Saturday, June 25, 2022

Vi Diệu Pháp 23 (tiếp theo) - Thiền Vô Sắc Giới - HT Sán Nhiên giảng

 

Thiền Vô Sắc Giới (tiếp theo) - Vi Diệu Pháp 23 - HT Sán Nhiên 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm gọn theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 23" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm t

Xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến chư thiên và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Qúi Phật tử nghe về Hiệp Thế và Siêu Thế của thiền để chúng ta dễ dàng nhận định được, rồi sau này các qúi Phật tử ngồi thiền qúi Phật tử không bị lầm vô cái đó hay là qúi Phật tử không bị nghĩa là mình đang làm cái điều đó mình phải có thiền quán hay thiền chỉ.

Cái bình nước ở nhà hay ở chùa có hai loại nước nóng và nước lạnh, xử dụng khi bình hết nước thì châm vô, qúi Phật tử sài nước nóng nước lạnh, khi mùa đông thì sài nước nóng, mùa hè thì sài nước lạnh, khi hết thì châm nước vô. 

Còn qúi Phật tử giữ cái bình người ta lại xin không cho, tại vì cái bình qúi Phật tử đang cần có, không cho cái bình chỉ cho người ta uống nước thôi.

Nhưng mà tới khi hai cái loại này nó hư một lần, hai lần thì qúi Phật tử sẽ thấy là phải sửa, nhưng mà nếu hư nhiều quá, sửa tới sửa lui tính giá thành mua cái mới thì bỏ không sửa nữa.

Thì khi qúi Phật tử thấy nó bị hư không sài được mới đem bỏ, đó là lợi lộc và mất lợi lộc.

Rồi cái bình nước chưa hư nhưng giặc đến không đem bình nước đi được là bỏ của chạy lấy người, giặc đến thì danh thơm tiếng tốt bỏ lại hết.

Đó là thứ nhất, thứ hai Sư muốn trình bày qúi Phật tử thấy một điểm nữa

Hiệp Thế có:

Tầm là tìm tới đề mục

Tứ là quán sát đề mục

Hỷ là hoan hỉ với đề mục 

Lạc là thoả thích với đề mục

Nhất Thống (định) là nhất tâm với đề mục, là đắc Sơ Thiền
ở bên Siêu Thế có 3 chi thôi  là: Niệm, Định, Tuệ.

Khi mà qúi Phật tử đem tâm đến với đề mục là qúi Phật tử đang ghi nhớ, quán sát đề mục là có sự ghi nhớ, hoan hỉ với đề mục đang có là đang có sự ghi nhớ. Có sự thoả thích với đề mục mình đang tu mình có công lực thì mình có sự ghi nhớ. Lúc đó tâm với mình khắn khích với đề mục và không rời thì bên thiền Hiệp Thế là Nhất Thống thì bên Siêu Thế là Định của thiền Quán. Vậy thì Tuệ nằm, Niệm Định và Tuệ của Thiền Siêu Thế hay là Thiền Quán Vipassana, qúi Phật tử đặt đúng cái tuệ đó là không bị rớt trong Thiền Chỉ mà không bị lệch trong thiền quán, nắm bắt được Siêu Thế và không kẹt trong hiệp thế.

Tìm được Tuệ nằm ở đâu là ra được con đường Siêu Thế không là Hiệp Thế, thiền Quán không phải là Thiền Chỉ con đường đạo quả chứ không phải con đường tam giới 

Tuệ sáng suốt để tâm nhìn về cảnh, tuệ sáng suốt để tâm tìm về cảnh, tuệ sáng suốt hoan hỉ với cảnh đang có, tuệ phải sáng suốt để tâm thoả thích với cảnh đang được quán sát, tuệ phải sáng suốt để nhất tâm với đề mục, tuệ luôn luôn có sự ghi nhớ mọi diễn tiến của pháp, tuệ luôn luôn tập trung với mọi diễn tiến của pháp.

Chánh niệm là có tuệ, tỉnh giác phải có tuệ, có niệm là có tuệ, có định là có tuệ, không phải tu tập có niệm có định rồi mới có tuệ, như vậy không làm được, mà có niệm là có tuệ, có định là có tuệ. Cũng như có Tầm là có tuệ, có Tứ là có tuệ, có Hỷ là có tuệ, có Lạc là có tuệ, có Định là có tuệ


Mỗi phút giây có niệm là phải có sự sáng suốt hiểu biết của mình là tuệ, mỗi phút giây tập trung theo dõi được đề mục là có sự sáng suốt có tuệ ở trong định.

Qúi Phật tử nói tôi niệm xong tôi có định rồi tôi phát sanh tuệ, như vậy là không đúng.

Mà Tuệ quán trong lúc Niệm và Tuệ quán trong lúc đang Định mới thấy được. Qúi Phật tử đặt đúng mới ra được, chứ không thể nào qúi Phật tử nói: Niệm xong rồi đến Định, Định xong rồi mới đến Tuệ, như vậy là không đúng.

Thiền Chỉ qúi Phật tử đi 5 bước không được vậy, nhưng mà trong khi qúi Phật tử muốn đi giữa hai cái này không lẫn lộn thì trong từng mỗi một bước đi đều phải có trí tuệ lập đầu dẫn dắt trong tất cả mọi việc làm của mình 


Thì việc đó với một cái bình nước bị hư nước nóng hay nước lạnh thì qúi Phật tử có trí tuệ qúi Phật có thể quyết định, không có một cảm giác của mình để mình quyết định được nó.

Ở đây khi qúi Phật tử đi đến trạng thái đem tâm đến với cảnh gọi là Tầm, khi qúi Phật tử đem tâm đến với cảnh mà lọt vô 8 ngọn gió đời (bát phong) đó là Thiền Chỉ, đó là kiết sử, tôi làm được bữa nay rồi đó, tâm tôi không phóng dật, tâm tôi lúc này ngồi xuống là bắt được đề mục liền, đó là Thiền Chỉ, đó là Kiết Sử.

Đối với người Thiền Quán, đang đi họ biết mình đang đi, mà họ té họ cũng biết, họ biết cái té là pháp, họ biết cái biết khi họ té là pháp (biết) 

Do đó đối với Thiền Chỉ, không cho té, đi là phải đi cẩn thận, luôn luôn theo dõi. Nhưng đối với Thiền Quán té để biết thấy pháp chứ không phải của tôi.

 Đi ta biết đi, té ta biết té, đó là quán để thấy được pháp, mỗi pháp đều có pháp, mỗi cái hiện bày đều có pháp, pháp nó đang hiện bày.

Nhưng mà qúi Phật tử đi thì biết đi, qúi Phật tử không muốn té là qúi Phật tử đang gò bó theo cái mình có, như vậy không thấy được pháp, không thấy được thực tướng. Mới vừa ngồi tê chút xíu là sửa, không chịu nhìn cái tê, như vậy là không thấy pháp.

Tuệ là phải được thấy pháp đang có chứ không phải tránh né và không muốn nhìn thấy nó. Học sinh giỏi là không được biết đề thi trước, đề thi cho ra cách nào ngồi xuống giải đáp được hết đó là giỏi có trí tuệ, còn tất cả đề thi được cho biết trước và kết quả đáp số cũng được biết trước học sinh làm đúng, như vậy học sinh đó không có trí tuệ, cái đó là sự sắp đặt sẵn rồi để tìm được danh thơm tiếng tốt mà thôi chứ không có trí tuệ.

Qúi Phật tử có trí tuệ thì cái gì cũng giữ được, còn qúi Phật tử không có trí tuệ qúi Phật tử có cũng giữ không được.

Một đứa con giàu có không có trí tuệ cha mẹ để lại tài sản cho nó giữ không được, một đứa con nghèo khó mà nó có trí tuệ nó làm ra tài sản nó giữ được.

Thì tất cả đều là do nơi con người của mình cả, do tâm của mình quyết định cả.

Bây giờ Sư nói thế này, qúi Phật tử đem tâm đến cảnh (cảnh đây là Sư nói hơi thở) Sư nói cái này để qúi Phật tử mổ xẻ ra tìm. Hơi thở dài ngắn, nặng nhẹ, chậm và mau, có và mất , đây là pháp thế gian, ta không giữ cái đó.

Ví dụ cái bình nấu nước

Thân mình ví như cái bình nước, bình nước đặt trên bếp để đun nước, nước bắt đầu sôi bốc khói ra từ cái vòi, khói bốc ra bao nhiêu thì nước cạn xuống bấy nhiêu, rồi khi nó xuống hết nước, lúc bấy giờ qúi Phật tử thấy nước sôi cạn xuống qúi Phật tử châm thêm nước vô thì bình còn giữ lâu, còn nếu nước cạn hết mà không châm thêm nước thì bình sẽ bị hư mau, và cái bình sẽ bị vất đi vì không dùng được nữa. 

Cuộc đời mình khổ bao nhiêu chúng ta lấy niềm vui bên ngoài ta bỏ vô thì cuộc đời ta giữ hoài ta không muốn bỏ. Còn không châm nữa, nó đổ bao nhiêu nỗi khổ vào trong người ta nhận lấy nó bốc đi bốc đi hết, bốc hơi đi ra hết là Lokuttara là bốc hơi đi ra không ở trong bình nữa, Lokuttara siêu xuất ra khỏi cái bình này. Còn cái bình mà cứ châm hoài trong đời thế gian này sẽ còn hoài pháp thế gian, theo năm tháng cái bình cũng bị hủy hoại bởi cái vô thường tuổi thọ của nó.

Cái bình ví cho thân mạng mình, qúi Phật tử châm thêm nước cho nó, qúi Phật tử uống, cạn thì châm thêm nước, nhưng theo năm tháng tuổi thọ cũng làm nó hư đi. Thì thân mạng qúi Phật tử cũng vậy, cái khổ nhiều quá, qúi Phật tử châm thêm niềm vui vào, rồi năm tháng tuổi thọ của qúi Phật tử hết qúi Phật tử cũng phải chết, Lokuttara (vượt ra khỏi thế gian), chứ đừng có chờ cái bình nó cháy đen khét mà tìm cái chân lý của nó.

Do đó, qúi Phật tử thấy, nó hết thì ta đi, hay ta châm nó, ta ngồi đó giữ cái bình đó ta không đi, ta ngồi châm cái bình đó ta không đi, giặc đến đánh đùng đùng vẫn ngồi đó giữ cái bình, tại cái bình cả cuộc đời tài sản có nhiêu đó.

 Nước bốc hơi ra khỏi cái bình là Lokuttara là Siêu xuất ra khỏi, còn qúi Phật tử châm vô thêm để nó còn nguyên gọi là Lokiya (Lokiyadhamma là pháp thế gian) nó còn nguyên, còn nếu hơi bốc ra bao nhiêu là thoát ra bấy nhiêu, nó ra nhanh bao nhiêu thì bình cạn bấy nhiêu.

