Monday, January 15, 2024

038 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 5 tháng 11, 2022

 038 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 5 tháng 11, 2022 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "038 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mahataduka = Cực kỳ nghiêm trọng, rất là trọng đại

Mahata là cự đại là lớn 

Maha là đại. 

Những pháp cực kỳ nghiêm trọng là kiết sử, những pháp phiền não quấy rầy tâm thức của con người.

Học pháp mà nói mahata tức là pháp cự đại. Nếu pháp cự đại, pháp lớn thì có pháp nhỏ.

Thì pháp ngược lại MahatadukaPāramāsa là khinh thị, miệt thị, là đáng coi thường, pháp này không tốt, nó ngược lại pháp quan trọng.

Những pháp đó phải có pháp đối chiếu. Trong Nhị Đề của  bộ Paṭṭhāṇa Sư đang viết sắp in ra có những cái này Đức Phật Ngài nói hết mà mình không biết những cái quan trọng nó ràng buột mình, nó cột trói mình hay nó bao vây tâm thức của mình thì mình tu không có kết quả.

 Do đó, những pháp này là những pháp này thuộc loại pháp động tâm làm cho tâm của mình phải suy tư. Thì biết người, biết mình, biết ta. Mình phải biết trong ta, ngoài ta, và những pháp nào khinh thị, pháp nào phải coi thường, pháp nào không đáng quan trọng, pháp nào quan trọng, ta biết để cân nhắc để lo tu tập mới được.

Chứ còn không, khi mà quí Phật tử ra trận chiến không biết pháp để mà đối phó khi đối diện thì rớt liền, giống như chiến sĩ ra trận, tại vì họ không có kinh nghiệm mà họ không biết pháp, họ không được huấn luyện đầy đủ, do đó con đường chết nhiều hơn con đường sống, không có cơ hội may mắn. 

Nên đường tu của mình cũng vậy, không có đại, không có tiểu, nhưng có cái quan trọng và cái đáng khinh thị không đáng để ý tới.

Thiền sinh hỏi: Lúc đó tâm của mình là bất ý tức là mình sân, thì tâm sân vừa khởi lên thì con câu sinh với tâm vô sân, rồi thường cận y với nó, sau đó con đi vô gián cận y luôn với tâm vô sân đó.

HT trả lời: Cô nói khi tâm sân của cô khởi lên, cô liền câu sinh với vô sân, để trị cái sân vừa khởi lên, rồi thường cận y, rồi vô gián cận y. 

Không được, cô không có cách nào mà cô làm được điều đó, mà đó chỉ là Vipallāsa  là điên đảo. Ngay khi mình có một pháp sinh lên mà câu sinh của mình không phải là câu sinh với nó hay là câu sinh một pháp khác với nó, không phải như vậy.

Cô nói cô đang có sân, cô câu sinh với vô sân, không có. Cái đó là cô bị điên đảo rồi, cái đó nguy hiểm lắm. May mà cô nói ra, chứ cô không nói ra cô giữ cái đó rồi cô hành thì cô đi tuốt luốt luôn, không có kết quả. Khi nào muốn có câu sinh, có thường cận y, hay vô gián v.v... với pháp thì mình không có câu sinh với vô sân để diệt sân. 

Cái sân này chỉ đi với sanh và diệt ngay đây chứ không câu sinh với Vô Sân để diệt Sân

Mình đừng nghĩ tới Vô Sân mà nghĩ tới Sinh / Diệt, lúc nãy không có giờ nó có, mình niệm cái đó là tâm thiện của mình. Cái tâm thiện của mình với cái niệm của mình với cái Sinh / Diệt, mình không đụng vô cái sân. Mình niệm cái Sinh lên mình Niệm cái diệt lên rồi mình đi theo cái đó là mình có Pháp.

Bài Pháp Sư nói tuần vừa rồi là Sư nói có nhiều pháp thiện mà mấy cô không có bắt được, nó hiện bày mà không nắm bắt được.

Cô đi tìm một cái pháp nào đó là cô sai lầm rồi, ngay đó, chính đó. Nên Đức Phật Ngài nói chính đó, nó khởi lên, nhân sinh khởi lên, diệt tắt tại đó và chính đó, và mình giải thoát tại đó.

Còn mình đang sân mà nhìn vô cái sân thì nó quay mình liền, nó là nghiệp lực, nó là nghiệp chủ, nó làm mình điên đảo bấn loạn luôn.  

Chính cái sân đó mà hồi nãy không có giờ nó có, và chính nó đang có giờ nó diệt tắt, mình an trú trong đó mình giải thoát. Đó là Pháp thiết thực nhất, và Pháp đó là trí tuệ nhất, và pháp đó không có tìm nơi nào khác, mà mình bắt ngay cái diệt. Sự thật là như vậy.  Hồi nãy không có giờ nó có, nó Sinh thì nó Diệt, nó liên tục như vậy.

 Mình đi Pháp Niệm Xứ, Pháp Niệm Xứ có 5: 

Triền Cái, 

Ngũ Thủ Uẩn, 

Lục Nhập, 

Thất Giác Chi, 

Bát Chánh Đạo. 

Thì Lục Nhập ở giữa. Từ Lục Nhập trở lên Triền Cái là những pháp bất thiện đang có.

Từ Lục Nhập trở xuống là những pháp bất thiện mình đang cần để tu tập.

Do đó, Giác Chi đi lên Triền Cái.

Bát Chánh Đạo đi lên tới Ngũ Thủ Uẩn.

để hình 12.00


Như vậy thì sân này thuộc loại nào, nếu nó là triền cái thì cô niệm 1, 2 nó tan liền, còn nó lập đi lập lại thì nó là kiết sử.

Thì sân độc triền cái thuộc một trong 5 hay 6 triền cái. 

Nếu ta nói theo Kinh Tạng thì có 5: Tham dục triền cái, sân độc triền cái, hôn thụy triền cái, trạo hối triền cái, hoài nghi triền cái. 

Nhưng nói theo Abhidhamma thì có 6, do có thêm Vô Minh Triền Cái.

Nếu mình đang ngồi thiền mà tâm sân khởi lên thì nó che mất để mục của mình. Cái đó thuộc về Triền Cái. 

Nhưng khi mình đang ngồi thiền mà mình thấy rõ con đường mình đang hành mà cái sân này lên nó làm cho mình không còn biết cái gì hết về con đường mình đang đi, làm cho tâm mình bấn loạn, hoảng hốt, lo sợ. Nhất là trong giai đoạn từ Tuệ thứ 5 tới Tuệ thứ 6, Tuệ thứ 7, đó là kiết sử chứ không phải Triền Cái. Thì mình phải đi Bát Chánh Đạo, chứ không đi Giác Chi. Còn hồi nãy mình niệm Giác Chi mình đi lên.

Tuệ thứ V - Bhanganàna - Tuệ Diệt

Tuệ thứ VI - Bhayanàna - Tuệ Sợ

Tuệ thứ VII - Adinavanàna - Tuệ thấy Hiểm Nguy của Ngũ uẩn.

Thì Giác Chi đi lên tới Triền Cái nhìn qua cái Sinh, Diệt, đưa qua Bát Chánh Đạo lấy được Ngũ Thủ Uẩn đi qua tới đường Đạo Quả, tới Pháp Niệm Xứ liền. Mình phải làm cái đó, còn nếu không thì mình niệm giống như Thiền Chỉ thôi. 

Do đó, mình phải xác định được Sân này thuộc loại nào.

 Sân thuộc Triền Cái mình đi Thất Giác Chi.

Sân thuộc Kiết Sử mình đi Bát Chánh Đạo.

Do đó, khi Sân khởi lên trong mình. Thí dụ như hồi nãy mình không có Sân, mình ngồi chút xíu mình nổi sân lên. 

Trạng thái như thế nào gọi là Sân lúc đó mình đang có . Thí dụ lúc mới ngồi mình không có thấy chán, không thấy nhức, không thấy khó chịu, lúc nãy mình ngồi thấy hoan hỉ lắm, nhưng ngồi chút xíu mình thấy chán, thấy mệt, nhức, khó chịu, thì mình nhìn vô pháp đó là Pháp Sân, thấy khó chịu là Pháp Sân.  Mình nói cái này không phải là đề mục của mình, đề mục của mình đang niệm là hơi thở, hay đề mục mình đang niệm về thân niệm xứ hay thọ niệm xứ, cái này nó đang hiện là Sân. Thì bắt đầu mình nói cái này là Triền Cái, khi mình nói cái này không phải là đề mục của mình, là mình đang làm 2 chi; Niệm Giác Chi và Trạch Pháp Giác Chi. 

- Niệm Giác Chi là mình nhìn nó.

- 2 là Trạch Pháp Giác Chi cái nàykhông phải là của mình đang tìm hay là mình đang có, thì đó là Trạch Pháp. 

- Rồi bắt đầu đi tới Cần Giác Chi, 

- rồi bắt đầu đi tới Hỷ Giác Chi, 

- tới Lạc Giác Chi, tới Định giác chi,

- tới Xả giác chi. 

 Thì những cái đó là những lúc trạng thái khó chịu đang lởn vởn trong tâm mình thôi. Nếu đang đi với trạng thái Niệm diệt Triền Cái đang lởn vởn trong tâm mình. Còn nếu như là Kiết Sử, hở chút xíu là sân, đụng vô là sân, sân kéo dài làm cho mình trạo hối, đó là Kiết Sử thì mình phải đi Bát Chánh Đạo.

Cái gì làm cho sân kéo dây dưa? Cái gì làm cho mình không dứt được? Sân này theo hoài làm mình khó chịu bực bội. Là do Tập Đế của mình. Ái giữ lại, giữ không chịu buông, đó là do Tập Đế của mình làm khổ mình. 

Sân này không hết được. Minh không nhìn Sân nữa, mình nhìn Tập Đế, là Bát Chánh Đạo, với Chánh Kiến, mình tìm ra được. Thì mình tìm ra được cái này là Tập Đế làm ra thì mình phải có Chánh Tư Duy liền, ly tham, ly sân, ly oán hận, thì mới ra khỏi vị trí của Sân Kiết Sử này.

Do đó, mình phải định danh được và mình phải sát định được nó là loại pháp nào để đưa nó vào pháp Niệm Xứ,

Lục Nhập là 6 cửa nhập vô; Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, và Ý, thì sân này ở cửa nào, cửa sân không ở Nhãn, cửa sân không ở Nhĩ, cửa sân không ở Tỷ, 5 thức này có, nó chỉ có cửa Ý thôi. Thì Lục Nhập này loại ra được liền.

Sân không có trong cửa Nhãn, nó thuộc cảnh pháp. Cảnh Nhãn chỉ nằm trong cảnh sắc thôi, mà Nhãn không có Sân, Nhãn là xả thọ.

Nhãn, nhĩ, tỷ không có Sân. Sân thuộc ưu thọ. 

Nhãn không có sân, nhĩ không có sân. Mắt chỉ thâu cảnh thôi nên nó không có sân, mà sau đó có cái gì làm mình nổi sân lên thì cái đó nó thuộc về Tâm Tiếp Thâu, nó bắt đầu đưa qua Ý Thức thì một là thiện, hai là bất thiện. Sau khi Tâm Tiếp Thâu, Thẩm Tấn đẩy qua tâm sân hiện lên với trạng thái tiếp thâu cảnh bất toại nguyện đó, thì lúc bấy giờ nó thuộc là Pháp và thuộc về Ý Thức Giới. Đổng lực của nó là Ý Thức Giới. 

Thì Lục Nhập là 6 cửa vô, thì loại hết 5 cửa chỉ còn cửa Ý thôi. Mà Ý vô thì thuộc về Pháp Niệm Xứ.

Thì Pháp phải lọc chứ không có ngồi thụ động được, mình đang tu không  thể nào ngồi thụ động được, mình phải năng động và mình phải tích cực lọc, mình phải gạn lọc giống như người thợ đãi vàng, đãi bỏ cát bùn đất để còn lại vàng ròng, thì mình phải lọc hoài giống như mình thanh lọc tâm thức của mình, pháp nào vô mình lọc, thuộc về Pháp Niệm Xứ, nó không thuộc về Thân Niệm Xứ.

Pháp niệm xứ có 5: 

Triền Cái, 

Ngũ Thủ Uẩn, 

Lục Nhập, 

Thất Giác Chi, 

Bát Chánh Đạo. 

Thân Niệm Xứ có 6:

1. Hơi thở.

2. Oai nghi

3. Biết mình (tỉnh giác)

Còn 3 cái kia mình loại bỏ ( 4. quán tưởng 32 thứ uế trược trong thân, 5. quán tưởng 4 thành tố; đất, nước, lửa, gió trong thân. 6. quán tưởng tử thi).

Người hành giả niệm Thân Niệm Xứ và trình pháp với Thiền Sư về Thân Niệm Xứ thì ta chỉ niệm hơi thở, người đó nói: "Hơi thở con vô con biết, hơi thở con ra con biết". Đó là Thân Niệm Xứ. Không có thích, ưa, ghét trong hơi thở của mình, chỉ có niệm thôi. Niệm oai nghi, biết oai nghi đi, oai nghi đứng, oai nghi ngồi, oai nghi nằm. Niệm Thân Niệm Xứ chỉ như vậy thôi. 

Còn ghét, khó chịu, bực mình, đó là thuộc về Pháp. Đang nói Thân Niệm Xứ lại chạy qua Pháp Niệm Xứ, như vậy là không đúng.

Do đó, chính những người đi trình pháp họ cũng không nắm được Pháp mình muốn trình.

Còn nếu nói tới thọ, thì mình nói ngũ thọ, nếu nói tâm thì mình nói thiện và bất thiện, hay tâm duy tác, hay tâm quả, chứ không nói tràn lan.

Thiền sinh lên trình pháp, vị Thiền Sư hỏi: "Bữa nay hành giả trình cái gì?" . Một là vị Thiền Sư đề nghị, hai là mình muốn trình. Chỉ có 2 cách đó thôi. Thì thường thường mình muốn cái nào, tâm lý của là thiền sinh hành giả, mình lên trình pháp cho vị Thiền Sư hay là mình nói, vị Thiền Sư muốn nói cái gì mình trình cho vị Thiền Sư theo ý vị Thiền Sư muốn.

Mình là thiền sinh lên trình pháp với Thiền Sư, Có 2 vế: 

- 1. Thiền Sư hỏi, 

- 2. Mình trình.

Tất cả các Thiền Sư ở trong các thiền viện họ có 2 điều trên:

- Một là thiền sinh lên hỏi hay trình pháp vị Thiền Sư nghe và trả lời. 

- Hai là Thiền Sư hỏi mình nói. 

Như vị Thiền Sư hỏi thiền sinh nói về Thân Niệm Sứ ra sao, thì thiền sinh nói về Thân Niệm Xứ. Hoặc Thiền Sư hỏi Thọ Niệm Xứ ra sao thì thiền sinh nói về Thọ Niệm Xứ. Hoặc nói về Pháp Niệm Xứ.

Nói Thân Niệm Xứ thì thiền sinh trả lời: con theo dõi hơi thở, con để ý oai nghi, và con biết mình. Những điều đó vị Thiền Sư lắng nghe có gì thì Thiền Sư bổ túc.

