Monday, June 28, 2021

Vi Diệu Pháp 05 - Tâm Siêu Lý - TT Sán Nhiên

 Tâm Siêu Lý (Phần 1) - Vi Diệu Pháp 05 - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 05" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Hôm nay chúng ta học Abhidhamma tiếp tục về Tâm. Bài trước đã học qua phần Tâm. Pháp Siêu Lý có 4 phần là: Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp, Niết-bàn. 

Chúng ta đã học qua ba đặc tính hay ba ý nghĩa của Pháp Siêu Lý là: đặc biệt không thay đổi, chủ của mọi pháp chế định, cảnh của trí tuệ cao siêu. 

Bây giờ chúng ta đi từng bước về từng một pháp của Siêu Lý. 

Pháp thứ nhất, Tâm Siêu Lý.

Cái biết của Tâm gồm có 3 ý nghĩa:

1) Không thay đổi

2) Cảnh của trí tuệ cao siêu

3) Chủ của mọi chế định.

Ba ý nghĩa này ta đi từng bước.

1) Đặc biệt không thay đổi của Tâm là, luôn luôn sanh diệt liên tục như vậy không gián đoạn. Do đó Tâm Siêu Lý đặc biệt không thay đổi là sanh diệt. 

2) Cảnh của trí tuệ cao siêu là, biết các tầng trời: Sắc Giới, Vô Sắc Giới và Niết-bàn. Vậy thì, trí tuệ cao siêu biết được là Pháp Siêu Thế.

3) Chủ của mọi chế định là, biết được pháp thế gian này, tất cả những pháp nào thuộc về thế gian thì nó tìm tới, là Hiệp Thế: gồm có Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Là chủ của mọi chế định Tâm đều biết hết tất cả mọi pháp thế gian này.

Bốn ý nghĩa của Tâm: 

1) Trạng thái của Tâm là sanh diệt không ngừng.

2) Phận sự của Tâm là dẫn dắt Tâm Sở đến với cảnh.

3) Sự thành tựu của Tâm là biết cảnh, khi tâm có cảnh rồi nó khắn khích trong cảnh không rời. Đó là đặc biệt của Tâm  

4) Nhân cần thiết của Tâm là phải có Danh Sắc (Danh là Tâm, Sắc là con người của ta) nếu không có hai đối tượng này thì Tâm không sanh ra được.

Có 4 nhân sanh ra Tâm:

1) Nghiệp quá khứ.

2) Tâm Sở.

3) Cảnh.

4) Thần Kinh. Nếu không có Thần Kinh nương tựa vào thì Tâm sanh không được.

Phải có 4 yếu tố đó mới sanh ra Tâm.

Do đó, khi chúng ta học về Thần Kinh, chúng ta sẽ thấy Abhidhamma giải đáp được một câu xưa kia được nghe: " Nhất thiết duy tâm tạo" tất cả vật thể trên thế gian này đều do tâm mình tạo ra, câu đó không phù hợp. 

"Nhất thiết duy tâm tạo" vậy thì cái gì sanh ra Tâm? Nó bị kẹt câu đó. 

Do đó phần Duy Thức Luận hay Duy Thức Học đứng lại tại nơi đó không giải đáp được, vì sao? 

Bốn nhân sanh Tâm chúng ta sẽ thấy ở phần Duy Thức Học hay Duy Thức Luận chỉ có 7 Tâm thôi, ngoài Ngũ Song Thức, A-lại-da thức và Mạc Na Thức. Còn ở đây chúng ta học 121 Tâm. Không đứng lại ở 7 Tâm Thức đó mà thôi, do đó khi chúng ta đi thẳng vào trong 121 Tâm Thức này chúng ta thấy hết sức chi tiết và rõ ràng đầy đủ hết tất cả những yêu cầu của chúng ta, như nói nó là thuộc về Cảnh của Trí Tuệ Cao Siêu. 

Tất cả những giải thích "Nhất thiết duy tâm tạo", thế thì tất cả mọi vật thể trên thế gian đều do tâm tạo, vậy cái núi tâm tạo được không, sông mình tạo được không, biển mình tạo được không, lá xanh tâm tạo ra lá vàng được không, hay chúng ta làm ra mặt trời mặt trăng được không, tất cả chúng ta đứng lại bó tay trước những trường hợp đó. Do đó, câu "Nhất thiết duy tâm tạo" được gát bỏ qua một bên trước khi chúng ta học Tâm Abhidhamma. 

Những Duy Thức Luận, Tỳ-bà-sa luận, Câu Sắc Luận, hay những pháp môn tất cả các Tổ viết về luận không đi thẳng vào trong vấn đề của Abhidhamma giải đáp.

Nếu nói tất cả vật thể trên thế gian này, tất cả mọi pháp trên thế gian này do tâm tạo thì, nhân sanh nào ra Tâm? 

Chúng ta phải nói đồ đạc trong nhà của ta đều là do cha mẹ ta làm ra, người nào sanh ra cha mẹ ta, mình nói ông bà, rồi ai sanh ra ông bà, rồi nói ông cố ông sơ, chúng ta nói một hồi bị kẹt.

Còn ở đây, có bốn nhân sanh ra Tâm, Tâm đã có sự lệ thuộc bởi nhân sanh ra nó, có liên hệ từ ở đó mới làm ra được tất cả các pháp mà Tâm có khả năng làm được. Còn nếu như không, chúng ta sẽ thấy tất cả chỉ có Tâm Thức mà thôi, nhưng thật ra trong Tâm Thức còn liên quan đến Danh và Sắc sanh ra Tâm Thức. 

Thứ hai nữa đánh đổ được câu nói xưa kia con người Việt Nam học, nghiên cứu gọi là Tiềm Thức. Qúi Phật tử không nên dùng chữ Tiềm Thức. Tiềm Thức là Tâm Thức ngủ ngầm. Như chúng ta nói tàu ngầm gọi là tiềm thủy đỉnh là chiếc tàu ngầm ở dưới giòng nước. Tiềm là chìm sâu ở dưới nước nên ta gọi tàu ngầm là tiềm thủy đỉnh. Vì thế khi ta nói Tiềm Thức là Tâm chìm sâu, do đó chữ Tiềm Thức này phải gác bỏ qua một bên khi học Abhidhamma của Đức Phật.

Khi chúng ta học sẽ thấy nội trong bốn pháp ý nghĩa của Tâm hay bốn nhân sanh Tâm đã giải đáp được tất cả những danh từ xưa kia chúng ta lầm lẫn nói Tiềm Thức là Tâm ngủ ngầm ở nơi đâu chưa giải thích được, thực ra không có tâm chìm ở dưới, nếu có thì chỉ có tâm chưa biết cảnh, tâm chưa có cảnh hay, cảnh chưa có, gọi là Tâm Hữu Phần (Bhavaṅga) gồm có:

Bhava là kiếp sống

 anga là chi phần, 

Chi phần này giúp đỡ cho sự sống này còn tồn tại lúc nó chưa hoại diệt, nên người ta gọi là Tâm Hữu Phần, nó là hiện hữu, nó đang có mặt, nó chưa bị tiêu diệt, nên gọi là Tâm Hữu Phần nó chưa có cảnh. 

Nhưng, khi cảnh đến thích hợp, những Tâm Hữu Phần này sẽ nhường sang một bên, để cho những tâm đối tượng đưa vô cảnh, nó đến bắt lấy mà giải quyết vấn đề, biết sanh diệt và biết cảnh khắn khích trong tâm. 

Khi nói tới vấn đề này, chúng ta sẽ thấy rõ ràng trạng thái của Tâm là sanh diệt rồi sanh diệt mãi mãi. Tâm sanh diệt từ khi chúng ta mới sanh ra cho đến khi chết, từ kiếp này cho đến kiếp khác nối nhau mãi. Như vậy, tới khi nào chấm dứt? Đó là khi Tâm tử của bậc Alahán lúc đó sẽ chấm dứt dòng tâm thức, còn nếu như ta chưa đạt tới bậc Alahán, Tâm chúng ta còn sanh sanh diệt diệt mãi cho tới khi nào ta đạt tới bậc Alahán, đạt tới giai đoạn Tâm Tử của bậc Alahán lúc đó sẽ chấm dứt dòng tâm thức.

 Thành phần phụ thuộc của Tâm Sở là nó đến với cảnh làm cho cảnh với tâm khắn khích nhau, Tâm biết cảnh và khắn khích trong cảnh đó hoài không ra, chỉ khi có một cảnh khác mạnh hơn lôi cuốn chúng ta mới ra khỏi cảnh đó, còn không, một khi tâm đã bắt rồi nó không ra. 

Nghe một âm thanh ta thích, thì âm thanh đó tồn đọng ở trong tâm của ta, khi tâm dính mắc rồi, âm thanh phát xuất từ bên kia nhưng thâu vào lỗ nhĩ  là Tâm Nhĩ Thức ta bắt được âm thanh đó lên thì khi âm thanh đó đã hết ở bên kia rồi nhưng tâm ta còn giữ nó lại, ta vẫn không quên được âm thanh đó nên gọi là khắn khích trong cảnh.

Do đó, đi vào Pháp Hành khi chúng ta bắt được cảnh, cảnh đó là cảnh quá khứ chứ không phải cảnh hiện tại, cảnh hiện tại bên kia vô đến bên ta là cảnh của qúa khứ rồi, phải biết như vậy chúng ta mới hiểu được và chúng ta không có quên được, khi ta bắt được cảnh quá khứ như vậy tức là tâm ta chạn lại để mà biết lại và hiểu được lại và nắm bắt lại, cái đó gọi là tưởng trong cảnh, không phải chánh niệm trong cảnh.

Khi làm liên tục như vậy thì cảnh đến qúi Phật tử càng ngày rõ hơn thì lúc đó qúi Phật tử sẽ thấy là cảnh có trong tâm ta và tâm ta đang ở trong cảnh đó, lúc đó ta tách rời ra khỏi trạng thái cái của "tôi" và chúng ta đang biết cảnh mà thôi, tâm chỉ còn biết cảnh mà thôi, chúng ta không còn biết cái của "tôi" lúc đó qúi Phật tử mới thấy cảnh rõ lên. 

Do đó, khi chúng ta nói ta biết cảnh và khắn khích trong cảnh đó là quan trọng, khi mà chúng ta không nắm được cái đó thì sẽ thấy chúng ta sống ở trong tưởng của cảnh quá khứ, mà đạo quả Niết-bàn này là phải bắt cảnh hiện tại chứ không có bắt cảnh quá khứ được, mà những gì chúng ta có biết chưa phải là Niết-bàn, Niết-bàn đến rất là nhanh, ngay khi đến rất là nhanh thì chúng ta sẽ có Niệm chứ không có Tưởng.

Thí dụ, qúi Phật tử đóng đinh, một tay cầm cái búa một tay nắm cây đinh, qúi Phật tử đập cái búa không trúng vào đầu cây đinh mà trúng vào đầu ngón tay của mình, chát một cái thiệt mạnh, ngay đó là Niết-bàn. Đầu tiên qúi Phật tử choáng váng rồi vì quất quá mạnh mà, không ngờ là đập búa vào ngón tay của mình, điếng hết rồi, sau đó mới thấy đau quá thì là quá khứ rồi. Rồi qúi Phật tử đem câu chuyện đó kể lại thì chuyện đó đã qua hết rồi. Ngay cái chát một cái thiệt mạnh, ngay đó là Niết-bàn. Còn khi kể lại là nhớ lại chứ không phải Niết-bàn.

Thiền sinh: khi biết cảnh tới mình nhận biết cái cảnh đó là quá khứ rồi, như vậy là mình không thấy sự diệt của nó bởi vì là khi cảnh tới tức là cái đó đã sanh diệt rồi thì làm sao mình nhìn thấy được cái sanh diệt của nó?

TT trả lời: Chính cái đó qúi Phật tử sẽ thấy cái này là kỹ thuật, cẩn thận nghe Sư nói. Khi lộ ngũ đến bằng 5 cửa giác quan: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, là sắc, thinh, khí, vị, xúc, nhưng, cái này hoàn toàn đến với Phật tử thuộc về quá khứ, không bắt cái hiện tại được, cảnh nó đến với qúi Phật tử toàn từ quá khứ, qúi Phật tử đem vô là quá khứ.