Hơi thở của mình dài là mình khỏe, hơi thở ngắn là mình bắt đầu mệt. Hơi thở mình nặng là mình thấy mình già rồi, hơi thở nhẹ là còn trẻ. Hơi thở chậm là mình yếu rồi, hơi thở mau là còn khỏe. Hơi thở có là còn sống, hơi thở mất là chết rồi.

Do đó, khi ngồi thiền, nó y chang thế gian này, được khen và bị chê, có tài sản mất tài sản, có danh dự và mất danh dự, khổ đau và hạnh phúc, hơi thở y chang như vậy, đó là thế gian, mà tất cả những cái này không có ai quyết định nó được nó hết và chính nó cũng không biết nó quyết định được.

 Ta tách ra con người có 2 thành phần Danh và Sắc. Thì cái gọi là Danh, cái gọi là Sắc nó có nguyên nhân của nó mà ra.

 Sắc do nghiệp làm ra, Sắc do tâm làm ra, Sắc do bởi vật thực làm ra, Sắc do thời tiết (qúy tiết) làm ra. Như vậy Sắc được tạo thành do bởi nghiệp, bởi tâm, bởi vật thực, bởi thời tiết.

Sắc do Danh mà có là:

- do nghiệp quá khứ làm ra

- Do có thành phần phụ thuộc (tâm sở) của nó làm ra.

- Do cảnh.

- Do có thần kinh làm ra.

Không có con người nào trong đây cả, 4 nguyên nhân sanh ra. Qúi Phật tử nhìn vô đây không có con người mình, không có người mẹ người cha sinh ra mình. Bốn cái này:

- Nghiệp tạo ra con người, người đẹp, người xấu là nghiệp. Sinh ra đầy đủ căn hoặc thiếu căn là nghiệp. Sinh ra bị mù mắt là do nghiệp chứ không phải tại người mẹ người cha.

Nhưng người đó không nhìn thấy cái nghiệp của mình mà tạo ra sắc nàyl thì lúc bấy giờ người đó không biết do nghiệp quá khứ mà ra, thì người đó lại tiếp tục oan trái cho một chúng sanh khác. 

 Tê, nhức, mỏi, đau. Tâm qúi Phật tử có không muốn cái mỏi đau này, vật thực qúi Phật tử ăn uống không làm cho sắc thân này bị tê nhức mỏi đau. Thời tiết không làm cho qúi Phật tử tê nhức mỏi đau. Thì lúc bấy giờ qúi Phật tử có cái nghiệp, nhìn thấy nó là nghiệp quá khứ ta đã tạo ra, hiểu biết được như vậy ta mới không oan trái, còn không qúi Phật tử nhìn cái tê nhức mỏi đau này không phải là một sắc nghiệp của mình có do nghiệp tạo ra sắc pháp này có thì qúi Phật tử có cái nghiệp quá khứ. Có cái nghiệp hiện tại và có oan trái lúc bấy giờ tại đó lúc ta đang ngồi thiền tại đó.

Nhìn tại đây qúi Phật tử thấy tất cả những cái này đâu ai quyết định, đó là sắc pháp và chính nó cũng không quyết định được nó, nó cũng phải lệ thuộc 4 yếu tố hình thành ra sắc pháp (nghiệp, bởi tâm, bởi vật thực, bởi thời tiết). 

Nếu nói nó là Danh pháp thì chính danh pháp này cũng không quyết định được tại vì 4 yếu tố (nghiệp quá khứ, thành phần phụ thuộc (tâm sở), do cảnh, do có thần kinh làm ra) làm ra.

Tê nhức mỏi đau hay hơi thở nhanh chậm yếu khỏe này qúi Phật tử phải có thần kinh thân, phải có cảnh xúc, và có tâm ghi nhớ và lúc đó có hành động qúi Phật tử đang làm ra, là nghiệp quá khứ, chứ không phải do mình quyết định.

Do đó, không ai quyết định. Chỉ có Danh và Sắc, yếu tố của sắc làm ra, yếu tố của danh làm ra, chính nó đang có của nó chứ không phải một người nào quyết định được.
 
Phật tử ngồi thiền xong hỏi đạo.

Thiền sinh: Thưa Sư, khi con ngồi thiền chân con đau quá con gồng lên, thì như vậy có được không?

HT trả lời: Không được, khi mà quí Phật tử nói khi những bắp thịt của mình căng lên rồi mình nghĩ là tôi ta rồi mình xả ra thì mình thấy nó nhẹ đi mình không nghĩ nó tôi ta, nhưng mà trong khi mình nghĩ không có nghĩ tôi ta chính là đang nghĩ tôi ta, tại vì mình còn lo cái đó, mình còn nghĩ tới nó, mình làm cho nó nhẹ bớt đi, nhẹ hơn mình làm cách nào nhẹ hơn, mình nhích ra một chút cho nó nhẹ hay là mình không có gồng nữa để cho nó thư giãn thì gọi là nhẹ. 

Thì khi mình muốn nó như vậy, còn cái muốn trong trạng thái mình đang có chứ không phải mình đang niệm, mình phải thấy hết, mình đang quán tại đó thấy được trạng thái thực tính của nó, mình coi lại tâm của mình rồi mình hiểu được thực tướng của nó thì nó ra được vấn đề là không có tôi ta trong trạng thái không để ý tới quán sát cái pháp nó đang hiện bày. Còn cái này mình vẫn theo dõi nó và mình đang chìm trong đó hay là mình đang nghĩ tới nó và mình không muốn nghĩ tới nó, những cái đó luẩn quẩn không phải là mình thấy pháp mình chỉ thấy nó đang dẫn dắt mình thôi, mắt cũng vậy, mặt cũng vậy, cái mặt mình thấy bắp thịt gồng lên cũng vậy, mình muốn để ý tới nó, mình không muốn để ý tới nó, không phải nó theo pháp, pháp để thấy tâm của mình đang có, đó là thực tính và hiện tượng của nó đang thay đổi không được yên là thực tướng, bắt được cái đó mới là pháp.

 Chân mình đang ngồi là qúi Phật tử chặn con đường máu lưu thông, máu không chạy được, nó bị nghẹn lại, thì dưới đây bị máu không nuôi được sẽ bị tê. Qúi Phật tử đi châm cứu, chấm cái kim xuống một chút xíu cái điểm đầu kim nó đỏ hồng lên là vì máu của mình muốn đẩy vật lạ đang xâm nhập vào cơ thể của mình, nó cố đẩy ra, đẩy hoài không được thì máu tụ lại làm đỏ hồng lên, chút xíu rút kim ra thì máu tan ra. Máu của mình có khả năng tống đẩy tất cả những vật lạ xâm nhập vào cơ thể của ta mà nó đẩy không được thì nó giao chiến nó xưng mủ lên ở đó hay là nó bể ra.

Do đó, khi mình ngồi đây mà hồi nào chân mình quen thong thả máu lưu thông dễ dàng ở ngón chân mình, giờ mình ngồi chặn nó lại thì nó bắt đầu phá thành trì này để cho nó chạy xuống lại, nó đâu muốn chết tế bào dưới đây, nó muốn giữ sự sống dưới chân này.

Chân mình ngồi thì bắp thịt bị co lại và xương cũng co lại theo bắp thịt thì bắt đầu xương bị mỏi, bắp thịt bị ép lại làm nhức, sau đó hiện bày đau, nhìn thấy đó, mình coi lại cái tâm của mình bực, khó chịu là bất thiện rồi, không hoan hỉ rồi, cái đó là tâm bất thiện, mình nhìn thấy tâm đó bất thiện chứ không phải mình nhìn thấy tê nhức mỏi đau, vì tê nhức mỏi đau là bắt buộc hiện bày ra.

Mình thấy nó rồi mình quay trở lại nhìn xuống thấy nó nữa thấy nó đang thay đổi, vô thường về sắc, thấy khổ về tâm, danh và sắc, thay đổi qua lại.

Mình nhìn thấy pháp hiện bày, mình theo dõi, mình biết lý trí, cái trí tuệ ở giữa gọi là quán mình thấy./. 

Saturday, June 18, 2022

Vi Diệu Pháp 23 - Thiền Vô Sắc Giới - HT Sán Nhiên giảng

 

Thiền Vô Sắc Giới - Vi Diệu Pháp 23 - HT Sán Nhiên 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm gọn theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 23" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm t

Xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến chư thiên và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Hôm nay ta đã qua phần thiền Vô Sắc Giới. 

Như chúng ta biết thiền có hai loại: Thiền Hiệp Thế và Thiền Siêu Thế. Người nào tu tập họ cũng đều phải nghiên cứu qua hai loại thiền.

Thiền Siêu thế  có hai là Đạo và Quả.

Thiền Hiệp Thế chia làm hai là Thiền Sắc Giới và Thiền Vô Sắc Giới. Đức Phật dạy Thiền Sắc Giới có 36 đề mục + 4 đề mục Vô Sắc Giới, thì Thiền Hiệp Thế có tất cả là 40 đề mục.

Thiền Siêu Thế, con đường đi đến Đạo Quả có 4, là Tứ Niệm Xứ gồm: Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Hay còn gọi Thiền Siêu Thế là Thiền Tứ Niệm Xứ, Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Nói chung, chúng ta đi vào con đường Bát Chánh Đạo, đó là con đường của Thiền Siêu Thế phải đi. Ta đi con đường Thiền Siêu Thế nương vào phương tiện là Tứ Niệm Xứ trao dồi con đường Thân, Thọ, Tâm, Pháp, để chúng ta lấy Bát Chánh Đạo làm con đường đi tới đắc đạo quả giải thoát.

Trong khi ta nói Sắc Giới và Vô Sắc Giới thì chúng ta sẽ thấy, khi ta nói tới con đường họ chứng đắc họ được sanh về các cõi trời. Chúng ta có 31 cõi gồm:

-  Dục Giới có 11 cõi, là cõi trời của Chư Thiên
- Sắc Giới có 16 cõi.
- Vô Sắc Giới có 4 cõi

Vậy thì khi ta nói tới các cõi đi về cõi trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới có tất cả là 20 cõi và gọi là cõi Trời Phạm Thiên.

 Tại sao gọi là Phạm Thiên? Tại vì các Chư Thiên sống đời phạm hạnh, luôn luôn an trú trong Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả.

 Cõi trời Dục Giới là cõi trời Chư Thiên.

Khi ta nói tới Từ, Bi, Hỷ, Xả, là chúng ta đi theo từng cấp tu tập, tu từ thấp lên cao, tu Từ trước kế đến Bi, kế đến Hỷ, Xả tu sau cùng là cao nhất, những người sống đời sống phạm hạnh họ phải tiến tu. Đối với tâm Từ là sơ cơ, là khởi đầu mà thôi, rồi sau đó họ tu chính chắn hơn nữa họ mới lên Bi, khá hơn nữa họ lên tới Hỷ, cuối cùng là họ hành Xả.

