071 Paṭṭhāna
HT Sán Nhiên giảng ngày 19 tháng 8, 2023
Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng 071 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ.
Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.
Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.
Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh
Minh Hạnh
Trong bóng tối đen một cái gì xuất hiện, mình nói là ma, là kẻ ác, người bị nạn cần giúp, hay một chúng sinh ? Mình không giải đáp được, vì Tâm Si, Tâm Moha, Tâm Vô Minh của mình nên mình không giải đáp được.
Si Phóng Dật, Si Hoài Nghi khi nó xuất hiện nó như bóng tối đen. Mình không nhìn được Cảnh Pháp nó đang có là cái gì, mình tìm không ra.
Ma mình nhìn ra được, Tham mình nhìn ra được, Sân mình nhìn ra Cảnh được, nhưng Tâm Si mình không nhìn ra được cái Cảnh, tại vì mình đang Si.
Mình phải trả lời cái gì cho đúng, và trả lời 1 lần thôi, chứ trả lời đi trả lời lại thì không được. Giống như đi thi a, b, c, khoanh, chỉ trả lời 1 cái thôi, chứ không được 2 lần, không được xóa.
Như vậy thì khi mình đang đứng ở trong bóng tối mà mình không trả lời được sự việc gì đang xảy ra. Thế thì Tâm Si của mình đang lên có Cảnh, Tâm Si giải thích được Cảnh đó không ?
- Đã Si thì làm sao giải thích cảnh này là cảnh tốt, cảnh xấu, không thể giải thích được.
Vậy thì khi ngồi thiền cảnh đến mà hành giả biết được cảnh đó là tâm hành giả biết và hành giả biết cảnh đó hay là mình biết theo kiến thức của mình, theo kiết sử của mình, theo tập khí, hay theo kiến chấp của mình.
Khi nói tới sinh và diệt, mình hít thở vô là sinh, mình thở ra là diệt, hơi thở mình đi theo như vậy, thì hành giả diệt đúng lúc đang diệt mà hành giả bắt được hay là niệm sau nó, nó đi rồi mình mới niệm. Ai trả lời cho mình, và mình trả lời được không ?
Người Thiền Sư hỏi mình : Hành giả bắt ngay lúc nó đang diệt, hay bắt ngay nó đang sinh ? Thì mình trả lời bắt ngay nó đang diệt, nó đang sinh, hay là mình bắt sau nó. Mình nói tôi thấy được sinh diệt, nhưng cái thấy được sinh diệt đó bằng lúc ngay nó xảy ra hay là trước hay là sau ? Và cái thấy của mình sinh diệt đó như thế nào ?
Đó là Tuệ thứ nhất, Minh Sát Trí Tuệ thứ nhất thấy sự Danh Sắc sinh diệt rồi, mình phải qua được cái cửa đó.
----------------------------------------
MƯỜI SÁU TUỆ MINH SÁT - 16 Tuệ Minh Sát (Vipassanāñāṇa)
1. Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc.
2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.
3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). (Phổ Thông Tướng)
4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt.
5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.
6. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ. .
7. Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành. Quá Hoạn Trí, Bố úy trí: Cái trí thấy được sự đáng sợ của các hành. Khi hành giả tu tập về quán diệt sung mãn, sẽ thấy tính chất của các hành thật khủng khiếp, khi y muốn sống yên ổn
8. Nibbidā ñāṇa: Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản. Quyết Ly Trí
9. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát. Dục Thoát Trí
10. Paṭisaṅkhā ñāṇa: Tuệ suy tư.
11. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành. Hành Xả Trí
12. Saccānulomika ñāṇa: Tuệ thuận thứ (thuận theo thực tế, tức thuận theo Tứ Diệu Ðế).
13. Gotrabhū ñāṇa: Tuệ chuyển tánh, vào lúc "chuyển thay dòng dõi" (tức từ phàm trở nên Thánh).
14. Magga ñāṇa: Ðạo tuệ.
15. Phala ñāṇa: Quả tuệ.
16. Paccavekkhaṇa ñāṇa: Tuệ ôn duyệt.
---------------------------------
Bây giờ lấy cái chân của mình để niệm, tác ý giở chân, mình đang niệm tác ý giở chân, thì lúc đang niệm tác ý giở ở trong đầu mình, chưa có động tác giở bắt kịp lúc mình đang niệm trong lúc mình giở chân lên hay là cái trước cái sau.
Rồi bây giờ "giở à" khi giở chân lên bắt kịp lúc mình đang giở lên đang niệm giở cùng một lúc, một sát na tâm thôi, hay cái trước cái sau. Trả lời được thì mình nắm bắt được cái Pháp đó, sự thật là như vậy.
Cũng như Thọ. Thọ của Pháp, hay Thọ của mình biết. Thọ của Pháp nó hiện ra.
Trái soài chín, từ khi nó còn non còn sống tới giai đoạn chín rồi tới giai đoạn hư chảy nước, thì lúc nào gọi là hư, lúc nào mình gọi là nó chín, lúc nào nói là còn sống, mình nói theo mình.
Nói tới nấu cơm, gạo sống, nước sôi, gạo nở, gạo chín, thành cơm, thì giai đoạn nào, biết trước, biết ngay đó, hay là biết sau ?
Mình nói những điều thực tế thôi, mình chạy theo không kịp.
Tâm Đức Phật, Tâm Ngài Xá Lợi Phất đếm được từng giọt mưa xuống. Mình phải tập, các Ngài làm được, mình phải làm được.
Nên mình ngó một đám mưa, mình nói mưa lớn, mưa nhiều, mưa dai, mưa ngắn, mưa ít, mưa nhiều nhưng các Ngài không nói, mà các Ngài nói nhiều đám mưa, nhiều giọt mưa, các Ngài đếm được giọt mưa.
Còn mình không đếm, mình nói số lượng, ngay cả khoa học ngày nay nói lượng nước lên 2 inch, 3 inch, chứ không đếm có bao nhiêu giọt mưa.
Kiến có 3 :
1. Tà Kiến là thấy sai
2. Chánh Kiến là thấy đúng
3. Kiến Giải là mình giải thích kiến của mình dưới cảnh của mình có là kiến giải Dassanena.
Khi nói đến tà kiến là thấy sai, thì mình nhìn vô mình nói mình đang có tà kiến không ? Hay mình quả quyết mình không có tả kiến, mình đang có chánh kiến ?
Sáu vị Ba La Môn ngoại đạo trong đó có Sañjayabelatthiputta, họ đã có trước Đức Phật họ giữ lấy gì họ có, tới khi Đức Phật Ngài thành tựu, Ngài trở lại nói : "Này các quí Ngài tà kiến"
Đức Phật Ngài nói Ngài đúng, còn những vị Bà La Môn họ cũng nói họ đúng.
Tà kiến là thấy sai chấp lầm.
Chánh kiến là khi nào mình thấy đúng. Đúng như thế nào gọi là chánh kiến. Sai như thế nào gọi là tà kiến. Đứng giữa 2 cái đó mình biết mình đứng ở đâu. Chưa nói tới Kiến Giải.
