền Quán. Thiền Quán không phải chỉ có chánh niệm, phải là trí tuệ phối hợp với chánh niệm.

 Qúi Phật tử nếu đi tới mức chót cuối cùng vẫn là chánh niệm, tới lúc cuối cùng xả thiền vẫn là chánh niệm là ngay tại đó mình đang đi Thiền Chỉ mình giữ tới đó là hiện bày một tâm tham chứ không phải là tâm thiện. Mình tu ngồi thiền không phải là thiện mà là có tham dính mắc, tại vì trí tuệ là buông bỏ mà mình đeo giữ nó đó là bất thiện là tham.

Học Abhidhamma để lột vỏ tâm thức của mình ra chứ không phải đứng ở ngoài mà nhìn vô xem tâm mình như thế nào. Mình phải thấy rõ được sự thật ngay khi đó ta hiện bày là tâm thiện hay tâm bất thiện ta phải nắm liền, nếu Phật tử không nắm được cái đó thì qúi Phật tử trôi lăn với trạng thái là hình thức tu tập nhưng không phân biệt được tâm thức loại nào và không phân biệt được loại nào, qúi Phật tử không có tách dần những cái gì cần thiết và lượm giữ những gì chúng ta cần thiết, chúng ta sai lầm hết, do đó đi hoài mà không có kết quả là như vậy.

Khi ngồi thiền, qúi Phật tử muốn cái gì khởi sanh lên niệm muốn là "tham",  thích là "hỉ", không thích, trạng thái mệt mỏi vẫn muốn là "xả". niệm tại đó, niệm ngay đó cái tham sẽ biến mất là quí Phật tử đang có cái thiện mất cái bất thiện. Còn qúi Phật tử đeo đuổi nó mà nhìn nó hoài là đang nuôi cái bất thiện làm sao đắc đạo quả.

Thiền sinh: Thưa Sư, như vậy có nghĩa là mình thấy tâm mình, mình phải biết nó, mình phải niệm liền, rồi sau khi mình niệm mình để tâm mình ở đâu, nếu chân mình đau thì sao? 

TT trả lời: Tâm muốn cái gì, mình phải niệm liền "muốn à", "tham à", "xả à", "nghĩ à", nó đòi hỏi muốn nghĩ, nó muốn mình xả không hành nữa, rồi mình tham, mình phải niệm, sau khi niệm tham, muốn, xả thì trở lại niệm hơi thở, nếu chân đau thì niệm 3 lần "đau à, đau à, đau à", xong trở lại hơi thở, nếu cái đau kéo ra nữa thì lại niệm "đau à, đau à, đau à", rồi trở về nhìn hơi thở. Hơi thở là phương tiện để giữ tâm không bị phóng dật.

Chúng ta trở lại bài học

- Thứ nhất, chúng ta phân biệt màu sắc; màu đỏ là câu hành hỉ, màu xanh là câu hành xả.

- Thứ hai là tham có 2 loại: Tham Tà Kiến và Tham Không Tà Kiến, nên ta còn có Tương Ưng với Tà Kiến và Bất Tương Ung với Tà Kiến.

Dịch nghĩa chữ:

- Tương ưng là hoà trộn, giống như hòa trộn của nước với sữa, 

- Kiến là tà kiến, là thấy sai chấp lầm. 

Như vậy, tâm tham của ta có 2 trường hợp xảy ra: Tương Ưng với Tà Kiến và Bất Tương Ưng với Tà Kiến, loại thấy sai, loại không thấy sai.

Chẳng hạn, người thấy sai, có những người họ nói ngồi thiền tê  suốt luôn không hết, ngồi tê cả đời không hết, tê hôm nay, tê ngày mai, tê năm sau, tê nhiều năm cũng giống nhau  không có gì khác biệt hết. 

Điều đó, Đức Phật nói là Tương Ưng với Tà Kiến, thấy sai chấp lầm, tại vì mọi pháp sanh lên tánh chất của nó là diệt tại đó, sanh diệt là lẽ thường, họ cứ nói khư khư là không thay đổi là họ bị tà kiến. 

Tà kiến mà nói không thay đổi là thường kiến, và nói không có gì cả là đoạn kiến. Chúng ta có hai, chấp thường và chấp đoạn, chấp ngắn chấp dài, chấp có và chấp không, đó gọi là tà kiến, 

Như vậy, khi ngồi thiền tê khởi lên hôm qua, bữa nay ngồi thiền cũng thấy tê, cái tê này nó giống hay không giống, mình không phân biệt được, mà không để ý cái tê ngày hôm qua, không để ý cái tê ngày hôm nay, chính điều đó khi ta ngồi thiền ta thấy tê là ta hoảng hốt lên, hoảng hốt rồi ta chú tâm vào nó, bị lôi cuốn vào nó, chúng ta không nhận xét được cái tê đó giống nhau hay khác nhau. Chính do đó ta nói tê này là có hoài không hết, ta bị dính vào Tương Ưng với Tà Kiến.