Nhưng khi cảnh sắc đến với tâm của qúi Phật tử thì chỉ qua có một sát na tâm là Tâm Nhãn Thức bắt cảnh sắc thôi, rồi tất cả những sắc còn lại qúi Phật tử thấy nó thuộc pháp, không còn là cảnh sắc đó nữa, Tâm Nhãn Thức bắt có một sát na tâm thôi, khi Tâm Khai Ngũ Môn mở cửa cho Tâm Nhãn Thức thâu lấy cảnh sắc thì sau đó Tâm Tiếp Thâu, kế đến Tâm Thẩm Tấn, kế đến là Tâm Đoán Định rồi tiếp nó là 7 sát na tâm, 7 dòng sát na tâm này là Tâm Đổng Lực để hưởng cảnh, nếu có cảnh dư thì ta có 2 na cảnh (qúi Phật tử chưa học đến phần này) rồi xong xuôi ta trở lại Tâm Hữu Phần. 

Như vậy, khi cảnh sắc đến với qúi Phật tử nó chỉ có một sát na là Tâm Nhãn Thức thôi, âm thanh đến chỉ có một sát na Tâm Nhĩ Thức nó đưa lại Tâm Tiếp Thâu xong đến Tâm Thẩm Tấn, đến Tâm Đoán Định, nó không còn tâm nào biết cảnh nữa, tất cả nó được giữ lại qua những chức năng của Tâm đối diện của nó nối tiếp để làm việc đó. Chính do đó qúi Phật tử sẽ thấy tất cả, sắc, thinh, khí, vị, xúc, đến với qúi Phật tử có một sát na tâm rồi trở lại những cảnh ngủ này thuộc cảnh Pháp của Ý Môn là Tâm Ý Thức nó biết, rồi khi Pháp nó đến với qúi Phật tử cảnh sắc này đến nó chuyển qua Tiếp Thâu nó thành cảnh Pháp, nó không còn là cảnh sắc, rồi tiếp tục hưởng cảnh pháp này qua trạng thái Tâm Nhĩ Thức đem cảnh sắc vô qúi Phật tử. 

Cái hình ảnh, Sư và qúi Phật tử đứng chụp hình, chụp hình xong xuôi rồi thì khi máy bấm một cái rồi bắt được cái hình xong rồi thì không còn Sư và qúi Phật tử ở đó nữa nó giữ cái hình đó thôi rồi từ đó in ra hình ảnh, toàn bộ là cảnh pháp chứ không phải là cảnh sắc nữa, cảnh sắc của pháp mà ta đã thâu vô cái máy chụp hình, rồi từ nơi đó qúi Phật tử nhìn thấy cảnh đó qúi Phật tử nói là tôi trong đây, hay là hình của tôi trong đây, hình tôi trong đó, một số người đang đứng với tôi đây, là qúi Phật tử chạn lại thôi, nó qua rồi, một sát na máy bấm một cái sau đó số người này không còn nữa, thì ngay khi đó qúi Phật tử nhìn cảnh sắc mà qúi Phật tử đang coi là trạng thái chạn lại của những tâm thức này nó đem vô cho hưởng cái cảnh này thì cái này thuộc về pháp của cảnh sắc do tâm nhận thức truyền vào là cảnh pháp chứ không phải là cảnh sắc nữa, thì lúc bấy giờ cảnh hiện tại của Tâm Đổng Lực (là tâm Ý Thức khởi lên là tâm thọ hưởng cảnh) mà là qúa khứ của Tâm Nhận Thức mang cảnh sắc, qúi Phật tử bắt được cảnh hiện tại đó qúi Phật tử thấy sanh diệt và đặc tướng Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã tại nơi Tâm Đổng Lực. 

Đây là lộ trình tâm sẽ thấy rõ.

                                            Hình được chụp lại từ video Vi  Dieu Phap 05

Khi tâm bắt cảnh, nó khắn khích trong cảnh đó là cảnh hiện tại, ngay khi ta có chánh niệm với pháp đang hiện bày chứ không phải là cảnh của ngũ môn: Sắc, thinh, khí, vị, xúc, chỉ có một sát na tâm đến với ta thôi mà nó làm ta đau khổ cả một kiếp, bao nhiều buồn vui lẫn lộn trong cảnh, sắc, thinh, khí, vị, xúc, làm ta đau khổ cả một kiếp, chỉ có một sát na tâm thôi, nó tấp vô một cái rồi giao cho Tâm Ý Thức, Tâm Ý Thức nuôi dưỡng hoài trong trạng thái mơ mộng tưởng tượng của mình, và khắn khích trong đó không buông ra.

Qúi Phật tử nhìn thấy hình ảnh mình 25 năm về trước, thích thú, tại vì trẻ hơn bây giờ phải không, mà qúi Phật tử muốn được như vậy mà muốn cũng không được vì nó đi qua rồi. 

Chính cái đó là những trạng thái khắn khích trong cảnh ta không buông ra. Sư nói đi nói lại là như vậy đó, khắn khích mãi không buông ra, giữ bao nhiêu tấm hình cũng vậy, còn hoài còn hoài không thay đổi, nó vượt không gian và thời gian luật của vô thường, giữ hoài cái đó là qúi Phật tử khắn khích ở trong cảnh không đi đến Trí Tuệ Cao Siêu được, qúi Phật tử ở trong Chủ của Mọi Chế Định.

Thiền sinh: Có phải tại tâm thức của mình còn tham sân si?

TT trả lời: Không phải tâm thức, mà là tâm sở có tham sân si, tâm thức dẫn tâm sở vào tham sân si.

Bây giờ, Sư dẫn qúi Phật tử vào Pháp Hành. Khi chúng ta khắn khích trong cảnh, cảnh đó là cảnh pháp. Con chó sủa, tiếng sủa của con chó đã qua rồi, nhưng ta giữ lại trong tâm còn niệm "sủa à, sủa à". Do đó, các vị Thiền Sư thường dặn các thiền sinh không cần giữ lâu, càng giữ trong cảnh khắn khích của nó là quá khứ, không có gì hiện tại, chỉ cần niệm 3 lần thôi "nghe nghe nghe", rồi trở lại với hơi thở liền, vì nó là đã là quá khứ.

 Thứ hai, khi qúi Phật tử đang ngồi thiền, những pháp lên tâm qúi Phật tử bắt được đó chính là cái hiện tại. Còn nếu như qúi Phật tử qua khỏi ý thức của mình qua cái pháp, sắc, thinh, khí, vị, xúc, toàn bộ là ta chạn lại thôi. Ngay cả tê ở dưới chân nó chạy lên Tâm Ý Thức của qúi Phật tử biết cũng là sau khi cái tê đã báo cho Phật tử, rồi ta chạn lại, tê quá tê ta chạn lại, chứ thật ra cái tê đó nó thay đổi rồi, nhưng, chúng ta cứ chạn lại thấy tê quá tê, thực ra chúng ta càng thêm vô, càng suy nghĩ nhiều vô đó chứ thực ra nó không có, nó chỉ như vậy thôi. 

Con người chúng ta có Danh (Tâm) và Sắc (Thân), sắc pháp chúng ta đếm được có 32 thể trược, không thể thêm được, bắt đầu xuống thôi chứ không thêm vô. Nhưng, Tâm pháp (Danh) của ta vô cùng vô tận thêm hoài cũng được không bao giờ hết. Chính hai cái đó khi ngồi thiền chúng ta sẽ thấy cái gì càng muốn giữ, ta giữ Danh pháp (Tâm pháp) tại vì nó nhiều quá chúng ta phải giữ cho bằng được, còn Sắc pháp này chúng ta có giữ nó cũng mất tại vì có nhiêu đó sẽ hết. Qúi Phật tử thấy ăn bao nhiêu chén thì no rồi, khi đã no rồi qúi Phật tử không giữ được cái no mãi được, chừng 3 tiếng là lại thấy đói. 

Tâm của mình nguyên mãi cho tới khi tới tâm tử vô sanh thì thôi. Chính đó chúng ta sẽ khai thác Tâm, đừng lo khai thác cái Sắc, nhưng, Sắc lại là trạng thái làm cho Tâm bị khắn khích trong đó không buông ra.

Thiền sinh: Thưa Sư, khi mình ngồi thiền theo dõi sắc pháp tới, là chú tâm vào hơi thở (hơi thở là sắc pháp) như vậy là mình đang tu Thiền Quán mình đang tu Thiền Chỉ?

TT trả lời: Tu Thiền Quán là mình theo dõi hơi thở vô dài và hơi thở ra dài, hay hơi thở vô ngắn hơi thở ra ngắn, hơi thở ra nhanh hơi thở vô chậm, hoặc thở vô nặng thở ra nhẹ v.v...Hai hơi thở vô và hơi thở ra, trước và sau không giống nhau được đó là Thiền Quán.

Còn tu Thiền Chỉ là mình chú tâm vào hơi thở vô và hơi thở ra, không cần nhìn xem hơi thở nặng nhẹ nhanh chậm, 

Hai cái Thiền Quán và Thiền Chỉ cũng là nhìn hơi thở nhưng hai cái hoàn toàn khác nhau.

Khi theo dõi hơi thở vô và ra, chúng ta đang hành Thiền Quán, qúi Phật tử đang đi  Lộ Ngũ là,

- Tâm Ý Thức thấy hơi thở vô và ra, 

- khi hơi thở tới mũi chạm vào mũi thì ta có Tâm Thân Thức biết cảnh xúc, 

- hơi thở vô chúng ta theo dõi tiếp nữa là Tâm Tỷ Thức theo dõi cảnh khí đi vô.

Bây giờ chúng ta vô phần hít hơi thở vô và ra. Hơi thở vô và ra ta phân tách như sau: 

- Khi hơi thở vô đụng mũi, thì lúc đó Tâm Thân Thức biết cảnh xúc ngay đầu mũi, 

- rồi hơi thở đi vô trong mũi lúc đó Tâm Tỷ Thức biết cảnh khi đi vào.

- Tới khi nó đi tới cuối không đi được nữa có người nghe tới ngực có người thấy xuống tới bụng phồng lên thì lại là Tâm Thân Thức biết cảnh xúc.

- Rồi bắt đầu ở dưới hơi thở đi ra, Tâm Tỷ Thức thấy cảnh hơi đi ra.

- khi nó đụng vô mũi của ta thì lúc đó Tâm Thân Thức biết cảnh xúc nơi đầu mũi.

1) Thân Thức - biết cảnh xúc đầu mũi khi hơi thở vô 

2) Tỷ Thức - biết cảnh khí đi vô

3) Thân Thức - biết cảnh xúc khi hơi thở đến cuối con đường cái bụng phồng lên.

4) Tỷ Thức - biết cảnh khí khi hơi thở đi ra.

5) Thân Thức - biết cảnh xúc nơi đầu mũi khi hơi thở đi ra.

Đó là lộ trình tâm như: 

 1) là, lộ trình tâm Thân Thức, 

 2) là lộ trình tâm Tỷ Thức, 

 3) là lộ trình tâm Thân Thức, 

 4) là lộ trình tâm Tỷ Thức, 

 5) là lộ trình tâm Thân Thức.

Rồi khi mỗi một cái như vậy: 

Thân Thức biết cảnh xúc gió vừa đụng vào đầu mũi ta thì vừa sau Tâm Thân Thức là (1a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày. 

Tới khi qua khỏi mũi khí vô trong lỗ mũi ta, lúc đó Tâm Tỷ Thức biết khí vô thì lúc đó (2a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày.

Tới khi hơi thở đụng tới bụng phồng lên thì (3a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày.

Tâm Tỷ Thức hơi thở bắt đầu ra (4a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày

Tâm Thân Thức Hơi thở đi ra đụng vào đầu mũi.(5a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày 

Như vậy thì chúng ta ráp nó lại

1) Tâm Thân Thức biết cảnh xúc khi đầu mũi đụng hơi thở vô: - là quá khứ

1a) Tâm Ý Thức biết pháp hiện bày: - là hiện tại

2) Tâm Tỷ Thức biết khí đang vô trong người: - là quá khứ

2a) Tâm Ý Thức biết pháp đang hiện bày. - là hiện tại

3) Tâm Thân Thức biết cảnh xúc hơi thở làm phồng bụng: - là quá khứ 

3a) Tâm Ý Thức biết pháp đang hiện bày.- là hiện tại

4) Tâm Tỷ Thức biết hơi thở đi ra. - là quá khứ

4a) Tâm Ý Thức biết pháp đang hiện bày. - là hiện tại

5) Tâm Thân Thức biết cảnh xúc hơi thở đang ra đầu mũi. - là quá khứ

5a) Tâm Ý Thức biết pháp đang hiện bày. - là hiện tại

(Qúi Phật tử nhẫn nại viết từng cái như vậy mới ra được tiến trình lộ trình tâm bắt cảnh vô và ra của hơi thở, rồi chút nữa chúng ta mới mổ xẻ chi pháp vô và ra của hơi thở)

Lộ trình tâm đi như vậy. 