Tà kiến Micchā-diṭṭhi
Chánh kiến Sammā-diṭṭhi
kiến giải Dassanena
Micchā - tà , sammā - chánh
Từ vựng Pali rõ lắm, mình mới tìm ra được. Như vậy thì mình mới kéo 2 từ này xuống :
Micchā
diṭṭhi
Sammā
Vậy thì, dựa trên cơ sở nào đặt ra. Ở bên Bà La Môn họ nói họ là chánh kiến, bên Đức Phật nhìn vô nói họ là tà kiến.
Bà La Môn họ đâu có chịu họ là Tà kiến Micchā-diṭṭhi, mà Đức Phật nói họ là Tà kiến Micchā-diṭṭhi.
Còn Bà La Môn nhìn qua Đức Phật đâu chịu Ngài là Chánh kiến Sammā-diṭṭhi mà Ngài nhận Ngài là Chánh kiến Sammā-diṭṭhi
Tà kiến Micchā-diṭṭhi có 1 tà kiến, có 2 tà kiến, có 3 tà kiến, rồi có 62 tà kiến.
Có 1 tà kiến là thấy sai trách lầm
Có 2 tà kiến là Thường Kiến / Đoạn Kiến.
Có 3 tà kiến là Vô Nhân Kiến / Vô Hữu Kiến / Vô Hành Kiến.
Có 62 tà kiến được chia ra 5 phần.
Trên cơ sở này Đức Phật gọi là Tà kiến Micchā-diṭṭhi .
Trong phần thứ 2 Thường Kiến và Đoạn Kiến.
Thí dụ : Vị Đại Phạm Thiên ở trên cõi Trời Sắc Giới cai quản cõi Sơ Thiền Sắc Giới, Đại Phạm Thiên là Chủ Quản cõi Trời Sắc Giới, tuổi thọ của Ngài lâu hơn các Ngài Phạm Phụ Phạm Chúng. Phạm Chúng với Phạm Phụ hết tuổi thọ đi tục sinh còn vị Đại Phạm Thiên còn hoài, thấy mấy đứa con của mình đi tục sinh hết rồi các vị Phạm Thiên khác lên, thì Ngài Đại Phạm Thiên mới nói là Ngài Níp-bàn rồi, nói là Ngài giải thoát rồi, không còn sinh tử nữa.
Như Phạm Thiên Baka . Đức Phật mới nói : "Không, Ngài vẫn còn sinh tử, Ngài vẫn còn luân hồi, Ngài còn phải đi tục sinh, tuổi thọ của Ngài lâu thôi chứ Ngài vẫn còn luân hồi." Nhưng Baka không tin. Nên Đức Phật Ngài dùng trí để giải thích tà kiến của Phạm Thiên Baka bởi kiến giải Dassanena, chứ Ngài không lấy Chánh Kiến để sửa Tà Kiến, Ngài lấy kiến giải Dassanena để sửa Tà Kiến, lấy kiến giải Dassanena để điều chỉnh Chánh kiến Sammā-diṭṭhi. Nếu không có kiến giải Dassanena thì chánh kiến không thành toàn, mà tà kiến thì sai lầm hoàn toàn.
Thường kiến là tồn tại hoài, không hoại diệt, Đoạn kiến là chết là hết.
Kiến Giải nghĩa là phải giải thích tất cả tri kiến của con người. Đức Phật nói tà kiến là thấy sai chấp lầm, vậy ai là người nhận mình thấy sai chấp lầm ? Không ai chấp nhận là mình thấy sai chấp lầm.
Thường Kiến là thấy thường hoài không gì thay đổi. Đoạn kiến là thấy thay đổi liền liền không có gì tồn tại, không có gì vững chắc.
Người ta hỏi trong đời sống hàng ngày mình có Thường Kiến có Đoạn Kiến không ? Mình phải trả lời mình không có Thường Kiến vì mình thấy Sanh / Diệt , và cũng không có Đoạn Kiến thấy Sanh /Diệt mà mình có Tri Kiến.
Khi nào thấy có Sanh, khi nào có Diệt, mình thấy có Thường có Đoạn mình có Tri Kiến mình kiến giải Dassanena được. Cái đó mình không ở trong Tà Kiến.
Tri Kiến là Trí Tuệ của mình hiểu chứ không phải là kiến mình có.
Mình thấy điều đó rồi mình nói điều đó mà mình biết điều đó như thật của nó có hay là cái mình biết của kiến thức mình có.
Phạm Thiên Baka nói với Đức Phật :"Tất cả các Phạm Thiên đều đi tục sinh chỉ mình ta còn lại là ta Níp-bàn rồi, thường tồn." Đức Phật nói là ông kiến chấp.
Ông không nhìn được cái nghiệp của ông hết tuổi thọ.
Có 4 cách để nói đến cái chết, hay là 4 Pháp của sự tồn tại :
1. Hết nghiệp
2. Hết tuổi thọ.
3. Hết nghiệp và hết tuổi thọ.
4. Mãnh lực mạnh hơn.
Thì khi Phạm Thiên Baka đang trả lời với Đức Phật, ông không biết khi nào nghiệp ông hết, ông không biết khi nào tuổi thọ ông hết, ông không biết có mãnh lực nào mạnh hơn đến.
Nên khi Phạm Thiên Bake nói tới trạng thái ông tồn tại, mình học Pháp này, mình học mình phải biết liền.
Khi người ta nói tới tồn tại thì người ta không nói tới trạng thái sinh diệt, tri kiến của mình nhìn vô sinh diệt đó mình nói được sự tồn tại đó ở giai đoạn nào rồi, vậy thì khi nói tồn tại của tuổi thọ hay là sự sống của họ thì mình biết là họ chưa biết về 4 Pháp của sự tồn tại, tri kiến mình mới kiến giải được, rồi lấy chân kiến giải trên tri kiến này mình mới giải đáp được cái này.
Thiền sinh hỏi : Tri kiến đúng là họ có học. Mà học đúng thì họ mới có chánh kiến.
HT trả lời : Đó là cô nói Văn, Tư, Tu
Khi Phạm Thiên Baka nói : "Ta còn tồn tại, các vị Phạm Thiên kia đi tái sinh." Ông nói đúng, nhưng ông không biết 4 Pháp của sự tồn tại, trên 4 cơ sở này không có kiến giải. Mà khi không có kiến giải được thì kiến đó trở thành tà kiến, thấy sai chấp lầm, và đó là sự thật, nhưng họ rớt trong trạng thái tà kiến mà họ không hay.
Hồi xưa mình đi học trong một lớp có một ông thầy có 50 học trò. Thầy giảng một bài, 50 học trò nghe có giống nhau không ?
Một ông thầy, có 50 học sinh nghe thành 50 bài giảng khác nhau. Đó là lúc mình nghe, rồi tới khi thi cuối năm thi A, B, C thì mình có tin vào mình hay mình tin vào người bạn ngồi thi bên cạnh nói cho mình nghe rồi mình làm theo cái người ta nhắc.
Mình tin kiến giải của mình hay tin chánh kiến của mình.
Người Thiền Sư hỏi người thiền sinh : khi ngồi thiền bạn lấy kiến giải hay lấy chánh kiến ?