Nói về Thọ Niệm Xứ thì thiền sinh nói về 5 thọ.

Do đó, quí Phật tử phải hiểu nào là Thân Niệm Xứ, nào là Thọ Niệm Xứ, thế nào là Tâm Niệm Xứ, thế nào là Pháp Niệm Xứ, mình phải biết Pháp mình đang đi và tuần tự mình đi hay mình chọn cách mình đi.

Thí dụ, sáng nay với tinh thần minh mẫn, thể xác khỏe và với trạng thái thích hợp trong việc pháp hành thì mình đi Tâm Niệm Xứ, rồi Tâm Niệm Xứ liên quan đến thọ đi qua tới pháp ảnh hưởng tới thân, thì bắt đầu mình quán sát. Nếu như mình mệt mỏi khó chịu, mình không đủ sức đi Pháp Niệm Xứ thì nó yên bày qua Pháp Niệm Xứ ảnh hưởng tới tâm của mình, ảnh hưởng tới thân của mình, tới thọ của mình, nó lôi kéo nhau liên đới nhau, mình phải có kết hoạch và có pháp mình nương để tu, chứ không phải mình đi lơ tơ mơ.

Thì có 2 cách là: một để Thiền Sư hỏi mình trình bày, hai là mình hỏi Thiền Sư giảng cho mình nghe.

Cũng là Tứ Niệm Xứ; Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Thì trong 

Thân có 3

- nói về hơi thở có 2 là hơi thở ra hơi thở vào,

-  nói về oai nghi có 4 là đi, đứng, nằm, ngồi, 

- biết mình thì có 2 là Niệm và Tỉnh Giác

Thọ có 5 là; Hỉ, Uu, Khổ, Lạc, Xả.

Tâm có 2 là; Thiện và Bất Thiện. Mỗi cái hiện bày qua tính cách của quả

Pháp có 5 là: Pháp đang bị Triền Cái. Pháp đang bị Ngũ Thủ Uẩn.  Pháp đang ở trạng thái Lục Nhập thôi chưa vô hiện bày cái Pháp. Pháp đang đi Giác Chi. Pháp đang đi là Bát Chánh Đạo.

Mình phải tổng kết nó với một cách nhất thống thì bắt đầu mình đi theo cái đó,  như vậy không có lạc đề, và không ra ngoài khu của nó.

Thiện, Bất Thiện có quả.

Pháp Niệm Xứ thì có 5 

Triền Cái, 

Ngũ Thủ Uẩn, 

Lục Nhập, 

Thất Giác Chi, 

Bát Chánh Đạo. 

Khi tâm sân khởi lên thì biết mình nằm ở đâu rồi. Một là nó nằm ở Tâm Niệm Xứ, thì lúc đó cô có tâm sân, hai là có pháp sân độc triền cái.

 Pháp khác với tâm ở chỗ nào. Khi nào có tâm sân, khi nào có pháp sân độc triền cái, hai cái khác nhau.

Khi nào có tâm sân? Lúc đó là đang ở trong tâm sân là có tâm sân.

Khi nào có pháp sân độc triền cái? Cái này là đang có tâm niệm và pháp sân đang có nên, tâm mình đang niệm chứ không có tâm sân, phải ghi nhận ra được cái đó, hai cái khác nhau.

Pháp sân độc triền cái là niệm ghi nhận pháp sân đang sinh. Mình có tâm niệm mình đang ghi nhận, hỏi có sân không, không, thấy có pháp nghịch thôi chứ tôi không có tâm sân, tôi nhìn cái pháp tôi thấy pháp nghịch mà tôi không có tâm sân, tôi vẫn bình tỉnh để niệm tiếp. Thì đó là pháp triền cái hay là pháp niệm xứ thôi.

Pháp sân độc triền cái là pháp mà tâm ta có niệm, thì tâm với pháp, 2 cái khác biệt nhau. 

Mình giữ cái niệm thôi, cái pháp nó không xâm chiếm vô tâm niệm mình.

Mình giữ được cái tâm niệm mình bằng cách nào? Bằng Tương Ưng Trí. Tâm mình có trí mình nhìn đâu là pháp, nó không xâm nhập vô mình được, chứ còn không nó ăn tuốt luốt vô trong mình, rồi nó ngấm ngầm trong đó.

Cái đó phải huân tập giữ lắm, thì mấy cô phải hiểu khi pháp sân khởi lên, pháp nghịch lên, thì mình phải biết pháp nào để mình nương với tâm mình có cái pháp đó, chứ không là thua.

Thí dụ. có 2 người, một người có tánh sân, chuyện nhỏ chuyện lớn gì cũng sân, cũng bực bội khó chịu gay gắt và người bạn kế bên có tâm sân không?

Thế gian này là phiền não mà mình đang sống trong thế gian phiền não này thì mình có bị phiền não không? Phiền não là tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục.

Vậy thì ở trên đời này có người sân có người không sân.

Những cái đó mà mấy cô không đặt cho mình cái suy nghĩ trong cuộc đời này mấy cô sẽ rớt.

Sư sẽ gửi cho mấy cô bài "sống trên đời này khó" vì rất nhiều phiền não, bất toại nguyện, khó chịu, không vừa ý, mình sống có gì được hài lòng. Những cái đó là không bao giờ mấy cô tìm ra được phút giây an lạc cho mình, chứ đừng nói được hưởng sự an vui, phút giây an lạc cho mình không có.

Pháp sân này là pháp bất thiện. Nhưng cái sinh / diệt là thiện, là pháp trung thực, nó không có gì là bất trung thực trong đó, nhưng mình nhìn vô được nó mới là tu tập. Mà mình không được nó thì coi như là mình rớt đường tu.

Niệm không được sinh / diệt, mình niệm sân thôi thì pháp sân này là phiền não cho mình.

Nếu sân mình không niệm được thì nó là phiền não của mình. Hay sân này là một kiết sử của mình ?

Sư đặt cái vế. Khi pháp sân lên mình giữ được cái tâm.

Mình đang ở trong pháp sân, pháp bất toại nguyện, có tâm sân đang niệm, mà niệm được cái sân này qua góc độ sinh và diệt thì ta thoát ly được pháp Sân Độc Triền Cái mất đi với Trạch Pháp Giác Chi của mình lọc được pháp đó ra qua pháp Giác Chi. Nhưng nếu không được, thì sân này là một phiền não của mình hay nó là một kiết sử của mình.

Vậy thì khi pháp sân này lên nó là một phiền não hay là một kiết sử. Để Sư cách nghĩa thêm. 

Phiền não này cứ vấn vương mình, kiết sử này làm cho mình cứ ôm ấp hoài. Kiết sử có mầm móng trong người mình còn phiền não nó nằm áp lên kiết sử, giống như cục đá nổi rêu lên.

 Pháp sân áp lên tâm của mình, thì nhìn pháp phiền não là mình tu. Còn nếu như kiết sử của mình dể sinh ra khi bất cứ cảnh nào đến không vừa ý kiết sử sinh lên liền, thì mình phải tu kiết sử.

Phiền não đang áp lên tâm mình thì mình tu phiền não.

Còn nếu như kiết sử của mình bất cứ pháp nào vô đều có kiết sử lên, tập khí của mình, tánh nết của mình thì đó là kiết sử thì mình phải tu kiết sử.

Như vậy thì sân này đặt giả thuyết chỉ là phiền não của mình thôi.

Tâm ---> Phiền não ---> Cảnh

Có cảnh thì phiền não này tác động đến tâm liền. Cảnh trở thành phiền não tác động đến tâm.

Kiết sử không có cảnh và luôn luôn tác động đến tâm mình, nó chi phối tâm mình, luôn luôn làm chủ. Không cảnh nó cũng dẫn dắt phiền não.

Phiền não là khi có cảnh làm tâm mình bị giao động.

Cảnh tham làm phiền não đến mình

Cảnh sân làm phiền não đến mình

Cảnh phóng dật cũng làm phiền não đến mình.

Hỉ, nộ, ái, ố cũng làm phiền não đến mình.

Nhưng, không có cảnh mà lúc nào mình cũng có kiết sử này đang đeo đuổi mình như bóng với hình.

Phiền não phải có cảnh. Cảnh tác động vô tâm làm cho mình bị chi phối.

Còn không có cảnh, mình ngồi không mà kiết sử nó lên cuồn cuộn.

Cuộc đời của mình nhiều phiền não là do mình bắt nhiều cảnh, cảnh vui, cảnh buồn, cảnh không thích.

Bây giờ không có cảnh ảnh hưởng tới tâm mình, tâm mình trong suốt. Bây giờ không có cảnh mà tâm mình mờ ám che ám. 

Kiết sử là nghiệp là nghiệp chủ Kammassakatā 

Nếu mình giữ không được tâm của mình thì cảnh vui, cảnh buồn đến mình sẽ bị chi phối. Rồi bây giờ mình nói mình không có cảnh, mình không tiếp xúc với ai, mình không gặp cảnh, không muốn đối diện cảnh, không nghĩ tới cảnh thì tâm mình có bị kiết sử, cái thói quen, cái tánh nết của mình hiện bày, hay là mình luôn luôn giữ. mình làm chủ được tâm mình.

Bây giờ tôi có cảnh tôi bị phiền não.

Thí dụ. Tiền là cảnh hay là kiết sử?

Nếu tiền là cảnh thì nó chi phối tâm mình. 

Nếu tiền là kiết sử, nó cột trói cuộc sống của mình, tâm của mình dính vô kiết sử này. Tâm mình bị kiết sử cột, nó không buông tha mình. Còn phiền não nó tới nó đi. Thì tiền là phiền não, hay tiền là kiết sử?

Câu chuyện của một vị Bồ Tát Sumedha được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký. Thì khi Ngài được thọ ký xong, Ngài thốt lên: 4 A Tăng Kỳ nữa vị này sẽ trở thành Phật có tên là Gotama, có người cha là Suddhodana, mẹ là Maya, có người đệ tử là Ananda làm thị giả. Xong Ngài trở về làm việc xả thí 7 đời, tài sản kho báu của Ngài cho hết, Ngài nói: "Những cái này là những phiền não, nếu mình đi tới trạng thái ly dục ái, thì những tài sản này là những phiền não." Ngài đứng phát của cải trong 7 ngày, thì Ngài nghĩ mình đã bỏ rồi, thì mình còn đứng đây phát của cải làm chi, và Ngài bỏ đi, không đứng phát nữa, Ngài mở cửa cho ai muốn vào lấy gì thì lấy, Ngài không dính mắc nữa, Ngài buông rất nhẹ nhàng. Ngài nói: "Đây là những sợi giây phiền não, nó vướng bận tâm thức ta."

Ngài buông bỏ và ra đi. Nhưng Ngài hết kiết sử chưa. Ngài bỏ đi vô rừng, Vua Trời Đế Thích cho người thợ xuống xây cho Ngài một thảo am để Ngài tu, Ngài có đủ điều kiện để Ngài tu. Ngài hết kiết sử chưa? Ngài hết phiền não không?

Thì tiền là phiền não, hay là kiết sử là phiền não?

Bây giờ không có một cái gì ràng buột mình hết thì mình hết kiết sử chưa? Nếu mà chưa hết kiết sử thì nó còn ám ảnh dưới một góc độ phiền não trong tâm. Buông hết như Ngài Bồ Tát Sumedha. Như Bồ Tát Vessantara 5 pháp đại thí cho hết, Ngài Bồ Tát Vessantara vô rừng cho luôn vợ con, vậy Ngài hết kiết sử chưa, phiền não có hết không? Không.

Chính cái đó là cái chổ mình đang nói. Vậy thì cái nào là phiền não? Cái nào là kiết sử?

Khổ Đế: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắt hội, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn / Phiền não

Tập Đế: Ái dục; Tham, sân, si / Kiết sử

Một dãy phiền não trong kiết sử mình ôm ấp. Và mình ôm ấp những tính khí mình chuốt phiền não vô trong người mình.

Giờ không có cảnh, những cái gốc mà mình chưa diệt nó lại có một cảnh khác hiện bày.

Thì "tiền" thuộc loại "ái biệt ly", tiền đến rồi đi, mất nó rồi mình nhớ nó, mình muốn có nó mà không có, mình mong cầu không được, cái đó là một cái phiền não, mình bị chi phối, nhưng cái gốc của nó là ái dục, nó thuộc tham ái kiết sử, lên tới Bất Lai mới hết tham ái kiết sử.

Tập Đế là gốc phiền não, gốc của mình là kiết sử. Do đó, chính cái đó mình không phân biệt được cái nào là kiết sử cái nào là phiền não thì không có kết quả trên đường tu.

Khi người ta hỏi quí Phật tử ở trong vế nào, không trả lời cả 2 được. Quí Phật tử trả lời trong vế Tập Đế (ái dục) kiết sử, và mọi chuyện sinh ra trong vế Khổ Đế (phiền não), chứ không phải có cả 2. Tôi ở trong vế Tập Đế, tôi chưa ra, do đó khi tôi chưa ra khỏi Tập Đế thì mọi chuyện sinh ra nó sẽ nối tiếp ra, do đó không đứng 2 vế được.

Paṭṭhāṇa là pháp hành, do đó Sư ráng cho in ra quyển này để quí Phật tử đọc.

Quí Phật tử phải biết về "ta" trước.

Cô Kim Anh sợ gặp Sư, Sư hỏi tại sao, cô nói tại vì gặp Sư, Sư bắt con phải đọc sách, mà con không dám lấy sách vì con không có đọc, do đó để sách đó cho người khác đọc, nên con không dám gặp Sư.

Thì bà đang phiền não hay bà đang kiết sử? Bà đang kiết sử, bà đang giữ cái ta của bà.

Sư nói: Không cô ơi, đừng có làm vậy, đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, chỉ khó vì lòng mình, không vì lòng người ngại núi e sông, mình đừng để ý tới. 

Lòng mình ngại núi e sông là do mình đi không được. Cũng vậy khi Sư đưa sách cho cô đọc, cô nhận cô mới biết giá trị của nó. Còn bây giờ cô không đọc, cô nhường cho người khác đọc, cô đừng nghĩ tới người khác.

Mà Sư biết trong lớp học của Sư toàn bà già, Sư đưa sách đem về cất trong tủ chứ không có đọc. Bà hỏi tại sao vậy Sư. Sư nói cô không hiểu, khi cô qui y thì cô qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Pháp cao hơn Tăng. Ngoài Phật ra, đứng thứ nhì là Pháp, sau khi Đức Phật đắc đạo quả, Ngài quán xét coi trong tam giới này nơi nào để ta tôn kính, Ngài nói không có nơi nào để ta tôn kính, Ngài là tối thượng rồi, chỉ có Pháp là Ngài tôn kính thôi, mà Pháp Ngài đặt ra hàng Nhị Bảo, Tăng là hàng Tam Bảo đứng thứ 3. Quyển kinh sách nào Sư ra bìa sau đều có hình Chư Thiên giữ Pháp trân quí, nơi nào có Pháp thì Đức Phật nói Chư Thiên phải hộ trì Pháp tới 5,000 năm mới hoại giáo pháp, do đó nhà nào có Pháp Bảo thì có Chư Thiên hộ trì Pháp. Nên người Thái Lan, người Cam Bốt, người Miền Điện, họ thỉnh kinh sách về dù không đọc họ vẫn để vì có Chư Thiên hộ trì Pháp Bảo trong nhà. Có Pháp Bảo, có Chư Thiên là có phước. Nên mấy bà già trong lớp học của Sư lấy kinh sách về hết. 