 Có những người hiểu là tê sanh lên rồi tê sẽ diệt, tê có sanh thì có diệt, có đó rồi mất đó, nó hoại diệt, nó không kéo dài mãi, thì họ có tham nhưng không thấy sai chấp lầm, đó là Tham Bất Tương Ưng với Tà Kiến, không có hòa trộn do sự thấy sai chấp lầm.

Thứ hai, chẳng hạn, có những người nói: "nhà phải giữ cho sạch, giết gián, giết kiến không có tội". Nói như vậy là Tương Ưng với Tà Kiến, vì hễ giết chúng sanh, dù bất cứ loài sinh vật nhỏ, đều là có tội, mà lại nói là không có tội thì, Tương Ưng với Tà Kiến. 

Khi mình biết giết chúng sanh là có tội, dù con vật đó nhỏ bé cũng có tội, thì mình là Bất Tương Ưng với Tà Kiến.

Thí dụ thứ ba. Chẳng hạn có một số người Phật tử thuần thành biết tội và phước, nhưng có một số Phật tử không thuần thành họ chỉ theo truyền thống, gia đình họ là Phật tử họ đi theo gia đình vô chùa một cách truyền thống thôi chứ họ không thuần thành, không học hỏi Phật Pháp, do đó họ không rõ tội phước, họ vô chùa thấy những trái cây để trên bàn thờ họ lấy ăn, họ nói của chùa lấy không tội, họ lấy cái đó phạm vô tội trộm cắp của ngôi Tam Bảo một trái soài, trái cam v.v... 

Nhưng khi có người nói: "đừng có lấy, lấy có tội đó", thì họ nói "không có tội gì cả của chùa mà". Người đó là Tương Ưng với Tà Kiến.

Còn người nhắc nhở người lấy, người đó ở trạng thái Bất Tương Ưng với Tà Kiến. 

Thí dụ thứ tư. Có những người nghĩ họ sống hoài không chết, cuộc sống của họ được lâu dài tới 80 tuổi vẫn thấy họ còn sống khỏi mạnh chứ không yếu đuối bệnh hoạn, 90 tuổi cũng vẫn vậy, nên họ nói "cuộc đời này không có sự chết" nghĩ và nói như vậy là tà kiến là thấy sai trách lầm, đó là Tương Ưng với Tà Kiến.

Còn người hiểu biết nói: "tất cả mọi người sinh ra trong đời này đều phải chết, già, trẻ, lớn, bé, cũng chết, không có chúng sanh nào không chết". Người đó là Bất Tương Ưng với Tà Kiến. 

Một thí dụ khác, qúi Phật tử ngồi thiền, thấy an lạc, qua giai đoạn, tê, nhức, mỏi, đau, không còn hiện bày nữa, qúi Phật tử nói trạng thái phỉ lạc đến với ta, ta đắc Niết-bàn rồi. Đó là tà kiến, là Tương Ưng với Tà Kiến. Trong kinh Phạm Võng, Niết-bàn kiến, hiện tại kiến có 5 là như vậy đó chúng ta sẽ thấy. Có nhiều người như vậy, họ ngồi không bị tê, không bị nhức không bị đau, không bị hành hạ đau thân xác của họ, họ ngồi yên bao nhiêu giờ bao nhiêu phút cũng ngồi được thì lúc đó họ nghĩ là họ đã được hưởng phước Niết-bàn, thật sự là chưa có, mà họ khư khư giữ lấy cái đó thì gọi là tà kiến, Tương Ưng với Tà Kiến. 

Đức Phật Ngài lên cung trời Sắc Giới thuyết giảng sự tà kiến của Phạm Thiên Bakha, ông nói ông đã đắc Niết-bàn rồi, nhưng khi Đức Phật Ngài tới thì ông ta không giải đáp được những cái gì Niết-bàn ông ta đang có, ông ta đang khư khư giữ lấy cái bản ngã ông ta đang có, Niết-bàn thì không còn bản ngã, Niết-bàn phải là diệt ngã không còn ngã mạn hay tăng thượng mạn mà ông ta vẫn còn thì sao gọi là đắc Niết-bàn, Niết-bàn là dùng tuệ giải đáp tất cả những sự chấp sai chấp lầm. Đức Phật Ngài đi đến cung của Phạm Thiên Bakha  và Ngài độ được Phạm Thiên Bakha.

 Khi qúi Phật tử ngồi thiền, những cái thấy sai trách lầm phải bỏ, khi ngồi thấy tê qúi Phật tử niệm "tê à tê à", nó kéo dài 5 phút qúi Phật tử nghĩ "chà chắc chết quá, tê hoài không hết" thì khi ý nghĩ đó khởi lên qúi Phật tử niệm "Tương Ưng với Tà Kiến, Tương Ưng với Tà Kiến".

Qúi Phật tử làm liên tục như vậy hết cái này qua tới cái kia, niệm liên tục như vậy, lúc đó qúi Phật tử không còn hôn trầm thị miên.

Thiền sinh: Thưa Sư, nhưng đau qúa con niệm hoài thì con vô Thiền Chỉ phải không?