Thiền sinh trả lời : Phải lấy chánh kiến, vì khi ngồi thiền mình phải đi theo Bát Chánh Đạo, mà Bát Chánh Đạo trong đó có Tuệ là chánh kiến, chứ mình không lấy kiến giải được.
HT trả lời : Tri kiến là Insight, Chánh kiến là kiến văn, 2 cái khác.
Nếu quí Phật tử lấy chánh kiến thì thấy Chánh Kiến trong kiến văn của Bát Chánh Đạo là thấy Tứ Đế thì sẽ thấy Khổ Đế, Tập Đế.
Còn nếu lấy Tri Kiến là Insight là thấy Sinh / Diệt.
Kiến văn của mình trong Bát Chánh Đạo là lấy Tứ Đế làm nền trong Chánh Kiến, ta thấy Khổ Đế, Tập Đế, vậy thì khi hít thở vô hit thở ra thì nhìn vô trạng thái Tập Đế sinh ra Khổ Đế trong trạng thái hít thở này trong đó có Chánh Kiến.
Còn nếu như trong trạng thái mình hít thở vô thở ra mình nhìn thấy được đang có sinh có diệt, mình có Tri Kiến nhận thức, đó là Kiến Giải, mình giải thích được đó là trạng thái tuần hoàn của sinh diệt.
Thiền sinh hỏi : Trước khi mình có Kiến Giải, mình phải có Chánh Kiến mình mới kiến giải được ?
HT trả lời : Phải có Chánh Kiến, nhưng nó là Tri Kiến chứ không phải là Chánh Kiến. Cái Tri Kiến là cái Biết của mình.
Thiền sinh hỏi : Lấy Chánh Kiến làm Đồ Đạo Duyên. Cái rốt ráo là mình phải kiến giải, vì kiến giải mình mới đi Tam Tướng được, nhưng phải có Chánh Kiến rồi mới đi Kiến Giải, thì trên con đường tu tập mình phải dùng Chánh Kiến mới đủ để Kiến Giải, nhưng cái người họ đã có rồi thì họ kiến giải họ đi thẳng họ kiến giải họ ra Tam Tướng luôn, họ thấy Tam Tướng.
HT trả lời : Chánh Kiến / Kiến Văn / Khổ Đế / Tập Đế.
Hơi thở vô --> tôi biết đây chỉ là Tập Đế. Chính hơi thở này vô mà khi nó ra tôi mới thấy nó là Khổ Đế của tôi thì nó đã mất - Ái biệt ly. Họ đi bằng Tập Đế và Khổ Đế.
Hơi thở vô là Tập Đế, vì mình muốn sinh tồn. Mà hơi thở ra mình thấy nó là Khổ Đế, vì nó đã có rồi giờ nó lại mất đi. Mới thấy là khổ này đang có bởi cái Ái làm tôi khổ. Họ đi Chánh Kiến.
Hít thở vô là Tập Đế, vì Ái mà tôi muốn hít hơi thở vô mà giờ nó mất rồi thì tôi sợ là Khổ Đế, nó ra rồi không biết nó trở vô lại không. Cuộc đời của mình có 2 cái Tập Đế và Khổ Đế.
Tối nằm xuống ngủ "không biết mai ta có mở mắt lại không, hay ta ra đi luôn ?" Thì phút giây còn lại từ đây cho tới khi ta nhắm mắt thì ta đi mai sáng ta có trở lại không, giai đoạn đó là Khổ hay là Tập, mình đâu có niệm sinh / diệt trong khi mình đang ngủ. Trước cái cửa ngủ này, ngày mai ta còn mở mắt ra được và trước cái cửa ngũ này ta nắm ngay đây, ta yên tâm nắm để ta đi ra rồi ta có lại không ? Không ai cho ta biết cái chắc này, cái chắc này mình chỉ theo tri kiến của mình quả quyết thôi chứ mình không đoan chắc 100%, chỉ cái cửa ngũ này thôi đã có Tập Đế và Khổ Đế, chứ đâu có khi nào mình niệm được cái sinh và cái diệt đâu. Cái sinh diệt đi theo từng sát na, từng giai đoạn, từng khoản khắc hơi thở vô hơi thở ra, nhưng hít hơi thở vô là ta diệt Tập Đế, ta muốn sống, mà hơi thở ra rồi ta sợ, đây là khổ, không biết hơi thở có vô trở lại, ta sống trong Khổ Đế Tập Đế này luân chuyển hoài hoài, ta có Chánh Kiến. Chánh kiến của ta là chắc chắn rồi, không sai, ta sống trong Tập Đế rồi ta bị Khổ Đế dằn vặt ta trong khi Tập Đế ta nuôi dưỡng nó.
Ta sống bằng cách đó và đi xuyên suốt một chuỗi dài, thì mới thấy rằng ta không làm chủ được chính mính. Cái hơi thở mà ta thấy nó là Tập Đế là ái dục làm chủ chứ không phải hơi thở này ta làm chủ, và trạng thái ra đi của nó là Khổ Đế của Tập Đế làm chủ nó, chứ không phải ta làm chủ cái hơi thở ra vô này, thì ta mới tìm ra được Tam Tướng này.
Chỉ có 2 cái vòng quanh Tập Đế và Khổ Đế mới ra được Tam Tướng.
Cuộc đời chúng ta chỉ có Khổ với Tập, và Tập làm chủ cái Khổ, Khổ làm nô lệ Tập và nó tác động, nó xoay chuyển dẫn dắt chi phối đời sống hàng ngày của chúng ta, không có phút giây nào mà ta làm chủ được nó hết, nó muốn là nó có, nó cho mình thích và cho mình khổ vì cái thích này, nó cho mình hoan hỉ và cho mình khổ vì cái hoan hỉ này.
Khi ta ngồi thiền một giờ đồng hồ ta thấy Tập Đế, Khổ Đế. Trong Tập Đế Khổ Đế đó có trạng thái những chi phối như ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, nó là một khối khổ đau.
- Hơi thở vô là Tập Đế, hơi thở ra là Khổ Đế.
- Trạng thái giữa vô và ra là ái biệt ly.
- Rồi ái biệt này vừa đi ra nó để lại cho mình là oán tắng hội.
- Mình không muốn mất mà mình muốn giữ mà không được như ý, rồi cầu bất đắc.
- Rốt cuộc ngũ uẩn này là một khối khổ đau của mình.
Một giờ đồng hồ ngồi thiền mình thấy được như vậy. Tất đều do Tập Đế dắt đi, Tập Đế là ái dục.
Thì khi hơi thở vô, hơi thở ra là ái biệt ly cũng là ái dục, mình giữ không được, và nó ở lại trong tâm thức trong trạng thái chán chường và bất mãn không hoan hỉ, oán tắng hội và nó giữ cho tâm mình có trạng thái cầu bất đắc, mình nhìn lại một khối này là khổ đau do mình chấp nê chấp giữ. Mình đi Chánh Kiến trong 1 giờ đồng hồ ngồi thiền, mình quán về Tứ Đế, mình không qua khỏi Tứ Đế, mình đi Tập Đế, Khổ Đế, ái biệt ly, oán tắng hội, mình thấy mình không làm chủ được cái gì hết. Hơi thở vô ta biết hơi vô, thở ra ta biết hơi thở ra ở trong vòng quay của Tập Đế, Khổ Đế, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc.