Khi xúc đụng vô đầu mũi ta niệm được điều đó là pháp đang hiện bày chứ thật ra nó đã vô tới cổ họng rồi, thì pháp đang hiện bày là cảnh xúc thôi, Khi khí vô ta niệm được nó vô thì nó là quá khứ rồi, vì nó đã xuống tới bụng phồng lên rồi, thì lúc bấy giờ khi qua cái đó thì Tâm Ý Thức đang hiện bày là hơi thở đang vô trong người ta, cảnh pháp nó còn cái khí nó bắt đầu đi tiếp đi tới lúc phồng cái bụng lên, khi qúi Phật tử hay được lúc cái bụng phồng lên qúi Phật tử niệm cái đó là Tâm Ý Thức, niệm nó phồng lên nhưng hơi thở đã đi ra rồi.

Thiền sinh: Như vậy Ý Thức đi sau hơi thở?

TT trả lời: Không, Ý Thức biết không phải nó đi sau mà nó cùng biết (Tâm trong Tâm) nghĩa là nó có 2 lộ trình tâm đi bên nhau giống như hai chiếc máy bay bay kềm bên nhau, cùng biết.

Do đó, nó là Tâm trong Tâm nên khi hành Tứ Niệm Xứ là Tâm trong Tâm, niệm Tâm trong Tâm, niệm Tâm trên Tâm là cái này. Niệm Tâm trong Tâm là, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Thân Thức, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Tỷ Thức, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Thân Thức, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Tỷ Thức, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Thân Thức.

Rồi bắt đầu niệm Tâm trong Tâm. Cái Tâm Ý Thức này (1a) và Tâm Ý Thức (2a)Tâm  Ý Thức (3a), Tâm Ý Thức (4a)  bắt cái hiện tại, cái kia nó qua rồi Tâm Ý Thức nó bắt 3 cái hiện tại vô làm một, qúi Phật tử ra Niết-bàn.

Khi hơi thở vô pháp hiện bày, và pháp thấy hơi thở trạng thái vừa đụng và vô, hai cái đó nó bắt ngay hiện tại là nó đã đi qua liền, thì pháp hiện tại này báo tiếp theo là nó đang vô (3a) cái bụng phồng lên, những cái đó gọi là những trạng thái Tâm Ý Thức bắt ngay hiện tại. Như thế thì liên tục như vậy, ở đây là vừa sanh vừa diệt, nó không còn nữa. 

 Rồi lúc đó, từng mỗi giai đoạn sanh diệt này nó được nhập vào hàng kế bên và cũng lại sanh diệt, không giữ được, chính cái ta thấy pháp Vô Thường, Khổ Đau, Niết-bàn



Qúi Phật tử không phải đi theo suốt một ngày, một giờ, hay là một buổi theo dõi hơi thở vô ra vô ra, qúi Phật tử chỉ cần thấy được pháp đó là qúi Phật tử thành công.

Tại vì qúi Phật tử đang ở tình trạng khắn khích trong cảnh, không nắm được lý tính của pháp. Nên qúi Phật tử ngồi thiền xong tới chiều ngày hôm sau qúi Phật tử lại nói hơi thở con con thấy con thấy v.v... là qúi Phật tử theo pháp hay là theo tướng của pháp chứ không theo thực tính của pháp. Tức là theo cái qúa khứ (1) rồi kể lại mà không kể cái hiện tại (1a) thấy sự sanh diệt, chính do đó qúi Phật tử đi theo cái quá khứ cả ngày hết tuần hết tháng hết năm, không cần nhiều, bắt được một cái là xong, một sát na tâm. Ngài Ananda vừa ngã lưng xuống đắc liền không phải đi suốt ngày đêm.

Con đường đắc đạo quả là Tâm Ý Thức biết cảnh pháp, không phải do Tâm Ngũ Thức; nhãn, nhĩ, tỷ, thức, bắt được.

Qúi Phật tử sẽ thấy tất cả cảnh chúng ta bắt được; sắc, thinh, khí, vị, xúc, chỉ có một sát na, còn tất cả những cảnh; sắc, thinh, khí, vị, xúc, trở lại Tâm Ý Thức của ta thưởng thức cảnh đó thôi chứ không tồn tại với ta.

Thiền sinh: Thưa Sư, ý Sư nói lúc mình nhận thức được, mình biết được như vậy thì cái đó đã qua rồi?

TT trả lời: Nó qua rồi, có người giữ lại là vì còn khắn khích trong cảnh đó.

Thiền sinh: Vậy mình vẫn chú tâm vào hơi thở vô hơi thở ra để làm gì?

TT trả lời: Để mình thấy được sự sanh diệt của nó. Như trong một cuốn phim mình theo dõi người diễn viên đi ra đi vô, rồi đi ra đi vô, thì mình theo dõi ông diễn viên đi ra đi vô hay mình theo dõi nội dung cuốn phim?

Qúi Phật tử theo dõi hơi thở vào và ra để thấy sự sanh diệt của nó đó là pháp chứ không phải là thấy đối tượng, quá khứ là đối tượng, hiện tại là pháp, qúi Phật tử còn thấy đối tượng là còn "tôi ta", qúi Phật tử thấy sự sanh diệt thì mới diệt thân kiến được.

Thiền sinh: Thưa Sư, con muốn hiểu rõ hơn về sanh diệt của tiến trình hơi thở.

TT trả lời: Khi mình thở vô khí tiếp xúc với đầu mũi mình rồi nó mất, mình thấy cái pháp hiện bày, rồi khí đi xuống mình cảm nhận được là bụng phồng lên là pháp hiện bày, mình phải để ý thấy tiến trình tâm thức sanh diệt, mà tiến trình tâm thức sanh diệt do bởi pháp bị hiện bày sanh diệt.

Thí dụ, hơi thở của ta thở vô rồi thở ra mau quá theo dõi không kịp, cái nghiệp của mình là như vậy, mai mốt mình chết cũng mau vậy mình niệm không kịp mình sẽ đi nhanh vậy đó, rút kinh nghiệm liền. Mình cứ cho qua không chịu nghĩ tới nó rồi nó lập lại lần nữa, hơi thở vô rồi hơi thở ra kỳ này mình thấy ngắn quá, cái đó là tuổi thọ mình ngắn lại, mình phải hiểu cái ngắn đó là tuổi thọ mình sẽ ngắn như vậy, kiếp sống của mình sẽ đi nhanh như vậy ngắn như vậy, mình niệm liền như vậy. Tại hơi thở giống như áng mây báo cho mình biết mưa hay nắng, hay là gió, hay là giông bão, chứ nó không có nghĩa gì cả, nó sẽ đi không đứng lại trong không gian đó mãi mãi với mình, mình muốn giữ nó là mình vẽ ra bức tranh đó thôi chứ thật ra mây đã đi rồi, mây nó đến như thế nào mình phải hiểu cái nghĩa đó, mây đen nó báo cho biết là trời sắp sửa mưa chúng ta phải chuẩn bị những gì cần thiết. Cũng vậy khi hơi thở ta vô nhanh mà nó ra lẹ hoặc nó vô nhanh mà nó ra chậm, nó vô ngắn mà nó ra dài qúi Phật tử phải chuẩn bị là hơi thở này nó cho ta biết cuộc sống ta bắt đầu là gì rồi đó. 

Chứ qúi Phật tử cứ ngồi đếm hơi thở vô ra, nó là như vậy của nó mình không cần đếm. Qúi Phật tử có đếm được bao nhiêu áng mây nó đến trên bầu trời mỗi ngày không? hay áng mây nó sẽ đi như thế nào mình đâu cần biết, mà mình lo cho đời sống này, mây chỉ cho ta biết để ta thức tỉnh thôi chứ ta không cần nghĩ tới. Cuộc sống ta như thế nào thì khi ta ngồi thiền sẽ chạn lại như vậy, trong khi qúi Phật tử ngồi cô đọng lại trong một giờ  những diễn biến trong đời sống của qúi Phật tử sẽ chạn lại trong một giờ ngồi theo dõi hơi thở mình.

Thiền sinh: Thưa Sư, như vậy mục đích chính khi mình ngồi thiền quán để tìm sự sinh diệt thấy được bản chất thực tính của nó chứ không phải là mình ngồi để đếm hơi thở?

TT trả lời:  Mình ngồi thiền quán hơi thở để tìm bản chất thực tính của hơi thở. Khi mây tụ lại trên trời ngay trước nhà của qúi Phật tử thì nó cũng không phải là của qúi Phật tử, thì hơi thở này cũng không phải của mình vì mình không quyết định được nó phải thế này nó phải thế kia, nếu hơi thở này mà là của mình thì mình quyết định được có sự sống hoài mà không chết. 

Đức Phật nói sự chết và sự sống là hơi thở có ra mà không có vô là sự chết đến với mình, hơi thở này không phải là của mình nó chỉ là hợp thành mà thôi, cũng như mây chỉ là hợp thành trong không khí quyển ta đang sống mà thôi chứ không phải của mình, nó hợp với nhau để hiện bày chứ thực ra nó không phải là của mình.

Biết cảnh và khắn khích trong cảnh là trạng thái của tâm, luôn luôn có phận sự đó, thành tựu của ta là gì ở luôn trong cảnh đó ra.

Khi nhìn thấy đám tang, có người buồn, có người vui, có người không buồn không vui. Nhưng, đám tang là một cảnh để cho ta nhìn, tại sao nó tác động tâm lý ta vui buồn không vui không buồn? tại vì mình giữ cảnh đó rồi cảnh đó tác động mình. Còn khi mình nhìn thấy như thấy rồi mình quán tưởng pháp mà tâm mình đang thấy được cái gì của nó, đó là giá trị để mình nhìn thấy và, mình hiểu biết sự nhìn thấy của mình có giá trị.

Như vậy thì, 

Hơi thở vào xúc chạm nơi lỗ mũi đó là pháp chế định, là vì "hơi thở của tôi"là pháp chế định, nhưng cái pháp hiện bày là Siêu Lý, cảnh của trí tuệ cao siêu ở tại đây. Mình phải bỏ pháp chế định lấy pháp Siêu Lý, nhưng, phải có Chế Định để mình tách biệt ra được cái nào là Chế Định mới thấy cáic Siêu Lý. Thí dụ như mình bắt được cái giả tìm ra được cái thiệt, bỏ cái giả lấy cái thiệt, giữa hai cái giả và cái thiệt này cũng không còn tồn tại nó tách ra cảnh của trí tuệ cao siêu rời khỏi các cõi giới để đi tới Niết-bàn. 

Sư nói để qúi Phật tử hiểu được Chế Định và Siêu Lý. Nhưng mà siêu lý chúng ta tìm thấy là trạng thái trí tuệ bắt đầu sanh lên, qúi Phật tử bắt đầu thấy cảnh của trí tuệ tất cả đều là sanh và diệt, nó đặc biệt không thay đổi tất cả các pháp. 

Đức Phật Ngài nói: Tất cả pháp hữu vi đều có tính vô thường, khổ và vô ngã.

Tất cả pháp hữu vi là có nhân sanh ra nó.

Học một pháp Siêu Lý học Tâm Siêu Lý là ra rồi đó.

Đó là cái key lấy từ pháp Tứ Niệm Xứ qua tâm Siêu Lý. Ta học Tâm Siêu Lý là ta không nắm pháp Chế Định nữa, mà đặc biệt không thay đổi là nó phải biết Cảnh của Trí Tuệ Cao Siêu, qúi Phật tử phải đi tới cái đó mới được còn lượm Chế Định hoài thì qúi Phật tử ở trong pháp Hiệp Thế. 

Những cái gì Sư viết xuống hôm nay đều có tác ý để qúi Phật tử nắm được hết. Sư chỉ cho qúi Phật tử một pháp Siêu Lý để nắm được cái key pháp hành. Qúi Phật tử phải nắm được pháp đang hiện bày, pháp hiện tại là pháp đang hiện bày, là cái pháp qúi Phật tử giữ, còn pháp quá khứ  không giữ. Thì pháp hiện bày là sanh đó diệt đó, từ mỗi pháp đều có tính chất sanh rồi diệt,  chính cái đó là vô thường, pháp nào có tên gọi là vô thường là pháp có tánh vừa sanh rồi lại diệt, diệt rồi sanh.

Ta gọi là Niệm, Định, Tuệ. Niệm mạnh lên để thấy được bản chất của pháp, Định mạnh lên để thấu bỏ thực tính, Tuệ phát sanh lên thấy được thực tướng .