TT trả lời: Không vô Thiền Chỉ, đau niệm "đau à, đau à", rồi trở về hơi thở, rồi đau lại niệm "đau à, đau à", rồi trở về hơi thở, cứ làm như vậy liên tục. Đừng có sợ mà chạy qua Thiền Chỉ. Cái đau nó sanh nó sẽ diệt, nó có đó rồi nó mất đó, mà chính cái đau là người bạn tốt của mình cho thấy được thực chất của nó, thấy được thực tướng của nó. Nó lâu nay ẩn nấp che dấu không hiển lộ cho mình thấy sự thật của nó, hôm nay nó cho mình thấy sự thật đó. Qúi Phật tử thấy không, cái thân mình, mình thương nó, mình lo cho nó, cái ăn, cái mặc, chỗ ở, mình lo đủ cho nó hết, rốt cuộc nó không làm cho mình vừa ý. Cái đau đó nó là bạn hiền của mình.

Thiền sinh: Thưa Sư, Khi đau con nhìn nó thì con thấy nó ấm lên rồi tan ra, rồi đau lại, con lại nhin nó thì nó lại ấm lên rồi tan ra.

TT trả lời: Như vậy là kỹ thuật đạt được cao rồi.

Tương Ưng với Tà Kiến là thấy sai chấp lầm.

Không thấy sai chấp lầm là Bất Tương Ưng với Tà Kiến. Đó là hai loại  ở trong tâm tham.

Có hai loại khác nữa, chúng ta cần phải biết là, vô dẫn (Sasankhàrikamekam) và hữu dẫn (Sasankhàrikamekam). 

- Vô dẫn là sự dẫn dắt xúi giục hay là lôi kéo, hay là rủ rê v.v... gọi là vô dẫn tức là ta làm với trạng thái mau lẹ không có người xúi dục dẫn dắt lôi kéo ta. 

Thí dụ, qúi Phật tử thấy trái cam ở trên bàn thờ Phật khởi lên tâm muốn lấy nhưng khi khởi tâm muốn lấy thì sợ tội, sợ người ta thấy mình, sợ lương tâm mình, nhìn qua nhìn lại coi có ai để ý không, đó là tâm mình còn đang lo, đang chần chừ không biết có nên lấy không, không lấy thì tội nghiệp mình đang đói mình cần trái cam ăn cho no, mà mình lấy thì mình sợ tội,  đó là trạng thái chần chừ không dám làm, đó gọi là hữu dẫn.

Thấy trái cam muốn lấy ăn nhưng chần chừ hoài không dám lấy gọi là hữu dẫn

Nhưng, khi vừa vô thấy trái cam chớp lấy liền gọi là vô dẫn.

Như vậy thì hữu dẫn có 6 động cơ thúc đẩy, vô dẫn thì không có gì cả

Hữu dẫn có 6 động cơ thúc đẩy, 

- 3 về thân, lời, ý, của ta 

- 3 về thân, lời, ý, của người

Thân, lời, ý, của ta làm cho ta có tâm hữu dẫn.

Thân, lời, ý, của người làm cho ta có hữu dẫn. 

Hữu dẫn có tất cả là 6 pháp hiện bày bởi tâm thức của ta.

- Thân. Thí dụ như mới đầu qúi Phật tử không thấy thân mình là xinh đẹp, hoặc đáng ghê đáng sợ đáng chán, mà cứ nghĩ thân người này thân người kia chứ không nghĩ thân mình., tới khi tắm qúi Phật tử kỳ cọ một hồi thấy thân mình đẹp là đẹp nhất rồi cái đó mình làm cho tâm mình khởi lên tham, khởi lên hữu ngã.

- Lời. Thí dụ, mới đầu qúi Phật tử nghĩ mình ca hát không hay, qúi Phật tử ra ngoài vườn ca một mình nhiều lần thì thấy "oh giọng mình cũng hấp dẫn há không thua ai đâu", rồi ca nữa ca nữa thấy mình hay hơn nên ghi danh thi ca tuyển.

- Ý. Ý của mình là mình ngồi suy nghĩ, trên đời này không có ai bằng ta, mới đầu mình nghĩ ai cũng hơn mình, mình làm dở lắm không có hơn, mình ngồi suy nghĩ suy nghĩ hoài lúc ý khởi lên nhắc nhở ta hoài mà chúng ta không thấy cái đúng cái sai nữa, lúc đó ta thấy ta là nhất trên đời này, thì lúc đó ý ta khởi lên tâm tham dính mắc là, mình nhất trên đời không ai hơn mình.

Đó là thân, lời, ý, của ta hữu dẫn ta khởi lên tham hay là khởi lên hành động bởi sự thúc đẩy nhiều lần lập đi lập lại.

Trong lời kinh của Đức Phật Ngài nói: "Thấy vật gì mình muốn trong sạch mình phải la lên 3 lần cho tất cả xung quanh nghe, không ai trả lời mình mới dám lấy"

 Đó là, thân, lời, ý, của ta. 