 Hành Xả là một mức độ cao của đời sống phạm hạnh, khó tu tập nhất, vì ta phải chế ngự Bát Phong (tám ngọn gió đời) khi đối diện.

- Tâm Từ là thương tất cả chúng sanh.

- Bi là xót thương hay là cứu giúp tất cả chúng sanh.

- Hỷ là hoan hỉ với tất cả pháp, diệt lòng bỏn xẻn.

- Nhưng, đối với Xả thì khó hơn vì Bát Phong (8 ngọn gió đời) chúng ta phải vượt qua, chế ngự và không bị nó chinh phục. Do đó, nếu đời sống của một vị đời sống phạm hạnh họ phải thuần thục với góc độ Bát Phong, và 3 cái kia là Từ, Bi, Hỷ, họ phải trau dồi một cách rốt ráo, không đơn giản được. 

Các vị Phạm Thiên ở các cõi trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới, các vị Phạm Thiên sống luôn luôn an trú trong Từ Bi Hỷ Xả.

Đức Phật Ngài nói người mẹ và người cha là vị Phạm Thiên ở trong gia đình.

 Người mẹ người cha khi la rầy con phải nhìn vào tâm của mình, nếu người mẹ người cha la rày con mà không an trú trong Từ Bi Hỷ Xả thì lúc bấy giờ đang tạo ra nghiệp oan trái, nghiệp mẹ và con, nghiệp cha và con, oan trái và tiếp tục chồng chất lên nữa, một sát na nói một câu chuyện kể ra là một oan trái là sẽ gây một nghiệp báo sau này khó mà được giải thoát được con người của mình, và , mình không ra nổi con đường giải thoát được. 

Khi người mẹ người cha an trú trong Từ, Bi, Hỷ, Xả, đối xử với con là người mẹ người cha đang hưởng phước báu Phạm Thiên của cõi trời và không bị nghiệp oan trái với con của mình.

 Do đó, người hiểu lời dạy của Đức Phật, hiểu Phật Pháp thì họ sợ nghiệp hơn là họ quên bổn phận, ta sợ nghiệp hơn bổn phận làm phạm hạnh, mình cứ nghĩ như vậy, nghĩ là ta là cha là mẹ giống như là thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi, xưa ông bà nói vậy nên không có an trú trong Từ, Bi, Hỷ, Xả, vẫn làm việc oan trái.

Thứ hai, Đức Phật nói người mẹ người cha là bậc Vô Sinh trong gia đình đối với con cái, nghĩa là người mẹ người cha sống xa rời Tứ Lậu Hoặc là 4 pháp trầm ngâm ở trong gia đình nếu như vậy thì người mẹ người cha mới là an trú như bậc Vô Sinh.

Tứ Lậu Hoặc là 4 pháp trầm ngâm ở trong gia đình là:

1) Không ở trong dục, Dục Lậu Hoặc.
2) Không ở trong hữu, Hữu Lậu Hoặc.
3) Không ở trong kiến, Kiến Lậu Hoặc.
4) Không ở trong vô minh, Vô Minh Lậu Hoặc.

Đối với con cái, thì lúc bấy giờ người mẹ người cha là bậc Vô Sinh.
Nhưng, đối với người mẹ người cha khi đối xử với con cái mà không tách ra khỏi 4 cái này thì đang làm một việc oan trái với con cái.

Từ phải đi với Xả, Bi phải đi với Hỷ, nếu không là không dùng được với đời sống phạm hạnh của mình.

 Điều thứ nhất với tâm Từ mà quí Phật tử không có tâm Xả thì tâm Từ bị dính mắc, lôi cuốn mình trong trạng thái nhiễm đắm rồi rớt trong tình thương vị kỷ, nó không còn là tình thương rộng lớn bao la vô lượng của bậc phạm hạnh. Nếu qúi Phật tử có lòng Từ mà không có trí tuệ mà không biết dừng lại với cái Xả thì qúi Phật tử sẽ đi đắm sâu vô tâm Từ này mất đi vị trí ban đầu tình thương của mình trở thành tình thương ái luyến vị kỷ hay là tình thương riêng tư không trong sạch. 

Tâm Từ phải có Xả để dừng lại ở mức độ nào đó chứ không để đi tới mức không hay biết nữa.

Tâm Bi phải có Hỷ, thấy cảnh đau khổ của chúng sanh qúi Phật tử không hoan hỉ được thì không có giúp người ta được, thấy người ta đau khổ mình phải bình tỉnh để giúp người ta. Mình phải biết hoan hỉ vui vẻ để đến với người ta với trạng thái vui vẻ. Những người làm nghề bác sĩ cũng như nghề y tá chăm sóc bệnh nhân là những người phải có tâm Bi và tâm Hỷ mới có thể hoàn thành trách nhiệm được. 

Tâm Từ phải có tâm Hỷ kết hợp, tâm Bi phải kết hợp với tâm Xả mới hành động một cách vuông tròn được.

Như vậy, chúng ta nói tới Thiền-na có 2 loại là Thiền Hiệp Thế là con đường đưa chúng ta còn phải sanh tử luân hồi. Thiền Hiệp Thế là con đường đưa chúng ta được sanh về hai cõi trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới là con đường còn luân hồi, chưa ra khỏi tam giới, rồi hết thời gian ở trong các cõi trời này lâu hơn cõi trời Dục Giới, cho dù ở lâu như thế nào khi hết tuổi thọ thì kiếp đi tục sinh kế tiếp, chưa quả quyết là ta được sanh trở lại làm người hay bốn đường ác đạo. 

Nền tảng gốc của Thiền Hiệp Thế có hai chi là Niệm và Tưởng.

Nền tảng của Thiền Siêu Thế có hai chi chúng ta cần phải biết là Chánh Niệm và Tỉnh Giác. 

Nếu chúng ta tìm ra được cái đó chúng ta thấy con đường đi rõ ràng. 
Nếu ta đi thiền Hiệp Thế, ta chỉ cần có Chánh Niệm, và ta suy tưởng về  Chánh Niệm đó với đề mục chúng ta tạo ra thì ta sẽ đi tới các tầng trời này.

Nhưng đối với Thiền Siêu Thế chúng ta có Chánh Niệm có sự ghi nhớ nhưng ta phải thức tỉnh, tỉnh giác luôn luôn mỗi sự diễn tiến xảy ra để chúng ta cắt trừ diệt tận thì chúng ta mới đi tới con đường Siêu Thế, chứ không có tưởng được, ở đây không có tưởng, ở đây qúi Phật tử mà tưởng, qúi Phật tử không có con đường đi ra giác ngộ và giải thoát.

Còn ở thiền Hiệp Thế chúng ta có thể ngồi suy tư và tưởng được.

Vậy thì, khi đi vào con đường Hiệp Thế chúng ta chỉ cần khai thác hai cái là Chánh Niệm và phải Suy Tưởng mạnh, nên người về thơ ca viết nhiều về thi ca người đó có cơ hội về Thiền Hiệp Thế dễ. 

Do đó, ở đây qúi Phật tử nào đi con đường Siêu Thế thì không có tưởng, phải có Chánh Niệm và Tỉnh Giác phải theo dõi và biết rõ mọi diễn tiến xảy ra để cắt đứt và chặt, nếu không cắt đứt và chặt thì ta rớt trong con đường Àsava: lậu hoặc - trầm mịch - chìm ngâm, giống như bụi mà chúng ta để lâu ngày bụi lắng xuống đáy bình thì bụi đó gọi là àsava, tiếng Nho là trầm mịch, là chìm ngâm. Chúng sanh ở lâu ngày trong tam giới dục giới, sắc giới và vô sắc giới thì chúng sanh sẽ bị chìm đắm trong tam giới không ra được, không muốn đi ra.

Có lần Sư tới Oklahoma dạy một số Phật tử thì một bà Phật tử không thấy tới để học nữa, Sư hỏi thì các Phật tử khác nói người ta không muốn bỏ tài sản của người ta tới nghe Sư nói là cắt ái đi tu nên người ta không muốn tới gặp Sư nữa. Nghe thấm thía, tại vì tài sản người ta đang tạo ra người ta đâu bỏ mà đi tu được.

Người ta nói "cái răng cái tóc là gốc con người", trong khi Đức Phật Ngài nói gốc con người là trí tuệ, chính cái đó nó tạo ra con người mình đẹp hay xấu.

Sư trở lại về Thiền Hiệp Thế, qúi Phật tử cố gắng tu lên góc độ Vô Sắc Giới, qúi Phật tử phải suy tư rất nhiều tại lúc đó những đề mục này hoàn toàn không còn sắc pháp nên mới gọi là vô sắc, những đề mục này hoàn toàn là danh pháp và chúng ta phải tập trung tâm vào danh pháp phải nghĩ về danh pháp thiệt là nhiều lúc bấy giờ chúng ta mới phát triển con đường tu mới được. Còn nếu như qúi Phật tử còn đang tìm sắc pháp để làm đề mục để mình nhìn mình thấy thì lúc đó vẫn còn sắc giới mà chính cái đó là còn ở góc độ thấp, rồi còn phải 5 chi thiền; Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất Thống (định). Nhưng đối với Vô Sắc Giới này không có.

Vô sắc pháp  tiếng Pali là arupa tức là không còn sắc pháp, nó chỉ là danh pháp mà thôi. 

Khi đi vào trong Vô Sắc Pháp (arùpa) hoàn toàn là Danh Pháp (Nāma Dhamma) mà thôi. Vậy thì khi qúi Phật tử đi vào trong danh pháp này là thuần túy tâm thức mình biết. Mà tâm thức mình biết lúc đó là tâm ý thức biết chứ nó không còn ở trong ngũ thức nữa, nó không còn nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân nữa, lúc bấy giờ tâm ý thức hoạt động bắt lấy cảnh pháp mà thôi.

Sư trở lại:
- Với nhãn thức chúng ta bắt cảnh sắc.
- Với nhĩ thức chúng ta bắt cảnh thinh.
- Với tỷ thức chúng ta bắt cảnh khí.
- Với thiệt thức chúng ta bắt cảnh vị.
- Với thân thức chúng ta bắt cảnh xúc.

Với ý thức chúng ta bắt cảnh pháp, cảnh pháp này không có hình tướng, sắc chúng ta còn thấy, sắc xa, sắc gần, sắc thô, sắc tế, chúng ta thấy, thinh chúng ta còn nghe được âm thanh. Còn cái này hoàn toàn trong danh pháp mình suy tư nghĩ tới thôi, đó là cảnh pháp.

Với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ta còn nương vào thần kinh của ta đang có, thần kinh nhãn, thần kinh nhĩ, thần kinh tỷ là mũi, thần kinh thiệt là lưỡng của ta, thần kinh xúc là thân của ta có. Nhưng đối với Tâm Ý Thức thì cảnh pháp này là trái tim của chúng ta rúng động lên chúng ta biết được nó. Thần kinh của tâm Ý Thức là nương vào Danh.