Khi Định mạnh tâm không lay chuyển lúc đó Tuệ mới phát sanh lên thấy được thực tướng rõ ràng, còn nếu tâm không Định được, còn hoang mang, còn hoài nghi hay còn giao động phóng dật thì sẽ không sanh Tuệ.

Như vậy, ngay khi hiện tại pháp đang đến toàn bộ là sanh diệt. Lúc bấy giờ ta sẽ thấy Danh hay là Sắc, tâm qúi Phật tử  đang có chánh niệm nhìn vô sắc pháp đang hoại diệt, sanh diệt. hay tâm bắt đầu bị chi phối bởi sắc, qúi Phật tử  khắn khích trong cảnh. 

- Nếu qúi Phật tử nhìn vô thấy tính chất này sanh diệt mà sắc pháp đang hoại diệt mà Danh (tâm) vẫn còn chăm chú nhìn vào Sắc thì Danh (tâm) này đi tới Định.

- Còn nếu như Danh (Tâm) không nhìn thấy Sắc (Thân), mà nhìn thấy cảnh sắc đang sanh diệt khắn khích ở đó thì mất Định và qúi Phật tử đi ra ngoài.

Thiền sinh: Thưa Sư, thí dụ là mình đang ngồi thiền đang đau, mình biết đau là mình đang chăm chú vào sắc, như vậy mình ra khỏi Định?

TT trả lời: Mình đang ngồi thiền mình thấy đau và mình biết đau, cái đau đó là Chế Định, nếu mình chịu không nổi, xả thiền là mình bỏ cuộc.

Ngay khi đang bắt cái hiện tại có hai hiện tượng Danh và Sắc, thì Sắc (Thân) đang bị tác động là tê, nhức, mỏi, đau, qúi Phật tử niệm, tê, nhức, mỏi, đau, là Chế Định, là Hiệp Thế. 

Nhưng nếu nhìn tới luôn, tê, nhức, mỏi, đau, cảnh của nó là hoại diệt, thì giai đoạn nhìn, tê, nhức, mỏi, đau, chỉ là Niệm.

 và giai đoạn hoại diệt là Định. Cái hoại diệt là thực tính.

Hễ khi mình thấy Sắc đang hoại diệt không niệm tê nhức mỏi đau nữa, nếu niệm tê nhức mỏi đau là Chế Định nó đi ra ngoài luôn.

Cái hoại diệt là thực tính.

Lúc đó, khi mình thấy tê, nhức, mỏi, đau, đến mình bắt đầu mới thấy Sắc Pháp đang hiện bày một thực tính bản chất của nó là hoại diệt và Sắc Siêu Lý. 

Còn mình còn tiếp tục niệm tê nhức mỏi đau là Chế Định.

Thiền sinh: Nếu mình đạt được định, nghĩa là mình không sợ cái tê nhức mỏi đau?

TT trả lời: Tại sao lại sợ nó, nếu mình sợ nó là mình đi ra là bỏ thiền, trở lại Chế Định sống với Hiệp Thế, là mình giải đáp nó, nó khắn khích ta, ta có trong đó.

Khi hoại diệt này mình mới thấy bản chất thực tướng của nó là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, một trong 3 tướng này mình chụp bắt được, người có trí tuệ mạnh bắt được tướng Vô Ngã, người có trí tuệ thường bắt Vô Thường Khổ đau.

Niệm để thấy pháp (tê nhức mỏi đau).

Định để thấy thực tính (bản chất của nó là hoại diệt)

Tuệ để thấy thực tướng (Vô Thường, Khổ, Vô Ngã)

Nếu không qúi Phật tử sẽ bị Tâm dẫn đi lang thang phóng dật.

Danh nhìn thấy Sắc bị cuốn hút theo cảnh của nó khắn khích trong đó ta ở trong Chế Định. Do đó qúi Phật tử phải nhìn thấy Sắc năng hoại diệt không phải là của "tôi" của "ta" trong đó, ngay tại lúc này qúi Phật tử đã ra khỏi cái thân kiến. 

Người mạnh về trí tuệ họ luôn luôn sắc bén về trí tuệ vận dụng trí tuệ nhiều họ sẽ thấy được tướng Vô Ngã, còn nếu như người mà không mạnh về trí tuệ thì họ sẽ thấy được tướng Vô Thường và Khổ Đau.

ĐĐ Xá Lợi Phất, ĐĐ Mục Kiền Liên thấy tướng vô ngã chứ không thấy vô thường, khổ. Bà Visàkhà, Bà Kisagotami thấy tướng vô thường, khổ, không thấy tướng vô ngã, tại bà thấy tất cả thân quyến của bà ta chết, vô thường quá bà đau khổ, bà thấy hai tướng này. Ở trong lớp này qúi Phật tử đa phần  tại đây đều thấy vô thường khổ chứ  không thấy vô ngã, không mạnh về trí.

Thiền sinh: Lúc con ngồi thiền con thấy đau nhức có lúc trong khoảng khắc nhỏ con không thấy tê nhức mỏi đau rồi con lại thấy tê nhức mỏi đau, rồi con lại không thấy tê nhức mỏi đau. Vậy nghĩa là làm sao?

TT trả lờiĐó là chưa có niệm mạnh, khi thấy có khi thấy không có là niệm chưa mạnh, nếu niệm mạnh thì định mới mạnh, nếu niệm còn yếu là định không vô được, định là cửa ngõ đợi niệm cứng định mới vô, niệm mạnh thì định mới có, niệm yếu định không vô được. 

Ở Việt Nam có loại tàu hũ nước đường gừng, tàu hũ đặc lại thành một khối, khi đụng vô là khối tàu hũ hoại ra, nó giống như tứ đại hoại diệt. Qúi Phật tử nhìn khối tàu hũ nước đường quán là biết. Thứ hai là sương sâm đưa ra ngoài nắng là nó rã ra thành nước.

Là hoại diệt, hồi nãy mình thấy nó như vậy nhưng nhìn thật kỹ vô nó chỉ là pháp hoại diệt của Sắc Pháp, Tứ Đại mà thôi. Qúi Phật tử ngồi thiền bị tê nhức mỏi đau, khi ngủ nằm có bị tê đau nhưng không biết vì ngủ mê không để ý đến.

Thiền sinh: Vậy có nghĩa là nếu con có định rồi thì con không còn cảm thấy tê nhức mỏi đau nữa phải không?  

TT trả lời: Mình vẫn thấy tê nhức mỏi đau như thường, nhưng mình chỉ nhìn qua tướng hoại diệt của nó, mình nhìn thấy nó đang rã đang hoại diệt, chứ không cần phải nhìn cái tê nhức mỏi đau nữa. Mình vẫn còn tê nhức mỏi đau nó càng hiện bày cái tê nhức mỏi đau, mà càng hiện bày thấy hoại diệt càng nhiều càng rõ, mình mới thấy được tướng Vô Thường, Khổ Đau. Vô Ngã.

Còn tiếp phần 2

Saturday, June 19, 2021

Vi Diệu Pháp 04 (tiếp theo) - Tâm (Chương 1) - TT Sán Nhiên

 Vi Diệu Pháp 04 (tiếp theo) - Tâm (Chương 1) - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 04" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Chúng ta tiếp tục phần Pháp Siêu Lý. Hôm nay học chương 1 là: Tâm (Citta) từ ngữ căn "Cit" là suy nghĩ, hay biết.

Có nhiều danh từ để chỉ Tâm ở trong tiếng Pali:

- Tâm (Citta)

- Ý (Mano)

- Thức (viññāṇa).

Tùy theo góc độ nào, Ta dùng Tâm (Citta) ở góc độ này, ở góc độ kia ta dùng Ý (Mano), ở góc độ nọ ta dùng Thức (viññāṇa)

Tâm (Citta)

Khi nói đến những Tâm làm việc tốt hay việc xấu, chúng ta nói  Tâm Thiện hay Tâm Bất Thiện. 

Tâm nào là kết quả của việc làm hành động của nó, người ta gọi là Tâm Quả.

Tâm của các bậc Thánh Nhân là, tâm Alahán, Tâm Duy Tác.

Đó gọi là Tâm, là cái ta hiện bày ra, người ta có thể thấy được tâm tốt tâm xấu.

Ý (Mano)

Khi ta nói đến những tư tưởng suy nghĩ trong đầu ta, thí dụ, ý của tôi muốn cái này, ý của bạn muốn cái kia, đó là những tư tưởng mình đang suy nghĩ rồi mình nói ra lời. 

Như vậy, khi ta nói cái Ý này nó còn nằm trong đầu của ta chưa có nói, ra do đó nó thuộc về thân, lời, ý.

Thức (viññāṇa)

Đối với thức chúng ta nói đến hệ thần kinh, nói đến Tâm Thức. Thế thì với Thức ta nói: 

Nhãn Thức, thần kinh nhãn, 

Nhĩ Thức, thần kinh nhĩ thức

Tỷ Thức, thần kinh tỷ.

Thiệt Thức, thần kinh thiệt

Thân Thức, thần kinh thân

Ý Thức, thần kinh ý.

Như vậy, khi nói Thức (viññāṇa) chúng ta nói đến hệ thần kinh, và khi nói đến thần kinh ta nói đến sự sáng suốt, sự hiểu biết, tại vì nó có hệ thần kinh làm cho ta sáng suốt hiểu biết.

Nhãn Thức, ta có sự sáng suốt hiểu biết được cảnh, thấy được cảnh sắc.

Nhĩ Thức, ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh thinh.

Tỷ Thức, ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh khí.

Thiệt Thức, ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh vị.

Thân Thức, ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh xúc.

Ý Thức, ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh pháp.

Về con người, có hai từ ngữ để xác định là:

- Thứ nhất, hạng người phàm phu (Puthujjana) ngoài ra từ vựng Puthujjana còn chỉ cho hạng người vô văn phàm phu, những người làm việc không có hiểu biết hành động về Thân, Lời và Ý. 

- Thứ hai, con người có Ý Thức - manussa, từ ngữ căn mano nghĩa là có ý nghĩ có tư tưởng hiểu biết. Mình làm việc gì có sự hiểu biết, như việc thiện mình nên làm, việc bất thiện không nên làm Đức Phật gọi là manussa là người có ý thức có sự hiểu biết.

Như vậy thì ở đây, ba cái này: Tâm (Citta), Ý (Mano), Thức (viññāṇa) được gọi tên cho ba trường hợp hay ba cách thức để dùng, nhưng tựu trung lại cũng là một ý nghĩa biết cảnh hay biết đối tượng.

Do đó hôm nay chúng ta học về tâm, có một số danh từ chúng ta cần phải nắm bắt trước khi vô phần định nghĩa của nó.

Đầu tiên, chúng ta nói từ ngữ căn của Citta là "Cit"  sự suy nghĩ hay biết, có khi ta nói Tâm, có khi ta nói là Ý, có khi ta nói là Thức. Tựu chung lại Tâm, Ý, Thức cũng có trạng thái suy nghĩ hiểu biết và sáng suốt nhận thức được vấn đề hay đối tượng của Tâm Thức nên gọi Tâm, Ý, và Thức.

 Có khi chúng ta gọi là Tâm Thân Thức, có khi ta nói Tâm Nhãn Thức. có khi ta nói Tâm Ý Thức, nhưng có khi ta nói "Tâm của tôi đang suy nghĩ cái này", "Ý của tôi đang muốn làm cái này" và "Thức của tôi quyết định như thế này" đều có thể dùng được vì cùng một nghĩa biết đối tượng cảnh.

Đối tượng của Tâm, Ý, Thức là cảnh ( Ārammaṇa).

Khi có cảnh rồi, lúc đó là đối tượng (Alambana) 

Đối tượng là của qúi Phật tử. Tất cả những bông hoa hiện bày trong một hoa viên là cảnh sắc, nhưng, trong tất cả những bông hoa trong hoa viên đó trọn ra một bông hoa qúi Phật tử thích nhất đó là đối tượng qúi Phật tử hướng tới. Do đó, đến khi một đối tượng được rút ra từ nơi cảnh qúi Phật tử phải rất thận trọng, đối tượng tốt thì tốt cho mình, đối tượng mà xấu thì hại cho mình. Cảnh là tính chất phổ thông nhưng đưa đến đối tượng rồi lúc đó qúi Phật tử có một quyết định rõ ràng và lợi ích, còn không qúi Phật tử sẽ bị trở ngại trong lúc nó là vấn đề.