Còn thân, lời, ý, của người thúc đẩy ta lấy. "Nãy giờ tôi không thấy ai hết, lấy đi", đó là lời của người thúc đẩy ta lấy, ý của người thúc đẩy ta lấy, thân của người thúc đẩy ta lấy. 

Thân, lời, ý của người thúc đẩy hiện bày hữu dẫn ta hành động.

Thân, lời, ý của ta hữu dẫn ta hành động. 

 1) Tâm tham thứ nhất - Câu hành hỷ Tương ưng với tà kiến  vô dẫn

 Tâm thứ nhất có 3 chức năng hay là 3 nhiệm vụ là:

1) Tham Câu Hành Hỉ là vừa tham vừa vui mừng thoả thích.

 2) Tương Ưng với Tà Kiến là thấy sai chấp lầm.

 3) Vô dẫn là thực hiện một cách mau lẹ.

Khi vừa ngồi xuống, phải phân biệt cho rõ tâm của mình để mình kiếm thấy cái đó là phước hay là tội, tại vì mình tu là mình lựa phước chứ không có được lựa tội. Thí dụ 5 giờ chiều chúng ta ngồi thiền, trước khi ngồi thiền qúi Phật tử được nghỉ 5, 10 phút xong thì vào ngồi thiền, tất cả chúng ta đều vô ngồi thiền, ngồi thiền xuống lúc đó qúi Phật tử sẽ thấy, mình thích ngồi thiền, hoan hỉ ngồi thiền, mình vui mừng ngồi thiền, mình dính mắc trong ngồi thiền, hay mình đang chờ ngồi thiền, hay là mình nghĩ rằng ngồi thiền này tốt có lợi cho mình tu tập có phước báu, hay là chúng ta đang ngồi nói rằng tôi ngồi thiền hôm nay thoải mái quá, tôi ngồi thiền hôm nay nhẹ nhàng quá, ngồi thiền hôm nay tôi thấy thích. Thì qúi Phật tử phải niệm tâm của mình là loại nào xong mới ngồi xuống. Có nhiều hành giả không chịu niệm lúc đó, nó đi qua từ bất thiện dẫn đi luôn nguyên một giờ đồng hồ không có phước báu, thành ra mình quanh quẩn ở đó phiền não, chính cái đó mình không gặt hái kết quả, mình mất một giờ tu thiền, toàn là sài tâm bất thiện cả. Điều đó vô cùng quan trọng. 

Qúi Phật tử ngồi thiền xuống trong trạng thái chánh niệm và có trí tuệ, giai đoạn ngồi xuống, chân co lại, tay mình hạ xuống dần dần như thế nào, mình phải theo dõi những hành động đó, những trạng thái đó phải trong chánh niệm và trí tuệ. Nếu qúi Phật tử không làm điều như vậy thì qúi Phật tử dính vô trạng thái mau lẹ thiện hay là bất thiện. Sư nhắc qúi Phật tử ngay lúc đó từng mỗi phút giây đó phải cẩn thận.

Khi ta ngồi xuống, sửa tới sửa lui, thấy êm ái, thấy thích hợp, trong trạng thái niệm niệm niệm, rồi trí tuệ phân tách thấy rõ, bắt đầu yên lặng, bắt đầu theo dõi thở hơi thở đều đặn, lúc đó ta có chánh niệm và trí tuệ, chứ không phải chúng ta làm mà không có chánh niệm và không có trí tuệ, đa phần qúi Phật tử có chánh niệm không có trí tuệ.

Ngồi thiền được 5 phút thì trạng thái êm ái qúi Phật tử thích, rồi ngay khi đó một sự thích hợp đến làm cho ta vui mừng, chẳng hạn như hơi thở chúng ta đạt liền, có những người vừa vô 5 phút họ đạt kết quả liền, Sư nói thật điều đó qúi Phật tử sẽ thấy chứ không có gì thắc mắc cả, nhưng có người ngồi đợi nửa tiếng cũng không thấy sự việc gì hết, ngồi hoài không thấy pháp nhưng có người vừa vô 5 phút họ thấy pháp liền vừa thấy pháp hiện bày họ dính vào đó, nhưng mà lúc đó họ lại là Tham Câu Hành Hỉ, Tương Ưng với Tà Kiến, Vô Dẫn. Vừa thấy pháp hiện bày họ dính vô đó, họ không có niệm để buông bỏ mà họ đeo theo thích, họ hoan hỉ, hỉ lạc đó, cái này tôi đi tìm, cái này đúng là cái tôi đang muốn có, chỗ này lâu lắm chúng tôi mới được hưởng. Đó là Tham Câu Hành Hỉ, Tương Ưng với Tà Kiến, Vô Dẫn, nhanh lắm. Ngay khi đó qúi Phật tử cắt bỏ tâm dính mắc liền, niệm bỏ tâm thích đó liền không để nó cột trói tâm mình lại lôi cuốn mình ở trong bất thiện của một tâm tham sai lầm khi ta đang ngồi thiền chỉ là một tâm bất thiện mà thôi.