 Sắc Trái Tim tiếng Pali là Hadāya Vatthu. 

Khi chúng ta cảm thấy hồi hộp trong lòng, thí dụ như người mẹ xa người con nhưng vẫn có trạng thái suy tưởng đến người con thì lúc đó ta có linh cảm, có những xúc động tim ta đập mạnh lên, ta nghĩ tới người con đó tim đập mạnh không biết con mình bị gì không, thì có tin con bị chết, thì cái đó là cái xúc động của trái tim nó truyền ra với tâm pháp của nó đang hiểu biết và nó không có một cảnh sắc nào để mà nó đo lường được, nó chỉ có trái tim rúng động lên và nó bám lấy cảnh pháp này tâm ý thức đưa về trái tim hiểu biết danh pháp này nó đang hiện bày trong đó.

Như vậy, ở đây chúng ta đi tới góc độ này là lúc bấy giờ những đề mục ta gọi là những đề mục đó hoàn toàn không có Sắc Pháp, hoàn toàn là Danh Pháp, và mình phải suy tư hay chúng ta phải tưởng nhớ thật mạnh. 

Hai từ ngữ Suy Tư và Tưởng Nhớ cho ta thấy một là Sati, hai là Saññā, phải suy nghĩ thật nhiều Niệm và Tưởng, hai cái đó qúi Phật tử phải ghi nhận. Đó là Thiền Hiệp Thế, là con đường chúng ta đi tới 2 cõi trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới, qúi Phật tử phải đi 2 cái đó. Qúi Phật tử không có 2 pháp môn bảo hộ này thì 2 con đường ta đi tới Sắc Giới và Vô Sắc Giới không làm được, cũng từ nơi tâm Ý Thức của ta làm ra, từ tâm ta làm ra nhưng tâm ta phải có 2 cái pháp này hổ trợ tâm ta mới bắt được thì ta mới hiểu biết được.

Đối với Thiền Siêu Thế ta phải tỉnh giác sáng suốt thấy rõ, và phải hiểu, phải cắt trừ diệt thì mới ra con đường Siêu Thế Đạo Quả Niết-bàn, phải đi con đường Bát Chánh Đạo.

Bây giờ ta nói qua Thiền Hiệp Thế. Từ đây về sau nghe một người nào đang học thiền qúi Phật tử phân biệt được thiền của họ đang hành là Thiền Hiệp Thế hay Thiền Siêu Thế.

Vậy thì khi chúng ta đi với những trường hợp ta tu tập thì chúng ta sẽ thấy những cái mà thường.

Trong tiếng Pali kasina là đề mục hoàn tịnh tức là đề mục này trong sạch. Nhưng nếu ta đi đề mục Asubha là đề mục bất tịnh, bất tịnh là quán các tử thi. Xưa kia Đức Phật Ngài cho Chư Tăng vào trong rừng già nhìn quán xác chết, người ta chết người ta quăng bỏ trong rừng, Chư Tăng đến nhìn các đề mục đó làm đề mục để mà họ quán sát để diệt dục, tức là lòng tham dục còn đang đắm say ở trong ngũ dục; sắc, thinh, khí, vị, xúc, thì họ tới nhìn vô xác tử thi bị thúi rữa bị những con thú ăn xé thịt vung vãi loang lỗ mùi hôi thúi bộc lên làm cho các vị Sư đó diệt dục. Những đề mục này là những đề mục ta còn thấy được, nghe được, ngửi được hay ta còn tiếp xúc được, những cái đó là những đề mục thuộc sắc giới.

Đề mục quán ô trược về vật thực, nhìn vật thực chúng ta cũng lấy đó làm đề mục tu thiền được. Có một vị tỳ khưu trước khi ăn không quán tưởng về vật, Đức Phật Ngài dạy bảo trước khi ông ăn, ông nên quán tưởng vật thực để biết sự nhàm chán đời sống này, thì vị tỳ khưu đó ngồi lại bắt đầu quán tưởng vật thực: "Vật thực nào ta chưa ăn nguyên chất chẳng là chi chi, vật thực nào ta chưa ăn nó là thanh tịnh chẳng uế dơ, vật thực nào ta chưa ăn, rồi ăn rồi nhìn vào uế dơ không trong sạch", do đó vị tỳ khưu đó phát triển lên, đó gọi là ô uế vật thực hay là vật thực đó không có thanh tịnh, thì lúc đó vị tỳ khưu đó đắc chứng đạo quả.

Những cái đó ngay cả vật thực họ cũng quán tưởng được và họ tiếp xúc được, họ tập trung chánh niệm tại đó, họ ghi nhận suy nghĩ họ đưa đến đạo quả được. 

Những cái đó là ta còn thấy được là Sắc Pháp. Nhưng, chúng ta đã học qua phần Thiền Sắc Giới, tức là thiền này còn có sắc pháp.

 Hôm nay chúng ta học qua thiền Vô Sắc Giới.

Thiền Vô Sắc Giới có 4  là:
1) Không Vô Biên Xứ.
2) Thức Vô Biên Xứ.
3) Vô Sở Hữu Xứ.
4) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

1) Không Vô Biên Xứ.

Bốn đề mục này là 4 đề mục hoàn toàn thuộc về Danh Pháp do suy tưởng mà có và không có Sắc Pháp.

Danh từ Không Vô Biên nghĩa là: hư không vô cùng vô tận, không có biên giới rộng lớn bao la. Nhìn ra hư không, nhìn ra bầu trời thấy bao la không thể nào đi hết tận cùng của thế gian. Vị hành giả sau khi ngồi thiền họ quán sát thấy con đường ta tu vô cùng vô tận, họ quán như vậy gọi là không vô biên. Hành giả ngồi thiền này phải nhắm mắt, họ phải tưởng ra không gian lớn bao la vô cùng vô tận.

2) Thức Vô Biên Xứ.

Nhưng, khi họ chứng đắc được tầng thiền Không Vô Biên này, họ nói, nếu ta thấy được hư không là vô cùng vô tận, mà cái ta biết được đó cái đó mới là vô cùng vô tận, lúc bấy giờ họ nói Tâm Thức mới là vô cùng vô tận, chứ không phải là hư không. Tại vì tâm còn biết được hư không vô cùng vô tận thì tâm thức mới là vô cùng vô tận vô biên.

Nên đề mục thứ hai là đề mục Thức Vô Biên Xứ. Tâm người ta dễ sợ lắm cái gì cũng biết hết, vô cùng vô tận, không gian chỗ nào tâm ta cũng biết tới, đó là tâm thức của ta mới là vô cùng vô tận. Giống như nhà khoa học gia ngày hôm nay họ nhìn vô Thái Dương Hệ hay những hành tinh ở trên không gian này họ nhìn thấy họ nói ta sẽ đi tìm tới ta bắt được hết, ta đi khám phá được các vệ tinh này vệ tinh kia hay là hành tinh này hành tinh kia hay là những tinh tú này tinh tú kia, họ sẽ tìm ra con đường đi tới đó, thì con người của họ tâm thức của họ mới vô cùng vô tận, xa bao nhiêu xa họ cũng biết tới được, con người ta vậy đó.

Chính cái đó người hành thiền Vô Sắc Giới tới giai đoạn là họ thấy hành thiền Hư Không Vô Biên Xứ không bằng thiền tâm Thức Vô Biên Xứ, tâm thức mới đáng sợ.

3) Vô Sở Hữu Xứ.

Khi họ chứng đắc tầng thiền thứ hai gọi là Thức Vô Biên Vô Cùng Vô Tận thì họ mới nói có những cái mình giải đáp không được, chẳng hạn như con người từ đâu tới, không giải đáp được, tại sao con người nam người nữ, ai sinh ra người nam ai sinh ra người nữ, nếu trả lời là người mẹ người cha, như vậy thì không có phải, con người từ đâu tới, và sau khi con người chết thì người đó đi về đâu, họ không tìm ra được, cái này thật sự không giải đáp được có chi mà ta biết được hết, ta chỉ biết trong hạn chế của ta thôi. Do đó không có chi là của ta sở hữu cả, ta không giải đáp hết được, lãnh vực nào ta biết còn lãnh vực khác ta không biết thì lãnh vực đó là Vô Sở Hữu, không phải của ta, người bác sĩ chỉ biết ranh giới của người bác sĩ mà thôi, kỹ sư biết danh giới của kỹ sư thôi, học sinh biết ranh giới của học sinh thôi, và người ra trường đi làm biết ranh giới của người ra trường đi làm thôi, chứ không thể nào nói là vô cùng vô tận được, lúc đó họ nói không có chi là của ta sở hữu cả.

Thì khi họ đi đến giai đoạn này thì họ thấy tới đây cũng chưa đúng nữa, nếu như vậy thì con người mình không có ý nghĩa gì hết, vô dụng quá.

4) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Do đó đề mục thứ tư họ chia làm hai là Phi Tưởng và, Phi Phi Tưởng Xứ.

Phi Tưởng nghĩa là đừng có nghĩ như vậy. Phi Tưởng này là phá đề mục thứ ba họ đã chứng đắc, "đừng có nghĩ như vậy".

Phi Phi Tưởng Xứ nghĩa là chẳng phải nghĩ cho cái Phi Tưởng, cái Phi Phi Tưởng Xứ phá cái Phi Tưởng, và cái Phi Tưởng phá cái Vô Sở Hữu, nên gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nghĩa là:

Phi Tưởng nghĩa là "chẳng phải nghĩ như vậy" và 
Phi Phi Tưởng nghĩa là "Chẳng phải chẳng phải nghĩ như vậy".

Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ nghĩa là: Chẳng phải như vậy là bác bỏ cái vô sở hữu xứ và lấy phi phi tưởng bác bỏ cái phi tưởng trước.

Nên nó là một đề mục mà chia làm hai. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Sư trở lại 
- Àkasa = hư không 
- Viññāṇa = tâm thức 
- Natthi kiñci  = Không có chi , chẳng có chi cả.

3 cái này Sư muốn mổ xẻ một chút cho qúi Phật tử tìm ra:

Người ta đi tới hư không, người hành giả ngồi thiền các đề mục này là hư không là đầu tiên họ còn dùng Sắc Giới và còn dùng Sắc Pháp.

1) Không Vô Biên Xứ.

Trong nhà qúi Phật tử có một cái cửa sổ, dùng giấy dán kín lại chỉ chừa một lỗ nhỏ thôi để chúng ta không bị phân tâm, qúi Phật tử ngồi nhìn qua lỗ nhỏ đó nhìn hư không bên ngoài và niệm "hư không vô cùng vô tận", cứ ngồi niệm hư không vô cùng vô tận, bắt đầu vô cũng dùng sắc giới rồi chúng ta mở mắt nhìn hư không vô cùng vô tận, ánh sáng lan tỏa rồi khi màn đêm tới vẫn nhìn qua lỗ nhỏ vẫn niệm "hư không vô cùng vô tận", rồi ban mai lại đến lại thấy ánh sáng và "hư không vô cùng vô tận". 