Qúi Phật tử lấy pháp Siêu Lý không lấy Chế Định, thì như vậy, khi qúi Phật tử ngồi thiền, tê, nhức, mỏi, đau, là đối tượng qúi Phật tử phải thấy để qúi Phật tử mới đến Niết-bàn được, thì, tê, nhức, mỏi, đau, là đối tượng thiền chứ không phải là cảnh. Cái hơi thở là tính chất phổ thông qúi Phật tử không có phải lo nhưng, tê, nhức, mỏi, đau, đó là đối tượng để thấy Vô Thường, Khổ, Vô Ngã tại nơi đó, qúi Phật tử đắc đạo quả Niết-bàn tại nơi đó, do đó nó là đối tượng của mình.

Do đó, khi qúi Phật tử đến các trường thiền tu tập, khi trình pháp các vị Thiền Sư hay hỏi "thấy gì không?". Tại vì qúi Phật tử không thấy đối tượng lúc ngồi thiền, nên khi các vị Thiền Sư hỏi "khi ngồi thiền có thấy gì không?". Như vậy, trong lúc ngồi thiền, mình phải quán sát thân xem sự sanh diệt của sắc pháp là, tê, nhức, mỏi, đau, nó sanh rồi diệt nó diệt rồi sanh, đây là điểm mình phải nắm.

Giờ Sư nói qúi Phật tử nghe, Sư cho một thí dụ, qúi Phật tử mỗi sáng đi làm,  tất cả cửa nẻo đóng cẩn thận, các nơi đều phòng hộ hết, buổi chiều về phát hiện bị mất một món đồ thì lúc đó tâm bị hoang mang lo lắng đi tìm hiểu tại sao bị mất đồ, và đi tìm đối tượng lấy đồ của mình, rồi khi thấy được đối tượng lấy đồ của mình thì bám chặt lấy đối tượng đó. Qúi Phật tử không bắt được đối tượng đó thì đồ bị mất tiếp tục, mất trong luân hồi, mất nhiều kiếp nữa, và không giải thoát được còn phải sanh tử nữa, tại vì không chặn đứng cái đối tượng lấy mất của mình.

Qúi Phật tử đi câu cá, cá cắn câu rồi qúi Phật tử vứt cành câu bỏ chạy.

Cảnh chúng ta bỏ qua được, nhưng đối tượng chúng ta không bỏ qua được, đối tượng là một chính xác mà phải đào sâu lắm mới ra được đối tượng này.

Như vậy thì, trong ba cái; Tâm, Ý và Thức, biết cảnh biết đối tượng là Ý, do bởi tâm thấy được cảnh.

Tâm tạo ra nghiệp giữa Ý và Thức. 

Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. 

Tâm là nhân, tạo ra nghiệp là quả.

Cảnh là nhân, đối tượng là quả (do qúi Phật tử chọn), có quả là kết quả, còn nhân là còn gieo nhân là mình chưa gặt hái quả, vậy thì đối tượng là quả đã đến là nghiệp, nó đến với qúi Phật tử rồi thì lúc đó Ý quyết định được đối tượng bởi do Tâm thấy được cảnh.

Tâm biết cảnh, Ý biết được (quyết định) đối tượng tạo ra nghiệp báo. Do đó,  khi thấy đối tượng là đã đi tới một Ý Nghiệp rồi, quyết định cái đối tượng là  đã tới Ý Nghiệp, thành ra tê, nhức, mỏi, đau là, nghiệp báo.

Qúi Phật tử phải nắm cái đó mới được, Tâm ta biết cảnh, nhưng mà Ý ta quyết định đối tượng, mà đối tượng đã tới rồi thì Nghiệp Báo đã trổ sanh, thì lúc đó Nghiệp trổ sanh ta quyết định là cắt hay tạo ra nữa. Nếu không quyết định được, nếu không hiểu được chỗ này qúi Phật tử cũng chạy tiếp theo Siêu Lý hay Chế Định.

Như vậy thì, Cảnh là ta ngồi thiền, ngồi thiền là một cảnh, mà, tê, nhức, mỏi, đau là Nghiệp Báo, mà Nghiệp Báo đến rồi, Ý Nghiệp phải biết nhận xét và quyết định giải quyết.

Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, như vậy thì khi mình ngồi thiền mình quan sát thở vô thở ra nó là cảnh, và khi mình thấy mình đau đó là Ý của mình biết là mình đau, là đối tượng nó tới, là mình đã bị Nghiệp Báo nó tới?

TT Sán Nhiên trả lời: Đúng, khi ngồi thiền quan sát hơi thở là cảnh, khi tê, nhức, mỏi, đau, là Ý của mình biết, tê, nhức, mỏi, đau, nó là đối tượng tới, là Nghiệp Báo tới, qúi Phật tử giải quyết được còn không qúi Phật tử cho ra.

Thiền sinh hỏi: Như vậy thì khi mình tê, nhức, mỏi, đau, cũng từ Ý Thức ra phải không? 

TT Sán Nhiên trả lời: Từ Tâm biết cảnh trước, rồi tê, nhức, mỏi, đau, là Ý quyết định, nó thấy đó là Ý Nghiệp.

Như vậy thì qúi Phật tử cẩn thận, tâm ta biết cảnh, Ý ta quyết định đối tượng. Qúi Phật tử đi coi 15 căn nhà là Tâm qúi Phật tử đang biết cảnh, nhưng chọn một căn nhà là Ý Phật tử đã muốn chọn cái đó rồi, đó là đối tượng của qúi Phật tử.

Thiền sinh hỏi: Như vậy đối tượng mình biết là nó đau, tức là cái nghiệp tới mà cái đó là sanh diệt, có phải mình phải nắm được khi nào nó sanh khi nào nó diệt?.

TT Sán Nhiên trả lời: Nếu mình thấy được cái nào sanh lên rồi diệt đi. Sanh và diệt, thì khi bắt đầu tê là sanh đến khi hết tê là diệt. Khi tê sanh lên đến hết tê là diệt của sự tê, rồi tê khác sanh lên rồi lại diệt, cứ sanh rồi diệt diệt rồi sanh từng mỗi cái, đó là qúi Phật tử niệm theo cái sanh diệt của thời gian

Hay là qúi Phật tử niệm sanh diệt của từng mỗi diễn tiến của hiện tượng tê chưa hết.

Từ khi khởi lên một hiện tượng tê cho đến khi hết một hiện tượng tê (tê --------- hết tê) là niệm sanh và diệt là một thời gian của hiện tượng sanh và diệt của một cái tê.

Còn tê trong từng mỗi phút giây, mỗi phút giây, cho đến giai đoạn hết tê (tê tê tê tê tê tê cho đến khi hết tê) thì là sanh diệt của mỗi diễn tiến chứ không nói sanh và diệt của một cái tê và một cái hết tê. Như vậy, thì sanh lên là cảnh, diệt đi là cảnh, nhiều cái tê sanh lên và khi tê mất đi, chỉ là cảnh.

 Diễn tiến của mỗi sanh diệt là đối tượng, khi ngồi thiền diễn tiến của mỗi cái sanh diệt - mỗi diễn tiến của sanh diệt là đối tượng của thiền.

Nếu qúi Phật tử niệm tê và hết tê là xong, là qúi Phật tử đánh mất đi một giai đoạn diễn tiến của sanh diệt cần thiết.

Thiền sinh hỏi: Có phải niệm hoài tê tê tê tê.....

TT trả lời: Không phải niệm hoài. Niệm tê một cái trở lại hơi thở, niệm tê một cái rồi trở lại hơi thở. Thí dụ, Qúi Phật tử coi con nít, coi hoài bỏ hết việc làm hả? qúi Phật tử không thề ngồi hoài coi đưá con nít được, để nó đó lâu lâu nhìn nó một cái rồi lo làm công việc, lâu lâu đưa mắt nhìn nó một cái rồi nhìn lại mình, không phải mình bỏ hết công việc lo cho nó từ sáng tới đêm với nó là không được. Thì cũng vậy, khi ta thấy cái tê, nhức, mỏi, đau, ta niệm 3 lần tê tê tê, rồi trở lại hơi thở của mình (hơi thở là nơi cột tâm mình) thì nó bắt đầu ra cái tê khác, mình không để ý nó ra cái khác nữa, niệm lại tê tê tê, ngừng lại và trở lại hơi thở của mình, rồi lại nhìn vào và niệm tê tê tê, rồi lại ra cái tê khác nữa, mỗi cái tê mình mỗi ghi nhận, mỗi cái mình mỗi ghi nhận, ghi nhận cái tê trước ghi nhận cái  tê sau không giống nhau, lúc đó mới thấy được vô thường trong từng phút giây, vô thường trong mỗi diễn tiến phút giây, vô thường trong mỗi diễn tiến của đối tượng ta để ý tới (tê, nhức, mỏi, đau). 

Không phải ta niệm một thời gian hết nó ra một lần, không phải như vậy, đó là qúi Phật tử đi thiền chỉ. Qúi Phật tử đi từ tê tê tê cho đến khi hết tê một lần như vậy là qúi Phật tử đi thiền chỉ. Còn ghi nhận mỗi diễn tiến của từng hình tượng tê, mỗi diễn tiến của đối tượng đó mới là Thiền Quán.

- Thiền Chỉ là qúi Phật tử bỏ mất hết tất cả mọi chi tiết, chỉ nắm tướng làm cho tâm khắn khích với đối tượng đó thôi là ra Thiền Chỉ.

- Nhưng, khi tới Thiền Quán là qúi Phật tử phải theo dõi từng mỗi diễn tiến thay đổi khác thường, mỗi cái không giống nhau đó, đó mới là Thiền Quán, chúng ta mới phát sanh trí tuệ được, vì ta tìm ra được sự thật ẩn núp ở trong một Chế Định hư cấu tạo ra. 

Chính do đó những cảnh, tê, nhức, mỏi, đau, nó không phải là đối tượng của mình nếu chúng ta theo tiếp tục diễn tiến của mỗi sự sanh diệt của từ cái tê cho tới trạng thái hết tê, hết tê nó qua một trạng thái, nhức, mỏi, đau, mỗi cái đó ta đều theo đó chỉ là một cái cảnh.

Nhưng, qua trạng thái đó diễn tiến trở lại lúc trước, còn nếu hơi thở chỉ là cảnh. Tê, nhức, mỏi, đau, là đối tượng, suốt từng mỗi chi tiết thì những chi tiết của mỗi đối tượng mà qúi Phật tử cần trong Thiền Quán.

Còn nếu bỏ qua cảnh sanh và diệt của một giai đoạn, tê, nhức, mỏi, đau, đó là Thiền Chỉ.

Khi ta nói tới cảnh mà đối tượng qúi Phật tử phải hiểu đối tượng là chúng ta phải đi theo, còn cảnh chúng ta để biết không phải để đi theo, chúng ta có một đối tượng nào khả ý hay bất khả ý, thích hay không thích đối tượng đó cũng là đối tượng phải đi theo để mình nhìn thấy được thực tính và thực tướng của nó. Còn khi thấy cảnh là, cảnh phổ thông, cảnh chung chung, cảnh tổng quát thì, chúng ta chỉ nhìn để biết thôi chứ chúng ta không cần phải đi theo. Chẳng hạn như qúi Phật tử theo dõi hơi thở ra và vô là tổng quát là phổ thông, nhưng, khi qúi Phật tử thấy cái riêng biệt của hơi thở, nhanh, chậm, nặng, nhẹ, diễn tiến thay đổi một hồi nó mất, cái đó là cái đối tượng qúi Phật tử tìm, còn nếu hơi thở đều thì qúi Phật tử không cần phải lo, nhưng, thật sự khi qúi Phật tử đi tu Thiền Quán hơi thở trước hơi thở sau nó thay đổi rồi, mà mỗi cái nó thay đổi khác nhau phải được ghi nhận đó là cái đối tượng ta trú niệm vào. 

Cũng như vậy, khi tâm ta đang theo dõi hơi thở, chúng ta thấy nó thay đổi một cách khác thường, trước và sau mỗi một diễn tiến của hơi thở nó khác nhau đó đã là đối tượng qúi Phật tử, trong khi qúi Phật tử theo dõi một hơi thở với hơi thở khác thường là thứ nhất, nhưng, tới khi, tê, nhức, mỏi, đau, đó lại là đối tượng lớn hơn cái đối tượng của hơi thở, chúng ta phải theo dõi cái đó nữa, và khi chúng ta theo dõi hơi thở ngắn, nhanh, chậm, lẹ, mau, đó đã là đối tượng của qúi Phật tử rồi, thì tới khi xuất hiện tê, nhức, mỏi, đau, thì cái tê, nhức, mỏi, đau, đó là đối tượng của qúi Phật tử nữa, qúi Phật tử bỏ qua hơi thở để đi qua tê, nhức, mỏi, đau, nhìn tiếp, phải chú niệm vào tê, nhức, mỏi, đau, nhưng trong khi chú niệm vào tê, nhức, mỏi, đau, chúng ta không chú niệm của một giai đoạn sanh và diệt của một tê và hết tê, chúng ta phải theo dõi từ mỗi sanh diệt và từng mỗi diễn tiến gọi là sát na hay là thời gian nhỏ của nó chứ không phải đợi cho hết tê ta nói là một sanh diệt của một diễn tiến của giai đoạn tê, không niệm như vậy, cái đó là ta niệm về Thiền Chỉ. Thiền Quán là ta phải đi từng chi tiết, từng chi tiết thì, cảnh tê này nó sẽ trở thành là cảnh tê và cảnh hết tê này trở thành cảnh hết tê (tê --------> hết tê) là cảnh . Nhưng, khi mỗi cái sanh diệt của tê này cái tê sau, sau cái tê sau nữa, nó khác nhau đó là đối tượng qúi Phật tử nhìn tới chú niệm ngay tại đó, cái đó mới ra cái ý nghĩa chúng ta đi thiền quán. 