Chúng ta lấy thí dụ bên ngoài, một đứa bé mau lẹ (vô dẫn) ăn cắp một trái xoài nghĩ rằng mình không tội (tương ưng với tà kiến) nên hoan hỉ vui thích (câu hành hỉ)

Nếu như chúng ta đổi qua tâm thứ hai, chúng ta đổi từ vô dẫn qua hữu dẫn, 2 yếu tố trên giống nhau

2) Tâm tham thứ hai - Câu hành hỷ Tương ưng với kiến  Hữu dẫn

Thí dụ, được người mẹ xúi dục đứa bé lấy cắp một trái xoài cho rằng là không tội có trạng thái hoan hỉ thoả thích.

Những cái đó là những trạng thái tâm lý thông thường của chúng sanh, người nào cũng có, từ nhỏ cho tới lớn không bất kể một chúng sanh nào, dù lứa tuổi nào không có quan trọng. Nhưng mà ở đây chúng ta luôn luôn có hai loại đó; lời của người xúi dục ta, thân của người thúc đẩy ta, ý của người thôi miên ta dẫn dắt ta hành theo cũng là hữu dẫn.

Có những nhà thôi miên được người khác, họ sai khiến người khác thực hiện, có những người ở nhà mà có thể sai khiến một người ở xa, họ dùng cái tâm của họ đọc được tâm người kia, kêu ngồi xuống, người kia ở nhà người kia, đang đi ở trong nhà của họ giờ phút đó họ giựt bắn người lên, họ bị sai khiến trở lại ghế ngồi xuống, tiếp tục họ sai người kia nằm xuống, nhắm mắt lại, người bị thôi miên làm theo lời người sai khiến, cái đó là ý hữu dẫn người. Cái đó là kỹ thuật, kỹ thuật đó không làm gì cả nhưng chúng ta đọc được tâm con người bị sai khiến bởi ý của người khác. 

Thân của người sai khiến được ta, lời của người sai khiến được ta, Ý của người sai khiến được ta. 

Chẳng hạn như mẹ của Sư thường hay nhắc nhở hàng con trong nhà, khi nào mẹ có khách thì tất cả tụi con đừng lai vãng trong phòng khách để mẹ với khách nói chuyện không bị ồn ào xáo trộn. Thì lúc đó làm sao anh em Sư biết được, thì mẹ Sư nói: khi mẹ nhìn các con thì ánh mắt nhìn của mẹ không muốn các con ở đây thì các con đi chỗ khác liền. Ngày hôm sau khách tới mẹ Sư cũng bưng nước trà mời khách rồi quay lại ngó, anh em Sư nhìn biết ý mẹ lặng lẽ rời khỏi phòng khách để ba mẹ tiếp khách không bị ồn ào. Đó là ý hữu dẫn ta thực hiện. 

Có những cái Đức Phật Ngài chỉ nhìn thôi là Ngài Ananda hiểu được, Ngài Ananda khi đi theo Đức Phật, Đức Phật nhìn qua một cái Ngài Ananda hiểu liền nhưng chưa hiểu nguyên nhân là gì hỏi Đức Thế Tôn, 

- "Bạch Đức Thế Tôn, sao Đức Thế Tôn nhìn con vậy". 

- "Này Ananda, đây là Như Lai cho con biết người này quá khứ là một keo kiệt hôm nay sinh trở lại làm đứa bé ăn xin nghèo khổ xấu xi". 

Đức Phật chỉ nhìn thôi là Ananda hiểu liền, chính cái đó gọi là ý hữu dẫn ta.

Tâm của con người chúng ta có hai loại: 

1) Tâm tham thứ nhất - Câu Hành Hỷ - Tương Ưng với Tà Kiến - Vô Dẫn

2) Tâm tham thứ hai, - Câu Hành Hỷ - Tương Ưng với Tà Kiến - - Hữu dẫn

Trong đời sống hàng ngày chỉ cần kiểm soát hai tâm đó thôi chúng ta cũng thấy thoả thích được tâm của mình rồi.

Qúi Phật tử lái xe đi chơi  thấy thích hợp thấy thoải mái không muốn về nhà lái vòng vòng đi chơi, lúc đó tâm của mình là Câu Hành Hỷ, thấy đi chơi sướng hơn ở nhà làm việc cực hơn, nghĩ không có gì tội lỗi hết là Tâm Tham Tương Ưng với Tà Kiến, mình thích ngồi lâu ở đó là Vô Dẫn, mà mình ngồi còn kéo lôi thúc đẩy là Hữu Dẫn.

Những cái đó luôn luôn là vậy, khi ăn cũng vậy, khi ta ăn, ta nhìn thấy vật thực, đối với người xuất gia, người tu, ăn mà không có ấn tượng thì tâm gọi là Tâm Tham Vô Dẫn, người xuất gia có quán tưởng ăn từ từ thì tâm đó gọi là tâm Hữu Dẫn. Mỗi lần quán tưởng là "vật thực này ta ăn để nuôi mạng chứ không phải là nuôi xác thân cho tốt", lúc đó sài tâm Hữu Dẫn. 