Lý do là quí Phật tử sống trong phiền não và kiết sử của mình nên Sư khuyến khích mấy cô mang kinh sách về để sống trong Pháp, để mình ra khỏi kiết sử cố chấp bảo thủ, dính mắc, phiền não, mình không hay biết mình bị kẹt trong đó.

Sư đi từng bước và Sư phải dẫn dắt đi. Từng cái Sư đều có tác ý, mà tác ý của Sư là Sư đánh bể kiết sử của quí Phật tử, để không có phiền não xâm nhập vô hay tấn công vô.

Mình lo Chư Thiên trong nhà mình, cái logo Chư Thiên bên Miến Điện tràn ngập, trong y áo, trong sách vở có hết và logo 24 Duyên từ thiền viện Mahashi ở trong các bộ giáo dục của Miến Điện đều lấy duyên làm logo của họ, Sư phải học, Sư mới tìm ra cái đó để phá vỡ cái kiết sử của mình, thì mình không có phiền não xâm nhập vô được, thì mình phòng thủ được và mình tu tập được.

 Cái đó là phương tiện, giờ mình qua phần tu tập.

Bây giờ tới phần tu tập, trong Tạng Luật Đức Phật Ngài ban bố luật cho Chư Tăng có Tứ Thanh Tịnh giới:

1.  Pātimokkha Giới Bổn

2. Thu thúc lục căn

3. Nuôi mạng chân chánh

4. Quán tưởng tứ vật dụng, Khi xử dụng tứ vật dụng phải quán tưởng chứ còn không bị đứt giới, thiếu nợ chúng sinh.

Thì các quí Sư đọc cuốn Tứ Thanh Tịnh Giới thì đọc qua bộ Chú Giải Aṭṭhakathā các nhà Chú Giải nói là Đức Phật Ngài ban bố giới luật này như một tràng hoa trang sức cho vị tỳ khưu mà sống đúng trong giới thì vị tỳ khưu đó hết sức là đẹp đẽ.

Vậy thì vòng hoa, đồ trang sức, trang điểm lên người với những giới luật mà Đức Phật Ngài ban bố chỉ là tô điểm bên ngoài thôi nếu họ không hành. Mấy vị tỳ khưu lấy 227 giới làm trang sức nhưng không hành, không hành giới nào, không giữ giới nào thì họ sống theo kiết sử.

Thế thì Tứ Thanh Tịnh Giới không trở thành trang sức, mà sống theo kiết sử ái dục tham sân si trở thành phiền não cho mình. Đời sống của mình không bao giờ được toại nguyện, mình sống trong oán tắng hội, không có gì mình toại nguyện, mà mình sống với đời sống của mình không có gì mà được mong cầu, cầu bất đắc, và mỗi cái gì vui buồn mình đều cách ly và cuối cùng con người mình đầy dẫy phiền não trong các kiết sử mình đang cột trói. Chưa kể; sinh, lão, bệnh, tử, cuốn hút trong trạng thái luân hồi

Như thế thì sau khi hiểu được thế nào là kiết sử, sau khi hiểu thế nào là phiền não, thì mình bắt đầu lo tu tập.

Cái quan trọng là mình phải tu, không lo phần trang sức nữa.

Như vậy thì mình tu có 3 bước:

1. Sát na Định

2. Cận Định

3. Nhập Định.

1. Sát na Định. Niệm cái nào thì mình phải có Sát Na Định trong cái Niệm đó. Niệm một pháp nào sát na định ngay cái niệm đó, thì nó sinh ra một cái lực I. 

2. Cận Định. Niệm cái nào mà có sát na định mình phải có Cận Định trong đó thì nó ra một cái lực II. Niệm cái nào mình phải có Định trong đó, mình đang Niệm cái này mà mình không có Định thì tâm mình nghĩ tới cái kế tiếp sinh ra phóng dật. Do đó, Niệm cái nào có Định cái đó.

 Thí dụ như Niệm hơi thở vô 

Thân Niệm Xứ ---> hơi thở ----> vô -----> Định 

Thí dụ, đang niệm Thân Niệm Xứ, niệm hơi thở vô có định trong niệm hơi thở vô, mình đang giữ cái định. Hơi thở đi rồi, hít vô, niệm, định, một sát na. Cái thứ 2 hít vô, niệm, có định nữa.

Nhìn đàn kiến đi qua

- - - - - - - - - - đây là đàn kiến đi qua

Mình nhìn đàn kiến đi, con thứ nhất đi qua, kế đến con thứ 2 đi qua, kế đến con thứ 3 rõ hơn nữa, thì nhìn những con sau rõ hơn con đầu vì mình chăm chú nhìn.

Sư hỏi: Con kiến thứ nhất đi qua mình nhìn, con kiến thứ hai đi qua mình nhìn, cái tâm của mình nếu không có định trong cái nhìn này, thì tâm mình nghĩ đến con kiến sắp tới, chứ không ở trong con kiến mình đang nhìn này, thì mình phải tu cái này.

Nếu nhìn được con kiến thứ nhất, rồi nhìn con kiến thứ hai nó đang đi qua, mình nhìn từ một con, mỗi cái niệm có định trong đó.

Bây giờ trở lại. Hít hơi thở vô, niệm, hít vô, niệm, hit vô, niệm, mình ở trong cái hít vô niệm hoài, làm như vậy hoài thì sẽ có Định Lực, và Niệm Lực lên lên và nó diệt phóng dật của mình kiết sử của mình, nó phải đi như vậy.

3. Nhập Định. Niệm, sát na Định, Niệm một cái nữa, Cận Định hơn. Tại vì mình khắn khích với nó mình có một lực III, mình nhập định.

Sát na định ---> vô --> có một cái Lực, nếu mình sống trong Pháp Lực ---> thì nó ra một cái Pháp.

Mà nếu như  Lực mình không ra được một cái Pháp thì mình đang sống với kiết sử, mất một cơ hội.

Nếu có lực mà sống trong pháp. Còn nếu không có lực thì sẽ không sống trong Pháp mà trở lại với kiết sử "Tôi" 

Nếu sát na Định, định luôn trong cái vô đó, vừa vô niệm định liền thì sống trong Pháp, mà nếu như nó vuột rồi mình không có chuẩn bị thì kiết sử mình trở lại nó sinh ra 2 cái: 1 biết vuột mất, 2. làm lại. Nói liền trong tâm mình. Mình biết mình vuột rồi mình nói liền trong tâm "làm lại" cái đó là kiết sử. 

Còn nếu như không có, vừa niệm thì bắt dính luôn cái đó thì nó trong Pháp liền. 

Mình vuột cái định này, mình biết mình vuột cái vô này thì mình trở lại kiết sử liền, giờ mình biết rồi biết cái tôi mình bị vuột và mình nói lại trong tâm mình là "làm lại", cũng là trong kiết sử.

Giờ ta trở lại đàn kiến.

Con kiến mà nó qua rồi, vuột rồi, bắt đầu nhìn con kiến khác đang bò tới.

Thì cách này mình phải sát cận nó, mình phải gia cố nó, và tập trung nhiều nữa, nãy mình lơ là quá, sơ hở quá, khinh xuất quá, mình không có tập trung nhiều, qua rồi, bây giờ cái thứ hai này mình phải lo chuẩn bị.

Cận ---> sát cận

       ---> gia cố

       ---> tập trung

nhiều hơn nữa, nhiều hơn sát na định. Hơi thở vô, có Lực và có Pháp.

Quá trình Cận Định nó có Lực, khi hơi thở hít vô có Lực liền và có Pháp, không có mình trong đây. Nếu không có Pháp thì trở lại kiết sử "tôi" và "làm lại". Mình tới Cận Định rồi mà cũng bị vuột nữa. Con kiến thứ 2 này là mình đã tập trung vô rồi. Hồi nãy con kiến kia mình chưa tập trung hết, tới con kiến thứ 2 mình tập trung vô hết rồi mà nó vô nữa thì làm lại.

 Do đó,  nghĩa 3 bước nó không có ý nghĩa là tiền trình như vậy mà có ý nghĩa là sự tu tập của mình phải đi như vậy.

Không phải Sát Na Định, rồi tới Cận Định, rồi tới Nhập Định, nhưng sự tu tập của mình phải gia cố lên như vậy đó, tăng bước lên. 

Mỗi cái: 

- Để ý, tập trung, chống ngừa phóng dật, để ý.

- Tập trung, chống ngừa thất niệm, để ý, tập trung.

Nhìn thấy được thực tướng. Có 4 bước đi như vậy. Một cái thôi, đừng có nhiều, mà cái nào phải ra cái đó, cái nào phải có kết quả cái đó.

Nhập, chỉ có một khối thôi. Tâm ta + Cảnh thành một khối

Hai cái trên; Sát na Định, Cận Định chưa thành một khối. Giờ mình tập trung hết vô, lấy hết năng lực vô tập trung, không phóng dật, không lo ra, không bị chi phối. Mình chỉ Niệm hít vô thôi, và là một khối với hít vô thì có Pháp. 

Tới bước thứ 3 (Nhập Định) có Pháp chưa hay làm lại nữa. Bước thứ 3 mình tập trung thành một khối.

Trong Sát Na định, hành giả  thất niệm + phóng dật. Hai cái đánh vô một cái mình vuột liền, không đủ, niệm cũng không vững, phóng dật cũng mạnh nữa, 2 cái vuột liền.

Trong Cận Định, củng cố Niệm + ngăn ngừa phóng dật. Ngừa phòng hết rồi, tập trung hết rồi.

Sau khi hành giả được 2 cái này  

Trong Nhập Định, diệt kiết sử:  Nhập --> thành 1 khối ---> hơi thở vô ---> thấy Pháp -- thấy sinh hay thấy diệt?

Cái đầu tiên mà mình tu là thân kiến. Thân là ta, kiến là thấy, thân kiến là "ta thấy". 

Kiết sử đầu tiên là thân kiến, không có hoài nghi, không có giới cấm thủ. Mình hít vô, chỉ có Pháp vô. Giờ mình có diệt được kiết sử không? Hai cái kia rớt rồi, sát na rớt rồi, cận định rớt rồi. Giờ tới nhập định, tập trung hết vô, bắt đầu định thì tuệ sinh lên.

Nhập định phải có tuệ.

Khi niệm được, ta hỏi Pháp đang sinh hay là Pháp đang diệt. 

Khi hít hơi thở vô hơi thở đụng vô mà biết được thì cái biết là của mình, tức là đang nhập định trong kiết sử của mình chứ không nhập định trong cái Pháp. Tức là đang nhập định trong cái mình, tập trung hết vô mình để mình biết, chứ không để vô Pháp để mà biết Pháp.

Nếu biết Pháp không có kiết sử. Đức Phật Ngài ngồi dưới cội cây, một ông Balamon ngồi dưới cội cây, 2 người ngồi 2 bên một con đường lộ, một cơn mưa lớn xuống và 500 cỗ xe bò đi ngang qua, sáng ra hai bên đều nói là không nghe không biết gì hết, tại vì Ngài nhập định, Ngài không nghe tiếng 500 cỗ xe bò đi, Ngài không nghe tiếng mưa rơi xuống, Ngài không biết gì ngoài cái định của Ngài ở trong Pháp. Hai vị bằng nhau, ông Balamon này cũng vậy, cũng nhập định, cũng trong Thiền Chỉ. Đức Phật Ngài ở trong nhập thiền Quả của Ngài, Niết-bàn, còn ông này nhập Thiền Chỉ của Balamon, 2 cái đều không biết mưa, không biết cỗ xe bò. Tiếng lọc cọc của 500 cỗ xe bò không biết, mưa rơi ướt người cũng không biết, sáng ra mới biết hồi đêm có cơ mưa lớn và có một đoàn xe bò đi ngang qua, hai người đều không biết.

 Sư kể cho quí cô nghe câu chuyện của Sư. Sư ngồi dịch kinh trong phòng, khi Sư ra khỏi phòng "ủa nãy giờ mưa há", Sư hỏi cô Tịnh Nhẫn nãy có mưa không, mưa quá trời, Sư hỏi mưa lúc nào, cô nói lúc Sư về phòng mưa lớn lắm. Sư không biết, mà hỏi Sư nãy giờ Sư dịch cái đoạn đó qua tới giai đoạn nào, Nhị Đề nào Sư kể ra hết, Sư qua tới 69 Nhị Đề, mà quyển có 100 Nhị Đề.

Vậy thì khi ngủ, thì khi nào biết mình ngủ. Khi nào biết chưa ngủ?

Khi biết chưa ngủ là biết mình còn thức.

Mình đã ngủ rồi mình biết mình còn thức không? Không biết, là không có "Tôi". Khi đang ngủ thì không có "Tôi".

Có 2 cha con, ông thương con ông lắm, ông chăm sóc kỹ lưỡng lắm, tới 9 giờ con phải đi ngủ. Ông có thói quen đọc sách đọc báo, 5 phút sau hỏi con ngủ chưa con, dạ chưa, 15 phút sau hỏi con ngủ chưa con, dạ chưa, 1 tiếng sau hỏi con ngủ chưa con, dạ chưa. Ông hỏi: Sao vậy? Con trả lời: Ba hỏi hoài sao con ngủ được.

Như vậy thì khi đã ngủ rồi thì không biết "ta". Định mà đã vô trong một khối với cảnh đối tượng rồi thì không có kiết sử. Khi chưa ngủ thì còn biết, đã ngủ rồi thì không biết mình. Cái định là vậy, khi đã có Pháp, mà định được cái Pháp không có kiết sử . Giống như khi đã ngủ say thì không biết gì hết, trời gầm trời mưa, trời sấm chớp, hay tiếng động mình không hay biết. Mà ngủ không được ngon thì chuyện nhỏ chuyện to gì cũng hay biết thì cái "Tôi" hiện bày.

Do đó, việc "dễ thấy" vẫn có cái "Tôi" mình biết, chưa thật sự có định, vẫn còn là hai, chưa thành một khối, đó là Kiến của mình và Thân.

 Kiến có 5. Hít thở Vô, biết được bởi Sắc, biết được bởi Thọ, biết được bởi Tưởng, biết được bởi Hành, biết được bởi Thức. Hít thở Vô, Định trên cái này hay trên Pháp, bất cứ hơi thở nào mình niệm Vô, mình thấy thì mình có một cái sắc, mình biết thủ uẩn, nó đụng vô mình một cái thì mình có cái thọ, thì mình niệm, lúc đó kiết sử nhẩy vô liền, thọ thủ uẩn mình quên cái định của pháp. 

Nó vuột thì nhớ nó có tưởng nó hiện bày nó có hành, có cái biết của mình biết, có cái thức nằm ở trong kiến chứ không nằm trong pháp.

Như vậy thì, khi một hơi thở vô, nó thuộc Thân Niệm Xứ, và mình đi qua Pháp Niệm Xứ.