Mình đang đi theo Chánh Kiến là mình đi trên trạng thái của Tứ Đế thì mình phải nói Nhân là Tập Đế, Quả là Khổ Đế, mình đứng trên Tứ Đế.
Đó là thiền đi theo Chánh Kiến.
Bây giờ nói thiền đi theo Kiến Giải. Tri Kiến - Insight
Khi niệm hơi thở vô là Sinh, hơi thở ra là Diệt, trên cơ sở của hơi thở đầu tiên mình có. Nếu như ngược lại khi hơi thở ra là Sinh, và hơi thở vô là Diệt của cái sinh. Hành giả phải niệm liên tục như vậy .
Vô - Ra - Vô - Ra
Sinh - diệt
Thở vô là sinh - diệt của cái hơi thở vô.
Sinh của hơi thở ra - diệt của hơi thở ra
Hành giả lấy tiêu chuẩn vô và ra là sinh và diệt thì niệm hơi thở vô là đang sinh, hơi thở ra là diệt.
Còn nếu như tiêu chuẩn diệt là hơi thở ra, cái diệt là cái sinh của hơi thở cuối cùng, cái hơi thở vô là cái diệt của hơi thở ra.
Khi hành giả thiền theo Chánh Kiến ( kiến văn, Khổ Đế, Tập Đế) lâu ngày sẽ có một kiến chấp nếu như không có Tri Kiến trên trạng thái sinh diệt chân thực tính của nó thì hành giả sẽ ở trong kiến chấp ; đây là ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, mình ở trong trạng thái kiến văn của mình biết hết và mình sẽ thấy là mình làm chủ được.
Còn đi theo kiến giải mình nhìn vô thực chân thực tính của nó mình không làm chủ được cái đó.
Còn chánh kiến mình thấy ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn này khổ, đi như vậy kiến văn của mình nó an bày nó chảy ra kiến thức như vậy đó.
Còn theo kiến giải thì không có kiến văn nào giải thích, mà không có một sự an bày cho mình giải thích được nó, mình chỉ thấy nó sinh diệt, sinh diệt, sinh diệt, không kịp.
Do đó, tới tuệ thứ tư, qua trạng thái sinh diệt nó chỉ còn có hoại diệt thôi.
- Nếu cô niệm (1) vô cô thấy sinh, thở ra thì cô nói diệt của cái sinh, cái vô, nhưng mà hơi thở ra này là sinh của hơi thở ra, (2) cái hơi thở vô mới là cái diệt của cái hơi thở ra này, thì bắt này là cô có hoại diệt, còn cái này (1) niệm vô) là sinh diệt
Sinh - diệt
Sinh
2 lần thấy sinh chỉ thấy một cái diệt, thì mới thấy được cái diệt này nó rõ lên.
Sinh - diệt trí. Hoại - diệt trí sinh lên. Trong sát na đó
Khi người ta hỏi : "Chỗ nào là sinh diệt, chỗ nào là hoại diệt ?"
Sinh diệt trí chỗ nào ? Hơi thở vô và ra. Và cái hoại diệt của hơi thở vô nó trở thành hoại diệt trí sinh lên ngay lúc đó mình bắt, nếu không thì không có làm chủ được, chỉ một sát na.
Sinh diệt trí sinh lên hoại diệt trí sinh lên ngay lúc đó.
Sinh diệt trí đang có hoại diệt trí sinh lên ngay lúc đó. Và không có ái biệt ly, không có oán tắng hội. Cái đó là Kiến Giải chân thực tính với cái Pháp đang hiện bày.
Hơi thở vô hơi thở ra. Cái hơi thở ra này là cái Sinh của cái Diệt này.
Khi đi được giai đoạn kiến giải này thì không còn cái gì mà mình giải thích nữa, nó thực tế rồi, nó thực tiễn.
Rồi bắt đầu hành giả mới nghiệm : Ta có sinh diệt trí qua hơi thở vô và hơi thở ra, thì ngay khi đó ta có hoại diệt trí ngay khi ta đang niệm nó là nó có hoại diệt trí sinh lên, ta mới thấy được thực tính của nó chỉ trong một hơi thở vô và ra thôi, ta thấy được thực tính này nó không có tồn tại, nó không chắc bền, nó không có bản chất của nó.
Thì Kiến Giải đó Chánh Kiến được bảo vệ. Kiến Giải đó được bảo vệ bởi Chánh Kiến.
Ngay khi hơi thở vô thấy sinh, và hơi thở ra thấy diệt, thì ngay đó thấy được hoại diệt trí, thì sinh diệt trí bắt liền sát na này tới sát na kia thì ta có còn ngồi quán lại là không có thực tính. Người ta tìm sinh diệt trí trong cái hoại diệt trí, hoại diệt trí trong cái sinh diệt trí đó đưa đến hoại diệt trí này ta mới thoát ly. Mình không làm chủ được.
Rồi từ đó mới củng cố được Chánh Kiến (Kiến văn, Khổ Đế, Tập Đế) này và cái này nó sẽ đi suốt con đường hành đạo không còn sai trật nữa.
Trên Sinh Diệt trí ta có Hoại Diệt Trí, ta tìm thấy được ngũ uẩn này không có nghĩa lý gì cả,
Chỉ trong một sát na, Sinh Diệt Trí lên có Hoại Diệt Trí sinh, nắm bắt được cái đó ngay cái giao điểm hơi thở ra, Sinh và Diệt, Diệt và Sinh. Không có gì tồn tại. Từ đó nó chỉ là hoại diệt không cần bắt được cái sinh, tại vì nó mất dần.
Khi ta thiền tọa, ta lấy Kiến Giải bảo chứng bởi Chánh Kiến, ta coi từng trạng thái.
Do đó, khi coi lại:
Kiến này ta có trong tà kiến.
Kiến này ta có Chánh Kiến trong Kiến Giải ta giải thích chứ không phải Chánh Kiến suông.
Như vậy thì trên trạng thái Chánh Kiến thì ta thấy ái biệt ly nó có oán tắng hội trên cơ sở nào Kiến Giải của sinh diệt ?
- Trên cơ sở của Sinh / Diệt nó mới ra được cái ái biệt ly oán tắng hội.
- Rồi oán tắng hội cầu bất đắc này
Khi nào ta có ái biệt ly ?
Khi nào ta có oán tắng hội ?
Trên cơ sở, trên kiến giải Sinh / Diệt.
Oán tắng hội : Vì sinh diệt mà ta có oán tắng hội
Ái biệt ly trên cơ sở : vì sinh diệt mà ta có ái biệt ly
Cầu bất đắc : trên cơ sở Sinh / Diệt mà ta cầu bất đắc, không có gì mà ta nắm bắt được.
Ngũ thủ uẩn là khổ : trên cơ sở Sinh / Diệt ta nắm bắt.