Đó là người hành giả bắt đầu ngồi quán tưởng với không gian bên ngoài rộng lớn như vậy là "hư không vô cùng vô tận".

Phải dùng một sắc pháp đầu tiên với cái cửa sổ hay là qúi Phật tử dùng khe hở trên vách ván mà ở nhà quê người ta có người ta nhìn qua đó người ta thấy hư không bên ngoài rộng lớn như vậy.

Qúi Phật tử thấy chỗ đề mục thứ tư ta thấy rõ tính chất đề mục là Niệm và Tưởng.

 Đó là chỗ mà chúng ta nói thiền Hiệp Thế, phải suy tưởng nhiều. 

Để Sư quay trở lại từ một chút này để qúi Phật tử hiểu.

 Khi qúi Phật tử ngồi thiền Vipassana niệm về Thiền Quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp, hay Tứ Niệm Xứ mà qúi Phật tử không thấy được đề mục, qúi Phật tử không thấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp, đúng như nó đang hiện bày với thực tính của nó thì qúi Phật tử đang là tưởng trong đó, đó là thiền Chỉ của một loại thiền Hiệp Thế, phải thấy được thực tính của pháp, Thân, Thọ, Tâm, Pháp, thì lúc bấy giờ qúi Phật tử đang tưởng của một đề mục mà tâm thức ta đeo níu vào đó của Hiệp Thế chứ không phải là Thiền Siêu Thế.

Nó che đậy phần trên, nó che đậy phần giữa rồi cuối cùng nó mới lộ ra là tưởng mà thôi, không nhận ra được cái đó là mình luẩn quẩn loanh quanh không ra con đường Siêu Thế của mình.

Khi đã đi đến giai đoạn lấy hư không làm đề mục là qúi Phật tử phải ngồi tưởng hư không rộng lớn, ai là người bay hết hư không này để mà tìm thấy không gian rộng lớn bao giờ, không có một người nào mà bay hết cả hư không này để nói lên tiếng nói là hư không là vô cùng vô tận được, không có, nhưng mà có người vẫn lấy cái đó làm đề mục để mà ngồi thiền.

Qúi Phật tử sẽ thấy những cái đó làm cho con người mình tưởng nhiều hơn, càng tưởng nhiều chừng nào là mình càng thành công chừng nấy, còn qúi Phật tử không tưởng ra được thì qúi Phật tử không vẽ ra bức tranh được, càng tưởng nhiều càng thành công, tưởng nhiều một hồi qúi Phật tử thấy con người mình nhỏ lại mà thấy tất cả đều là lớn.

2) Thức Vô Biên Xứ.

Khi hành giả đi tới mức độ cao hơn hư không đắc định được hưởng hư không rồi, nhắm mắt lại rồi nói hư không đâu bằng tâm của ta, tâm ta mới ghê sợ, bắt đầu ngồi ngó tâm mình, lúc ngó tâm thì hành giả đứng ở tầng thiền thứ 2, họ thấy tâm phóng đi thật xa tới VN, rồi tới Châu Phi, một hồi nó đi tới Ấn Độ, ngồi nhìn tâm thấy tâm đi hết vũ trụ năm châu, nhìn thấy tâm mình đi vô cùng vô tận, đó là Tâm Thức Vô Biên Xứ. Ngồi một chỗ mà thấy tâm mình đi dễ sợ lắm.

Hành giả không có chặn, không giữ nó, để cho nó đi hết một giờ một ngày, cứ ngồi đó để tâm nó đi tới khi nào xả thiền ra, đó là Thức Vô Biên Xứ.

 Do đó, Thức Vô Biên là như vậy, mình để tâm mình đi và không giữ nó, nó đi tới đâu nó đi, cái hay vậy nè, nó là hay tới mức Sư nói qúi Phật tử hoan hỉ hay tới mức độ nhìn cái tâm nó đi qúi Phật tử không cảm thấy tê nhức mỏi đau gì hết, nó dắt đi tới cảnh xưa hồi lúc còn nhỏ mình chơi với bạn, nó trở về đó mình cũng không cắt nữa, mình cắt là mình không thấy nó vô biên, cứ để nó dắt đi mà không thấy tê nhức mỏi đau, nó là mật ngọt, nó là thuốc phiện làm cho con người mình dính trong đó mình quên hết không gian thời gian, ngồi sáng suốt thấy tâm mình đi mà không phải là mình ngủ hay nằm mê, nó vô lượng vô biên, để tâm mình đi hoài không cắt, đi đúng đi sai đi mãi đi không có mục đích không có mục tiêu, đó là Thức Vô Lượng Vô Biên.

3) Vô Sở Hữu Xứ.

Tới trạng thái không có chi cả, có 2 sự tranh luận mà trong Phật Giáo có nói tới là:

- Thiền không (Sunnatà) - không có - hay còn gọi rỗng không, không có gì hết. Lúc bấy giờ người tới trình độ Vô Sở Hữu Xứ, những cái gì tâm khởi lên cắt bỏ liền, vô niệm, không ghi nhận, cắt bỏ để tâm trống, không cho sanh lên, nó vừa khởi lên là cắt liền, mà không nghĩ cái gì khác để tâm trống trơn, không có một tạp niệm, không có suy niệm, để tâm thức rỗng không, đó là không có chi cả.

Giống như mình mới mua một căn nhà, căn nhà còn trống không có đồ đạc, mình đi mua thật nhiều đồ mang về chất đầy nhà chất kín hết cái nhà thậm trí không có cả lối đi, không có cả chỗ nằm ngủ, đó là thí dụ cho Thức Vô Biên. Rồi mình không thích vì nhà qúa nhiều đồ, mình lại đem đồ ra ngoài vứt hết để nhà trống, đó là thí dụ cho Vô Sở Hữu Xứ.

Các nhà chú giải cho thấy rõ như vậy đó. Khi mình bỏ vô, bỏ bao nhiêu cũng không thấy đủ, đó là giai đoạn Hư Không Vô Cùng Vô Tận, thế gian này đồ đạc nhiều vô cùng vô tận, bỏ vô căn nhà này không đáng kể gì không nhằm nhò gì, vì lòng tham của con người quá lớn, lớn vô cùng vô tận, thấy hãi hùng rồi, cái bắt đầu dọn ra hết, kêu người đến mang đi hết.

Đến trạng thái rỗng không, không để tạp niệm, không để vọng niệm, thấy vọng là diệt là cắt liền là Sunnatà. 

Mà không phải là  Natthi kiñci. Natthi kiñci  là bác bỏ cái hư không và qúi Phật tử bác bỏ cái tâm thức mình nghĩ về vô lượng vô biên của mình chứ không phải mình không nói tâm thức mình có, ở sunnatà - Natthi kiñci là không có gì cả, hai cái hoàn toàn khác biệt và hoàn toàn không có đi đúng chỗ Đức Phật Ngài muốn nói tới, qúi Phật tử phải thấy rõ mới được, nó khác nhau.

Natthi kiñci  là chúng ta bác bỏ cái hư không vô cùng vô tận không đúng.

Cái thứ hai Natthi kiñci này là qúi Phật tử bác bỏ tâm thức vô cùng vô tận không đúng, để rồi thấy sự thật của nó là những gì nó có chỉ là cái có tương đối mà thôi, không có cái gì gọi là tuyệt đối, cái đó gọi là Vô Sở Hữu. Chứ không phải là không có cái gì cả ở trong tâm của mình, cái gì nghĩ lên cũng không được, ngó lên không được, khởi sanh không được. Vô Sở Hữu Xứ là có cái tương đối thôi chứ không có cái tuyệt đối.

"Người mẹ của tôi là tuyệt vời nhất trên thế gian này không ai hơn bằng" Không ai dám nói câu đó, không ai có thể nói một cách tuyệt đối như vậy, vì tất cả chỉ là tương đối thôi.

Một đứa bé sinh ra đời bị bỏ vô cô nhi viện, nó lớn lên bằng tình thương của xã hội, khi nó lớn lên ra đường nó nói tôi không có mẹ không có cha, đó là sunnatà.

 Không có công đức người khác, không có ơn đức người khác, không có sự giúp đỡ của người khác, không có người khác ở trong đời này, chỉ mình có thôi sunnatà, thế gian này rỗng không, không có gì hết.
Còn cái tuyệt vời nhất trên đời này mình bác bỏ thì mới vô Vô Sở Hữu, mình bác bỏ đi nhưng vẫn còn có, mình không phủ nhận là không có mẹ được, nhưng đừng nói mẹ là tuyệt nhất trong đời, mẹ có mặt, mẹ sinh ra mình, mẹ nuôi mình được, nhưng mà mẹ không phải là tuyệt nhất trong đời, thì qúi Phật tử sẽ đi vào Vô Sở Hữu Xứ, còn nói không có mẹ là sunnatà.

Khi người ta nói người mẹ là tương đối không là tuyệt đối qúi Phật tử lọt vô cái Vô Sở Hữu Xứ, còn qúi Phật tử nói không có mẹ không có cha qúi Phật tử lọt vô Sunnatà. Khi qúi Phật tử nói người mẹ chỉ là tương đối thôi thì như vậy thì mình không thấy có khi người mẹ mình là người tuyệt đối thương yêu mình thì cái câu hỏi mình suy nghĩ như vậy không đúng thì lọt vô Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Toàn là suy tưởng không, ngồi nghĩ ra không, lật luận giải thích giải đáp những lập luận của mình suy luận của mình và mình tìm ra con đường mình đang có lấy đó làm đề mục suy niệm.

Người nào suy niệm nhiều suy tưởng nhiều suy nghĩ nhiều là họ đi con đường này dễ lắm.

Hai chi pháp ở Thiền Sắc Giới thì nó có 5 chi; Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất Thống, tuy nhiên, ở Thiền Vô Sắc Giới chỉ có hai chi pháp duy nhất là Xả và Nhất Thống (định). Vậy thì ở đây góc độ mà ta phải niệm tới là hoàn toàn xa lià không hỷ không lạc. 

Đối với Thiền Vô Sắc Giới chỉ có Xả và không Hỷ và không Lạc là Nhất Thống. Do đó, ở Thiền Vô Sắc Giới chỉ có hai chi thiền mà thôi'

 Ngũ Thiền Sắc Giới bằng chi thiền của Vô Sắc Giới. Vậy thì nói tới Vô Sắc Giới là người phải chứng đắc từ ngũ thiền Sắc Giới họ mới tiến tu lên được ở tầng thiền Vô Sắc Giới. Nếu người nào chưa có tu về Thiền Sắc Giới thì họ không có khả năng tiến tu lên Thiền Vô Sắc Giới được, họ phải đi theo thứ tự từ sắc Giới lên tới Vô Sắc Giới, từ Sơ Nhị Tam Tứ rồi họ qua ngũ thiền họ mới tới được ngũ Thiền Vô Sắc Giới được. 