Hơi thở vô là Thân Niệm Xứ, mà định được thì nó trở thành Pháp Niệm Xứ diệt kiết sử. Giữa giai đoạn từ Thân đến Pháp là Định. Giữa giai đoạn niệm của Thân xuống tới Pháp giai đoạn đó là Định mình mới ra được kiết sử mới ra được Pháp.

Hơi thở vô ----> biết (sát na định) ----> vô ----> biết (cận định) ----> vô ---> nhập định có pháp không kiết sử. 

Đi từng bước từng bước vô sát với nó, cận với nó, nhập với nó, trong pháp thôi.

Không phải mình đang ngủ, mình biết hơi thở vô ra, lúc đó không có "Tôi".

Kiến Dassenena kiến giải, chỉ có pháp nó mới đoạn trừ Kiến, chứ không có cái nào mà diệt được nó hết. Mình chỉ có pháp thôi, không có diệt, mình an trú trong pháp không có kiết sử lên, chỉ có Pháp thôi.

Đức Phật Ngài ở trong thiền, ông Balamon ở trong thiền, không biết trời mưa, không biết đoàn xe bò đi qua, sau khi xả thiền, Đức Phật nhập Thiền Quả Ngài hưởng Niết-bàn, ông Balamon nhập Thiền Định hưởng An Chỉ, và không có cảnh chi phối. Lúc đó tâm của mình mà nó sinh ra những phiền não cái kiết sử tâm không sinh, nó khắn khích vô trong định, tâm không sinh nữa, còn sinh là còn đi ra bắt cảnh này cảnh kia.

Nhập Định là tâm không sinh, tâm chỉ nhất thống một khối là định, nhất tâm với cảnh một thôi, và nó kéo dài, và lúc đó không có kiết sử, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong cái Niệm hơi thở vô. Chỉ có Pháp Định của mình, pháp mà nhất tâm với mình một khối thôi./.


Monday, January 1, 2024

037 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 29 tháng 10, 2022

 037 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 29 tháng 10, 2022 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "037 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Khi làm một việc thiện bắt buộc mình phải nguyện, trong quyển Biên Niên Sử, Chú Minh III, phần Adhitṭṭhāna chú nguyện, việc thiện nhỏ to gì cũng phải chú nguyện. 

Nhưng khi chú nguyện có 2 là; nguyện hiệp thế, nguyện siêu thế.

Nguyện hiệp thế là nguyện việc thiện.

Nguyện siêu thế là nguyện Balamat.

Tác ý khôn khéo của mình yoniso ca manasikāraṃ  là khi mình làm việc thiện, thí dụ bây giờ mình xả thí, thì xả thí là thiện cho một người ăn xin 1$, nhưng mình xả thí này mình nguyện với tác ý khôn khéo "với sự xả thí này là Balamật".

Có 2 loại quả là: vipakaPhala

Vipaka là quả dị thục sẽ trổ một thời gian sau, 

Phala là quả có thể trổ liền.

Thì khi Phala trổ sinh ra là điều mình không để ý tới rất là uổng, đó là sự an vui, ngay lúc mình làm việc thiện là mình có sự an vui rồi mà minh không nghĩ tới. Mà mình chỉ nghĩ tới quả vipaka quả dị thục. Còn quả trong tích tắc là Phala.

Đức Phật Ngài dạy kỹ trong Paṭṭhāṇa :  Khi một Thánh nhân xuất khỏi đạo vị ấy tư khảo lại, tức là Ngài quán xét lại đạo, quán xét lại quả và quán xét Niết-bàn. Đạo quả và Niết-bàn. Niết-bàn là an vui. Đạo quả là thành tựu việc pháp hành. Mà mình không theo, mình cứ chạy theo kiết sử tập khí của mình. Cái đó là tâm chạy theo cảnh, tâm có cảnh, có đối tượng, nhưng đối tượng đó là siêu thế, đối tượng đó không có một vụ lợi mình mong cầu, đó là giải thoát, mình không để ý tới, chỉ trong tích tắc. 

Nên mình đọc lại chỗ cận y duyên, có 3: cảnh cận y, vô gián cận y, thường cận y. Thì thường cận y nó đánh phá kiết sử của mình với chú nguyện siêu thế của mình, chứ còn không mình chạy theo kiết sử nữa.

Mình không đọc kỹ, tại sao Đức Phật Ngài nhắc từng chút từng chút: "xuất khỏi đạo, tư khảo lại quả, tư khảo Niết-bàn. Niết-bàn làm duyên cho Chuyển Tộc, Dũ Tịnh,  Đạo và Quả theo thường cận y duyên". Đọc câu đó là có Niết-bàn liền, chứng liền. 

Thì Phala trổ ra cho mình hưởng liền mà mình không chịu hưởng, mình bỏ đi, mình đi tìm quả Vipaka, mà Vipaka thì nhuỗm màu hiệp thế, không hưởng trọn vẹn sự tinh khiết của siêu thế hay của Phala ngay lúc đó. 

Đức Phật Ngài thuyết mà Chư Thiên đắc đạo quả là tại vì Chư Thiên bắt pháp liền, còn mình thì để kiết sử chen vô, Chư Thiên không bỏ một cái gì vô mà chỉ nghe và bắt, còn mình đây ngồi suy nghĩ, có khi mình bỏ có khi mình đánh mất. Nên Sư khuyên các quí Phật tử phải đọc từng câu Đức Phật Ngài nói Sư dịch ngay từng từ các quí Phật tử nên đọc sẽ có kết quả, cái đó là Phala rồi sau đó tới Vipaka bắt đầu tiếp nối nhau không mất.

Khi mình học về thiện, thiện lớn trổ thì thiện nhỏ mất, không cần để ý tới. Thì khi Đạo (Magga), mình đang có thì Quả (Phala) có liền sát na không chậm trễ, thì Quả (Phala) trổ sinh lên thì Đạo (Magga) không còn, giờ là mình có Quả (Phala).

Mà Quả (Phala) này, với người không có thiền thì có 2 sát na, hay người lợi căn có 3 sát na, người độn căn 2 sát na, nhưng người có thiền sau khi xuất khỏi Đạo họ nhập Thiền Quả luôn, họ hưởng được 1 giờ 2 giờ. Trong cận y duyên có nói. Xuất khỏi Đạo, tư khảo lại Đạo, tư khảo lại Quả nhập Thiền Quả theo thường cận y duyên nhập Thiền Quả, chứ họ không hưởng quả, họ vô nhập Thiền Quả luôn. Thì bấy giờ những tâm kia không có cảnh, họ cắt liền và họ hướng vô trong tác ý của mình. Mà mình không có, mình không để ý, mình bỏ qua, thế thì mình hưởng 2 tâm đạo, 2 tâm quả, 3 tâm quả.

Do đó, với người đọc kỹ sau khi xuất khỏi đạo thì họ biết có quả tới họ nhập thiền quả luôn thì họ hưởng được một giờ, còn nếu họ không biết thì họ xuất khỏi đạo họ hưởng đạo quả 1, 2 sát na, mà 1, 2 sát na là trong tích tắc, vậy là xong và mình là bậc quả nhân. Rồi muốn trở lại cái quả này, muốn hưởng lại quả vị này là mình phải trở lại Thiền Chỉ rồi mình mới vô nhập thiền quả.

Thiền sinh hỏi: Thưa Sư như vậy lúc đang ngồi thiền Vipassana khi thấy chứng được Đạo rồi thì ngay lúc đó để hưởng quả như Sư nói thì mình phải chú nguyện.

Trong quyển I có ghi lợi ích của Vipassana Kammatha, bài đó của Ngài Jotika viết những quả lợi ích cho những người hành Minh Sát Tuệ mà họ phải biết quả lợi ích này hay phước báu này. Mà trước giờ làm sao mình liệt kê được bao nhiêu quả.

Thí dụ như mình trồng cái cây bơ hay cây cherry mình đâu biết có bao nhiêu trái, thì cũng vậy Vipassana mình đâu biết có bao nhiêu quả báu, mà quả hiện tại quả vị lai đều có, Sư ghi ra hết, nên quyển I mới này tuyệt vời.

Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, Sư có dạy trong Thiền Chỉ đầu tiên, thí dụ Sơ Đạo, Sơ Quả, thì Sơ Đạo, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Khi mình đi Thiền Chỉ mình vô được Sơ Thiền mình định được trong Sơ Thiền, lúc đó trong tích tắc nó chỉ có một sát na thôi của cái định đó, sao đó mình phải xả ra, rồi mình muốn vô lại mình phải trở lại thiền cơ bản.

HT trả lời: Sau khi mình xả thiền, rồi mình vô trở lại mình phải trở lại thiền cơ bản. Đức Phật lúc Ngài 7 tuổi Ngài ngồi thiền đắc định đó là thiền cơ bản 

Thiền sinh hỏi tiếp: Nếu bây giờ nói về Vipassana, khi mình có Sơ Đạo rồi đi vô Sơ Quả ngay sát na đó luôn, thì sau ngay phút đầu vô Vipassana đầu tiên mình phải chú nguyện, khi mình vô Sơ Đạo vô Sơ Quả thì từ Sơ Quả đó mình khảo sát lại và mình nhập trong Sơ Quả đó luôn. Ý con nói là bên Vipassan khác với bên Thiền Chỉ?

HT trả lời: Hai cái giống nhau, chỉ đường đi khác thôi.

Sư dẫn chứng, khi thanh niên Upatissa sau này là Sariputta gặp Assaji nói "một pháp sinh lên bởi duyên, chính duyên sinh lên hiện bày các pháp" thì thanh niên Upatissa đắc đạo quả, đắc Sơ Đạo liền, Ngài hưởng liền, Ngài đắc Sơ Đạo Sơ Quả Ngài không vô Thiền Quả, tại vì Ngài không có Thiền Chỉ, Ngài không có chú nguyện. Ngài đắc Sơ Đạo Sơ Quả luôn. Rồi Ngài ra và nói với ông Kolita sau này được gọi là Moggallāna. Thì Ngài Kolita cũng đắc Sơ Đạo Sơ Quả luôn. 

Đức Phật khi canh 1, canh 2, canh 3 Ngài đắc 3 tuệ Ngài vô thiền quả luôn. Do đó, khi Ngài mất Ngài mới vô liên thiền được. 

Giờ mình biết rồi, mấy cô chọn cái nào hay là cô không cần chọn, giờ mấy cô muốn thành Upatissa, Kolita hay giống Đức Phật hay các vị Thinh Văn sau này của Đức Phật Ngài đắc đạo quả xong Ngài hưởng Thiền quả luôn. Mấy cô chọn đường nào?

Như Ngài Upatissa đâu có học, Ngài chỉ nghe Ngài Assaji nói thì đắc đạo quả và hưởng quả xong thì đi về. Còn các đệ tử Thinh Văn để tử của Đức Phật sau này biết thì khi đắc đạo quả họ vô thiền quả luôn họ hưởng 1 giờ 2 giờ mới ra, thì mấy cô chọn cái nào?

Sư khuyên khi mình biết được 2 đường thì mình không đi con đường của Ngài Upatissa mà đi đường Thinh Văn đệ tử của Đức Phật. Quí cô đọc Paṭṭhāṇa trong cận y duyên nói rõ như vậy đó. Trong quyển xanh có tư khảo Niết-bàn, tư khảo lại đạo rồi nhập thiền quả. 

Vậy thì, khi bắt tâm nào nó khắn khích với tâm đó, chứ không bắt tùm lum.

Mỗi tâm đều có cảnh, gọi là vô gián cận y, là tâm sinh trước trợ duyên cho tâm sau, liền liền mỗi tâm đều có cảnh là vô gián cận y. Mà muốn có vô gián cận y thì có cảnh cận y. Ba cái mình có hết: cảnh cận y, mình nương vào cảnh đó, mình vô gián cận y, thường cận y, và chú nguyện của mình. Thường cận y là nguyện của mình. Lúc đó tâm biết cảnh đó.

 Do đó, mình phải có cảnh cận y rồi mình vô gián với cảnh cận y đó và mình thường cận y với cảnh đó, chứ không theo kiết sử.

Phải đọc kỹ Paṭṭhāṇa, phải đọc kỹ Chánh Tạng, phải đọc kỹ lời Phật dạy, rồi bắt đầu mình mới quyết định được, mình có cái chọn lọc mình mới ra  tác ý của mình rồi từ đó mình tu tập, lấy cái đó làm đối tượng, lấy cái đó làm kim chỉ nam mình đi.

Có một câu hỏi của một Phật tử cũng có ích cho mấy cô, mấy cô đi làm tâm bị động và bị sợ câu sinh nghiệp với người ta, mình bắt cảnh với người ta rồi mình cộng nghiệp với người ta là câu sinh nghiệp, thì cô Phật tử này hỏi giải quyết nó ra sao? Sư trả lời cho cô Phật tử đó, tại vì mấy cô ở đây nhiều khi không có trường hợp đó.

Câu hỏi là: Kính đảnh lễ Sư, thưa Sư con đã nhận được những kinh sách Sư gửi, bìa mỗi cuốn màu sắc khác nhau nên rất dễ phân biệt, con vô cùng hoan khi có thêm kinh sách để đọc. Càng học và nghe Sư giảng con càng thấy sợ vì mỗi duyên khởi tâm động niệm của mình trong từng sát na thì toàn là tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn nghiệp thiện. Khi đi làm mình phải xã giao với nhiều người nên thật khó tránh việc mình phải câu sinh nghiệp bất thiện với họ. Xin Sư dạy cho con cách nào mà mình ít bị câu sinh nghiệp với họ. Con xin tri ân Sư.

Câu trả lời của Sư: Thông thường người Phật tử đến công sở làm việc là chỉ biết để hết tâm trí tập trung vào công việc, ta gọi là Thiền Na Duyên của mình:

- đem tâm đến công việc là Tầm của mình

-  quan sát công việc là Tứ, 

- hoan hỉ với công việc là hỉ của mình

- an vui với công việc là lạc của mình

- và nhất tâm là nhất thống với công việc của mình

- không lo ra, không phóng dật, không để ý đến công việc của tha nhân thì sẽ không câu sinh nghiệp duyên với tha nhân. 

Một khi đã tiếp xúc vì việc giao tiếp thì người Phật tử vận dụng Đồ Đạo Duyên với Chánh Kiến và Chánh Tư Duy.

Khi nói chuyện hoặc giao tiếp, người Phật tử cần phải vận dụng Quyền Lực Duyên với Tuệ Quyền để phán xét việc đáng câu sinh hoặc không đáng câu sinh.

Với Tuệ Quyền cộng với Tỉnh Giác để nhận xét từng mỗi câu chuyện, từng mỗi vấn đề đáng câu sinh hoặc không đáng. 

Ngoài ra người Phật tử vận dụng danh vật thực duyên với ý tư thực và thức thực no đủ thì không cần phải đi tìm một vấn đề nào để câu sinh một khi mình no đủ kiến thức trong danh pháp. 

Phước báu đầy đủ.