Rồi từ những cái đó mình nhìn thấy tiếp, chỉ là hoại diệt, hoại diệt, hoại diệt thôi. Từ đó ta mới niệm được cái đó một cách chín chắn rồi thì Chánh Tư Duy của mình là không có chi ta còn tham trên đời, không có chi ta còn sân trên đời này, không có chi mà ta còn oán hận trên đời này. Chánh Tư Duy của ta rõ ràng trong chín chắn của mình.
Chánh Kiến sinh Kiến Giải.
Khổ Đế là quả. Tập Đế là nhân, trong kiến giải của Sinh / Diệt. Nhân đó, Quả đó Sinh / Diệt chứ không có gì khác.
Thí dụ : Hơi thở vô - ra : Kiến Giải --> Sinh - Diệt
Chánh Kiến --> ái biệt ly ?
vô thường oán tắng hội ?
khổ --> Cầu bất đắc ?
vô ngã --> Ngũ thủ uẩn ?
Hơi thở vô và ra ta nhìn thấy được Kiến Giải chỉ là một cái Sinh và Diệt, trong Kiến Giải Sinh Diệt này ta có Chánh Kiến là gì ?
1. là ái biệt ly của ta
2. là trạng thái oán tắng hội của ta.
3. là cầu bất đắc
4. là ngũ thủ uẩn
Hay quí Phật tử thấy trạng thái Tam Tướng (vô thường, khổ, vô ngã) của nó trong cái hơi thở rõ ràng chỉ là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.
- Khi hơi thở vô và ra qua Kiến Giải cho biết đó chỉ là Sinh Diệt này. Và trên cơ sở Kiến Giải cho biết Sinh Diệt này cho ta có một Chánh Kiến (ta không có sai lầm) nó chỉ là cái ái biệt ly, cái oán tắng hội, cái cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn. Hay là thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã ? Mấy cô cho Sư biết thấy cái nào ?
Khi cô thấy chỉ một hơi thở thôi, cô không làm chủ được nó, hít vô và ra. Cô có chủ ý để hít vô không ?
Mình hít vô mình có làm chủ cái hít vô không ?
Hít vô mình có tác ý hít vô, nhưng giữa vô và ra mình không làm chủ được nó.
Vậy thì khi mình hít vô mình làm tác ý đó để hít vô, nhưng vô và ra mình không làm chủ được nó, nó theo thực tính của nó, nó theo bản chất của nó, nó theo tính chất của nó, nó đến nó đi theo tính chất của nó. Thì mình thấy bắt trong ba cái sinh diệt ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, thì có Chánh Kiến hay đặc tướng (Tam Tướng) ?
Khi sinh diệt trong một hơi thở sinh diệt kiến giải thấy được sinh diệt, chánh kiến sinh lên, hành giả thấy từng bước từng bước như vậy. Hơi thở vô ra ta không làm chủ.
Có Chánh Kiến để bảo vệ Kiến Giải này, Chánh Kiến để xác định Kiến Giải này. Sinh và Diệt này chỉ là một trạng thái ái biệt ly thôi, Sinh Diệt này chỉ là oán tắng hội thôi, Sinh Diệt này chỉ là cầu bất đắc thôi, Sinh Diệt này chỉ là ngũ thủ uẩn thôi, hay Sinh Diệt này chỉ là Khổ Đế thôi, không đi chi tiết nữa, chỉ nắm Khổ Đế thôi.
Nếu đi trong trạng thái đó thì mới bắt đầu thấy là Khổ Đế này chỉ là thứ Khổ Đau chứ không thấy Vô Ngã, không thấy Vô Thường.
Ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn là Khổ Đế, nó là một khối, thì sẽ thấy Khổ Đau, nó lớn liền, không thấy Vô Thường, không thấy Vô Ngã, nó chỉ là một khối Khổ Đau. Khổ Đế thì có tướng Khổ Đau. Mà cái Khổ Đau này mình chịu được thì mình không thấy Vô Thường và Vô Ngã vì nó đã ẩn trong đó nó gắn liền trong đó giống như bánh ú 3 mặt, thấy một mặt thì có 2 mặt kia. Nếu trả lời thấy được Ngũ Thủ Uẩn thì là một khối Khổ Đế, trong Khổ Đế này ta thấy được Khổ Đau, chứ ta không thấy được Vô Ngã, Vô Thường.
Từng bước hành giả niệm. Khi thấy Sinh Diệt
- Hơi thở vô - ra đi theo Kiến Giải - thấy Sinh / Diệt là mình ra liền.
- Hơi thở vô ra, nếu mình đi Chánh Kiến thì mình thấy ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn thì nguyên một khối Khổ Đế thì mình mới ra Khổ Đau.
Hơi thở vô và ra
Ngay khi thấy Diệt trong hơi thở ra, hành giả đừng hít vô, thì thấy vô thường, thấy vô ngã, sát na khớp vô liền, cái niệm nó định vô chỗ đó liền, chỉ còn một câu chuyện là nó bắt kịp lúc đó thì hành giả có, chứ hơi thở ra rồi niệm lại thì không thành.
Thế thì khi ta có:
Tà kiến Micchā-diṭṭhi thì mình bỏ đi,
ta có Chánh kiến Sammā-diṭṭhi thì chưa được,
mà chúng ta phải có kiến giải Dassanena là mình thấy đúng, mình thấy Sinh và Diệt, Sinh và Diệt.
Nếu thấy chưa rõ, niệm lại thấy Sinh Diệt mà chưa rõ thì niệm lại Sinh Diệt, cái niệm càng ngày càng khắn khích hơn, và cái định là cái tâm mình tập trung càng ngày khắn khích vô Sinh hay Diệt.
Thì trong cái 2 Sinh và Diệt cái nào rõ nhất, cái Diệt thấy rõ nhất, cái đó là Diệt, vừa thấy Diệt, hoại diệt, mình nắm bắt ngay đó, mình không thấy cái Sinh, mình chỉ thấy hoại diệt thì Hoại Diệt nó lên. Thì hành giả đạt được Định.
Khi chúng ta qua Tâm Đạo, qua được Tâm Quả là lấy Níp-bàn làm đối tượng trong Tam Tướng (Vô Thường, Khổ, Vô Ngã) thì nó qua tới Tuệ thứ 16 là Tuệ Paccavekkhaṇa ñāṇa Tuệ Ôn Duyệt tiếng Anh là Review là Tâm Thẩm Tra, thẩm duyệt hay là phản khán lại. Thì hành giả thẩm duyệt lại, Review trong cái Diệt chứ không Review lại trong cái Sinh, mà là Diệt Diệt Diệt.
Vô Thường là thấy Diệt, Diệt, Diệt, không có Sinh. Tại vì nếu niệm được Sinh là vô thường là Sinh nó có Diệt. Còn Diệt là thấy Vô Thường.
Khổ Đau là thấy Diệt chứ không thấy Sinh. Thấy Diệt mình mới thấy Khổ, thấy Diệt mới thấy là Vô Ngã. Còn Sinh mà tìm được Vô Ngã thì nó có cái Diệt nữa, mình không làm chủ nó, Diệt mới là Vô Ngã, còn Sinh mình còn có Diệt.
Chính Diệt có Khổ Đau, chính Diệt nó có Vô Ngã.