Do đó ta thường hay gọi là 8 định bậc Chánh Đẳng Chánh Giác còn là Bồ Tát họ phải đắc chứng bát định: 4 thiền Sắc Giới và 4 thiền Vô Sắc Giới.

Khi họ đang đi tu tập còn là Bồ Tát thì họ còn phải có 8 định; 4 Thiền Sắc Giới và 4 Thiền Vô Sắc Giới, nếu họ không làm được thì không thành tựu con đường của Bồ Tát Chánh Đẳng Chánh Giác trong kiếp đó.

Như vậy thì ở đây, hôm nay chúng ta đang nghiên cứu Thiền Vô Sắc Giới tức là ta nói tầng thiền này là Ngũ Thiền hay là ta nói về kinh Tạng là Tứ Thiền họ mới có được.

Khi ta tu Sơ Thiền ta chưa lên Vô Sắc Giới, Nhị Thiền ta chưa lên Vô Sắc Giới được, Tam Thiền ta chưa lên Vô Sắc Giới được, Tứ Thiền mà ta còn Hỉ còn Lạc ta chưa lên Vô Sắc Giới được.

Giữa kinh Tạng và Abhidhamma Tạng có điểm khác biệt nhau .

Kinh Tạng: Có 4 nói theo cõi
- Sơ Thiền
- Nhị Thiền
- Tam Thiền
- Tứ Thiền
Vô Tỷ Pháp Tạng (Abhidhamma):  thì có 5 nói theo chi thiền
- Sơ Thiền
- Nhị Thiền
- Tam Thiền
- Tứ Thiền
- Ngũ Thiền.

Nếu ta ráp lại Sơ Nhị của Abhidhamma mới bằng một tầng cõi sơ thiền bên kinh Tạng.

Tam Thiền của Abhidhamma vô Nhị Thiền của kinh Tạng.

Tứ Thiền của Abhidhamma vô Tam Thiền của kinh Tạng.

Ngũ Thiền của Abhidhamma vô Tứ Thiền của kinh Tạng.

Khi qúi Phật tử hành thiền mà Hỷ và Lạc có đắc chứng thiền được, qúi Phật tử không được vui, không được mừng, không được phấn khởi, không được hân hoan, giữ tâm bình thản nhẹ nhàng chỉ thấy pháp thôi như vậy mới đi tới được Xả thì mới đắc chứng được, còn không thì Hỷ và Lạc này thì không có đắc chứng được và tuyệt đối hơn nữa là không bao giờ được có ưu thọ, không buồn bực, không nóng nảy sân hận tức tối, người mà hành thiền có ưu thọ là không bao giờ có kết quả tuyệt đối.

Nếu như qúi Phật tử đắc thiền Sơ Nhị Tam Tứ rồi mà qúi Phật tử có thọ ưu sẽ có cơ hội bị hoại thiền. Như Đề Ba Đạt Đa đắc ngũ thiền và hiện bày thần thông chinh phục được vua A Xà Thế nhưng ông ưu thọ sân hận nổi lên bị hoại thiền, từ đó đến cuối đời ông không thiền được nữa và không còn hiện bày thần thông được nữa.

Vậy thì qúi Phật tử nhớ và không được quên là qúi Phật tử tu là không được có ưu, và qúi Phật tử muốn lên tầng thiền cao thì qúi Phật tử phải bỏ thọ Hỷ và thọ Lạc chỉ có thọ Xả mà thôi.

Trở lại với bảng đối chiếu.

Thiền Hiệp Thế đi từ con đường tu tập của Thiền Hiệp Thế 
- Hỷ 
- Lạc
- Xả

Chỉ có Hỷ, Lạc, Xả, từ thấp lên cao, không có Khổ, không có Ưu
với Thiền Siêu Thế có đủ 5 thọ và nhìn thọ không có tôi ta, nhìn thọ chỉ thấy là pháp để mà niệm với Thiền Siêu Thế.

Trong Thiền Siêu Thế không có tôi ta, có đủ 5 thọ và không loại trừ một thọ nào, nhưng mà nhìn thấy thọ là một pháp chứ không có tôi trong đó, không có buồn trong đó của tôi, không có vui trong đó của tôi, không có khổ trong đó của tôi, không có ưu trong đó của tôi.

Mà qúi Phật tử không cần phải diệt, nó tới nhìn nó là pháp, nhìn nó quán tưởng nó, diệt trừ tại đó.

Còn ở đây qúi Phật tử không được là Hiệp Thế là phải chuẩn bị tư tưởng là khi mình đang khổ đừng vô thiền, đang ưu tư đừng vô thiền, đang buồn phiền đừng vô thiền, đang bất toại nguyện đừng vô thiền. Thân tâm an vui mát mẻ bình an mới vô thiền. Rõ ràng như vậy, phải thanh lọc tâm mình trước, chuẩn bị tâm mình trước và phải củng cố tâm mình trước mới được vô thiền. Còn cái này đụng đâu giải quyết đó, nó cần có mặt để mình thấy rõ bản chất của pháp chứ mình không tránh né và không trốn chạy nó, càng tới càng niệm càng thấy không sợ.

Thiền sinh: Thưa Sư, nếu vậy thì khi mình thiền Siêu Thế mà mình quán tưởng được cái thọ nó lên cái pháp nó lên xong mình diệt nó xong rồi nó sẽ trở lại.

HT trả lời: Không có, nó không phải là đá đè cỏ. Thí dụ Sư nói Hỷ, Lạc, Khổ, Ưu, Xả, của tôi, và pháp hiện bày.

Hỷ này là của tôi, nó rớt vào kiết sử thân kiến.

Lạc này là của tôi, nó rớt vào kiết sử. Qúi Phật tử không diệt cái Lạc, mà qúi Phật tử diệt cái "tôi", mượn nó mình diệt nó thì mình ra được cái pháp.

Còn nếu qúi Phật tử nói diệt Hỷ, Lạc, v.v... là trong Hiệp Thế, qúi Phật tử đè ưu xuống, đè khổ xuống chứ không thấy thân kiến của mình đang lên.

Thiền Sinh: Thưa Sư, như vậy có nghĩa là khi mình thấy pháp thì mình cứ để tự nhiên?

HT trả lời: Mình phải diệt, nghĩa là khi mình thấy hỷ đang lên mình phải thấy được 2 cái là: hỷ là tôi, hỷ là pháp. Diệt tôi chứ không phải diệt Hỷ nhìn thấy pháp đang có. Nhìn cái pháp đang có pháp sanh diệt thay đổi là vô thường.

Thiền Sinh: Tức là cái tôi mình diệt, khi mình có Chánh Niệm tức là mình diệt.

HT trả lời: Là Tỉnh Giác chứ không phải là Chánh Niệm. Niệm tức là mình thấy Hỷ và Tỉnh Giác là không lầm giữa cái tôi và pháp, mình mới cắt được.

 Tỉnh Giác là mình phải hiểu, còn niệm là mình thấy. 

Do đó, không diệt Hỷ mà mình diệt cái tôi dính mắc trong Hỷ.

 Đám mây mưa kéo tới trên bầu trời, mình buồn, mình diệt "cái buồn của tôi" chứ không diệt cái mưa đó, nhìn thấy cái tôi mình đang khởi lên buồn, cắt "cái buồn của tôi" liền, mưa là của mưa mình không diệt cái mưa, mình diệt "cái tôi đang buồn", đó là quán.

Với Thiền Hiệp Thế mưa buồn không có, tâm buồn không có, phải chuẩn bị vui vẻ, hai cái hoàn toàn khác, tâm lý khác và tri kiến khác và cái tỉnh giác tại nơi đó khác.

Đối với Hiệp Thế thì qúi Phật tử chỉ có 3 cái là Hỷ, Lạc, Xả này thôi, hai cái kia là Khổ và Ưu lên cắt liền. Hỷ, Lạc, Xả lên càng nhiều càng tốt, thân tâm phơi phới lên tốt, bắt đầu vào Lạc, rồi buông thả cho người nhẹ nhàng, không còn Hỷ Lạc, tới Xả tốt giữ lấy, tôi ta trong đây cũng không sao.

Người cha có đứa con đầu lòng thì muốn đem hết cả tình thương của người cha cho con, nhưng người cha mà có 16 đứa con rồi thì không còn muốn đem hết tình thương cho con mà chỉ có trạng thái giữ tâm bình thản.

 Thiền Sinh: Thưa Sư, nếu mình diệt được cái tôi, tất cả 5 Hỷ, Lạc, Xả, Khổ, Ưu, thì tất cả 5 cái này mình diệt được cái tôi thì chứng được Sơ Thiền rồi, phải không?

HT trả lời: Phải, diệt được cái tôi qúi Phật tử đang diệt kiết sử, ngã mạn, hoài, nghi giới cấm thủ, là chứng đắc sơ đạo sơ quả của Thiền Siêu Thế, nhìn thấy pháp hiện bày chứ không nhìn thấy kiết sử đang cột trói ở dưới đề mục ta đang làm phương tiện để mà quán sát.

Còn Thiền Hiệp Thế không cần tôi ta, không sợ tôi ta, tăng thượng mạn, ngã mạn kiêu mạn như thế nào cũng không sao, miễn làm sao đắc chứng được thiền, ngồi lâu trong thiền là thành công.

Người đắc chứng được thiền, rồi người thầy giáo thọ hay là giám thị ngồi canh thiền biết không, mình ăn mình no, mình ngồi mình biết.
Tôi đau quá, pháp trong đó mà qúi Phật tử thấy tôi trong đó nên không thấy được pháp (pháp là đau) cái chỗ đó mà bao nhiêu lần qúi Phật tử đang đi hiệp thế, mà hiệp thế cũng không cho khổ, không cho ưu, thành ra qúi Phật tử không biết ở đâu, không biết đang ở quán hay là chỉ, đau quá đau .

Khi thọ lên qúi Phật tử nhìn cái pháp chứ không nhìn cái tôi, tôi có trong Hỷ là qúi Phật tử bị kẹt, tôi có trong Lạc là qúi Phật tử bị kẹt, tại vì nó sẽ thay đổi, mà qúi Phật tử không nhìn thấy sự thay đổi của nó, qúi Phật tử lại thắc mắc, sau một phút giây nó đau quá nó đổi nó mất tiêu, cái đó là đang lượm ra.