 Toàn là duyên, đầu tiên là Đồ Đạo Duyên, Thiền Na Duyên, Quyền Lực Duyên, hay Danh Vật Thực Duyên, khi mình no đủ minh không chạy đi tìm thức ăn, chỉ khi mình đói bụng mới đi tìm. Mình vô việc làm mình no đủ rồi mình không chạy đi kiếm thức ăn khác nữa thì mình không sợ câu sinh với ai nữa. Nếu mà câu sinh thì mình câu sinh với Tuệ Quyền của mình, với cái niệm của mình để mình biết cái nào đáng cái nào không đáng. Toàn là Duyên Paṭṭhāṇa. 

Mình bị phóng dật, mình đi theo tập khí, chứ nếu mình có Chánh Niệm, mình có Tỉnh Giác thì mình không bị tập khí lôi kéo thì mình đi trong Paṭṭhāṇa. Mà Sư chỉ nói đơn cử các duyên phối hợp, chứ còn nếu như Sư đi qua phần Tấu Hợp và Hiệp Lực nó còn ra Mãnh Lực Duyên, còn đi qua 7 giai đoạn để giải quyết một vấn đề thì nó còn là một khía cạnh sâu sắc hơn.

 Đó là những cái mình cần phải biết, phải nhớ, phải học. Cái này Sư chỉ đơn cử trong các Duyên để làm thí dụ trong khi mình tiếp xúc cho cuộc sống trong đời này.

Phải có người kế bên nhắc mình rồi từ từ mình thực hành sẽ có kinh nghiệm, chứ không dễ tại vì tập khí mình nhiều.

Thiền sinh hỏi: Vậy khi mình làm việc thiện mình chú nguyện rồi, thì khi mà thực hành cái tâm mình ngưng ở đó mình không chạy theo bắt cảnh nữa thì nó sẽ là như thế nào, bây giờ chắc chắn là nếu mình còn nguyện còn bắt cảnh, thì cái nguyện đó một là siêu thế hai là hiệp thế, nhưng ngay lúc đó tâm của mình đã bắt vào cảnh đó rồi thì khi cái nguyện đó làm xong thì làm thế nào để còn không bắt cảnh?

HT trả lời: Mỗi một tâm đều có cảnh, nhưng khi chú nguyện là có lộ trình.

Có câu chuyện, có hai đoàn thương buôn đi tới ngã ba đường, một đoàn thương buôn là của Bồ Tát (kiếp trước của Đức Phật), còn một đoàn thương buôn là của kiếp trước của Đề Bà Đạt Đa. Thì 2 đoàn thương buôn đi tới ngã ba đường, một con đường đầy hoa lá sông hồ trái cây tươi tốt, một con đường thì cây cối khô héo cằn cỗi không sông không hồ. Thì Ngài Bồ Tát đi tới trước, đứng trước ngã 3 này Ngài chỉ con đường khô héo cằn cỗi và nói với đoàn thương buôn đi theo Ngài:

 - "Ta đi con đường này." 

Một số thương buôn phản ứng liền: 

- "Ông có điên không? bên đây có hồ ao sông nước để tắm rửa, mình hái trái ăn, rồi mình đi tiếp."

Thì Ngài nói: "Không đúng, vào thời buổi này với thời tiết này thì không có trường hợp cây cối tươi tốt và có hoa trái được, giống như mùa hè làm sao mà tươi tốt được, nó phải khô cằn hết. Mà nó tươi tốt hoa trái đầy thì đó là dị tượng, là bất thường, ta không tin cái này. Vậy thì ta quyết định đi đường này, ai đi theo ta thì đi, còn ai không theo ta thì đi theo ý của các người."

Đoàn thương buôn đi theo Ngài hết, không ai cãi, họ chỉ có ý kiến thôi. Khi ý kiến Ngài giải thích xong rồi thì họ thấy hợp lý thì không có người nào chống đối bỏ Ngài, mà họ đi theo Ngài vào con đường khô héo cằn cỗi để đến địa điểm buôn bán.

Còn đoàn thương buôn của Đề Bà Đạt Đa đi con đường đầy hoa trái sông hồ, họ còn nói đoàn thương buôn kia ngu xuẩn vì không lựa con đường có hoa lá trái cây tươi tốt, vào đây ăn uống nghỉ ngơi tắm rửa xong thì đi tiếp, không ngờ khi vào con đường tươi tốt thì họ bị ngã quỉ ăn hết không một người nào sống. Ngã quỉ tạo cảnh giả.

Nên đứng trước ngã ba đó, nó có một lộ trình và tâm của mình biết cảnh và tâm của mình có sự phán đoán suy xét. 

Cũng vậy, khi đứng trước con đường mình đang tu tập thì nó có 2 ngã là con đường hiệp thế và con đường siêu thế, trước những trường hợp đó thì lúc  đó mình phải phán quyết hay mình phải có sự quyết đoán, mình phải có sự chú nguyện là ta muốn đi đến sự giải thoát, ta không muốn đi theo sự luân hồi, thì nó có lộ trình, mỗi lộ trình đi có cảnh, cảnh hiện bày ra, thì tâm có cảnh này nó biết.

Lộ trình thứ 2 nó có cảnh hiện bày ra tâm biết.

Còn lộ trình luân hồi thì nó có cảnh, 1 trong 4 tầng đạo quả, thì mỗi một giai đoạn nó có cảnh của đối tượng.

Còn lộ trình đi là lộ trình giải thoát, cảnh của mình là tâm của mình biết trong lộ trình.

Còn bên đây là 6 nẻo luân hồi, nó có cảnh và nó có lộ trình của nó và mỗi đối tượng đó tâm biết, người, trời, 4 đường ác đạo; ngã quỉ, địa ngục, atula, xúc sinh, nó có lộ trình của nó đi, mình phải biết.

Vậy thì khi mình đi, như Sư nói, tâm có cảnh có lộ trình của tâm, mình đi theo cái đó, nếu mà không thì mình sẽ đi theo kiết sử của mình.

Trở lại với trường hợp 3 đối tượng 'không có tâm' tuần trước mình học:

1. Nidrodhajhāna là Thiền Diệt. 

2. Cảnh Vô Sắc Giới Vô Tưởng 

3. Cận Tử Lâm Chung

Ba cái đó mình có cái thứ 3 là Cận Tử Lâm Chung, mình không có cảnh Nidrodhajhāna là Thiền Diệt, mình không có Cảnh Vô Sắc Giới Vô Tưởng.

Bà hoàng hậu Sammāvāti, bà hoàng hậu này là vợ của đức vua Udāna, bà là người Phật tử của Đức Phật. Bà có một người oán thù với mình là bà thứ phi Magandiyā. Thì bà Magandiyā có sắc đẹp tuyệt vời, một hôm bà gặp Đức Phật đang đi trên đường bà mới tới Đức Phật và nói:

-  "Này người kia về lo sính lễ tới cầu hôn ta"

Thì Đức Phật biết bà này không biết Đức Phật mới dám nói câu đó. Đức Phật nói:

- "Này Magandiyā, sắc đẹp của Magandiyā không đủ rời móng chân của Như Lai."

Bà Magandiyā sinh ra oán hận, bà trút oan trái liền, bà mới chịu làm thứ phi cho vua Udāna, rồi bắt đầu bà hãm hại Đức Phật, bà thuê 30 tên côn đồ Đức Phật đi đâu gặp thì mắng chửi, rồi bà đi tìm người nào là đệ tử Đức Phật bà phá hại, thì bà biết được bà hoàng hậu Sammāvāti là đệ tử Đức Phật mà là chánh hậu còn bà là thứ phi, bà mới xúi vua Udāna giết hoàng hậu Sammāvāti. Thì hoàng hậu Sammāvāti bị vua Udāna đem ra bắn tên, mũi tên đầu tiên bay vút qua khỏi đầu bà Sammāvāti, ông vua bắn mũi tên thứ 2 trúng búi tóc của bà, tới mũi tên thứ 3 vừa bắn tới bà Sammāvāti thì mũi tên quay trở lại vua Udāna rớt xuống đất

Bằng cách gì mà hoàng hậu Sammāvāti hóa giải được 3 mũi tên? Là bà nhập tâm từ. Tâm từ có 11 quả phước báu: Lửa, thuốc độc, gươm đao, không hãm hại người có tâm từ. Bà nhập vô tâm từ bà rải cho đức vua Udāna, nên vua Udāna không hại được bà, 3 mũi tên đều hụt hết. Thì khi mũi tên rớt xuống chân vua Udāna thì ông ta mới hoảng hồn ông thức tỉnh, bỏ cung tên và tới xin lỗi bà hoàng hậu Sammāvāti, hóa giải không có nghe lời bà Magandiyā.

 Thì bà Magandiyā đâu có chịu yên, bà mới tổ chức lần sau chót. Là lúc đó trong nội cung của hoàng hậu Sammāvāti có 500 vị cung nữ nghe lời bà hoàng hậu Sammāvāti  dạy lời Đức Phật dạy. Thì Magandiyā cho người lính để củi xung quanh cung hoàng hậu rồi đốt lửa lên, không có con kiến bò ra được. Thì lúc đó hoàng hậu Sammāvāti và 500 vị cung nữ ở trong chánh điện, lửa cháy chung quanh không có con đường thoát nên bà nói với cung nữ vào chánh điện ngồi thiền, bà hoàng hậu Sammāvāti hướng dẫn các cung nữ nhập định. Khi lửa cháy tiêu hết cung hoàng hậu thì người chót nhất cũng đắc được Sơ Đạo Sơ Quả, còn người thứ hai đắc Nhị Quả, Tam Quả, tức là 500 vị luôn cả Sammāvāti đều là Thánh nhân hết, không có người nào rớt vô phàm phu mà đi trong lửa, tại vì lửa đốt cháy mà tâm sân lên là đọa địa ngục.

Thì với bối cảnh này mình ở trong đây thì làm sao? Mình đọc tích truyện đó, mình đặt mình trong vị trí đó thì mình làm sao? Mình hoảng hốt, đó là tập khí.

Do đó, khi với trường hợp này thuộc Cảnh Trưởng. Bà Sammāvāti đưa các vị cung nữ này vô Câu Sinh Trưởng với Pháp Trưởng, chứ không vô Cảnh Trưởng. Mà Pháp Trưởng này là Thẩm Trưởng là trí tuệ. Chứ không vô Cảnh Trưởng. Còn mình đây nếu lửa đang cháy mình vô Cảnh Trưởng mình hốt hoảng. Nhưng bà Câu Sinh Trưởng với Pháp Trưởng bởi Thẩm Trưởng trí tuệ này quán pháp để giải thoát.

Có một tích truyện, lúc đó Ngài là Bồ Tát trước khi Ngài đi buôn xa Ngài hay bố thí vật thực cho cá ăn Ngài hồi hướng phước cho Chư Thiên ở trên biển cả, đoàn tàu Ngài đang đi giữa biển khơi tàu bị đắm chìm, 700 người thương buôn ở trong đó hoảng hốt chạy tới chạy lui còn Ngài ngồi yên một góc, những người thương buôn thấy Ngài không hoảng hốt hỏi:

- Sao Ngài không lo, tụi tui lăn xăn chạy tới chạy lui, 

Ngài nói: Tôi không có đường giải quyết.

Họ hỏi ngài trước kia Ngài làm sao, Ngài nói trước khi tôi đi tôi xin giới, tôi xả thí, thì mấy người thương buôn nói:

- Xin Ngài truyền giới cho chúng con.

Thì Ngài chia 700 người thành bảy nhóm, mỗi nhóm là 100 người, Ngài truyền giới xong 100 người xong thì họ ra ngồi thiền, 100 người kế tiếp xin giới xong họ ra ngồi thiền và tiếp tục như vậy, trong lúc nước đang dâng lên. Truyền giới xong 700 người họ vô ngồi thiền và nhập định luôn thì tàu ngập chìm hết và họ sinh về cõi trời. Chư Thiên cõi trời dùng tuệ thấy Ngài ngồi ở giữa còn 700 người ngồi xung quanh mới hỏi Đức Phật, Đức Phật nói là do họ ở trong chánh niệm tu thiền họ sinh về trời.

 Vậy thì khi mình ở trong đời sống hàng ngày nếu như mình không sống trong Pháp thì mình sống trong kiết sử của mình nhiều hơn, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục, mình cứ chạy theo kiết sử của mình. Thí dụ cảnh thích mình vui, cảnh không thích mình giận mình buồn, mình không ở trong trạng thái Pháp Trưởng.

Khi tâm có cảnh tốt (thiện) và cảnh xấu (bất thiện). Tâm của mình giống như đứa bé, đứa bé mà mình uốn nắn dạy nó đi hướng nào thì nó đi theo hướng đó. Hướng dẫn tốt thì nó vô cảnh tốt, hướng dẫn nó xấu thì nó vô cảnh xấu. Thì tâm của mình nghĩ điều tốt nó có cảnh tốt, tâm mình nghĩ điều xấu thì nó có cảnh xấu. 

Khi có cảnh tốt mà cảnh xấu nó vô, khi mình đang làm việc tốt có cảnh xấu vô.

Thí dụ, đang xả thí không đối tượng mà chỉ có pháp thôi. Nhưng kiết sử của mình hay đối tượng này có oan trái với mình chen vô "người này đáng cho không, sao tôi nghi người này quá". Hồi nãy đầu tiên mình chỉ có pháp xả thí thôi, rồi oan trái kiết sử của mình với người đó xen vô, tức là cảnh xấu chen vô mà mình không có ngừng, không cắt, không chú nguyện, thì lúc đó mình ngã, mình gián đoạn không đi tiếp nữa. Có khi nghĩ vậy mà vẫn cho ra cái thí luôn, nhưng cái thí này mình không có trọn vẹn.

Với Pháp mình đi tiếp với đối tượng mà mình đã chú nguyện rồi với đủ tam tư, mình không ngừng lại được và mình cắt đối tượng oan trái không cho nó xen vô thì mới ra được. Mình ôm đối tượng mình đã chú nguyện đi tiếp, thì trí tuệ này đủ tam tư (tư tiền, tư hiện, tư hậu) mình phải làm cho hoàn thành. Thì lúc đó mỗi cái như là mình đang tu tập. Còn không nó cứ lập đi lập lại. Khi mình làm việc thiện nó có cảnh nghịch chen vô chặn phá làm mình bị gián đoạn, mình không liên tục được.

Do đó, với mãnh lực này ta gọi là Cảnh Cận Y là chú nguyện mình đang nguyện. Vô Gián Cận Y với chú nguyện mình đang hành. Thường Cận Y khắn khích với nó (hoàn thành chú nguyện). Thì tâm mình không sinh.

Với Cảnh Cận Y mình đã chú nguyện.

Vô Gián Cận Y với chú nguyện mình đang hành.

Thường Cận Y khắn khích với nó hoàn thành chú nguyện.

Xả thí mình để vô Pháp không để vào đối tượng, mình sống theo Pháp. Những cái đó mới gọi là mình đang tu tập, mình chưa thành. 

Tại vì sao mình chưa thành? Tại vì gặp cảnh khác mình cũng lấn cấn, gặp cảnh tinh vi hơn nữa mình nhìn không ra, nó có cảnh khác nữa.