Tối nay quí Phật tử ngủ mà ngủ luôn thì thấy nó là vô thường, rồi sáng mai mở mắt dạy mình nói : "Thiệt là Vô Thường, mới ngủ đây mà giờ thức dậy đi được rồi." Có bao giờ mình nghĩ như vậy không ?
Cái Diệt, ngay cái Diệt bắt được Vô Thường. Cái Diệt bắt được Khổ Đau. Diệt bắt được Vô Ngã.
Không phải từ cái Sinh, vì Sinh thì còn Diệt. Khi Sinh thì còn có Diệt thì đâu có gì Vô Thường.
Diệt là chấm dứt, là Vô Thường.
Thì Chánh Kiến nằm trên chỗ ái biệt ly là chỗ Diệt, nó ly rồi mới Diệt, mới thấy ái biệt của mình bị mất, nó ly rồi thì ái mình bị mất.
Oán tắng hội là trạng thái của Sinh Diệt này nó đang ở trong trạng thái Sinh rồi Diệt.
Cầu bất đắc, cái ái của mình mất, mình cầu không được.
Vậy thì khi hành giả ngồi thiền hay đi thiền hành, ngọa thiền, hay thiền trụ, thấy Sinh Diệt, niệm thấy Diệt, mình không chủ động niệm Sinh, nhưng cái Diệt làm cho mình thấy rõ, không chủ động cái Sinh nhưng mình thấy rõ cái Diệt, Diệt, Diệt. Mình bắt đầu giữ cái Diệt, mình niệm ngay chỗ Diệt và mình thấy được cái Diệt, còn cái Sinh nó lên mình không niệm.
Khi nghe một âm thanh lên, tiếng hát, tiếng la, tiếng cười, tiếng động, mà nó còn vang, thì không thấy cái gì hết, mà nó hết thì mới thấy được cái Diệt.
Do đó, khi nghe một tiếng nói một âm thanh, mới nghe lời nói, rồi tiếng nói tắt dần dần thì mới thấy cái Diệt.
Nếu nghe mà kỹ, từ từ, mới đầu như một lời nói nhiều câu từ, sau nghe tiếng nói, bắt đầu sau chỉ nghe một tiếng thôi, sau thì sinh và diệt mình ra được cái đó.
Lời nói, tiếng nói, chỉ còn tiếng và mất, thì bắt đầu bắt ra.
Tập khí của mình khi nghe một lời nói là mình muốn nghe hết, sau đó không nghe hết được thì mình chỉ nghe tiếng nói thôi, tiếng xì xào hay âm thanh phát ra thôi, rồi sau mình chỉ nghe được tiếng thôi, và không còn phân biệt được là người nam hay người nữ, người quen hay người thân, sau đó mất luôn.
Hành giả đang ngồi thiền, nghe một âm thanh nói, một tiếng nói, một âm thanh vọng tới, hành giả tập trung vào hành thiền của mình hay là lắng nghe âm thanh đó nếu mà đã tới tai mình thâu được rồi.
Mình đang ngồi thiền, phúc bất trùng lai, họa vô đơn trí, ta không gây oan trái sao tự nhiên xì xào xì xào, lọt vô tai mình, mình nghe có người nói, có âm thanh nói chuyện của 2, 3 người âm thanh lọt vô tai mình, vậy ta đang ở chỗ nào ?
Chắc chắn là hành giả không nghe tiếng nói, không có nghe họ nói chuyện, tại vì mình đang ngồi thiền và mình tập trung trong niệm với đối tượng của mình, nhưng mà nó lọt vô, thì bắt đầu mình còn nghe tiếng nói rồi sau còn âm thanh, rồi còn tiếng xì xào, sau đó tắt, tại vì mình đang tập trung vào đối tượng thiền của mình.
Giống như vậy, Pháp oán tắng hội nó cũng như vậy. Bắt đầu vô thấy Sinh thấy Diệt, thấy Sinh thấy diệt, không thấy Sinh chỉ thấy Diệt, rồi thấy Diệt, Diệt, Diệt lớn, Diệt nhỏ, rồi từ từ mất.
Thì khi qua tới Sinh Diệt Trí là Tuệ thứ tư thì tới Tuệ thứ năm là Hoại Diệt Trí. Thì trạng thái Hoại Diệt Trí là đang hiện bày cái Diệt, nhưng nó bắt đầu giảm dần và tâm thức của mình đang sinh sợ hãi lên, thì sợ hãi này mà lớn thì cái Diệt mình thấy nó nhỏ đi, mới ra được Bố Úy Trí, còn nếu không qua được giải đoạn Bố Úy Trí này thì cái Diệt này cứ nắm bắt Diệt Diệt Diệt hoài, ta không đi được tới đâu.
Thiền sinh hỏi : Tại sao giai đoạn bị sợ hãi, có phải ai cũng phải qua giai đoạn này ?
HT trả lời: Không ai qua khỏi. Nếu như họ có trí tuệ họ thấy được thì Dassanena kiến giải được, chứ không có kiến chấp nào trong đó.
Thiền sinh hỏi tiếp : Nhưng lý do nào đưa tới sự sợ hãi ?
HT trả lời : Tại Tập Đế của mình, Khổ Đế đang làm tác động đến Tập Đế của mình, sự ham sống sợ chết, kiết sử của mình hiện bày ra.
Do đó, khi người đắc Sơ Đạo, Sơ Quả, đầu tiên phải diệt thân kiến cái kiến chấp về sự sống của thân này, không có thân kiến, thân kiến là do mình chấp, chỉ có sinh diệt mà bản chất nó theo thực tính của nó và không quả quyết được nó là trạng thái chết hay là sống, mà nó theo 4 Pháp của sự tồn tại :
- 1. Hết nghiệp
- 2. Hết tuổi thọ.
- 3. Hết nghiệp và hết tuổi thọ.
- 4. Mãnh lực mạnh hơn.
Mà mình không biết do đó mình sợ hãi. Bây giờ minh hiều rồi.
Thì 4 Pháp của sự tồn tại lý giải cho trạng thái sinh diệt trí này và mình diệt được thân kiến.
Kiến giải mới giải được thân kiến. Bất cứ trong cơ sở nào quí Phật tử có kiến văn kiến giải được với tri kiến với trí tuệ có được thì mới giải thích được một cách rất chính xác với thực tính của nó.
Vậy thì lúc trạng thái hoại diệt người hành giả không có kiến văn về cái chết và sống mà họ chỉ thấy trong trạng thái sinh diệt này như chết và sống của họ nên họ sợ hãi.
Nhưng với người biết được ta có chết hay sống có qui luật của nó, nó có nhân có quả của nó, do đó họ mới diệt dần thân kiến họ mới buông ra.
Sự sợ hãi, bố úy trí là họ sợ chết, khổ thì họ đã có rồi mà họ sợ chết. Lúc đó thấy nó rã ra hay là diệt mất nên sợ. Nếu mà ta không có kiến giải mà ta chỉ có kiến văn thì không giải đáp được những cái gì mình đang lo sợ.
Do đó, nên hoài nghi đeo theo thân kiến này, lúc bấy giờ giới cấm thủ của mình đi trở lại với mình theo kiến chấp của mình có. 3 cái kiết sử chặn của Sơ Quả nếu mà ta không Chuyển Tộc.