Thì qúi Phật tử cũng vậy thôi, khi thấy vật thực mang đến qúi Phật tử thò tay bốc liền là vô dẫn, ngồi suy nghĩ là hữu dẫn. Nghĩ ăn cái này có tội không, ăn cái này có thiếu nợ không, là tương ưng với tà kiến và bất tương ưng với tà kiến, đời sống hàng ngày qúi Phật tử cũng vậy thôi, nếu như qúi Phật tử không quán xét hai cái tâm này qúi Phật tử sẽ dính dễ dàng trong thân kiến.

Ở đây ngay phút giây đầu tiên qúi Phật tử tìm ra được hai tâm này cho chúng ta thấy được thân kiến. Thân kiến này gọi là thân kiến kiết sử vi tế nằm trong tâm thức của ta, mỗi giây mỗi phút qúi Phật tử tìm ra thân kiến tại nơi Tương Ưng với Tà Kiến và Bất Tương Ưng với Tà Kiến.

Như vậy, khi nào qúi Phật tử thấy thân kiến này của mình ở đâu là qúi Phật tử phải nói "ta còn có tâm tham". Khi nào qúi Phật tử có một thân kiến khởi lên; sắc, thọ, tưởng, hành, thức, qúi Phật tử còn nói "của tôi", "của ta", tại đây là phải thấy là qúi Phật tử có tâm tham ở tại nơi đó.

Vậy thì: Ta diệt thân kiến kiết sử từ nơi tâm tham, tham mà ta diệt được là ta diệt được thân kiến.

Thân kiến kiết sử từ nơi tâm tham thứ nhất (vô dẫn), tâm tham thứ hai (hữu dẫn) thấy rõ ràng thân kiến.

Lúc bấy giờ qúi Phật tử thấy thân này là của ta không, lời này của ta không, ý này của ta không. Rồi, thân, lời, ý của người làm ta làm theo như vậy thì ta có thân này người kia tác động ta làm theo, ta bị chi phối bởi vì ta có nghĩ rằng là có thân này của ta.

Một người hành thiền không bao giờ muốn ai đụng tới mình, họ ngồi như vậy không ai được lại sửa họ, họ ngồi nghiêng, họ ngồi cong, họ ngồi thụng, họ ngồi không ngay, nếu như Thiền Sư lại sửa dáng ngồi của họ lại, họ bực bội, thì lúc đó là họ đang bị thân kiến không cho ai sửa hết, khi họ không cho ai sửa hết họ thấy sai chấp lầm là họ ngồi đúng, họ ngồi ngay, họ ngồi thẳng không thấy sai mà người ta sửa họ chấp mê tại đó là họ đang bị trong Tham Thân Kiến Tương Ưng với Tà Kiến, và họ mừng vui không có gì là buồn là Câu Hành Hỉ, họ thản nhiên chấp nhận giữ lấy thân không có gì thay đổi là Câu Hành Xả.

Có những hành giả ngồi thiền xong xả thiền ra họ hỏi Sư, lúc nãy con ngồi thiền có đúng không Sư", Sư nói ngồi thụng lắm lưng chưa thẳng lắm, ngẩn cổ lên thì khỏe hơi thở thông thì khỏe hơn. Không con không chịu đâu, con ngồi vậy quen rồi, con ngồi thỏai mái rồi, cái đó họ đang ở trong Tham Thân Kiến Tương Ưng với Tà Kiến, họ vui mừng giữ lấy là Câu Hành Hỉ, họ thản nhiên giữ lấy là Câu Hành Xả.

Có nhiều người cố chấp, họ ngồi thiền trên ghế quen rồi ngồi thiền dưới đất họ không chịu được, thì lúc đó họ đang đeo níu giữ cái của họ muốn có, khi có ghế mới ngồi thiền được, khi không có ghế họ ngồi thiền không được. Có một vị hành giả vào trong rừng ngồi thiền chim muôn thi nhau hót, khỉ vượn hú ồn quá không ngồi thiền được, vị hành giả bỏ ra biển ngồi trên mỏm đá thì cá giỡn dưới dòng sông cùng tiếng sóng biển ồn quá ông mở mắt ra coi hoài không tập trung thiền được. Ông giận quá, ông nguyện hôm nay chúng sanh này gây oan trái với ta kiếp sau sinh ra ta với năng lực thiền này ta làm một loài ăn hết những chim muôn vượn khỉ ta ăn hết, ta ra ngoài biển ta nhảy xuống biển ăn hết các loài cá nãy giờ vẫy đuôi đùng đùng làm ta không ngồi thiền được, ta sẽ trở thành hạng phi nhơn. Trong kinh điển gọi là Kim Xí Điểu nửa thân dưới là người, thân trên là đầu chim với mỏ đại bàng, đằng sau có một đôi cánh, hạng người đó có khi là tà kiến có khi là chánh kiến, do đó qúi Phật tử sẽ thấy loại người đó trong kinh điển có nói như vậy đó, thì cái đó là oan trái.