Sư chỉ cảnh tinh vi. Thường là mình cho, là pháp xả thí thôi và không chọn lựa đối tượng, nhưng tới khi mình đã vượt qua những kiết sử mà đã cản ngăn mình quen rồi, mình bắt đầu lên chế độ cao cái mình nói nếu mà ta có bậc Thánh nhân cho ta cúng dường thì phước nhiều hơn hàng phàm phu này.

Nghĩ vậy là rớt liền. Mình tưởng mình thành, mà thật ra mình đang tu tập thôi. Và tâm của mình đừng có sinh khởi ra bởi kiết sử dấn dắt, tâm mình phải an trú trong Pháp mà mình đã chú nguyện để mình tu tập thì mới thành, đừng để tâm sinh khởi, tâm viên ý mã, mà nó hiện bày ra một cách rất khéo léo, mình không ngừa nổi.

 Thiền sinh hỏi: Thí dụ như xả thí, mình đi ngoài đường thấy một người homeless mình cho, nhưng lúc mình cho con nguyện: "Đây là xả thí Balamat để làm duyên đến đạo quả Niết-bàn." Đó có phải là chú nguyện không thưa Sư?

HT trả lời: Đó là lời chú nguyện. Mấy cô có 2 từ ngữ mà phải khéo lắm mình mới dùng được.

Duyên là phương tiện, mà nhân là tác nhân là hạt giống. Do đó, khi Sư nói để làm duyên tới Niết-bàn, để làm nhân đến Niết-bàn. Mấy cô phải cẩn thận để ý. 

Duyên chỉ là phương tiện thôi, duyên là tạo phương tiện mình có cơ hội để mình đạo quả Niết-bàn.

Còn nhân, gieo nhân này, gieo nhân giải thoát Niết-bàn, nhân đạo quả. Mấy cô phải cẩn thận, một chút vậy đó mà an toàn cho mấy cô. 

Khi nào mấy cô đã làm xong hết rồi thì Sư chỉ nói là duyên thôi.

Khi nào cái này mà mấy cô cần để có đạo quả thì Sư sẽ đưa mấy cô là nhân chứ không để mấy cô làm cái duyên.

Khi Sư dùng duyên là lúc đó là mấy cô đã có con đường đang đi của đạo quả Niết-bàn hay là Balamat thì Sư nói đừng có lệch ra, đừng có phóng dật, đừng có mất chú nguyện của mình, thì cái này là cái duyên nó dẫn đi tiếp tục, lộ trình ta có đó là duyên, ở trong đó có nhân ta gieo trồng.

Còn bước vô cái cửa đầu tiên thì phải là nhân. Thí dụ như sau khi học xong để làm nhân đến đạo quả Niết-bàn. Còn khi cô dâng bữa cơm trưa để làm duyên đến đạo quả Niết-bàn, tại vì các cô có tam tư và tác ý gieo hạt giống tử ở nhà, mà lên đây cô chưa có thì Sư nói là để làm nhân đến Niết-bàn.

Đi học là nhân gieo hạt giống, rồi vô học là duyên mà mình phát triển cái nhân này lên.

Như vậy thì trước cái xả thí này mình có chú nguyện đầy đủ tam tư về trí mình có chú nguyện, cái đó là nền tảng của mình lúc nào mình cũng phải có. Còn khi tiến hành vô đối tượng hay đang hiện bày ra thì lúc bấy giờ mấy cô phải đi theo Pháp mà mình đã chú nguyện, không đi theo đối tượng mà mình đang thực hiện; xấu, tốt, ác, hiền, không đi theo, mình chỉ đi với Pháp thôi.

Sư kể câu chuyện khỉ chúa (tiền thân của Đức Bồ Tát) bị người Balamon đập bể đầu, Ngài đang đi với trạng thái Balamat, mà ông Balamon còn cứng cựa nói:

- "Hồi nãy ngươi hứa với ta mang ta về, không được bỏ ta lúc này". 

Ngài nói được: "ta dùng máu vẽ đường đi, ngươi đi theo vết máu của ta, chứ ta không đi chung với ngươi". 

Ngài vẫn đi với Pháp, chứ Ngài không đi với đối tượng. Chứ gặp mình đây bỏ luôn: " ông xấu ông đập đầu ta, ta không chơi với ông nữa, lời ta hứa ta bỏ." Như vậy là gãy chú nguyện của mình liền, chỉ vì đối tượng đó mà nó phá chú nguyện của mình. Mà cái đó không phải đối tượng đâu, mà là kiết sử của mình mạnh hơn Pháp mình đang tu. Đừng có trách đối tượng, kiết sử của mình mạnh hơn đối tượng, hơn cái Pháp mình đang tu. Đối tượng chỉ là kiết sử của mình thôi. Các quí cô phải nhớ, chứ đừng đổ thừa ai hết.

Các cô phải nhớ, đối tượng chỉ là kiết sử hiện thân thôi mà nó phá Pháp mình đang tu, mình mất chánh niệm mình phóng dật bao nhiêu công lao tu rớt liền. Ngài vẫn tiếp tục dẫn đường cho người Balamon đi, Ngài thực hiện đúng lời Ngài đã nguyện, thì bắt đầu Ngài nhiễu máu xuống, Ngài không giận đối tượng, Ngài vẫn hành Pháp, đó là Balamat. Mà người đời nhìn vô đó nói là bị lợi dụng.

Không có đối tượng, chỉ có Pháp thôi, đối tượng ngả nghiêng như thế nào cũng là kiết sử thôi, nó là Pháp chứ không phải là đối tượng, Pháp là chú nguyện, không đặt vô đó đối tượng nào hết, không có thiên vị, không có riêng tư gì hết.

Không có đối tượng, chỉ có Pháp thuận hay Pháp nghịch, là kiết sử thôi, và Pháp là chú nguyện, đi theo cảnh cận y và pháp chú nguyện, vô gián cận y với pháp chú nguyện đang hành, và thường cận y với pháp mình hành cho tới thành tựu.

Do đó, khi một vị thành chánh quả thì họ nói: 

Sanh đã tận, 

Phạm hạnh đã thành,

 việc nên làm đã làm,

 không còn trở lại trạng thái này nữa”. 

Bốn câu đó là chính trí.

"Việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa", là không trở lại trạng thái mà chọn lựa đối tượng nữa, không có đối tượng chỉ có pháp thôi.

 Do đó, pháp tâm mà mình huân tập như vậy thì tâm mới kiên cố.

Đọc quyển Paṭṭhāṇa màu xanh, Paṭṭhāṇa - Phát Thú - Bhaga III - Phần III - (Quyển Thứ 42-43/45)

Trang 265, câu 76 Cảnh Trưởng, Câu Sinh Trường

76] Pháp Thực Tính bắt tương ưng hệ phược làm duyên đối với Pháp Thực Tính bất tương ưng hệ phược theo phương thức Trưởng Duyên có 2 thể loại là Cảnh Trưởng và Câu Sinh Trưởng.

Cảnh Trưởng đó là người đã xả thí, tuân thủ giới luật, thọ trì thanh tịnh nghiệp lực rồi tư khảo lại Thiện ấy cho thành Cảnh một cách kiên định, tư khảo lại Thiện đã từng tích lũy thiện hảo rồi cho thành Cảnh Một cách kiên định, xuất khỏi Thiền Định rồi tư khảo lại Thiền Định cho thành Cảnh một cách kiên định. Bậc Thánh Nhân xuất khỏi Đạo rồi tư khảo lại Đạo cho thành Cảnh một cách kiên định, xuất khỏi Quả rồi tư khảo lại Quả cho thành Cảnh một cách kiên định, tư khảo Níp Bàn cho thành Cảnh một cách kiên định, Níp Bàn làm duyên đối với Chuyển Tộc, Dũ Tịnh, Đạo và Quả theo phương thức Trưởng Duyên. Người hÿ duyệt tâm khoáng thần dĩ Nhãn v.v. Ý Vật, Uẩn bất tương ưng hệ phược và Tham cho thành Cảnh một cách kiên định, vì thực hiện sự hÿ duyệt tâm khoáng thần di Nhãn ấy v.v. cho thành Cảnh một cách kiên định, tham ái bất tương ưng hệ phược mới sinh khởi.

Người xuất khỏi thiền định không tầm không tứ, xuất khỏi đạo, xuất khỏi quả, tư khảo lại quả cho thành cảnh một cách kiên định, đó là cảnh trưởng, cảnh kiên định tức là cảnh lớn. Việc tác hành, việc tư khảo lại quả cho thành quả cảnh kiên định người ấy có tâm sở sinh lên.

Câu 76 Pháp thực tính không có tầm có tứ. 

Bậc Thánh nhân có một thể loại là Cảnh Trưởng Duyên. Bậc Thánh nhân xuất khỏi thiền có tầm có tứ, xuất khỏi đạo tư khảo lại quả là suy nghĩ lại đạo của mình rồi cho thành cảnh kiên định, việc tác thành việc tư khảo lại cho thành cảnh có tầm có tứ, bậc Thánh nhân tư khảo Niết-bàn. Sư để tư khảo lại quả, tư khảo lại đạo, nhưng Niết-bàn thì là tư khảo Niết-bàn, vì Niết-bàn là cảnh. Tư khảo Niết-bàn cho thành cảnh kiên định, Niết-bàn làm duyên liền theo phương thức chuẩn duyên.

Những người hỷ duyệt với pháp ngoài hiệp thế thì họ hỷ duyệt tỷ thiệt thân thức pháp họ sống theo hiệp thế, còn người đạo quả thì họ sống theo một cái cảnh.

Đọc tiếp phần thứ 2 Cảnh Duyên.

Bậc Thánh nhân xuất khỏi thiền định không tầm không tứ, xuất khỏi đạo, xuất khỏi quả, tư khảo lại quả cho thành cảnh kiên định, việc tác thành việc tư khảo lại cho thành cảnh kiên định mới làm tâm khởi sinh lên. Bậc Thánh nhân tư khảo Niết-bàn thành cảnh kiên định Niết-bàn làm duyên trở lại.

Đó là Cảnh Cận Y, Cảnh Trưởng, tức là thuộc Cảnh Cận Y. Cảnh Trưởng là Cảnh Cận Y.

Qua phần Cảnh Cận Y, trang 283 Cảnh Cận Y, Vô Gián Cận Y, Thường Cận Y.

Nương vào giới thực hiện, thiền nương vào tầm tứ thực hiện, nhập thiền định

Qua phần 103 nhập thiền định.

Thường Cận Y thuộc Cảnh Trưởng. Vô Gián Cận Y, Thường Cận Y.

Trang 284, câu 104

Người nương vào tín, không có tầm không có tứ chỉ thực hành thiền định không có tầm không có tứ khởi sinh lên thực hành đạo, thực hành thắng trí, thực hành nhập thiền định cho khởi sinh .......

Cảnh Trưởng mà mình thực hành nó thì nó thành Cảnh Cận Y, mình nương y nó. Cảnh Trưởng mình gắn bó với nó kề cận với nó sát cận với nó mình nương tựa với nó thì gọi là Cảnh Cận Y

Vô gián cận y nó là Câu Sinh Y, nó ở trạng thái Câu Sinh Trưởng. Nếu mình đi trong trạng thái Vô Gián Cận Y này nó phải Câu Sinh Trưởng với đối tượng mình đang làm với cái chú nguyện. Nên khi mình có quyển Paṭṭhāṇa này các quí Phật tử sẽ thấy tất cả trong ngày đều là pháp hành, trong mỗi pháp hành có duyên dẫn chứng để hành theo duyên đó mãnh lực đó làm nên kết quả.

Do đó có 2 cái ngược nhau; nhân duyên và phi nhân duyên, thuận duyên và đối nghịch duyên. Thì phần mình đang đi trong pháp hành pháp chú nguyện về pháp thí mà có đối tượng xen vào hay pháp nghịch xen vô thì nó thuộc là đối nghịch duyên. 

Theo người không biết, người đời người phàm phu thì sẽ nói người đó người xấu, người đó người ác người không tốt, người đó là người bất thiện, họ phá việc tu hành của mình. Nhưng trong Paṭṭhāṇa lời Phật dạy không có người, chỉ có pháp thôi hay chỉ có pháp nghịch thôi, mà mấy cô không thể nào nói nó là pháp nghịch mà nói là pháp kiết sử của mình, cái thói quen của mình, đổ thừa, chê bai, công kích, chỉ trích, hay phê bình, tất cả những cái đó đều là pháp kiết sử của mình chứ không phải của người, không có người. Mà nếu mấy cô không nhìn ra được cái đó thì tâm của mấy cô còn đang hướng về hiệp thế, có chủng tử hiệp thế và có quả báo của hiệp thế đang dẫn dắt mấy cô đang đi trên con đường hiệp thế.

Đứng trước con đường có sông hồ bông hoa tươi đẹp là hiệp thế, còn con đường khô cằn mình đi là để đạt được cứu cánh thôi chứ mình không có vướng mắc trong hiệp thế mình mới đi được. Còn con đường sông hồ bông hoa tươi đẹp là họ muốn tận hưởng.

Khi mình công kích người ta, mình chê bai người ta, mình nói người đó cản ngăn con đường hành thiền của mình thì mình đang ở trong pháp hiệp thế đó với một kiết sử của mình đang chi phối mình, mình đang bị tác động. Mình đừng có như vậy.  Còn nếu như cái đó còn, nó sẽ luân hồi lại, có người với người oan trái. Còn nếu như không có thì trong sự tu mà trở lại thì cô chỉ có pháp nghịch dằn co với tâm mình thôi chứ không có người đối nghịch.

Nếu mình sống trong pháp và mình không để ý tới người, thì nếu lập lại trên con đường luân hồi mình còn đang tu thì pháp đến mình cứ dằn vặt trong tâm thức của mình. Còn có người đến mình đã kết oan trái với người mà mình đặt đối tượng mình trong pháp nghịch đó mà mình không nhìn thấu qua đó là kiết sử thì người đến đó nó có thêm cái nghiệp của nó nữa thì mình trả không nổi. 

Còn cái pháp này chỉ trong lòng mình thôi và mình không để ý tới nó mình đang tu mình lo đi con đường pháp với cảnh cận y với cảnh trưởng với vô gián y với câu sinh trưởng này, mình đi theo pháp thôi thì nó an lành hơn. 

Còn nếu mà có người mà nó với pháp nghịch hình thành ra được rồi thì nó có nghiệp của người đó với nghiệp của mình với pháp nghịch cộng 2, cộng 3 lại thì mình làm không nổi.

 Ngũ ma: 

1. Phiền não ma  ---> Pháp / Nhân

2. Ngũ uẩn ma  -----> Pháp / Nhân

3. Pháp hành ma ----> Pháp / Nhân

4. Tử thần ma  ------> Pháp / Nhân

5. Thiên ma  ---------> Pháp / Nhân

Do đó:

1. Phiền não ma là: phiền não là trong lòng mình; tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, là cái phiền não, không có người nào đến mình cũng có phiền não, tâm không tu thì có phiền não.

2. Ngũ uẩn ma là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nó thay đổi liền liền. Thọ cũng thay đổi, tưởng cũng thay đổi, hành cũng thay đổi, thức cũng thay đổi, nó thay đổi liền liền.