Nếu ngồi thiền mà đau quá, mà hành giả nói đau quá chết thì sao, cái đó là hành giả đang thân kiến là hành giả không có kiến văn. Hoặc là ngồi mà sợ ma thì đó là không có kiến văn, họ không có kiến giải.
Còn ta có kiến giải thì cái đau này không có đau mãi, cái đau này không có chết được, mà chết có 4 Pháp của nó. Và ta tiếp tục thiền thì cái đau sẽ diệt, cũng như hơi thở có sự sinh diệt, và cái đau cũng có sinh diệt. Thì mình đi tiếp nữa, lúc bấy giờ tri kiến mình đi tới giai đoạn Tuệ thứ 11 Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, chỉ là Hành Xả quân bình tâm mình lại.
Do đó, khi tới Bố Úy Trí, Quá Hoạn Trí (Tuệ thứ 7 Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành) mà trong cái sợ hãi đó là trong đó cái Tập Đế đang lên, tham sống sợ chết, tham sinh úy tử, mà úy tử đi trong trạng thái dằn co trong thân kiến này.
Và bắt đầu ta lấy Kiến Giải để giải đáp. Nếu chúng ta đi đúng trạng thái sinh diệt này, mỗi pháp có sinh có diệt, thì khổ đau, cái đau này có sinh thì có diệt, kiến giải của mình mà, trong thực nghiệm, trong trải nghiệm thiệt , chứ không phải trong kiến văn nó có. Hơi thở này rõ ràng là hít vô và thở ra và mình phải có hơi thở khác vô và lại ra, thì đau này nó có rõ ràng như vậy rồi nó cũng sẽ mất đi, rồi nó có cái khác nữa.
Bốn pháp : tê, nhức, mỏi, đau, nó không đứng yên một chỗ. Hết tê thì tới nhức, hết nhức thì tới mỏi, hết mỏi thỉ tới đau, nó cứ liên tục tiếp diễn như vậy.
Sinh Diệt Trí chính cái đó Hoại Diệt Trí nó sinh lên, và trong trạng thái Hoại Diệt Trí sinh lên là mình chỉ nhìn thấy nó là một trạng thái khổ đau trên pháp thực chứng này, không phải khổ đau trong cái sợ hãi về cái đau nhức này. thì hành giả mới đi được còn không thì hành giả trở lại trong trạng thái Bố Úy Trí Quá Hoạn Trí lại trong sợ hãi. Lúc đó sắc pháp không đủ để mà ảnh hưởng tới hành giả, cái tâm thức của hành giả bắt đầu nó chi phối.
Qua tới Tuệ thứ 5 tới Tuệ thứ 10 là Danh Pháp làm chủ
5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.
6. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ.
7. Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành. Quá Hoạn Trí, Bố Úy Trí.
8. Nibbidā ñāṇa: Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản. Quyết Ly Trí
9. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát. Dục Thoát Trí
10. Paṭisaṅkhā ñāṇa: Tuệ suy tư.
11. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành. Hành Xả Trí
Từ Tuệ thứ I đến Tuệ thứ năm là Sắc Pháp làm chủ, Danh Pháp biết
1. Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc.
2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.
3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). (Phổ Thông Tướng)
4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt.
5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.
Nhưng từ Tuệ thứ 5 đến Tuệ thứ 10 là Danh Pháp biết và Sắc Pháp không có đủ để mà chi phối, lúc đó Danh Pháp quyết định. Ngồi thiền nữa không, không ngồi thiền nữa, đổi oai nghi, không đổi oai nghi v.v... cái đó là Danh Pháp quyết định, sắc pháp không còn, tại vì quả thật rõ ràng của nó rồi.
Khi hành giả nằm, cái oai nghi nằm; nằm nghiêng, nằm ngửa, nằm quay, nằm lăn rồi xoay. Khi nào muốn xoay, khi nào muốn nằm ngửa ? Thì khi mỏi, khi lo.
Khi nào biết mình mỏi ? Khi nào biết mình tê ? Khi nào biết mình lo ?
Thì cái tê, mỏi, lo, nó quyết định cái tâm của mình thực hiện hay là sắc pháp quyết định mình phải thực hiện ? Khi hành giả biết mỏi lúc bấy giờ là sắc pháp quyết định mình đổi hay là tâm quyết định mình đổi ?
Khi nằm hành giả bị mỏi thì lúc bấy giờ sắc pháp nó quyết định mình đổi hay là tâm mình quyết định đổi ?
Sắc pháp mình tê, sắc pháp quyết định đổi hay là tâm mình quyết định đổi ?
Khi sắc pháp mình bị lo, tâm mình quyết định đổi hay sắc pháp quyết định ?
Khi hành giả thấy sinh và diệt rõ, rồi tiếp tục thấy diệt diệt diệt, thì tâm mình quyết định hay diệt quyết định. Mình thấy nó diệt. Như mình ở trong căn nhà thấy cháy chỗ này cháy chỗ kia, mình quyết định chạy hay quyết định ở lại chết chung với ngôi nhà ? Tâm quyết định chạy. Do đó, khi tới Tuệ Hoại Diệt thì Tâm quyết định.
Khi Tâm quyết định trong trạng thái hoại diệt mình thấy rõ, không phải mình nằm mơ hay ảo tưởng, thì lúc bấy giờ kiến chấp của mình, tập khí của mình, kiết sử của mình lên, hay kiến giải, kiến văn, tri kiến của mình lên.
Vậy thì khi hành giả ngồi mà bị tê hết chơn rồi thì lúc bấy giờ trạng thái diệt, sự êm ái thích nghi thoải mái thích hợp của mình hết rồi, bây giờ tâm của mình quyết định đổi oai nghi hay ngồi luôn, lúc đó mình quyết định.
Tê hết chân rồi không còn nhúc nhích thì lúc bấy giờ tâm của mình quyết định ngồi luôn 2.03.38 bởi tâm thức đó bằng trí tuệ hay bằng kiết sử của mình, mình có thói quen, mình biết cái đó rồi.
Trả lời như vậy là lấy kinh nghiệm của mình trả lời, mà kinh nghiệm nó trở thành kiết sử của mình rồi chứ đâu có trí tuệ, hành giả không thấy là trạng thái này nó chỉ là sinh diệt hay là trạng thái đến và đi và nó có thời gian tồn tại.
Lúc đó trí tuệ hay là kiết sử ?
Khi đau đến nó thuộc Thực Tính. Ngay đây mình thấy được Thực Tuóng bằng Thực Tính này thì mình có. Như trong bài giảng Phát Thú 70 Sư có giảng.
Mà thấy đau quá thì nó thuộc Kiết Sử của mình, sức chịu đựng của mình là cái thói quen của mình.
Còn đau quá ngồi cứng ngắc luôn thì nó là Tập Khí.
Khi đau đến nó thuộc Thực Tính. Ngay đây mình thấy được Thực Tướng bằng Thực Tính này thì mình có.
Như trong bài giảng Phát Thú 070 : Thấy, Biết thì ngừng không đi nữa, nếu bước qua cái Biết để đi tiếp là của mình. (coi lại bài giảng Phát Thú 070)
Thực Tính cho ra Thực Tướng thật của nó mà mình không chịu niệm với Tâm có Trí mình có thì bắt đầu nó xuống cái đau này thì kiết sử của hành giả phản ứng lại liền.