Qúi Phật tử ngồi Thiền Siêu Thế hay còn gọi là Thiền Tứ Niệm Xứ, Thân, Thọ, Tâm, Pháp, thì thọ nào qúi Phật tử cũng ngồi niệm được, mà niệm pháp thọ chứ không phải niệm tôi có trong thọ, mà qúi Phật tử ngồi niệm một hồi qúi Phật tử nói tôi có trong thọ, thọ này là của tôi đang có là qúi Phật tử qua Thiền Hiệp Thế, thọ tới, thọ loại nào, mình không muốn nó tới không, mình không muốn giữ nó không, và mình có giữ nó được hay không, và mình không muốn nó đi không, tất cả đều không phải của mình, nó đến lúc nào nó không cho mình biết, nó đi lúc nào nó cũng không cho mình hay, nó đến như thế nào nó cũng không cho mình biết nặng hay nhẹ, nặng hay nhẹ nó làm thế nào nó cũng không cho mình biết, cái đó không phải của mình, mà mình nói cái này của tôi.

Giữ cái đó là giữ cái tôi chứ không phải giữ cái pháp, do đó qúi Phật tử giữ cái đó qúi Phật tử không ra được cái cửa của đạo quả, đạo quả không có cái tôi trong đó, Niết-bàn, qúi Phật tử thấy Niết-bàn có chữ tôi nào trong đó, không có, chỉ có trạng thái an vui Niết-bàn.

Thành ra cái pháp không có cái tôi, qúi Phật tử ra khỏi cái tôi này thấy pháp.

Nếu như một trận chiến của anh em, người anh đánh người em, trận chiến đó phải dừng lại vì tình thương máu mủ anh em, nhưng mà nếu trận chiến này mà không có máu mủ ruột thịt, toàn là người dưng kẻ lạ, hai nước khác nhau hoàn toàn không có tình ruột thịt anh em, đánh nhau tơi tả phải chịu. Rồi qúi Phật tử nhìn thấy trận chiến đó đâu phải trận chiến mình muốn là được đâu, mình phải đối diện nó và mình phải giải quyết nó một thắng hai thua và mình chết với nó và nó chết với mình, chỉ thế thôi, thì cái này, qúi Phật tử muốn đâu có được, đây đâu phải tình anh em, nó đến như thế nào là nó như vậy.

 Cuộc tu hành nào cũng vậy đưa đến đạo quả Niết-bàn không đường nào đơn giản giống như chuông lắc mấy cái, hay vò cái khăn là đắc đạo quả như người ta ngày xưa. 

Qúi Phật tử đi tới giai đoạn ta nói tới thiền, cái đầu tiên mà không bao giờ được quên là qúi Phật tử phải nhớ giùm Sư là phải chăm chú theo dõi không thể nào quên được, qúi Phật tử không được phóng tâm, không được lo ra và không được quên cái việc mình đang làm, là qúi Phật tử phải làm việc này cho nó xong, (chăm chú theo dõi đối tượng), nếu Phật tử không làm được điều này coi như bỏ hết tất cả. Xỏ chỉ qua cây kim mà không chăm chú theo dõi sợi chỉ không qua cây kim được. Người thợ may cầm miếng vải còn tươi nguyên lấy phấn làm dấu gạch trên miếng vải rồi phải may ngay trên dấu gạch, còn nếu như may không ngay trên dấu gạch thì là hỏng miếng vải, đó là không chăm chú theo dõi. Vậy thì chữ thiền là chăm chú theo dõi đối tượng, không làm gì khác hơn.

Cơ hội qúi Phật tử đang có được khai thác được hưởng cái đó, ai mà đang có cái đó mà không hưởng cái đó đi làm cái khác, phí cái đó rồi tới khi mà tìm lại nó hay là muốn có lại nó không có. Thí dụ lát nữa 5 giờ chiều ta ngồi thiền, ta bỏ hết bao nhiêu công việc của ta và chỉ có một việc duy nhất là theo dõi mà qúi Phật tử không làm trong một tiếng đó qúi Phật tử phải bị phí. Mà trong khi ngồi chỉ theo dõi đề mục của mình thôi, hơi thở vô ra theo dõi thôi.

Tại sao ta gọi là Hiệp Thế, tiếng Pali là Lokiyadhamma là pháp duyên theo thế gian, loka là thế gian, lokiyadhamma là pháp hiệp theo thế gian, ta gọi là hiệp thế, lokiya hiệp theo thế gian, gọi tắt là hiệp thế. Những cái gì của thế gian chúng ta đi theo đó.

 Siêu Thế, tiếng Pali là Lokuttaradhamma. 

Từ ngữ Lokuttara cắt ra làm hai là loka + uttara = vượt thoát khỏi, vượt ra khỏi thế gian, hay còn gọi là Siêu Thế.

Những cái gì không trong thế gian ta bỏ, những cái gì ta còn dính mắc trong thế gian ta đừng theo, ta bỏ hết thì ta ra, còn những cái gì chúng ta còn giữ lấy cái đó là ta trong đời trong thế gian này.

Thế gian ở trong đời này là cái gì mà qúi Phật tử đang có, qúi Phật tử mới ra được thế gian này, nếu qúi Phật tử không ra khỏi thế gian này thì qúi Phật tử không có ra được Siêu xuất thế gian. 

Thế gian có 8 ngọn gió: được lợi, mất lợi, được danh, mất danh, được khen, bị chỉ trích, hạnh phúc, khổ đau. Tám cái này hiện bày trên thế gian. Qúi Phật tử đi hết cả tam giới có 8 ngọn gió này không ra con đường nào khác, Đức Phật gọi là lokiyadhamma.

Qúi Phật tử ngồi thiền đắc được thiền qúi Phật tử được lợi, qúi Phật tử mất thiền thì mất lợi, người ta khen qúi Phật tử danh dự, còn khi bị hoại thiền bị chê mất danh dự, lúc qúi Phật tử đắc thiền người ta khen ngợi tán thán, qúi Phật tử hoại thiền người ta chỉ trích, chê bai.

 Khi được khen ngợi được thương yêu qúi Phật tử hạnh phúc, người ta chê bai chỉ trích qúi Phật tử đau khổ, đó là thiền hiệp thế.

Khi qúi Phật tử ra khỏi 8 cái này, qúi Phật tử ngồi thiền cầu giải thoát tất cả mọi khổ vui trên đời thì lúc bấy giờ qúi Phật tử mới nhìn qua 8 ngọn gió đời qúi Phật tử mới dám đi, cầu giải thoát mọi khổ vui trong đời.

Qúi Phật tử ngồi thiền mà vui là hạnh phúc, khi vui rồi nó mất đi rồi nó trở lại khổ đau thì qúi Phật tử buồn.

Giữa hai cái được lợi và mất lợi, được danh dự và mất danh dự, được khen ngợi và bị chỉ trích, được hạnh phúc và khổ đau, không ai giữ được, không ai muốn được nó, muốn cũng không được.

Do đó, khi ta ngồi thiền Siêu Thế ta nhìn cái pháp vô thường và vô ngã chứ không nhìn 8 ngọn gió đời. 

Wednesday, June 8, 2022

Vi Diệu Pháp 22 (tiếp theo)- Tâm Thiện Thiền (tiếp theo) - HT Sán Nhiên giảng

 Tâm Thiện Thiền  (tiếp theo) - Vi Diệu Pháp 22 - TT Sán Nhiên 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm gọn theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 22" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm t

Xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến chư thiên và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Sự khác biệt giữa các vị Phạm Thiên và các vị Bồ Tát là: 

- Đời sống của các vị Phạm Thiên là đời sống phạm hạnh, các Ngài luôn luôn vị tha, họ không sống cho họ, đời sống Phạm Thiên là cho chúng sanh, do đó họ có Tứ Vô Lượng Tâm, tâm của họ rộng lớn bao la, lúc nào cũng tràn đầy chứ không khiếm khuyết. Đời sống của vị Phạm Thiên không nghĩ về tôi về ta và không nghĩ về pháp mà nghĩ đến phạm hạnh Tứ Vô Lượng Tâm cho chúng sanh.

 Các vị Bồ Tát có 3 là: vị kỷ, vị tha, và vị pháp. 

- Vị Kỷ, là vị Bồ Tát phải lo cho ta trước. Ta đắc đạo quả xong ta đi độ chúng sanh là vị tha. Giữa ta và độ chúng sanh vì pháp chứ không nghĩ chúng sanh riêng tư. Luôn luôn đời sống của vị Bồ Tát là nhìn pháp chứ không phân biệt ta và người.

Đức Phật Ngài nói cha mẹ là vị Phạm Thiên, là bậc Vô Sinh Alahán, cha mẹ là vị thầy thì ta biết rồi. Vậy thì khi cha mẹ là một Phạm Thiên là thương con vô bờ bến, từ bi hỉ xả cho con vô bờ bến, cha mẹ lúc bấy giờ là vị Phạm Thiên, dạy bảo con khuyên bảo con chỉ dẫn con đường ngay đường tốt tránh xa điều xấu, cha mẹ lúc đó là bậc vô sinh. 

Giữa Phạm Thiên và Vô Sinh, khi cha mẹ đang sống đời sống phạm hạnh, khi cha mẹ phải sống đời sống vị pháp không vì con, vì con dạy không được xen tình cảm, nếu cha mẹ vì con là nó lọt vô vị tha của vị Phạm Thiên mềm mỏng dạy con không được, cha mẹ phải là bậc vô sinh chỉ dạy cho con vì pháp chỉ dạy cho con nên người.

Đời sống của một vị thiền sinh hay đời sống của vị hành giả, không đi vào con đường Phạm Thiên thì sẽ đi con đường Bồ Tát.

-  Đi con đường Phạm Thiên thì qúi Phật tử sẽ đi tu thiền với trạng thái Thiền Chỉ.

- Còn  đi con đường Bồ Tát thì phải đi con đường Thiền Quán.

Thì quả quyết câu trả lời nếu đi con đường làm Phạm Thiên để đi  con đường Thiền Chỉ này qúi Phật tử được đắc định được hiện bày thần thông được sanh về cõi trời Sắc Giới.

- Còn  đi con đường Bồ Tát thì đi con đường Thiền Quán để đắc được đạo quả và Niết-bàn.

Khi qúi Phật tử đã biết con đường mình đi như vậy là qúi Phật tử đi theo hạnh nguyện của mình.

Bây giờ Sư bỏ chi pháp vào. Khi đi đường Bồ Tát:

- Thì khi qúi Phật tử thương ai không bằng thương mình (vị kỷ) thì qúi Phật tử phải biết lo Vô Tham.

- Đối với chúng sanh qúi phật tử phải có Vô Sân.

- Đối với Pháp qúi Phật tử phải Vô Si.

- Đối với ta thì không tham, khi nào còn tham thì không tu được.

 Đối với chúng sanh không có trạng thái bất toại nguyện, phải hết lòng nhẫn nại, có tâm từ hoan hỉ với chúng sanh, nhìn chúng sanh với ta một trạng thái Pháp thôi là phải có trí tuệ xét soi.

Qúi Phật tử là Bồ Tát đối với ta không được tham, đối với người không được sân, nhìn Pháp người và ta hai cái đó chỉ có một trí tuệ (vô si) mà thôi không được phân biệt riêng tư. Như vậy chúng ta mới thành công. 