3. Pháp hành ma là: Thiện, bất thiện, khi mình làm thiện, khi mình làm bất thiện, con người mình bất thường không gì ổn định.

4. Tử thần ma là: cái chết đến. 

Có 4 loại chết: 1. giống như ngọn đèn hết dầu, 2. hết tim, 3 hết dầu và tim, 4. và mãnh lực.

1. Hết tuổi thọ mình chết

2. Hết nghiệp mình chết

3. Thọ và nghiệp mình hết mình chết

4. Chết bất đắc kỳ tử, dầu và tim còn nhưng có ngọn gió thổi mạnh hơn làm tắt ngọn đèn.

Thì 4 loại này không có người nào tác động, mà người đó chết là hết tuổi thọ, hết nghiệp.

Do đó, khi mình sống qua 75 tuổi thì bắt đầu mình sống với nghiệp. Người nào sống hơn 75 tuổi là sống bằng nghiệp. Thì cái nghiệp của mình quá khứ mà tốt thì sống trên đời này mình được an vui hạnh phúc, cơm no áo ấm, con cháu đề huề, còn nếu như nghiệp bất thiện thì sống đáo lão cô đơn nghèo khó khốn khổ, đó là sống với nghiệp, khỏe mạnh ốm đau cũng là cái nghiệp.

Còn tuổi thọ ngay lúc đó thọ và nghiệp vừa hết luôn, dầu và tim cùng hết luôn, thì lúc bấy giờ như là 73 tuổi hay là 74 tuổi đi một cách êm ái không có cái gì là bất thường.

Còn chết bất đắc kỳ tử như là bị xe đụng chết, uống thuốc chết v.v... mà mới có 20, 30, hay 40 tuổi. Thì cái này gọi là tử thần ma nằm trong 4 loại chết này. Không có người nào tới bắt mình đi mà mình đi theo nghiệp theo tuổi thọ dắt mình đi. Trừ khi mình có oan trái thì mới có xảy ra.

 5. Thiên ma: có 2 loại ma. Ma vương có 2 loại, đối với Bồ Tát Chánh Đẳng Giác, chính Ngài ra tay đánh với Ma Vương lúc Ngài ngồi dưới gốc cây, Ma Vương đòi cái bồ đoàn, và đánh thua thì bắt đầu Ma Vương trở về cung trời thì 3 nàng con gái xuống, đó cũng là thiên ma, 3 nàng con gái là ái dục, phiền não, sân hận, tới cám dỗ Ngài. Tức là trong 20 A tăng kỳ Ngài tu có khi Ngài phóng dật Ngài nhìn đối tượng chứ không nhìn pháp nên mới có những hiện tượng này tới, các quí cô phải cẩn thận.

Do đó, khi mình học biết được Phật Pháp rồi đừng có bao giờ rớt vô con đường đi của Ngài nữa, thì mình nhìn một cái gì thì nó chỉ là Pháp thôi, đừng cho đó là đối tượng thì an toàn cho mình sau này. Sư khuyên quí cô đừng rớt vô bánh xe cũng của quí Ngài nữa, mình biết rồi không có đổ thừa ai, không đổ thừa người đó xấu người đó ác, tui không có oan trái mà sao họ tới oan trái với tôi, mấy cô sai lầm hết. Không có người xấu, chỉ có Pháp, kiết sử của mình chưa thanh lọc thôi, pháp nghịch của mình chưa tu tập thôi. 

Mình đừng có nhìn vô, nếu nhìn vô mà có cái chủng tử hay có thành kiến, nó sẽ hiện ra, nghĩ cái gì nó ra cái đó. Bây giờ mấy cô nghĩ tới thiên ma thì có thiên ma.

Tất cả các pháp (ngũ ma) này đang là pháp, mà cô nghĩ tới thì nó có người hiện thân tới mấy cô liền. 

Và thời điểm nào cũng vậy, thời điểm Phật Pháp thịnh hành hay thời điểm Phật Pháp suy vi, tất cả đều là hí luận lộng hành hết, chỉ do con người mình tạo ra thôi.

Do đó, khi mình đang xả thí mình chỉ nghỉ tới Pháp thôi, và mình có pháp nghịch và pháp thuận vậy thôi chứ không có đối tượng cản ngăn hay có người phá mình.

Trì giới cũng vậy, mình có pháp thuận và pháp nghịch chứ không có người nào cản ngăn hay phá mình trì giới không được. Không khéo là mấy cô rớt trong trường hợp có người, mà Sư không muốn mấy cô nghĩ tới đó, Sư hóa giải cho mấy cô cái đó, tại vì các đường của các Bồ Tát đi qua đều có sơ xót, có khi bị quên.

Mình lo tu, chỉ có Pháp thôi, không có người, chỉ là Pháp thôi thì mình an toàn. Mình chỉ đối diện với Pháp thôi và mình lo tu, chứ không đối diện với người

Như thiên ma, thí dụ thiên chủ Ma Vương có nghiệp của chính họ nữa và mình mà cộng oan trái với họ thì ra 2 cái mình đánh không nổi.

Khi Bồ Tát đang ngồi dưới gốc cây Ma Vương tới đòi, Ngài nói: "Ai làm chứng cho ta cái bồ đoàn này, 30 pháp Balamat của ta làm chứng." Lúc đó các Chư Thiên bay đi hết, Ngài lấy 30 Pháp Balamat của Ngài làm chứng Ngài nhập định luôn, Ngài không đối diện với Ma Vương.

Các cô có nhớ bài "không tranh cãi tranh luận với người không phải Phật tử" không? vì tranh cãi vô ích, khinh suất là rớt liền. Đó là Ngài sống với Pháp, Ngài không lấy đối tượng. Ngươi là ai, ngươi oan trái gì với ta mà gây gỗ với ta hay phá phách ta.

Trong con đường tu của mình không nghĩ tới người nào phá mình, mình chỉ nghĩ là pháp kiết sử của mình, cái pháp nghịch của mình, chưa khéo tu, chưa trọn vẹn cái chú nguyện, ráng tu ráng trau dồi.

Cái đó là khi nó đối diện với mình. 

Còn mình đang tu đang hành, mình đang xả thí thì mình cho ra thôi, không nghĩ tới đối tượng, già, hay trẻ, thiệt hay giả bộ, mình chỉ có pháp xả thí thôi. 

Sau này trên đường tu nó lập lại người luôn chứ không phải là pháp nữa, nó cộng thêm 2, vừa pháp vừa người. Mấy cô cẩn thận, Sư ngừa trước, Sư khuyên mấy cô lập Pháp thôi để mấy cô ngừa, mà cô còn nghĩ tới người thì lọc bỏ đi, đó chỉ là kiết sử, đó là pháp nghịch của mình thôi, chứ không có đối tượng không có người thì mai sau này mấy cô bớt gặp người, bớt cảnh pháp nghịch của người, cẩn thận vô cùng.

Mình sống quen tập khí, mình không nhìn được pháp, không hiểu được pháp cái mình đổ thừa người.

Tâm mình nghĩ gì thì có cái đó, nên tâm chỉ nghĩ pháp thôi, mình đối diện pháp, mình giải quyết pháp, mình tu tập pháp. Không có người thì mình không bị kiết sử xen vô nó chi phối tâm mình. Còn không thì mình có người, rồi bao nhiêu chi tiết kiết sử của mình nó giải thích cái người đó phá con đường tu của mình.

Phiền não chỉ là pháp, không có người. 

Ngũ uẩn ma chỉ là giặc lòng, là pháp không có người, 

Pháp hành ma chỉ có người, mình tu tập không khéo pháp hành dẫn dắt mình đi.

Tử thần ma chỉ có 4, nghiệp với thọ của mình thôi, chứ không có người.

Thiên ma thì chỉ có Ma Vương thôi. Nhưng không có nói Atula, Ma Vương, "ngươi cần gì ta, ta giúp cho ngươi", không có, mình chưa phải đối tượng để mà các Ngài xuất hiện đâu. Ma Vương chỉ hiện bày khi Bồ Tát Chánh Đẳng Giác thôi, chứ không có đối tượng nào để xứng với Ngài.

Từ đây về sau tất cả mọi pháp nào đang thuận với chú nguyện của mình có mà có pháp nghịch vô mình chỉ nghĩ là pháp thôi, đừng đặt người vô, đừng bỏ vô, nếu bỏ vô lúc đó chồng lên 2.

Vậy thì, ta nói trở lại cái tâm. Tâm ta không sinh là do nơi tác ý của ta, do trí tuệ của ta hay do ta không có đối tượng để bắt, ta không biết để bắt, tâm ta không sinh, lúc đó.

Tâm không sinh, có 2 trường hợp:

1. Không nhận cảnh hiện bày.

2. Không bắt được cảnh hiện bày.

Hai trường hợp đó mấy cô ở trường hợp nào?

Thí dụ. Tâm mấy cô không sinh vì mấy cô không nhận cảnh đang có, vì mấy cô đang nhận cảnh đó mấy cô không có cảnh. Thí dụ, cảnh đánh nhau mình không nhận cảnh đó thì tâm mình không sinh, còn cảnh đang đánh nhau mình không thấy mà mình muốn biết muốn tìm, bắt không được  cảnh, mình chạy đi tìm.

Không nhận cảnh hay là không bắt được cảnh tâm mấy cô không sinh. Thí dụ, Sư đang chạy xe Sư thấy con nai chết bên đường phía bên Sư, mấy cô ngồi bên kia không thấy. Sư nói kìa có con nai chết. Mấy cô nói mấy cô không thấy. Thì tâm mấy cô không sinh vì mấy cô không bắt cảnh đó.

Trường hợp không nhận cảnh. Cảnh có không nhận thì tâm mình không sinh. Cảnh Đức Phật tới mình không nhận cảnh tâm không sinh, nhận thức không bắt được cảnh pháp.

Trường hợp không bắt được cảnh hiện bày, tại vì mình thiếu sự chú ý. Mấy cô để ý "nhân sinh tâm nhận thức, nhân sinh tâm nhĩ thức, nhân sinh tâm tỷ thức, nhân sinh tâm thiệt thức, nhân sinh tâm thân thức", có sự tác ý chú ý, có ngũ thức nên có sự chú ý.

Như vậy thì, khi người ta hỏi tâm không sinh lúc nào? Có 2 trường hợp: Có chú niệm và đang thất niệm.

Đang chú niệm không bắt cảnh xấu thì tâm mình không sinh với cảnh xấu.

Tâm không sinh vì mình đang Thất Niệm với cảnh tốt mà mình không bắt được cảnh tốt.

Tâm mình không sinh với cảnh xấu vì mình đang Chú Niệm, mình phòng thủ tâm mình lại.

Cảnh tốt mình bị thất niệm tâm không sinh, nghe thuyết pháp cảnh Phật hiện bày tâm mình không sinh tại vì mình thất niệm.

Với cảnh xấu tâm không sinh, với cảnh tốt mình không thất niệm thì lúc đó tâm mình có.

Với cảnh xấu tâm mình không sinh vì mình đang chú niệm trong cảnh pháp, không bắt cảnh xấu, thì tâm mình không sinh trong cảnh xấu. Với cảnh xấu hiện bày ra tâm mình không sinh. Với cảnh xấu cảnh bất thiện đang hiện bày ra tâm không sinh, đóng cửa lại không để tâm phóng dật.

Cảnh xấu tâm mình không sinh, ta không bắt cảnh xấu.

Vậy thì Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là cảnh Tứ Thiền Vô Sắc Giới.

Không Vô Biên, Xứ Vô Biên, Vô Sở Hữu, Phi Phi Tưởng Xứ, nó chỉ là 2 sát na tâm thôi cắt đứt liền để tâm không sinh, rồi vô Thiền Diệt Nidrodhajhāna luôn. 

Phi Phi Tưởng Xứ không phải cảnh xấu.

Như vậy thì với cảnh xấu ta không bắt. Còn Phi Phi Tưởng Xứ là chú nguyện của Thiền Diệt Nidrodhajhāna mình phải đi tiếp luôn vô Thiền Diệt, thì lúc đó mình phải cắt Phi Phi Tưởng Xứ này cho nó không sinh nữa để nó đứt, nó vô Thiền Diệt tâm không sinh trong 7 ngày.

Bây giờ tâm không sinh khi có cảnh xấu tâm không sinh.

Tâm Đạo có cảnh: Sát trừ phiền não, chứng tri Niết-bàn. Cái nào là Cảnh Trưởng, cái nào là Pháp Trưởng.

Tâm Đạo một lúc làm được 2 chức năng; nó sát trừ phiền não, và chứng tri Niết-bàn.

Giống như chiếc máy bay chạy trên đường phi đạo nó xé không gian bay lên nó bỏ đường phi đạo.

Thì Tâm Đạo nó sát trừ phiền não chứng tri Niết-bàn. Cái nào là Pháp Trưởng? Cái nào là Cảnh Trưởng?.

Tham, sân, si, đang hiện bày trên danh sắc của mình. Nếu nhìn đây là danh thì không thấy tham sân. Nếu nhìn đây là tham thì cô không thấy danh của mình.

Sắc đau, nếu nói là sắc thì thấy là sân, sắc thân này đang đau thì không thấy tâm sân, nó bắt cảnh thôi.

Nếu thấy tâm đang sân thì không thấy sắc pháp này của tôi đang đau.

Sát trừ phiền nào này nó không nằm trên danh sắc, sát trừ phiền não nằm trên tham sân si, trên pháp thôi. 

Không đi lệch được, đi lệch nữa là đi ra nữa, có đối tượng bị gạt bởi đối tượng, tâm ta không sinh. 

Với trường hợp phiền não đang sinh lên chỉ là tham, sân, si thôi, tâm ta không sinh. Còn nếu trường hợp sắc đang đau thì mất đi tâm sinh. Muốn cho hết đau mất đi tâm tham. Ta đang ở trong trạng thái danh sắc của mình, đang trong đối tượng mình đang có, chứ không sống trong pháp, vì Tâm Đạo không có, Tâm Đạo chỉ có phiền não thôi, chỉ là Pháp thôi. Phiền não là Pháp. Mà nếu đi vô đó là đối tượng là "Tôi" thì không nhìn ra được Pháp.

Tâm Đạo là con đường hành Minh Sát trên danh sắc chỉ có phiền não với Pháp thôi chứ không thấy đối tượng. Nếu còn đi theo đối tượng nữa thì nó che án đi Pháp của mình và mình không thấy được Pháp hiện bày, đối tượng nó vật mình chết luôn, đối tượng nó mạnh lắm, nhất là đối tượng của mình, mình không giết nổi nó, nhưng mình đẩy đối tượng tham sân si, thấy Pháp tham, sân, si, mình giết được.

Thí dụ, một cái hột soàn 15 kara để trên bàn người ta bỏ không lấy, mình thấy rồi mình suy nghĩ: mình lấy, không lấy, lấy, không lấy. Lúc đó ta thấy Pháp hay thấy đối tượng. Thấy đối tượng vì 15 kara lớn lắm nên phải thấy, còn mình đây lớn lắm, lớn hơn 15 kara thì phải thấy đối tượng. Dưới danh và sắc mà nhìn nó là đối tượng thì sẽ chết với đối tượng này, nhất là đối tượng của mình, danh sắc này là của mình thì nó là đối tượng của mình. 