Tại vì Thiền Quán là qúi Phật tử phải tìm ra được cái thực tính, rồi cái thực tính đó đưa qúi Phật tử ra một  thực tướng hay bây giờ chúng ta còn danh từ mới là đặc tướng (tướng đặc biệt của nó). Như vậy thì khi ta nói trạng thái thực tính của nó, thí dụ như tâm chúng ta thực tính của nó là sanh và diệt, nó sanh ra và diệt rồi diệt rồi sanh ra nhưng đặc tướng của nó là Vô Thường. Cái đặc tính Vô Thường này nó không có thay đổi được, nó hằng hiện hữu như vậy nên người ta thường nói cái thường còn của thế gian này là tính Vô Thường, do đó khi chúng ta tìm ra được đặc tính Vô Thường ẩn núp ở trong hiện tượng của sanh diệt này là qúi Phật tử đắc đạo quả, tìm tới mức cuối rồi.

Thí dụ, Tâm không vui không buồn, đó là thế gian, đó là tính phổ thông nó chỉ là một cảnh mà thôi. Khi qúi Phật tử thấy sanh diệt, vừa thấy buồn đó mất đó, vui đó mất đó, là thấy sanh diệt ở đó trở thành đối tượng của buồn vui của mình. Nhưng khi qúi Phật tử thấy sanh diệt này, thấy hoài hết vui rồi tới buồn hết buồn rồi tới vui, sẽ trở thành cảnh, qúi Phật tử nhìn thấy đặc tính Vô Thường của nó khi nó đang thay đổi mới trở thành là đối tượng. 

Nhưng mà cái sanh diệt này ( như tâm chúng ta thực tính của nó là sanh và diệt) nó thuộc về đối tượng của mình là cảnh của mình rồi đó mình phải nhìn tới nó. Rồi thực tướng Vô Thường này là nó đối tượng của đạo quả của mình rồi

 Như vậy, khi tâm của ta biết, nhưng tới khi quyết định của ta là Ý của ta quyết định, như vậy thì khi Ý của ta quyết định thì chúng ta mới là con người có ý thức. Còn nếu như ta không quyết định được Ý của ta thì con người của ta là phàm phu chúng ta cứ trôi lăn, khác nhau chỗ đó rất là vi tế, rất là tế nhị, rất tinh vi ở chỗ đó làm cho con người khác nhau. 

Do đó khi chúng ta nắm được Ý Thức này chính là qúi Phật tử đã giải quyết được cái việc mình đi tìm, còn qúi Phật tử không có Ý Thức là con người mình không nhận được cái gì ta muốn đi tìm, học sinh vô trường học không Ý Thức thì nó không đi tìm được cái gì ra trường có kết quả đỗ đạt của nó, nó ngồi trong trường lớp hoài, cũng vậy, ta đi tu cũng vậy, ta không có Ý Thức là ta cứ để cho trạng thái tu của ta chỉ là một hình thức mà sự sanh tử luân hồi của ta vẫn còn hiện bày không cắt đứt được, do đó khi ta tu ta phải có Ý Thức cắt đứt sanh tử luân hồi, đó là cái tu có giá trị có ý nghĩa còn không thì ta tu ta vẫn là người phàm phu.

Cũng như vậy, khi chúng ta không biết được Pháp Chế Định thì chúng ta sống ở trong Chế Định một cách mù quán, không hay biết ta bị Chế Định chi phối, nhưng khi biết Siêu Lý rồi thì Chế Định không đủ sức để chi phối được cái Siêu Lý của mình, chúng ta không còn bị Chế Định chi phối nữa vì ta đang sống trong Siêu Lý có giá trị đời sống, ta có Ý Thức sống trong Siêu Lý chứ ta không sống trong Chế Định của Thế Gian, chúng ta bị chi phối của Chế Định là chúng ta mất cái gốc giá trị của Siêu Lý ở trong con người mình là Tâm Thức mà chúng ta hằng có. Con người cứ chạy theo Chế Định, hết nhà, hết cửa, hết tài sản, hết của cải vợ con, cứ chạy theo Chế Định mất đi cái tâm linh qúi báu của mình là Siêu Lý hiện hữu trong con người mình hằng có.

Cũng vậy, khi chúng ta nói cảnh Chế Định không phải là đối tượng của ta, Siêu Lý mới là đối tượng của ta. Thế thì Chế Định đến với ta đó chỉ là một cảnh nhưng chúng ta phải nhìn thấy thực tính của cảnh đó nó mới là đối tượng của ta cần phải giữ, mới là con người có Ý Thức còn không ta ở trạng thái vô văn phàm phu.

Thiền sinh hỏi: Con đọc con thấy đoạn: nếu mình không niệm (quan sát) đối tượng đó thì mình sẽ trở thành dính mắc, tại sao như vậy?

TT trả lời: Tại vì khi mình nhìn vào đó mình không thấy được bản chất của đối tượng, mình bị dính mắc vào đó là vì mình không thấy được thực tính của nó, thành ra mình bị dính mắc, mình bị mê mờ, do đó mình bị đắm đuối vô đó không buông bỏ được nó. Còn khi mình nhìn ra được bản chất của nó thực tính của nó rồi mình mới buông bỏ được nó. Thí dụ như qúi Phật tử thấy một cái bánh ít, nhìn bề ngoài rất ngon, khi bóc lớp lá chuối bọc bên ngoài nó bị chảy nước lúc đó mới biết bánh bị thiu. Cái đó là cái dính mắc của mình là mình thấy bánh ít mình muốn mua nhưng không biết được ruột bên trong, khi lột lá ra thấy được ruột bên trong cái bánh ít là thực tính. Đó do tại sao bị dính mắc vô, tại vì Đức Phật nói con người mà bị dính mắc vô là tại còn tham tại vì không thấy được thực tính của nó, khi mà nhìn thấy được thực tính của nó mình mới rớt được cái dính mắc này, khi mà thấy mình mới buông bỏ được còn nếu không thấy mình còn dính mắc vào nó, do đó Ma Vương nói với Đức Phật trở về hoàng cung để thừa hưởng tài sản vợ con sống cuộc sống hạnh phúc, nên Ngài mới nói câu mà Sư thường nhắc nhở qúi Phật tử: Con tôi tài sản tôi, người ngu nghĩ như thế, thân ta còn không có, con đâu tài sản đâu", cái đó là thực tính, còn bên ngoài là dính mắc là mình bị mê mờ trong cái thực tính mình không thấy.

 Đó nên chỗ này gọi là cảnh, Tâm buồn vui, vui buồn là cảnh, nhưng khi tìm tới thực tính đó là đối tượng mình mới đi tìm, đối tượng mà ta đang đi tìm và ta phải theo đuổi cái đối tượng đó, còn cảnh ta thấy ta biết còn bỏ qua được, nhưng khi có đối tượng rồi qúi Phật tử phải đi tới đi tìm và  phải nắm bắt được nó và phải hiểu được nó hay là lấy được nó, chứ không bỏ qua cảnh nữa, cảnh ta bỏ qua được, đối tượng ta không bỏ qua được. Tê, nhức, mỏi, đau, là đối tượng của người hành giả khi thấy được đối tượng đó qúi Phật tử không được bỏ qua, phải tìm tới nó là cái gì của đối tượng, nó là, tê, nhức, mỏi, đau, hiện bày.

Như hồi nãy Sư đưa ra thí dụ, qúi Phật tử mỗi sáng đi làm,  tất cả cửa nẻo đóng cận thận, các nơi đều phòng hộ hết, buổi chiều về qúi Phật tử phát hiện bị mất một món đồ thì lúc đó tâm bị hoang mang lo lắng đi tìm hiểu tại sao bị mất đồ, và đi tìm đối tượng lấy đồ của mình, rồi khi thấy được đối tượng lấy đồ của mình thì bám chặt lấy đối tượng đó. Qúi Phật tử không bắt được đối tượng đó thì đồ bị mất tiếp tục, mất trong luân hồi mất nhiều kiếp nữa, và không giải thoát được còn phải sanh tử nữa, tại vì không chặn đứng cái đối tượng lấy mất của mình.

Cũng như vậy, khi mình thấy tê, nhức, mỏi, đau, qúi Phật tử tìm ra đối tượng nó là gì trong tê, nhức, mỏi, đau, nó là sanh và diệt, qúi Phật tử không giải quyết được nó mà tiếp tục sanh tử nữa, luân hồi nữa là vì nơi nào và lúc nào qúi Phật tử trở lại vẫn tê, nhức, mỏi, đau. Đi đứng nằm ngồi cũng bị tê, nhức, mỏi, đau, không phải chỉ có người già bị mà người trẻ không bị tê nhức mỏi đau, mọi lứa tuổi nào cũng có, khi muốn có hiện bày vẫn có, cũng như cái chén mang tánh chất bể đâu phải chén nhỏ mới bể chén lớn không bể, chén mỏng mới bể chén dày không bể, khi nó mang tánh chất bể thì dày mỏng lớn nhỏ đều bị bể, và nó lúc nào cũng được hết thời điểm nào cũng sinh ra được hết. Thế thì ta đi tìm cái đó ta giải quyết nó thì ta mới chấm dứt được còn không ta nuôi dưỡng duy trì nó thì qúi Phật tử có nó mãi và qúi Phật tử không ra khỏi nó được và qúi Phật tử còn trở lại trong đó.

Như vậy, khi qúi Phật tử ra khỏi Chế Định lấy được Siêu Lý, tê, nhức, mỏi, đau, chỉ là Chế Định, Tâm ta mới thấy được Siêu Lý, cái Sắc Pháp là Siêu Lý còn trạng thái tê, nhức, mỏi, đau, thân xác chỉ là Chế Định chứ nó không phải là Sắc Pháp của Siêu Lý, mà qúi Phật tử không thể nào giữ cái Chế Định này được, vì Chế Định này sẽ đổi qua Chế Định khác. Qúi Phật tử thấy cái bảng trở thành cái bàn, cái bàn có thể dùng để che mưa khi ra xe, thì như vậy Chế Định sẽ dẫn qúi Phật tử đi mãi không ra được thực tính của nó ở trong thế gian này.

Đúc kết bài học.

Hôm nay ta học về Tâm, chương thứ nhất của bộ Abhidhammattha Saṅgaha  nói về Tâm, Ý, Thức thì trong đó:

- Tâm ta nói trạng thái cái biết của nó. 

- Ý chúng ta biết đối tượng của nó là những ý nghĩ, những tư tưởng nghĩ suy của mình tạo ra.

- Thức là khi ta có thần kinh, có thần kinh thì có Thức, Thức có sự sáng suốt hiểu biết bởi thần kinh đó dẫn dắt tới đối tượng cho ta thấy. Vậy thì khi ta có những cái này:

- Tâm Nhãn Thức là ta có sự sáng suốt hiểu biết được cảnh, thấy được cảnh sắc.

- Nhĩ Thức là ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh thinh.

- Tỷ Thức là ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh khí.

- Thiệt Thức là ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh vị.

- Thân Thức là ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh xúc.

- Ý Thức là ta có sự sáng suốt hiểu biết về cảnh pháp.

 Chúng ta sẽ thấy cảnh là phổ thông, đối tượng là riêng biệt. Vào một hoa viên tất cả những bông hoa màu sắc đó là cảnh phổ thông, khi ta chọn lựa một bông hoa riêng biệt thì đó đối tượng riêng biệt của mình, mà khi đối tượng ta tu tập thì cái gì ta giữ làm đối tượng là Ý của ta muốn giữ, và Ý của ta nghĩ đến đối tượng ta muốn có, còn không Ý ta không muốn giữ thì đối tượng trở thành chỉ biết cảnh mà thôi.