Đã là thiền sinh đã là hành giả thì chúng ta phải có pháp hành, khi nhìn pháp hành như vậy thì qúi Phật tử phải có con đường qúi Phật tử phải đi.

Nhìn đề mục, nhìn con người (ta), mục tiêu nhắm tới.

Khi hành giả đang đi pháp hành, nếu là Phạm Thiên thì đi con đường Thiền Chỉ. 

Hành giả đi pháp hành nếu là Bồ Tát thì đi con đường Thiền Quán thì phải có: nhìn đề mục, nhìn con người ta trong đề mục, và mục tiêu ta phải nhắm tới. 

Có nghĩa là:

- Nhìn đề mục, không ghét bỏ nó được, phải nhìn thấy một cách hoan hỉ, nhìn người thương người không sân (vô sân), nhìn người mà không thấy người và ta mà chỉ thấy Pháp.

- Nhìn con người ta trong đề mục. Thì nhìn mình thương mình nhưng không tham (vô tham).

- Và mục tiêu ta phải nhắm tới đúng một cách chính xác (vô si).

 Nhìn vô mình mà qúi Phật tử còn thương còn lo thì không đi tới được. Nhìn đề mục qúi Phật tử đem lòng nghĩ tới vị tha không còn gì để sân hay bực bội, và mục tiêu của ta nhắm tới phải trí tuệ sáng suốt để nhìn rõ con đường ta đi không lạc bước lầm đường hay không đạt được mục tiêu mà ta nhắm tới. Người sống không có mục tiêu người đó không thành đạt, mình phải đặt  mục tiêu rồi từ đó mình vẽ con đường mình mới đi được, còn nếu mình không đặt mục tiêu cho hàng đầu của mình thì mình đi muôn ngàn lối phí công uổng sức mình. Người học trò cũng vậy phải có mục tiêu mới nhắm tới đó do đó họ chỉ cần mua hạt giống thật nhiều.

Mục tiêu là Niết-bàn hay là các cõi trời.

Không thấy người và ta, chỉ thấy pháp mà thôi.

Con đường tu của ta cũng vậy. Con đường 2 ngã song hành là đời và đạo. Con đường Phạm Thiên là đời, con đường Bồ Tát là đạo. Hai ngã song hành, hướng nào ta cũng có trong pháp hành, thì khi từ đó ta có: đề mục, và ta, và mục tiêu ta chứng đắc. Đề mục ta có đừng có sân, ta đang có đừng có tham dính mắc và mục tiêu ta nhắm tới phải có trí tuệ (vô si) mới thành công.

Qúi Phật tử muốn làm Phạm Thiên thì trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm xuyên suốt. Nếu qúi Phật tử đi theo con đường Phạm Thiền, thì đối với Phạm Thiên chỉ có một lòng vị tha mà thôi, thì về ta không cần nói tới, ngồi tọa thiền là Từ Bi Hỉ Xả. Còn nếu qúi Phật tử đi từ Từ Bi Hỉ Xả mà đi hoài thì mục tiêu chắc chắn qúi Phật tử sẽ tới các cõi trời.

Còn nếu qúi Phật tử là người Bồ Tát qúi Phật tử sợ khổ trong đời, sợ sanh tử luân hồi tái tục sanh hoài không muốn, qúi Phật tử muốn trở thành con người giác ngộ giải thoát thì qúi Phật tử phải đi con đường Bồ Tát thì qúi Phật tử phải có ta, có đề mục (là đối tượng phải có) và mục tiêu.

Khi có đề mục đến, đề mục đó nó bên ngoài ta gọi là chế định, khi ta bắt được đề mục nó đến nó trở thành đối tượng của tâm thức của ta. Đề mục nó đến là chế định khi mà ta bắt được nó là đối tượng của tâm thức của ta nó trở thành là Siêu Lý.

 Đề mục đến là đối tượng của ta, nó trở thành Siêu Lý, Siêu Lý chỉ có tâm biết, không có con người. Còn đề mục có ta biết và có con người. Khi đề mục này nó đến với Phật tử bình yên, nó là đối tượng mình thích, khi đề mục này nó đến với trạng thái không bình yên (tê nhức) nó là đối tượng nhìn thấy mình biết như vậy thì ở đây đề mục (tê nhức) là hiện thân của ta soi gương thấy được.

Hiện thân của ta soi gương thấy được. Khi mà hiện thân của ta soi gương thấy được  không còn thấy đề mục, không còn thấy đối tượng, chỉ thấy kiết sử cột trói ta thôi. Ngày nào qúi Phật tử còn thấy đề mục là đối tượng, ngày nào qúi Phật tử còn thấy đối tượng không thấy soi gương là ta thì qúi Phật tử vẫn còn ở bên đề mục và đối tượng.

Nói lại nữa, đề mục mà ta biết được đó là chế định, khi mà đề mục đó vô với ta, ta hiểu được nó, nó là đối tượng, nó bình yên là đối tượng đang hiện bày, nó xáo trộn (tê, nhức, mỏi, đau) là đối tượng đang hiện bày, như vậy thì đề mục và đối tượng chính là hiện thân của ta soi gương thấy được.

Rồi khi ta biết được nó, không đề mục, không đối tượng, chỉ là kiết sử. 

Mà kiết sử là cản ngăn mục tiêu, ta phải diệt kiết sử mới đạt mục tiêu, mà muốn diệt kiết sử mà đạt mục tiêu, không có thể hiểu.
Ngày nào qúi Phật tử không ra được đối tượng là qúi Phật tử còn luẩn quẩn loanh quanh ở (tê nhức mỏi đau), ngày nào qúi Phật tử lọc được cái đề mục, qúi Phật tử rớt vô đối tượng rồi thì qúi Phật tử phải mau mau đối tượng đó là hiện thân soi gương ta thấy được.

Đi con đường Phạm Thiên dễ lắm, cứ đi nhập định, để hiện bày thần thông, về cõi trời Sắc Giới. Hành giả  phải luôn luôn có tâm Từ Bi Hỉ Xả, ngày nào không có Từ, Bi, Hỉ, Xả, ngày đó hành giả xa rời con đường trở thành Phạm Thiên.

Con đường Bồ Tát đi là vị kỷ, vị tha, vị pháp, qúi Phật tử phải có con đường vị tha khi qúi Phật tử đang tu thiền. Mà ngay ở chỗ chữ vị tha đó là qúi Phật tử phải có Tứ Vô Lượng Tâm.

Đó là cái vận mệnh, đó là con đường nằm trong tay qúi Phật tử, qúi Phật tử bước lên đi, không có con đường khác.

-------------------------------

Sau giờ hành thiền, thiền sinh hỏi pháp.

Lộ trình tâm đi qua hai cái: 

- Một là lộ trình tâm đi theo đề mục.

- Hai là lộ trình tâm đi theo cái thấy mình đang niệm đề mục hay không. 

Vậy thì khi mình nhìn thấy được cái đó thì mình bắt được hai, một là đề mục mình nhìn thấy, hai là đối tượng đang được biết. Một đề mục mình đang nhìn thấy và một đề mục chưa phải đối tượng, do đó dễ bị hôn trầm, thụy miên, ngã mạn, mạn nghi, tham, sân si. Còn nếu như đề mục mà mình có thấy được trạng thái mình biết đề mục đó là đối tượng đang có chánh niệm tỉnh giác.

Thì khi ta nhìn thấy nó ta nhìn thấy được ta, ta nhìn thấy được cái tâm ta đang có tại nơi đó là quán sát, quán sát nó mình thấy được thực tính bản chất nó hiện bày thì nơi đó ta mới thấy được cái này là pháp ta nhìn, hay là của ta đang có hay là đề mục đối tượng ta đang giữ. Pháp này ta đang tìm tới thì cái đó là mục tiêu ta đi tới còn nếu ta thấy nó là ta đang có, ta phải dìm kiết sử hay là đề mục đối tượng đó thì cái đó chỉ là bề ngoài cái chế định mà ta đang đi tới đi tìm thấy sự thực tính.

Thiền sinh: Thưa Sư, hôm trước dạy khóa thiền Sư nói Đức Phật thấy Thiên Nhãn Minh là Ngài thấy Sanh Tử Trí, xin Sư giảng lại.

HT trả lời: Có một vài nơi trong kinh điển có đề Thiên Nhãn Minh, Túc Mạng Minh, Lậu Tận Minh. 

Thì có một vài nơi viết, khi Đức Phật thấy Thiên Nhãn Minh tức là Ngài thấy Sanh Tử Trí, lúc đó là trạng thái sanh diệt của danh sắc, còn Ngài nhìn thấy  nghiệp bị cắt đứt, nghĩa là Túc Mạng Minh. 
Hai điều đó, có một số các vị ngồi đọc kinh thấy Đức Phật có  Thiên Nhãn Minh là Ngài thấy các cung trời. Hay là Ngài thấy Túc Mạng Minh là Ngài nhìn nhiều kiếp quá khứ của Ngài đã qua, không phải như vậy. 

Mà là, Ngài nhìn thấy Thiên Nhãn Minh là lúc đó Ngài thấy sự sanh diệt của danh và sắc. Thiên nhãn là thấy thù thắng cái sanh diệt đó là danh sắc Ngài nhìn thấy. Còn Túc Mạng Minh là Ngài đang diệt tất cả những danh sắc của Ngài đang có "tôi ta" tại nơi đó, lúc đó là Lậu Tận Minh cắt đứt mọi kiết sử lậu tận để Ngài đi đến Niết-bàn.

Cũng vậy, khi qúi Phật tử ngồi thiền, nhìn thấy được những sự sanh diệt của danh và sắc, những lúc danh đang sanh rồi diệt, sắc đang sanh rồi diệt, mình thấy được rõ ràng là mình có tuệ nhãn, ta có con mắt trí tuệ nhìn thấy chứ không phải phàm nhãn thấy được, đó gọi là Thiên Nhãn Minh. 

Rồi khi mình qua được từng giai đoạn, thí dụ như mình diệt được danh, diệt được sắc từng mỗi giai đoạn, có một phần là thánh, mình diệt được nó thì những cái đó là từng giai đoạn của kiếp sống của con người mình đang hành, mình duyệt qua, đó là Túc Mạng Minh.

 Còn mình cắt được kiết sử thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, gọi là Lậu Tận Minh, bắt được là sơ đạo sơ quả, chứ còn không mình cứ nói sai hoài.

Thiền sinh: Thưa Sư, thí dụ như Thiên Nhãn Minh như Sư giảng là mình  thấy nội trong thân mình là Thiên Nhãn Minh, phải không thưa Sư?

HT trả lời: Như Đức Phật Ngài nói tiểu thế giới và đại thế giới. Đại thế giới là bên ngoài ta, tiểu thế giới là chỉ cho sắc thân ngũ uẩn này mình nhắm mắt là mình nhìn thấy.