Nhưng nhìn vô chỉ là tham, sân, si thôi, mình phải diệt tham, diệt sân, diệt si, pháp tham này không tốt, pháp sân này không tốt, pháp si này không tốt, mình diệt tham sân si thôi đừng nhìn vô đối tượng nữa thì tâm lúc đó không sinh với phiền não này, mà tâm chỉ sinh với trạng thái diệt trừ nó thôi.

Chứng tri Niết-bàn mình có chưa? Tham sân si có không? Tham sân si mình có đầy rẫy luôn, nhưng chứng tri Niết-bàn thì không có.

 Do đó, khi tham mất trong vô thường, khi tham mất trong cái khổ đau, khi tham mất trong vô ngã thì chứng tri Niết-bàn bởi tâm đạo với cái pháp đó, phải thấy đó là sự thật thì mới có tâm đạo.

 Vậy thì khi tâm đạo này có Pháp Trưởng là sát trừ phiền não. Sát trừ phiền não hết thì lúc đó Niết-bàn nơi đó chứng đạo quả liền.

Do đó, khi tâm không sinh là lúc đó mình phải hiểu, chứ còn không phải là không có tâm không sinh vì tâm luôn có cảnh. Tâm khi nào không sinh chỉ có tâm tử bậc Alahan mới có tâm không sinh. Sống trong đời này còn sinh tử luân hồi, ngay bậc Alahan cũng có tâm cũng có đối tượng và tâm sinh như thường, nhưng mình phải biết sự tu tập của mình.

Như vậy thì khi tâm này tâm cảnh xấu thì mình không phải nằm trên đối tượng, cảnh xấu này chỉ là cảnh pháp.

Khi đang trong cuộc sống hàng ngày mà biết cách áp dụng thì mình sống trạng thái có khi tâm không sinh, không câu sinh với người nào đó, hay không có câu sinh với câu chuyện nào đó là khi mình có chú niệm biết dừng lại. Còn không thì đang thất niệm thì tâm sinh chạy theo trạng thái cảnh hiện bày.

Một bà chứng nhị quả, ông chồng là thợ săn, buổi sáng bà đưa cung tên cho ông chồng, các chư tăng nhìn thấy ngạc nhiên sao bà là nhị quả mà đưa cung tên cho ông chồng đi săn như vậy là cộng nghiệp. Đức Phật nói tâm bà không sinh, nhưng tâm bà đang sinh với pháp cung kính, nghe lời người chồng bà sống trong cảnh pháp đó chứ không sống với đối tượng.

Như vậy, khi mình đi tới trạng thái tâm đạo này thì trước đó những tâm gọi là tâm bất thiện, và hiện tại, nó không sinh, mà chỉ có tâm đạo có sinh. Những tâm bất thiện trước đó không thể nào sinh được. Những tâm bất thiện ngay hiện tại tâm đạo đang có thì tâm bất thiện không có sinh lên. 

Khi tâm đạo hiện bày ra những tâm bất thiện kia không còn. Do đó, các bậc Thánh nhân sau khi đắc chứng thì quán xét lại những phiền não đã từng sinh, quán xét lại để có kinh nghiệm.

Tâm đạo mới thực biết Niết-bàn, còn thuận tùng, cận hành, chuyển tộc chỉ thấy dạng Niết-bàn thôi.

Tham, sân, si, nằm ở ngoài, vô tới thuận tùng không có, cận hành không có, chuyển tộc không có, đạo quả không có.

Tức là con đường đi tới đạo quả thì tham sân si phải được loại trừ.

Trong con đường mình đang tu tập Vipassana dựa trên danh và sắc hay dựa trên phiền não?

Trên con đường mình đang tu Vipassana Minh Sát Tuệ từ tuệ đạo thứ nhất Tuệ Phân Biệt Danh Sắc cho tới Hành Xả Tuệ là tuệ thứ 10 mình đang tu tập về danh sắc hay đang tu tập về phiền não?

Tuệ thứ I- Nàmarùpa paricchedanàna - Tuệ Phân Tách Danh Sắc.

Tuệ thứ II - Paccayapariggalanàna - Tuệ Phân Tách Nhân Quả (Tuệ Phân Biện Nhân Duyên).

Tuệ thứ III - Sammasananàna - Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ não, vô ngã.

(Tuệ Thấu Ðạt)

Tuệ thứ IV - Udayabbayanàna - Tuệ thấy sự Sanh-Diệt của Danh Sắc.

Tuệ thứ V - Bhanganàna - Tuệ Diệt

Tuệ thứ VI - Bhayanàna - Tuệ Sợ

Tuệ thứ VII - Adinavanàna - Tuệ thấy Hiểm Nguy của Ngũ uẩn.

Tuệ thứ VIII - Nibbidanàna - Tuệ Chán nãn.

Tuệ thứ IX - Mũncitukamyatanàna - Tuệ muốn Giải thoát.

Tuệ thứ X - Patisankhanàna - Tuệ Suy Tư

Từ Tuệ thứ I tới Tuệ thứ IV còn danh sắc

Từ Tuệ thứ V tới Tuệ thứ X chỉ còn danh không có sắc

Bây giờ mình đang tu tập Vipassana trên Danh Sắc nghĩa là trên phiền não.

Nó ảo ghê lắm nên mới gọi là Vipallāsa là điên đảo, mình bị điên đảo trong cái đó, nó ảo trong đó, nó làm cho mình bị điên đảo Vipallāsa. Trí điên đảo, tưởng điên đảo, thức điên đảo, lúc đó nó đang nhập nhằng vô trong mình mà nó là hiện thân của phiền não, chứ nó không phải là pháp thiện, nó là pháp phiền não. 

Ngay phút đầu tiên vô Tuệ thứ I Tuệ Phân Biệt Danh và Sắc, nếu vẫn tiếp tục đi theo con đường này đối tượng của mình đang có, ta đang niệm được danh và sắc trong con người của ta, mình sẽ bị nó dắt đi nữa của pháp ảo tưởng Vipallāsa này, mình chỉ thấy đây là phiền não thôi, đó là sự thật. 

Khi mình thiệt lòng tu để đi tới đạo quả Niết-bàn với chú nguyện của mình, cảnh cận y của mình là mình phải diệt phiền não tham sân si, những phiền não này đang cột trói ẩn núp của danh và sắc của ta đang dính mắc. Còn không là mình nuôi dưỡng nó.

Mình phân biệt được đây là danh, đây là sắc, tới phần tuệ thứ V chỉ còn danh pháp thôi, sắc pháp cũng là của tôi.

Đi tới trạng thái tâm không sinh này là quyết liệt, cái đó là cái pháp mình phải tu mà Sư nói vi diệu chỉ có  Paṭṭhāṇa Đức Phật Ngài chỉ, Ngài nói pháp hành, tuyệt vời lắm, Sư muốn chia sẻ và quí Phật tử phải nắm bắt liền chứ không bỏ qua cơ hội. 

Thì lúc bấy giờ Phổ Thông Tướng nó lên là mình thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, hay là tham sân si. 

Vô Thường hiện bày của một cái tham.

Khổ Đau hiện bày của một cái sân.

Vô Ngã hiện bày của một cái si. 

Ba cái đó, cái nào là Pháp Trưởng? Cái nào Cảnh Trưởng? Lúc đó mình sẽ nhìn thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, thì Sư nói đó chỉ là Cảnh Trưởng của quí Phật tử. Chứ Pháp Trưởng là pháp sân si đang hiện bày mà thấy được 3 tướng này, không thấy, nó che lấp, Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã không thấy. Nếu ta nói ta thấy là ta dính rồi, ta biết rồi. Phải hết sức cẩn thận, không có thuận tùng. Nếu mà có mình đi thuận tùng rồi, cận hành rồi. Còn bây giờ cứ tiếp tục qua phần sinh diệt. Cứ tiếp tục qua phần hoạt diệt. 

Sư không muốn quí Phật tử phải là Upatisa, Sư không muốn quí Phật tử phải là Kolita, nhưng phải hiểu cái pháp có như vậy đó thì mình coi mình thuộc loại đó không, mình mới lo tu tập của mình, nếu mà không có những đối tượng đó thì mình phải lo tu tập cho chính mình, và chính mình phải biết cái mình cần tu thuộc loại nào, chứ không thể nào cho qua được và mình cứ  sinh diệt hoài, và mình cứ biết là như vậy hoài.

 Khi ta vô danh và sắc ta nhìn đối tượng. Trong danh sắc đó ẩn chứa phiền não mình không nhìn thấy được nó đâu. Mình nhìn rõ được danh và sắc bằng trí hay bởi sự thích thú của mình.

Khi mình nhìn thấy danh và sắc bằng trí tuệ hay bằng cái tham cái thích thú của mình, mình vui thích nhìn thấy được nó.

Vậy thì khi nhìn được danh này và sắc này bằng trí trong đối tượng pháp của nó, pháp của nó là cái gì trong cái danh. Đi tới trạng thái tâm đạo tâm không sinh lúc này. 

Như vậy, khi cô nhìn thấy tâm này, danh sắc phân biệt trí Tuệ thứ I Danh Sắc Phân Biệt Trí. Thì trí này nó làm cho mình phân biệt thấy được danh và sắc. Trí này làm cho mình phân biệt được tách ra không làm nữa, mấy nay mình nhận thức là 'tôi ta' chứ thật ra nó chỉ có 2 tâm thôi mà 2 tâm này có sự riêng biệt của nó, nó chủ của nó, chứ không có cái 'tôi' cái 'ta' trong này.

Danh sắc có chủ của nó, sắc có chủ của nó, ngay khi mình nhìn nó với trạng thái nhìn thấy danh với nghiệp chủ của nó với sắc với nghiệp chủ của nó thi mình có phân biệt được danh sắc. Chủ của nó không còn phiền não của mình.

Sư viết ra để quí Phật tử nhận rõ:

Không còn phiền não của mình --- Chủ --- Danh --- trí

Không còn phiền não của mình ---- Chủ --- Sắc --- trí

Nếu đứng ở 'Danh Sắc' là chưa xong.

Mà đứng ở 'Chủ' là chưa tới.

Mà đứng ở 'không còn phiền não' là đã hoàn thành.

Cảnh cận y (Danh, Sắc), 

Vô gián cận y (Chủ)

Thường cận y (Không còn phiền não).

Không còn phiền não, ngay phút đầu tiên mình nhìn thấy bản chất của Nghiệp Chủ của Danh và Sắc rồi mình không còn phiền não nữa, thì lúc đó ta tham sân si không có. Lúc đó tâm mấy cô không còn sinh ái luyến với danh sắc 'Tôi', 'Ta'. Cái đó gọi là Tuệ Phân Biệt được danh sắc với chủ nghiệp Kammassakatā của nó thì tâm mình không còn phiền não nữa.

Cái đó là con đường mình đi tới chứ không phải con đường mình chỉ phân biệt Danh Sắc suông với trạng thái mình phân tích như thế, vẫn còn phiền não, và đi tới:

- Tuệ thứ III - Sammasananàna - Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ não, vô ngã, 

- Tuệ thứ IV - Udayabbayanàna - Tuệ thấy sự Sanh-Diệt của Danh Sắc, 

Phiền não vẫn còn chồng chất lên chứ chưa hết. Mà mang theo phiền não đó cộng vô cái đó chỉ là ảo tưởng Vipallāsa thôi, chứ không phải hoàn toàn Minh Sát Trí hay Minh Sát Tuệ.

Danh và Sắc mỗi cái có nghiệp chủ của nó và chính nghiệp chủ của nó mình nhận thức được rồi thì không còn phiền não dính mắc với Danh và Sắc này.

Quí Phật tử mà tập tu được như vầy:

 Không còn phiền não của mình --- Chủ --- Danh --- trí

Không còn phiền não của mình ---- Chủ --- Sắc --- trí

thì mới ra được tâm đạo sát trừ phiền não, và chứng tri Niết-bàn. Còn không thì cứ nhập nhằng không thoát ra được.

Khi mình đi tới tuệ thứ I tuệ phân biệt được danh và sắc,  ở chặng Sắc, hay chặng Chủ, hay chặng Không còn phiền não của mình? Ở chặng đầu chứ không nhìn vô cái nghiệp của nó.

Nghiệp Chủ của Danh và Sắc. Khi bắt được 2 cái Danh và Sắc rồi thì mình không đi truy lùng Danh và Sắc nữa mà truy niệm Danh và Sắc này. 

Thì Nghiệp Chủ thuộc về tuệ thứ II, đây là Nhân sinh ra Danh và Sắc "Tuệ thứ II - Paccayapariggalanàna - Tuệ Phân Tách Nhân Quả (Tuệ Phân Biện Nhân Duyên)".

Nghiệp Chủ tức là nhân của Danh và Sắc.

Tuệ thứ III là Phổ Thông Tướng. Tuệ thứ III - Sammasananàna - Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ não, vô ngã.

Tuệ thứ II nhân quả của Danh Sắc chính là nghiệp chủ, tuệ thứ III là Phổ Thông Tướng, phiền não này là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã này là do trạng thái tham sân si của mình nó cuồn cuộn theo, chứ không có Danh Sắc, không có trong nghiệp chủ mà phiền não mình làm. 

Nhận thức từ đó mình mới thấy phiền não chi phối, bắt đầu mình đi theo cái phiền não này mình đi mình không nhìn đối tượng nữa, mình chỉ nhìn Pháp mình đi tới hành xả.

 Không trên Danh Sắc nữa, và không để ý tới Danh Sắc nữa. Mình càng để ý tới Danh Sắc là mình rối nùi trong cái ảo tường Vipallāsa của mình.

Nếu nói là trí, Vipassan-paññā là Minh Sát Trí trên lộ trình mình đi, chứ không đi trên đường đi.

Tuệ thứ II nhìn thấy được nhân của Danh và Sắc tức là nghiệp chủ. Nghiệp chủ là nhân của Danh và Sắc, chứ không phải có "tôi ta" nào trong đây.

Và tuệ thứ III là Phổ Thông Tướng, Tuệ thứ III - Sammasananàna - Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ não, vô ngã, là trên phiền não của mình mà nó sinh diệt. Từ trên phiền não đó mình ra đi, chứ không phải mình ra đi trên danh sắc này, mình không bỏ danh sắc, mình bỏ phiền não mà thôi. Mình bỏ phiền não chứ không bỏ danh sắc, tâm lúc đó không sinh.

Trên phiền não mình mới thấy cái phổ thông tướng của Danh Sắc này, phiền não nó chi phối hết, chứ không phải Danh Sắc này nó làm mình bị chi phối, Danh Sắc có nghiệp chủ của nó, mình làm phiền não vô Danh Sắc này và mình bị ảnh hưởng thôi, và mình phải tu để diệt phiền não chứ không phải mình tu để diệt Danh Sắc.

Như vậy, ta đang sống trong cảnh bất thiện và mình phải ở trong chú niệm, tâm mình phải cẩn thận đừng sinh, tâm chỉ sinh trong trường hợp đáng sinh. Sư chưa nói trạng thái thất niệm với cảnh tốt mà quí Phật tử mất cơ hội tâm sinh với cảnh tốt, không biết để mà bắt./.