Rồi trở lại, nếu đi trên con đường luân hồi qúi Phật tử có đối tượng hoài thì cái đối tượng đó sẽ làm qúi Phật tử dính mắc, trên con đường qúi Phật tử tu tập qúi Phật tử có đối tượng  hoài đối tượng sẽ trở thành dính mắc, chẳng hạn đối tượng qúi Phật tử có là cái tọa cụ thì khi ngồi thiền phải có toạ cụ mới ngồi thiền được, không có toạ cụ qúi Phật tử không ngồi thiền được, trở thành dính mắc. Như vậy thì những cái chúng ta chìu nó là chúng ta chìu cái đối tượng hay ta chìu theo cái ý của ta muốn chìu, thì qúi Phật tử sẽ bị dính mắc.

Như vậy, khi ngồi thiền thấy cảnh đến chìu nó thì ta lấy đó làm đối tượng, khi là đối tượng chúng ta đã có chìu thì sẽ bị dính mắc, cũng phải buông nó ra để trở lại  một cảnh phổ thông, rồi thực tính của nó mình mới nắm bắt được, còn nếu cứ để nó làm đối tượng thì qúi Phật tử bị thiên vị, bị lệch lạc trong phán xét.

Qúi Phật tử thấy người nào nói "ý tôi muốn vậy" thì người đó sẽ có đối tượng, còn cái người nói "tâm của tôi chỉ biết cảnh mà thôi", đó là tính cách phổ thông, chính do đó khi chúng ta thấy tê, nhức, mỏi, đau, là đối tượng rồi chúng ta phải nhìn nó một cách khách quan, Tâm chỉ biết cảnh thôi thì qúi Phật tử mới ra được còn không mà qúi Phật tử lấy Ý mà biết đối tượng này qúi Phật tử sẽ dính mắc trong đó không ra được.

Thiền sinh: Thưa Sư, trong bài thiền cũng có nói là nếu mình theo đối tượng chỉ nên theo dõi một thời gian thôi.

TT trả lời: Không, một cái diễn tiến thôi chứ không là một thời gian, nó vừa diễn ra là mình thấy nó là cảnh thôi là buông liền chứ không nên giữ nó lại.

Sư trình bày với qúi Phật tử từng giây từng diễn tiến.

Thở vô và thở ra là cảnh, rồi đi tới, tê, nhức, mỏi, đau, là đối tượng, nãy giờ mình đi tìm nó. Qúi Phật tử niệm tê mà qúi Phật tử nhìn thấy cái đối tượng đó lên là, tê, nhức, mỏi, đau, thì nó khác với hơi thở vô và ra, chính cái khác đó nó mới trở thành đối tượng của mình, nếu qúi Phật tử niệm tê hoài mình sẽ dính mắc trong đó, do đó mình phải buông nó ra thì đối tượng, tê, nhức, mỏi, đau, này trở thành cảnh mà Tâm chỉ biết mà thôi. Còn qúi Phật tử cứ niệm hoài niệm hoài tê tê tê hoài nó sẽ trở thành đối tượng qúi Phật tử dính mắc. 

Do đó với các Thiền Sư dặn các thiền sinh khi đối tượng đến chỉ nhìn một cách khách quan biết như biết rồi buông bỏ, còn qúi Phật tử niệm cái đó là đối tượng qúi Phật tử bị dính mắc trong đối tượng đó không rời ra trở thành một cái ái hay một cái hữu.

Do đó, người hành giả biết như biết rồi thấy như thấy rồi thì trở ra vị trí đó liền.

Thiền sinh: Con nhớ trong bài nói là khi mình thấy cái đối tượng mình chỉ được niệm ba lần thôi rồi buông ra.

TT trả lời. Khi mình thấy đối tượng mình chỉ niệm 3 lần (thí dụ niệm: tê tê tê) rồi buông ra, cái đối tượng tê đó trở thành cảnh của mình là chỉ biết đó là cảnh mà thôi. Còn như qúi Phật tử niệm từ sáng đến tối thì nó trở thành đối tượng bị dính mắc. Khi mà đối tượng thì nó khác với cảnh là vì mình đang đi tìm, khi đã có rồi mình phải bỏ thì mình không bị dính mắc, nếu không qúi Phật tử sẽ bị dính mắc, buông bỏ nó thì Tâm qúi Phật tử chỉ biết cảnh mà thôi, nó không phải là đối tượng của ta.

Khi Tâm ta biết cảnh là nó không dính mắc, mà Ý ta chọn đối tượng qúi Phật tử sẽ dính mắc, nhưng nếu qúi Phật tử không có đối tượng cảnh của Tâm qúi vị không quyết định được cái thực tính. Tâm qúi Phật tử cứ nhìn ra buồn vui buồn vui thì không tìm được cái thực tính, qúi Phật tử bị chi phối bởi pháp buồn vui buồn vui, tâm cứ đi theo cảnh này hoài bị chao qua đảo lại, hết vui đến buồn, hết buồn đến vui. Nhưng, khi qúi Phật tử nhìn thấy trạng thái vui đó rồi mất đó, cái phút giây vừa mất đó nó trở qua giai đoạn buồn thì đó là sự sanh diệt, đó là đối tượng ta tìm thấy được thực tính của cảnh Tâm Thức của chúng ta bị chi phối. 

Khi chúng ta thấy được sự sanh diệt đó thì trạng thái lập đi lập lại hết buồn lại vui hết vui lại buồn thì qúi Phật tử trở lại cảnh, do đó qúi Phật tử bỏ nó đi liền, thì khi bỏ cái sanh diệt qúi Phật tử thấy được thực tính xong rồi thì bỏ đi,  qúi Phật tử tiếp tục niệm trạng thái bình thản của nhận thức của mình, lúc đó qúi Phật tử sẽ trở lại cái Tâm chỉ biết mà thôi, nhưng khi Tâm qúi Phật tử biết rồi thì Tâm qúi Phật tử nhận thức được một tính Vô Thường ở trong thực tính của sanh diệt này, lúc đó mới là Niết-bàn.

Sư nhắc lại để qúi Phật tử hiểu rõ hơn:

Khi qúi Phật tử thấy được sanh diệt của Tâm vui và buồn là trạng thái phổ thông, nên qúi Phật tử thấy ở trong 16 cái tuệ, tuệ đầu tiên là phổ thông trí, rồi mới đến tuệ phân biệt. Đầu tiên qúi Phật tử thấy được cái Phổ Thông Trí là lúc đầu tiên qúi Phật tử thấy được tuệ phân biệt phổ thông này qúi Phật tử đã có chánh kiến ở đó, chánh kiến là thấy khổ đế (sự thật), khi qúi Phật tử thấy vui và buồn qúi Phật tử phát lên Phổ Thông Trí, cái Phổ Thông Trí này nằm trong trạng thái của Phân Biệt Danh Sắc Trí, nó nằm ở trong trạng thái Phổ Thông Trí thấy được danh sắc.

Như vậy thì, khi qúi Phật tử nhìn thấy vui buồn đó là Phổ Thông Trí sanh lên lúc đó qúi Phật tử thấy đời là khổ, thấy vui rồi buồn thấy buồn rồi vui đó là qúi Phật tử có Phổ Thông Trí, tại vì lúc đó qúi Phật tử mới thấy tại sao có Phổ Thông Trí này tại vì mình có danh sắc này mình mới có cái khổ này đây, nếu mình không có danh sắc này mình đâu có khổ,  mình bắt đầu đi tìm tiếp cái nhân nào sanh ra danh sắc này, thành ra qúi Phật tử đi tìm Tuệ phát hiện được nhân sanh ra danh sắc, rồi khi qúi Phật tử phát hiện được Tuệ nhân sanh ra danh sắc qúi Phật tử mới thấy được bản chất của danh sắc này là sanh diệt thì bắt đầu qúi Phật tử mới thấy là nó rã ra mới đi xuống được. 

Khi chúng ta thấy phổ thông này nó là một cảnh nó không đáng để chúng ta làm đối tượng, người nào vừa vô cái buồn cái ngồi lịm luôn trong cái buồn thì người đó là hết tu rồi, mà người nào vừa vô ngồi thấy vui qúa lịm luôn trong cái vui đó là hết tu luôn, vì cái này là phổ thông đâu có gì để mình lịm trong đó vậy mà mình dính mắc trong đó nó chỉ là cảnh thôi ta niệm buồn buồn buồn hả, bỏ ra liền, chứ đâu có phải mình buồn hoài, nó từ trạng thái mà qúi Phật tử ngồi buồn hoài nó kéo dài, do đó qúi Phật tử niệm đó là cảnh thôi cảnh phổ thông, cái đó không đáng để làm đối tượng của mình, vì đó là cảnh thôi. 

Thì khi đang buồn đổi qua vui, thì ngay giữa cái buồn và cái vui là sanh diệt, thì sanh diệt là đối tượng của qúi Phật tử, qúi Phật tử chỉ niệm một cái thôi "sanh diệt" qúi Phật tử trở lại liền, trở lại thì lúc đó nó kéo qúi Phật tử qua cái vui, qúi Phật tử bắt được cái này là thực tính.


Đây là bảng TT Sán Nhiên viết về: buồn là cảnh - sanh diệt là đối tượng - vui là cảnh, mới thấy ra sự Vô Thường là đạo quả Niết-bàn

buồn đổi sang vui là mình thấy sự sanh diệt (thì sự sanh diệt là đối tượng)  nhìn vào đối tượng là sanh diệt ta thấy sự Vô Thường của cái mới buồn xong lại đổi qua vui, đó là đạo quả. 

Nếu không thấy được như vậy thì sẽ bị rớt trở lại.

Thiền sinh: Trong lúc ngồi thiền mình không niệm ra tiếng, nhưng mình có niệm một từ ngữ trong tâm hay là bằng một sự ý thức mình biết.

TT trả lời: Nếu mà niệm là một cảnh nữa, mình chỉ cần ý thức biết cái gì đang xảy ra.

Do đó phải nắm được kỹ thuật tuyệt vời không bỏ qua được mà qúi Phật tử đã từng mất nhiều lần rồi, đó là sai lầm, mình không nuôi dưỡng tên ăn trộm lấy cắp đồ nhà mình hoài, mỗi lần đi về chịu đựng trạng thái mất cắp này là mình dung dưỡng trạng thái cho nó ăn cắp tiếp.

Phải huân tập mới thành kinh nghiệm, có kinh nghiệm qúi Phật tử mới nhận thức được ra một Ý Thức, còn chưa có kinh nghiệm mình không ra được Ý Thức rốt ráo cho kết quả của chính mình.

Thiền sinh: Trong thời gian mình bị tê thì nó sanh diệt (là đối tượng), lúc sanh diệt mà mình nhận thức được nhưng mà thời gian nó cứ đi hoài mình có theo dõi tiếp tục không? 

TT trả lời: không có đi theo hoài, chỉ một sát na sanh rồi diệt, còn niệm tiếp tục trở lại là cảnh, mất đối tượng, mình chỉ biết thôi. 

Chỉ cần làm chậm và chính xác mà có mãi, còn làm nhanh qúi Phật tử mất, không cần làm nhiều mà mất hụt hoài rồi không có được cái gì cả.

Thiền sinh: Nếu mình bắt được sát na sanh và diệt của tê thì mình buông mấy cái tê sau mình không cần lấy nó là đối tượng phải không?.

TT trả lời: Nếu mình bắt được sát na sanh và diệt của cái tê, là mình đạt được đạo quả rồi, ngay đó rồi, là hạnh phúc nhất trên đời rồi.

Cái đó, qúi Phật tử tìm cái Vô Thường ở giữa hai trạng thái một cảnh trước và cảnh sau có một đối tượng nằm ở giữ, cái đó là cái đối tượng ta đi tìm, một cảnh trước một cảnh sau của đối tượng, đó là chỗ ta đi tìm, Tâm buồn sanh lên rồi tâm buồn diệt mất, đó là sự sanh diệt, hiểu ra sự vô thường.

Thiền sinh: Thưa Sư, có nhiều cảnh mà buồn, vừa cảm thấy buồn rồi mất cái buồn đó, khi cái buồn sanh lên thì là sanh, rồi cái buồn mất là diệt, rồi nó chuyển qua là vui phải không?

TT trả lời: Không tính chuyện chuyển qua vui, vì khi buồn khởi lên (sanh) rồi hết buồn (là diệt). Thì đó là sự sanh diệt trong một sát na, nhận ra cái Vô Thường ngay đó.

Bài học hôm nay ta học chương Tâm, đến đây là dứt./.