Hôm nay chúng ta học hai tâm, tâm thứ nhất và tâm thứ hai câu hành hỉ tương ưng kiến vô dẫn và hữu dẫn mình phải nhớ.

Chúng ta qua tâm thứ ba.

3) Tâm thứ ba là:  Câu Hành Hỉ Bất Tương Ưng với Tà Kiến Vô dẫn

Tức là tham có sự vui mừng thoả thích mà không thấy sai không thấy tội một cách mau lẹ dính mắc vào đó, gọi là Tham Câu Hành Hỉ Bất Tương Ưng với Tà Kiến Vô Dẫn.

Thí đụ: 

Khi ghi danh học trong một thiền đường họ có khóa tu, mà khoá tu đó sẽ đưa ra một nội quy rõ ràng, giờ nào là giờ chỉ tịnh (giờ nghỉ) giờ nào là giờ hành thiền tọa, giờ nào thiền hành chúng ta phải rõ ràng. Thì khi ghi danh vào đó thì qúi Phật tử phải thực hiện theo thời khóa đó, giờ ngồi phải ngồi cho đúng giờ, giờ đi phải đi cho đúng giờ, không thục tới thục lui, thêm thì không sao mà thiếu là không được.

Có một số hành giả sau khi ghi học khóa thiền, vô ngồi thiền xong nhưng họ thấy 1 giờ ngồi không nổi, 45 phút xả thiền ra, thiền sư thấy, nhắc mình phải ngồi tiếp, nhưng vẫn đứng lên bỏ ra về. Thì lúc bấy giờ họ vui vì xả thiền trước 15 phút (Câu Hành Hỉ), họ thấy không gì là tội là sai (Bất Tương Ưng với Tà Kiến) tại vì họ không thấy mình thiếu nợ 15 phút trong 1 giờ thiền đó mình đã hứa khi ghi danh, và họ mau lẹ hành xử rời khỏi thiền đường (Vô Dẫn). 

15 phút đó Thiền Sư đã ra công coi mình tu tập, mà mình bỏ 15 phút đó là mình đã thiều nợ vị Thiền Sư. Qúi Phật tử không làm được phải nói trước, mà qúi Phật tử không làm được điều đó mà bỏ ra về, còn 15 phút không qua khỏi bỏ đi về lý do nào cũng được.

Muốn được xả thiền sớm là có tâm tham và,

 - Thứ nhất, câu hành hỉ, hoan hỉ xả thiền

- Thứ hai, bất tương ưng với tà kiến, nghĩ là không tội

- Thứ ba, vô dẫn,  mau lẹ buông bỏ không nói trước với vị Thiền Sư 

Như vậy là dính vào: Tham câu hành hỉ, bất tương ưng với tà kiến và, vô dẫn

Rồi vị Thiền Sư đến nói "ông thiếu thiền đường chúng tôi 15 phút", trả lời là "không có, tôi làm theo khả năng thôi, không có gì tội cả (bất tương ưng với tà kiến) 

Như vậy thì qúi Phật tử phải nói trước với ban tổ chức là ngồi 1 giờ không được. 

Thêm giờ ngồi thiền được thì tốt, còn nếu thiếu thì là nợ, mà tội ở nơi đó là tại vì mình muốn được như vậy là mình có tâm tham. qúi Phật tử phải cẩn thận coi tâm của mình.

Đứa bé vô trong chùa ăn cắp một trái xoài, biết rằng đói vụng cần phải ăn nhưng vì đứa bé ăn soài mà chưa xin phép Chư Tăng là có tội nhưng vì đói vụng phải ăn, mau lẹ ăn cắp ăn liền, hay là mau lẹ lấy nước uống liền vì khát nước biết là có tội mà vẫn làm là bất tương ưng với tà kiến.

Còn nghĩ là của chùa lúc nào lấy cũng được và không tội là tương ưng với tà kiến.

Tương Ưng với Tà Kiến ( Ditthigatasampayuttam) là nghĩ rằng không tội nên lấy nên làm

Bất tương ưng với tà kiến (Ditthigatavippayuttam) là biết rằng có tội như vẫn làm.

Nếu qúi Phật tử cho rằng không tội là Tương Ưng với Tà Kiến, ăn cắp trái soài biết có tội nhưng vẫn ăn cắp là Bất Tương Ưng với Tà Kiến. 

Xả thiền trước 15 phút cho rằng không tội không thiếu nợ với thiền đường là Tương Ưng với Tà Kiến, nhưng xả thiền trước 15 phút vì hoàn cảnh chịu không nổi phải xả thiền biết rằng đây là có tội thiếu nợ với thiền đường là Bất Tương Ưng với Tà Kiến.

Bất Tương Ưng với Tà Kiến nhẹ tội hơn là Tương Ưng với Tà Kiến.

Vô Dẫn (Sasankhàrikamekam) nặng tội hơn là Hữu Dẫn (Sasankhàrikamekam) .

Sư phân biệt 8 tâm, qúi Phật tử sẽ thấy tội nào nặng hơn tội nào nhẹ hơn 

Vô dẫn nặng tội hơn hữu dẫn. Qúi Phật tử vô thấy trái xoài ăn cắp liền là tội nặng, còn bị người xúi ăn cắp đi ăn cắp đi rồi chia hai là hữu dẫn thì tội nhẹ hơn (tội thì không chia hai mà là tội ai nấy chịu). 

Nhưng mà tội ai nấy chịu nhưng tội người lấy và tội người xúi lấy còn theo tác ý nữa.

Ở đây qúi Phật tử học qua 

4) Tâm tham thứ tư là: Câu Hành Hỉ Bất Tương Ưng với Tà Kiến Hữu Dẫn.

Tham câu hành hỉ, bất tương ưng với tà kiến, hữu dẫn là tâm tham thứ tư

Như vậy chúng ta qua được 4 tâm tham này thì:

1) Tâm tham câu hành hỉ tương ưng với tà kiến vô dẫn - tội nặng nhất

2) Tâm tham câu hành hỉ tương ưng với tà kiến hữu dẫn - tội nặng nhẹ hơn một chút

3) Tâm tham câu hành hỉ bất tương ưng với tà kiến vô dẫn - tội nặng nhẹ hơn một chút nữa

4) Tâm tham câu hành hỉ bất tương ưng với tà kiến hữu dẫn - tội nhẹ nhất

Qúi Phật tử ngay khi giết một con kiến sài tâm sân, trước khi giết con kiến là muốn giết con kiến thì sài tâm tham (vì có chữ muốn nên là tham).

Giết con kiến khi đưa tay xuống giết con kiến là tâm sân, nhưng qúi Phật tử muốn giết con kiến này là tâm tham.

Ăn cắp là tâm tham, muốn ăn cắp cũng là tâm tham, ăn cắp cho bỏ ghét sài tâm tham và sân.

Tất cả tham sân đều do si là gốc. tham do si, sân do si hiện bày ra tất cả. Vì si mà ta tham, vì si mà ta sân, cái đó chúng ta không phải lo, khi qua phần si sẽ giải thích rõ hơn.

Ăn cắp cho bỏ ghét là tham sân, thương chúng sanh bị bịnh nan y, chẳng hạn thương con chó bị bịnh nan y đau nhức hành hạ đau khổ, không muốn kéo dài sự đau khổ, chúng ta giết nó bằng dao hay tiêm thuốc vào cho nó chết, ngay phút giây giết con chó sài tâm sân, mà muốn giết nó sài tâm tham, trạng thái quyết định cái đó là trạng thái si mê.

Sư ở trong trạng thái nan giải 3 lần, 2 năm liền Sư bị 3 cái nan giải, Sư có 3 con chó bên Cali, Sư đi nó thương quá nó ngã bịnh, một con bị hoại huyết, Sư đưa vô bệnh viện thú y chữa bịnh hoại huyết cho nó tốn 7,000 dollars có người Phật tử của Sư đã trả tiền chi phí để chữa bệnh cho con chó đó mà cũng không qua khỏi, cô đó báo tin là bác sĩ nói phải rút kim ra chứ nó không qua khỏi, Sư trả lời không rút kim ra, cứ để đó nuôi nó cho tới khi nó chết thì thôi. 

Mình rút kim ra là nhân quả sẽ trở lại mình, tới phiên mình nằm bịnh cũng sẽ bị rút kim ra. Sư phải dằn co như vậy, vị bác sĩ thú y gọi qua nói chuyện với Sư là dùng lòng bi mẫn cứu nó cho nó giải thoát sớm đừng để nó đau đớn thể xác nó, nhưng Sư nói không, đừng nản, cũng không nên nói pháp Sư nghe, tại vì Sư biết pháp, Sư đối diện được Pháp và Sư giải quyết theo Pháp, lúc đó Sư bị dao động, tới khi Sư nhẹ tâm Sư tịnh tâm một chút xúi thì quả nó tới trở ngược về Sư liền. 

do đó lúc đó qúi Phật tử nghe thấy cái tâm của mình là thương chúng sanh là tâm từ, tâm bi, tâm thiện, nhưng hành động của mình giết một chúng sanh cứu nó qua khỏi căn bịnh nan y trong lúc đó mình hiện bày một cách bất toàn niệm là tâm sân, mình quyết lòng thực hiện cái đó làm tham, mà thấy không tội là tương ưng với tà kiến, làm một cách mau lẹ là vô nhẫn.

Dễ sợ vậy đó, Sư gặp trường hợp đó 3 lần, 3 con chó 

Thiền sinh: Thưa Sư, bây giờ mình làm bản di chúc về nếu mình bị như vậy mình không muốn dùng ống thở để mình đi luôn, như vậy mình có tạo nghiệp không?

TT trả lời: Đúng vậy, là mình tạo cái nghiệp cho mình, cũng như mình giúp người ta chết hay là mình làm bản di chúc là mình không muốn dùng ống thở, nó giống như là mình tự sát, mình không sát sanh, nhưng mình không chịu dùng ống thở là mình giết mình cũng là sát sanh, tại vì mình là chúng sanh. ./.