Khi Sư bị đứt tay hồi tuần trước, cái kéo xuống làm đứt tay Sư thì máu chảy ra Sư niệm, niệm xong thì Sư kêu lấy băng cho Sư, là xong, còn diễn tiến của nó không nói nữa. Còn Sư mà đi sâu vô nữa là của Sư, mà bé Anika hỏi Sư đau không ? Sư nói đau lắm.
Khi đau đến nó là Thực Tính ra Thực Tướng rồi, còn đi xuống nữa là của mình, và nó không bao giờ làm thỏa mãn được cái gì của mình. Cái đó là bản chất. Lúc bấy giờ mình chỉ có Chánh Kiến để nhìn nó chứ không có Kiến Giải để giải đáp với Pháp .
Khi ngồi thiền bị đau thì niệm đau, thấy được thực tính đau, thì thấy được thực tướng Khổ Đau, sát na đó thôi, không có thêm bớt gì vô trong đây.
Đau là Thực Tính thì có Thực Tướng Khổ Đau, không có thêm bớt gì nữa. Còn muốn thêm nữa là của mình, gồng, chịu đựng, rồi nó sẽ hết, đó là mình lý giải của mình. Mà cái đó Đức Phật Ngài nói là Giới Cấm Thủ, chấp giữ vô cái mình biết và không có buông bỏ.
Chứ không phải Giới Cấm Thủ là những tục lệ.
Mình đã có Thân Kiến này rồi, mình có cái hoài nghi, không biết giải đáp sao, mình giữ lại Giới Cấm Thủ của mình, giữ những cái gì mình biết.
Còn khi cảm thấy đau quá --> Kiết sử, thì đó là mình giữ lại hết, và mình còn đưa ra lý giải nữa "cứ ngồi đi, chút nó sẽ hết".
Trong khi ở giai đoạn đau nó đến ta đã ra rồi, còn mình giải thích tiếp là mình ôm lại cái cũ của mình.
Và khi Sư hỏi tới thì quí Phật tử kể lại đó là cái trải nghiệm trong cái kiến thủ của mình. Còn khi quí Phật tử giải thích "đừng lo, đau sẽ hết" thì mình vẫn còn nguyên nó, mình đánh mất cơ hội có Thực Tính với Thực Tướng, và không qua được 3 kiết sử này, vì quí Phật tử ôm lại hết và bắt đầu ngồi thiền tiếp tục. Và quí Phật tử bắt đầu đón lấy tiếp tục, và có kinh nghiệm dầy dặn về cái này hơn, chứ không có một cái kiến thức về cái Pháp mà mình có hay là Thực Tính, Thực Tướng mà mình có, mình bị che lấp cái đó, thì mình giữ lấy cái này mà đang có và lấy đó làm niềm tự hào của mình, tôi có chiều sâu, chiều dài kinh nghiệm về cái thiền này và tôi có cái chịu đựng cao này tôi biết cái kinh nghiệm này, và có cái tôi.
Khi nào cái đau đến hành giả thấy Thực Tính thấy Thực Tướng này, thì không có "tôi" chính cái đó là cô nắm bắt được.
Còn nếu đi tiếp "đau quá" là có cái tôi. Và cô lập lại cái "tôi" này thì đó là Kiến Thủ, không đi nữa.
Trong bài Phát Thú 070 cho mình bài học, nhưng tới hôm nay mà lập lại thì quí Phật tử vẫn có kiết sử trong pháp hành thiền của mình.
Khi đau đến hành giả niệm được, vậy thì khi cái sinh cái diệt chưa đau.
Khi vô ngồi thiền niệm sinh diệt, lúc đó chưa có 4 hiện tượng đau, nhức, mỏi, tê, mà chỉ có sinh diệt khi đau đến niệm được thực tính của cái đau, nhức, mỏi, tê, hành giả niệm được thực tướng, hay là trong khi vừa có sinh có diệt là mình bắt được Pháp.
Do đó, mình hôm nay mình phải có Kiến Giải Dassanena chứ không phải mình có Chánh Kiến suông. Và Kiến Giải Dassanena này trên trạng thái Thực Tính Thực Tướng của nó cho mình biết bằng tri kiến bằng trí tuệ của mình chứ không phải là kiến chấp, đi nữa đi hoài, và mình không có gì hết, quí Phật tử không có Chuyển Tộc. Chuyển Tộc là thay đổi cái Tâm của mình từ Dục Giới qua Sắc Giới, từ Phàm qua Thánh, Chuyển Tộc đó làm thay đổi cái Tâm của mình.
Chảy máu, đứt tay và nó đang hiện bày mình chỉ niệm và mình coi như là một cái Thực Tính, Thực Tướng. Còn cái diễn tiến của nó một ngày hai ngày còn đau nhức chuyện của nó mình đã biết rồi ./.
--------------------------------
https://theravada.vn/giao-thuyet-cua-nhom-luc-su-ngoai-dao/
Nhóm Lục Sư Ngoại Đạo :
1. Purānakassapa chủ trương vô hành kiến (Akiriyādiṭṭhi), cho rằng không có nghiệp báo, dầu làm ác hay làm thiện cũng đều không có kết quả gì.
2. Makkhaligosāla chủ trương vô nhân kiến (Ahetukadiṭṭhi)
3. Ajitakesakambali chủ trương hư vô kiến (Natthikadiṭṭhi) và đoạn kiến (Ucchedadiṭṭhi)
4. Pakuddhakaccāyana chủ trương hư vô kiến (Natthikadiṭṭhi)
5. Sañjayabelatthiputta chủ truong ngụy biện kiến (Amarāvikkhepadiṭṭhi)
6. Nigaṇṭhanāputta chủ trương chấp nhận một bản ngã trong cứu cánh niết-bàn
-------------------------------------
Trong Trường Bộ Kinh, bài kinh số 1. Kinh Phạm võng (Brahmajàla sutta) - Talk on Wanderers (DN 1)
(62 loại Tà kiến)
Sáu mươi hai loại kiến-chấp bị bao-trùm cả trong màn lưới Phạm-Võng, gồm có:
– 18 kiến-chấp về quá-khứ có 5 phần,
– 44 kiến-chấp về tương-lai có 5 phần.
Mười tám kiến-chấp về quá-khứ có:
– 4 luận-chấp về Thường-trú-luận;
– 4 luận-chấp về Thường, Vô-thường-luận;
– 4 luận-chấp về Hữu-biên, Vô-biên-luận
– 4 luận-chấp về Ngụy-biện-luận;
– 2 luận-chấp về Vô-nhân-luận.
Bốn mươi bốn kiến-chấp về tương-lai có:
– 16 luận-chấp về Hữu-tưởng-luận;
– 8 luận-chấp về Vô-tưởng-luận;
– 8 luận-chấp về Phi-hữu tưởng phi-vô tưởng;
– 7 luận-chấp về Đoạn-diệt-luận;
– 5 luận-chấp về Hiện-tại Niết-bàn-luận.