Sau một giờ ngồi thiền, thiền sinh trình pháp. Thiền Sư TT Sán Nhiên có đôi lới nhắn nhủ các thiền sinh.

Trong mỗi bài học của buổi học thì ngay sau đó là Pháp Hành cho qúi Phật tử. Bài học đó là kinh nghiệm khi đã có kinh nghiệm ở đó sẽ cho mình một bề dầy nghị lực và kiến thức để mình thực hành.

Giống như trái bắp lột lớp vỏ bên ngoài ra cho tới hạt,  bữa nay ta lột lớp vỏ này mai ta lột tiếp lớp vỏ trong, lột từ từ tới trái bắp, rồi mình lượm ht bắp đó ra rồi mới vô được cùi bắp, phải đi tới như vậy đó, còn không qúi Phật tử nhìn bên ngoài thì mình không hiểu được trong trái bắp có cái gì.

 Trước khi tới hạt bắp nó xuất hiện nhiều râu bắp, những sợi râu bắp đó là những cái làm mình khó chịu, mình lấy râu bắp uống nước cho nó mát, nhưng, trong khi mình ăn hạt bắp có râu bắp sẽ cảm thấy khó chịu. 

Thì khi qúi Phật tử hành thiền những cái làm cho qúi Phật tử khó chịu chẳng hạn như là ngứa trên mặt, rồi cảm thấy nhột trên mặt làm cho qúi Phật tử phải nhúc nhích khó chịu, đó là râu bắp, thấy nó rõ ràng như vậy.

 Lúc đó qúi Phật tử muốn gãi ngứa và muốn hết ngứa, bấy giờ mình đưa hai tác ý là: tác ý niệm gãi ngứa hay là tác ý để gãi ngứa.

- Quyết định tác ý để niệm ngứa thì lúc đó sẽ coi hiện tượng đến là cảnh giả, mà đã giả vậy đó thì cuộc đời mình có nhiều nghiệp giả đến với mình như vậy. 

- Quyết định tác ý để gãi ngứa thì mình đã chiều cái nghiệp đó và mình đã chiều nó, tại vì cái đó không có, nó chỉ là một hình tượng thôi, đầu tiên qúi Phật tử sẽ thấy "ủa! ngồi đây tại sao có kiến bò làm mình nhột" cái đó không có nhưng thật ra khi mình niệm ra được rồi đó thì toàn là giả cảnh.

 Thường thường khi tác ý để gãi ngứa và tác ý để niệm ngứa, người có chiều sâu kinh nghiệm họ sẽ tác ý để niệm ngứa thôi chứ không tác ý để muốn gãi ngứa. Thì qúi Phật tử niệm cái ngứa đó nó tới rồi nó sẽ đi.

Thiền sinh: Con bình thường thì không bị ho, nhưng mỗi khi vào thiền là bị ho khan.

TT trả lời: Đó là bình thường xảy ra cho mình. Trong Pháp Hành người ta ví nó là râu bắp, mình thấy khó chịu lắm, mình cũng phải qua cái râu bắp đó mình mới ăn được hạt bắp. Khi qúi Phật tử đi được vô cái đó rồi là qúi Phật tử thấy chiều dài chiều sâu kinh nghiệm và nghị lực và mình có kiến thức rồi mới giải quyết được vấn đề, còn đứng bên ngoài nói hoài thì không được, phải vô trong. 

Còn cái đau, đâu phải cái gì đơn giản. Bây giờ qúi Phật tử ăn hạt bắp mà qúi Phật tử thấy hạt bắp có cứng có mềm, đâu phải qúi Phật tử lựa bắp trái nào cũng vừa ý mình được, có trái bắp nấu xong hạt rất cứng ăn khó nhai, có trái bắp hạt rất mềm nhai dễ dàng, thì khi qúi Phật tử gặp cái đó thì mình phải giải quyết thôi, chứ không lẽ mình liệng trái bắp đi, liệng đi thì mình đâu nhận được mùi vị của trái bắp đó, đó là pháp vị (dhammarasa).

Bài học hôm nay được áp dụng trong Pháp Hành của buổi ngồi thiền của qúi Phật tử hôm nay, thấy Tâm mình có cảnh, Ý mình có đối tượng , mà Ý mình có đối tượng, có Ý quyết định và Ý giải quyết. Mình quyết định rồi Ý giải quyết còn mình chưa qúi định thì mình giải quyết không được, ý thức hệ của mình nó đi nhanh mà cái phản xạ nhanh như vậy là tại vì mình có trí tuệ như là cấp trí nó mới nhanh còn không mình cứ ngồi chần chừ hoài. Có nhiều người trước một cái cảnh gì đó họ giải quyết không được là tại vì trong đời sống hàng ngày họ cũng không giải quyết được gì nhanh, do đó ngồi bị lúng túng, không biết tính làm sao, không biết giải quyết làm sao, cái này đối phó làm sao nghĩ hoài không ra.

Thiền sinh: khi ngồi thiền thường hay bị buồn ngủ, mà mở mắt ra thì hết buồn ngủ.

TT trả lời: Đó là bị hôn trầm, có nhiều trường hợp bị hôn trầm là, khi ngồi thiền mình không có chuẩn bị trước, chẳng hạn như, phải chuẩn bị tư thế hay chỗ ngồi của mình, cái oai nghi của mình xong suôi mình thấy thoải mái thích hợp vui tươi thì phút giây đó hôn trầm không đến với mình. Qúi Phật tử ở bên ngoài đi vô ngồi liền thì trạng thái nó quất ngay đó là mình sẽ bị hôn trầm,  khi đó bắt buộc mở mắt ra, cái đó là cái đầu tiên mình làm như vậy, cái thứ hai là chỗ ngồi thiếu ánh sáng cũng dể làm mình bị hôn trầm, có ánh sáng thì đỡ bị hôn trầm. Nên các vị hành giả khi ngồi mà tối thiệt tối dù có nghị lực lắm cũng dễ bị hôn trầm. Ngày nay người ta tìm ra là phải có ánh sáng, nhưng không phải là sáng chói, mà ánh sáng vừa đủ để tránh cái hôn trầm. 

Thiền sinh: Khi con ngồi con tắt đèn lớn, chỉ để đèn nhỏ, con không bị hôn trầm

TT trả lời: Cái đó là mình có chuẩn bị rồi, pháp đầu tiên khi ngồi thiền là mình chuẩn bị, khi mình bắt đầu ngồi xem mình có ổn định trong tư thế và sàng toạ sẵn sàng thì mình có sự tỉnh thức, cái mà mình không có chuẩn bị, vừa vào cái mình ngồi xuống liền không chuẩn bị tư  thế, sàng toạ, thì mình dễ bị hôn trầm. Do đó mình phải chuẩn bị, đó là tâm lý mà thôi.

Thiền sinh: Con nhớ là khi vào ngồi thiền con theo dõi hơi thở một lúc rồi mới nhớ ra là con chưa quy y Phật Pháp Tăng, và rải tâm từ, con vội nói lời quy y và rải tâm từ xong rồi mới theo dõi hơi thở.

TT trả lời: Đúng vậy, làm gì nhanh mình không thưởng thức được sự chuẩn bị của mình, mất đi vị ngọt của sự chuẩn bị. Thí dụ, nấu một món đồ ăn, có hai hạng người nấu đồ ăn, người thứ nhất là đụng đâu bốc đó rồi mở tủ kiếm thứ này thứ kia, người thứ hai là họ sắp sẵn hết đồ trên bàn, khi mở lửa lên thì không đi tìm nữa mà tuần tự bỏ những thứ cần vô nồi nấu. Thì cái người chuẩn bị sẵn sàng, ngó thấy thức ăn là thấy hấp dẫn rồi. Do đó mình phải có nghệ thuật là chuẩn bị, mình không có chuẩn bị trước mình mất đi cơ hội

Cái thứ hai, khi qúi Phật tử bị ho là mình cần phải uống nước để không ảnh hưởng tới phổi và cuống họng mình bị khô. Sư chỉ cho cái cách là thường thường khi bị ho là vì ngứa cổ, qúi Phật tử chỉ cần đưa cái lưỡi lên nóc họng là nước miếng tuông ra rồi qúi Phật tử nuốt vô giống như thay vì mình uống nước, qúi Phật tử không cần phải lúc nào cũng có nước bên cạnh, như khi ở trong rừng Thái Tử Sĩ Đạt Đa hành thiền đâu có để nước hai bên cạnh chỗ Ngài ngồi. Qúi Phật tử đọc trong Trung Bộ Kinh bài 36. Ðại kinh Saccaka: "Ta nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng và tất cả được giải quyết" Ngài nói câu đó. Thì như vậy, khi qúi Phật tử bị nhột nhột ngứa ngứa khô cổ hay bị ho bị sặc, qúi Phật tử đưa lưỡi lên nóc họng nước miếng tuông ra một cách rất khoa học, đó là một trạng thái sinh lý của cơ thể là phương pháp trị liệu, nước miếng tuông ra qúi Phật tử nuốt từ từ vô như uống nước chậm chậm. Khi qúi Phật tử bị ho nếu uống nước nhiều uống ực một cái vẫn bị ho, qúi Phật tử phải uống nước từ từ chậm chậm thì làm giảm cơn ho, cái cổ họng thông trơn chu bớt ho bớt ngứa cổ họng, đưa lưỡi lên nóc họng, làm như vậy chấm dứt cái ho của mình và không làm mình khô cổ họng.

Thiền sinh: Khi ho như vậy thì mình đâu tác ý được vì nó bậc ra ho.

TT trả lời: Biết hết đó, nhưng mình vẫn chạy theo nó mình vẫn chìu nó, mình cũng có tác ý để ho hay là tác ý để nhịn ho.

Thiền sinh: Qua pháp học và pháp hành hôm nay thì nhìn thấy được cái sanh cái diệt trong cái đau và theo dõi hơi thở, thì một hồi nhìn thấy cái đó giống như mình nhìn 2 con cá bơi trong hồ bơi, thì đó là cảnh hai là đối tượng?

TT trả lời: Đó là cảnh, qúi Phật tử bị nó lôi rồi. Còn cái đối tượng mình phải chăm chú theo dõi nó thì nó không lôi mình thấy cảnh.

Thiền sinh: Vậy khi mình còn theo dõi mình thấy được cái đối tượng tức là một khi đã quen rồi mình nhìn thấy giống như là nhìn 2 con cá nó bơi là cảnh.

TT trả lời: Là cảnh rồi. Lúc nãy Sư nói, khi buồn rồi vui thì giai đoạn giữa của buồn và vui là đối tượng của mình niệm sanh lên (là khi tê khởi lên)  diệt (là khi tê biết mất - xuống)  là thấy Vô Thường liền.

Còn mình trở lại cảnh buồn hay cảnh vui mà nó lẹ lắm nó đẩy mình rất là nhanh, khi thấy buồn là cảnh, vui là cảnh, sanh diệt là trạng thái xen kẽ giữa buồn và vui (trong tích tắc đó thôi, chỉ một sát na) mà tích tắc đó qúi Phật tử thấy được sanh diệt qúi Phật tử đi tới Vô Thường liền qúi Phật tử ra được đạo quả, còn không qúi Phật tử trở lại vui và buồn. 

Thiền sinh: Có phải cái giữa đó nhiều người gọi là Niết-bàn? 

TT trả lời: Không phải, nó mới là cận hành thôi rồi tới thuận tùng rồi mới tới Niết-bàn

Thiền sinh: Như vậy là khi mình đau mình quan sát nó mà mình thấy nó trạng thái nó vô thường thì mình làm gì? Như vậy mình giữ trạng thái Vô Thường đó để mình tiếp tục? 

TT trả lời: Mình niệm Vô Thường là đủ rồi, còn nếu muốn trở lại niệm đau là mình trở lại cảnh

Thiền sinh: Vậy sau khi thấy được trạng thái Vô Thường thì mình làm gì?

TT trả lời: Sau khi mình niệm Vô Thường, mình quán xét lại gọi là paccavekkhati tức là suy nghĩ, xem xét lại, nhìn lại. Tức là ra rồi, tức là khi mà khi thấy Vô Thường là phản kháng lại, xem xét lại (paccavekkhati) quan sát thấy nó nhẹ nhàng, cái đó là chín mùi rồi. 

khi thấy sự Vô Thường thì qúi Phật tử không có thân kiến, còn nếu qúi Phật tử thấy Vô Thường mà qúi Phật tử nói "thấy rồi" là qúi Phật tử bị thân kiến liền. Nếu qúi Phật tử còn thấy tôi vui và tôi buồn là thân kiến còn đó, sanh diệt là không có thân kiến, vô thường không có thân kiến./.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh