Friday, December 15, 2023

036 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 22 tháng 10, 2022

 036 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 22 tháng 10, 2022 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "036 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Thiền sinh: Thưa Sư, trong hữu phần có 3 là; nghiệp, nghiệp tướng, nghiệp thú tướng, nó là cảnh ngoại lộ. Hữu phần dứt dòng Sư dịch là hữu phần đình chỉ. Thì tất cả khi mình nói mặc dù mình nói mình đóng tất cả các căn của mình, nhưng nó vẫn còn ở đó. Thì nếu nó gặp tâm ý thức của mình. Sư có lấy ví dụ khi mình ngồi thiền mình đóng các căn rồi mình vẫn còn cái đó. Nếu như suy nghĩ thêm, nếu mình có chánh niệm tỉnh giác thì những cái đó nó không xảy ra được.

Vậy thì, trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mình làm sao biết được ?

HT trả lời: Có 4 trường hợp xảy ra mình phải biết.

1. Nidrodhajhāna là Thiền Diệt. 

2. Vô Tưởng Sắc Giới: không có tâm

3. Cận Tử Lâm Chung: có tâm nhưng không biết cảnh

4. Supinavithi Lộ Trình Thụy Tưởng (Lộ Trình Chiêm Bao).

1. Nidrodhajhāna là Thiền Diệt.  

Nidrodha là diệt tắt hết. HT Minh Châu dịch là Diệt Thọ Tưởng Định. Trong tự điển Thái Hoa của Oxford dịch là Diệt Thọ Diệt Tưởng. Nhưng từ vựng Nidrodha là diệt tắt hết, jhāna là thiền định, thiền na, nên mình dịch là Thiền Diệt. 

Người nhập Thiền Diệt này là tâm không sinh (là không có tâm).

Nidrodhajhāna Thiền Diệt  thì không có tâm, chỉ có sắc pháp thôi, người nhập Thiền Diệt như Ngài Sariputta, Ngài Kassapa, hay Đức Phật cũng vậy, lúc vô Thiền Diệt là tâm của họ cắt đứt sau sát na tâm thứ 2 của Phi Tưởng Xứ thì lúc đó cắt đứt luôn tâm không sinh nữa, thì qua 2 sát na tâm Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, lúc đó diệt tâm sát na thứ hai Phi Tưởng Phi Phi Tưỡng xứ thì tâm không sinh trong 7 ngày với lời nguyện của họ. Họ chỉ có Sắc Mạng Quyền giữ sắc nghiệp giữ sắc thân họ ngồi thôi, họ không có chết, nhưng tâm không sinh, họ không biết gì hết, họ không chết là do định lực của họ bao bọc toàn thân của họ. Các vị phải là Anahàm với Alahan mới được, tức là ít nhất người đó phải là Tam Quả, mà trong thời Đức Phật chưa thấy người nào Tam Quả mà nhập Thiền Diệt, thì cỡ như Ngài Kassapa, Ngài Sariputta, Ngài Mục Kiền Liên mới có thôi chứ các Ngài kia không có nghe nói. Nhưng Đức Phật Ngài có nói là trường hợp thứ 2, hai bậc Anahàm với Alahan họ vô Thiền Diệt này tâm họ không sinh kéo dài trong 7 ngày, sắc pháp sống với Sắc Mạng Quyền nuôi dưỡng trong 7 ngày. Sắc vật thực nuôi dưỡng được 7 ngày. 

Như bữa trưa mình ăn là đủ nuôi mình trong ngày mai, ngày mốt mình không có sao hết, không chết, nhưng sắc pháp của mình nó không hoại, nó còn giữ được đến hết 7 ngày thì mình ăn vật thực vô lại thì vẫn sinh hoạt bình thường lại, chỉ có một cái là mình yếu thôi.

Đó là trường hợp của Nidrodhajhāna Thiền Diệt là tâm không sinh.

2. Vô Tưởng Sắc Giới: không có tâm.

Vô Tưởng Sắc Giới Phạm Thiên. Người sinh vào cõi Vô Tưởng Sắc Giới Phạm Thiên không có tâm, tâm không sinh. Vị Phạm Thiên này không có tâm, họ chỉ có sắc, họ đạt đến tứ thiền sắc giới, nhưng nguyện không có tâm, do đó khi họ chết họ sinh về cõi trời Phạm Thiên Hữu Tình Vô Tưởng  Asaññīsattabrahma, họ ở đó và họ không có tâm, ở cõi nhất uẩn, họ chỉ có sắc uẩn. 

Thứ hai là vô tưởng sắc giới là trường hợp của vị Phạm Thiên mà họ chỉ có sau khi tịch (chết) ở cõi nhân loại này, họ sinh về cõi trời Tứ Thiền Sắc Giới  họ đắc chứng từ thiền ở đó, họ nguyện sinh ra không có tâm thì họ mới trở lại Asaññīsattabrahma  Phạm Thiên Hữu Tình Vô Tưởng, tuổi thọ họ ở trên đó 500 kiếp. 

Trong các tuổi thọ lớn nhất là Phi Phi Tưởng Xứ từ 16 ngàn tới 18 ngàn, còn mình đây chỉ có 100 năm. 

Khi vị đó sinh về cõi trời Vô Tưởng Sắc Giới do họ nguyện, đương nhiên là các vị đó không phải là Thánh Tăng, không phải là Thánh nhân, họ chỉ là phàm thôi, họ nguyện không có tâm vì họ nhàm chán tâm, vì tâm nhiều phiền não, họ ngán ngẩm chán chường, họ không thích nữa, tâm biết nhiều thứ biết nhiều chuyện phiền não lắm. Do đó họ nguyện, với năng lực thiền của họ sinh về cõi Vô Tưởng Sắc Giới không có tâm, họ như cục bột nằm ở đó cho tới khi chết chỉ nằm yên không biết gì hết. Đó là trường hợp thứ 2.

3. Cận Tử Lâm Chung: có tâm nhưng không biết cảnh

Trường hợp thứ ba là khi tâm của người gần chết, giờ phút cận tử lâm chung không bắt được cảnh, nhãn không thâu được cảnh sắc, nhĩ không thâu được cảnh thinh, tỷ không thâu được cảnh khí, tâm của họ chập chờn mà không chết, cảnh vô không được nữa, thì lúc đó sài tâm Hữu Phần. Đó là trường hợp thứ 3.

Trường hợp thứ 3, giờ phút cận tử lâm chung, tâm không bắt được cảnh, lúc đó lẹ lắm, trong tích tắc, có khi mình thấy họ trong 1, 2 phút là họ đi, lúc đó tâm họ không bắt được cảnh nữa, đừng nói chi là mình kêu họ niệm Phật. Hay trường hợp họ bị côma rồi đi tâm họ không bắt được.

Nên 3 trường hợp này, thì trường hợp thứ 3 họ có tâm nhưng không bắt được cảnh, tâm họ muội lượt. 

Các quí Phật tử nhớ Đức Phật Ngài làm gương cho chúng sinh là Ngài Niết-bàn Liên Thiền để chết trong chánh niệm, mình phải vậy, Ngài Tịnh Sự chết trong chánh niệm, buổi sáng thức dậy Ngài nói chuyện rồi Ngài ngước lên cười và Ngài đi trong hoan hỉ, Ngài 74 tuổi, Ngài nói: "Đa thọ đa nhục, sống lâu chừng nào nhục nhã chừng nấy, mình đi trong tỉnh táo trong hiểu biết lợi lắm, mình không làm phiền ai hết, mà qua tới 95, 96 tuổi, già lẫn không tự mình lo vệ sinh cho mình được thì khổ cho con cháu, khổ cho đệ tử", do đó Ngài chọn con đường như Đức Phật. 

Quí Phật tử nên nguyện. Đi theo cái nghiệp hay nghiệp tướng, thú tướng; bóng tối, lửa đỏ,  người nắm tay, thiên cung, tiếng gà gáy. Trong quyển thứ III chương V, trong phần nói về cận tử lâm chung, trong quyển đó có ghi rõ cảnh nghiệp, cảnh nghiệp tướng, cảnh nghiệp thú tướng.

4. Supinavithi Lộ Trình Thụy Tưởng (Lộ Trình Chiêm Bao).

Trường hợp thứ 4 thì ít lắm, với người tu giữ chánh niệm thường xuyên thì họ ít có, còn 3 trường hợp kia thì phổ thông. Trường hợp thứ tư là Supinavithi Sư dịch là Lộ Trình Thụy Tưởng là Lộ Trình Chiêm Bao, trong cái lúc ngủ không sâu, ngủ chập chờn mới có chiêm bao, còn ngủ say mê thì không có chiêm bao. Thì trong lúc ngủ không thiếp mật thì lúc đó họ mới thấy cảnh, cảnh của nó là cảnh nghiệp, cảnh nghiệp tướng. Đó là trường hợp Supinavithi Lộ Trình Thụy Tưởng (Lộ Trình Chiêm Bao), lúc đó thấy cái này cái kia, là trường hợp đó, người đó mới có, chứ không có phổ thông.

Trường hợp 1, 2, 3  là xác định (Niyata), trường hợp thứ 4 là bất định (aniyata) có hay không có không quan trọng.

Do đó, mình cô đọng trước, trường hợp  có và trường hợp không có mình biết rồi, giờ mình trở lại vị trí của mình, trở lại hoàn cảnh của mình mình biết. Cái hay của Đức Phật và cái hay của người học Pháp của Đức Phật là phải biết giải quyết cho hoàn cảnh riêng của mình chứ không đụng với  ai hết, Ngài không đụng ai hết, và Ngài khuyến khích các học trò đệ tử của Ngài không đụng ai hết, mỗi chúng sinh có nghiệp riêng, mình lo cho mình thôi, vì mình biết mình đã tạo tác và mình biết mình phải lo chạy nghiệp báo của mình, chỉ có mình biết thôi, biết một cách chân thật. Chứ còn che lấp thì mình hại mình thôi, chứ Đức Phật Ngài không có đụng ai hết. Nên khi Sư vô Pháp Đức Phật, quyển kinh nào Sư cầm lên, hay là quyển sách nào Sư có trong tay Sư ngồi Sư nghiệm mình lo tu, quyển nào Sư cũng áp dụng được cái tu của Sư hết, chứ Sư không có đụng ai hết. Tại vì mình đụng người ta, cái nghiệp mình lo chưa xong mà đụng nghiệp của người ta mình chết mình, còn họ tạo, cây muốn lặng mà gió không ngừng, đó là chuyện của họ. Nhưng Đức Phật Ngài dạy cho đệ tử Ngài không đụng ai hết chỉ lo tu cho mình thôi. 

Minh may mắn, mình có phước, đời này mình sinh làm người có trí có Phật Pháp có Thầy hay bạn giỏi, có lời dạy của Phật mình lo không kịp thì đụng ai làm chi.

Mình có Nidrodhajhāna Thiền Diệt không? Nếu mình không có, thì tìm xem sao họ có, đường nào họ có, cái tu mình là tìm xem sao họ có

Vô Tưởng Sắc Giới: không có tâm mình có không? Nếu mình không có, thì tìm xem sao họ có, đường nào họ có. Mà đáng có không là chuyện của mình. Mình phải hỏi mình: "cái này họ có, mình không có, mà mình đáng có giống họ không?" Cái đó là ở mình. Mình cứ hỏi từng cái nhỏ nhỏ như vậy đó là chính xác.

 Rồi Cận Tử Lâm Chung có tâm nhưng không biết cảnh mình có không? Mình trả lời là: "Mình không có nhưng mình có thể biết.

Trường hợp Supinavithi Lộ Trình Thụy Tưởng (Lộ Trình Chiêm Bao), mình có không, có bao giờ mình nằm ngủ chiêm bao không? 

để hình 036 - 22.31



Lộ trình chiêm bao có khi có có khi không, khi mình có thì mình phải kiểm nghiệm lại tại sao mình có rồi mình mới giải đáp được. Mình đóng cái này lại không giải thích.

Giờ mình lo:

Thế thì trong đời sống hàng ngày, mà 4 trường hợp này; 3 cái xác định (Niyata) và 1 cái bất định (aniyata) là khi có khi không.

Thế thì, giờ câu hỏi của cô Diệu Giác muốn biết trong đời sống hàng ngày mấy cô làm sao mà mình bị lọt vô trong cảnh nghiệp, nghiệp tướng, nghiệp thú tướng.

 Câu nói mà ông bà mình hay nói: "Nhàn cư vi bất thiện", tức là người rảnh quá không có việc làm do đó họ nghĩ lung tung, cảnh họ bắt lung tung. Thì cái đó đầu tiên hết là họ rảnh rỗi quá, họ không có đối tượng, họ không có cảnh, họ không có việc, do đó, đầu óc họ lung tung.

 Thì cảnh đó thuộc cảnh nào? 

Nó thuộc cảnh không rõ, cảnh không lớn, cảnh mơ màng, cảnh mơ hồ, cảnh mờ mịt thì tâm họ bắt đầu chạy, nọ nghĩ cái này nghĩ cái kia.

Những trường hợp nào rơi vào Lộ Trình Tâm, mà rơi vào tâm Hữu Phần, mình học về Lộ Trình Tâm thì mình sẽ thấy:

- Cảnh rất nhỏ (cực kỳ vi tiểu) thì nó rơi vào tâm Hữu Phần, nó không vô Đổng Lực được 

- Cảnh không rõ (bất minh hiển) cực kỳ bất minh hiển thì nó vô tâm Hữu Phần, nó chạn ra không được. 

Đó là hai trường hợp.

- Còn nếu như có cảnh rõ mà cảnh lớn thì họ có cảnh, tâm họ vô trong đó rồi, họ cuốn trong đó rồi. Thế thì khi họ có cảnh rõ họ bắt cảnh đó họ biết. Họ có cảnh lớn họ bắt cảnh đó họ biết.

Còn trường hợp người không có được 2 loại cảnh đó thì họ mới ở trong mơ màng mơ hồ, họ không có trạng thái tâm hữu phần xen vô được.

Thế thì giữa hai cái đó có câu hỏi, vị Thầy giải thích cái đó xong, cũng như Ngài Tịnh Sự cũng vậy, Ngài giải thích xong Ngài hỏi: 

- "Vậy thì ông chọn cái nào?"

Bây giờ Sư cũng hỏi các quí cô: "Mấy cô chọn cái nào?"

1. Có cảnh rõ lớn

2. Không cảnh rõ, không cảnh lớn, mà mờ, và nhỏ.

Vậy 2 cái đó mấy cô chọn cái nào? Vế 1 là có cảnh rõ cảnh lớn mình biết, còn hơn là không có cảnh, tôi đoán tôi suy nghĩ để cho tâm tôi chạy lung tung, nó chạy theo cái nghiệp của nó, tâm viên như con ngựa hoang không có huấn luyện không có kiểm soát nó, mình để tâm viên ý mã, thì cảnh nghiệp, cảnh nghiệp tướng, cảnh nghiệp thú tướng nó xen vô liền.

 Vậy 2 cái đó mấy cô chọn cái nào

Thiền sinh hỏi: Cảnh lớn thì có na cảnh. Trường hợp na cảnh thì sao?

HT trả lời: Na cảnh cái đó là cảnh dư cảnh thừa, nó là tâm quả, nó không phải Đổng Lực. 

Còn khi có cảnh thì nó thuộc về Đổng Lực, nó tạo tác. 

Còn na cảnh là na quả, nó là cảnh thừa hưởng thôi. Na cảnh chỉ có 2 tâm sát na thôi, chứ không nguyên một lộ trình tâm.

Nếu như những tâm: 1. Nidrodhajhāna là Thiền Diệt. 2. Vô Tưởng Sắc Giới: không có tâm, 3. Cận Tử Lâm Chung: có tâm nhưng không biết cảnh, 4. Supinavithi Lộ Trình Thụy Tưởng (Lộ Trình Chiêm Bao), có cảnh là gặp Đổng Lực, còn nếu không có cảnh thì nó là tâm Hữu Phần thì nó chạn lại những cảnh cũ.

Bây giờ mình nói thí dụ: Mình thích ăn cơm nóng không thích ăn cơm nguội, cảnh cũ là cơm nguội.

Vế cảnh rõ là cơm nóng, vế cảnh nhỏ là cơm nguội.

Cảnh cũ chạn lại, mà không biết từ thời nào nó trở lại.

Cảnh rõ thì nguyên một lộ trình tâm. Cảnh không rõ thì nó cũng diễn tiến liên tục nguyên một lộ trình tâm.

Na cảnh chỉ có 2 sát na trong một lộ trình mà chỉ sau tâm Đổng Lực thôi.

Có người ngồi thiền khi cảnh nào hiện bày họ xóa liền, họ để tâm rỗng không, đó là họ muốn như vậy. 

Có ông Balamon tới hỏi Đức Phật: 

- "Tâm con rỗng không, khi con ngồi thiền tâm con không bắt cảnh." 

Đức Phật nói:

- "Chính cái đó tâm ngươi đang có cảnh."

(Trong Trung Bộ Kinh).

Cái đó thuộc tà kiến. Tâm rỗng không là tà kiến.

Mình đang sống nhưng mình không biết chọn cảnh.

 Ngay cả khi mình đang ngồi thiền, mình không muốn có cảnh, cảnh nào vô mình xóa nó, mình giống như người canh chừng máy laptop của mình, cái gì vô mình delete liền, để laptop mình trống chơn. Do đó, trong đời sống hàng ngày của họ không có cảnh thì họ đứng ở vế (2) không có cảnh. 

Thời Đức Phật cũng có những người như vậy, có những ông Balamon đến nói với Đức Phật: 

- "Con không muốn có cảnh, con sống không có cảnh, con làm chủ tâm của con, con để tâm rỗng không, không có một đối tượng nào trong tâm."

Đức Phật nói: "Chính cái đó ngươi có cảnh."

Như vậy thì cái đó là vế không có cảnh.

Bây giờ nói tới vế có cảnh. Cảnh rõ, cảnh vô lộ đi tới Đổng Lực là 2 - 6 

Đổng Lực chia làm 3:

1. Hiện báo nghiệp là 1

2. Hậu hậu báo nghiệp 

3. Hậu báo nghiệp là 7

39.19 Đổng Lực là 2 - 6, Hiện báo nghiệp là 1, Hậu báo nghiệp là 7, mấy cô phải trả cái giá đó. Cho dù nó là Thiện hay là Bất Thiện thời hiện tại mình phải chịu, mình phải dứt bỏ hay ta làm gì ta có trách nhiệm đó. 

---------------------------------------

trích đoạn từ bài 014 Paṭṭhāna,  HT Sán Nhiên giảng ngày 22 tháng 5, 2022 

đổng lực nghiệp quá khứ có 7 sát na: Hiện Báo Nghiệp,  Hậu Báo Nghiệp, Hậu Hậu Báo Nghiệp. 

Câu Sinh Nghiệp thuộc về Hiện Báo Nghiệp, có một Hiện Báo Nghiệp thôi, quả báo cho trong hiện tại, quả báo nhãn tiền là cho quả báo hiện tại. 

Nhưng Dị Thời Nghiệp có 2: 

1. Một là, Hậu Báo Nghiệp từ kiếp trước xảy ra trong kiếp kế tiếp.

2. Hai là, Hậu Hậu Báo Nghiệp, là nó qua từng sát na, 7 sát na từ sát na thứ hai đến sát na thứ sáu của Hậu Hậu Báo Nghiệp của Đổng Lực mình đã tạo tác trong các thời quá khứ, một Hậu Báo Nghiệp là một sát na thứ 7, rồi Hậu Hậu Báo Nghiệp là sát na 2 đến sát na 6 cộng lại. Trong khi Hậu Báo Nghiệp chỉ có một là sát na thứ nhất, một mà trọi 6. Khi nó có 2 thì qúi Phật tử phải có 2 đánh lại nó, đó là người trí. 

dứt trích đoạn

----------------------------------------------------

Mình chọn chỗ có cảnh thì phải đi tới Đổng Lực, mà trong Đổng Lực có 3 loại nghiệp xảy ra cho dù đó là Thiện hay Bất Thiện mình phải chịu trách nhiệm cái đó, mình phải nhận định cái đó trước, có nhân có quả. Đó là vế có cảnh.

Bây giờ nói tới vế không có cảnh.

Thí dụ:  

1. Ngồi thiền không có cảnh.

2.  không có đối tượng, 

3.  để trống không

4. theo suy niệm riêng của mình

Bốn trường hợp này.  Thì một là người ta không có cảnh. Cảnh thân, cảnh thọ, cảnh tâm, cảnh pháp. Thân, thọ tâm pháp, họ không có

1. Ngồi thiền không có cảnh, (không có Tứ Niệm Xứ, tức là không có cảnh trong Tứ Niệm Xứ, không có cảnh thân, không có cảnh thọ, không có cảnh tâm, không có cảnh pháp).

 Như vậy nói ngược trở lại, nếu người nào đang ngồi thiền mà không có một trong 4 cảnh này là họ đang sống trong cảnh không rõ cảnh không lớn.

Mình nói suông, người ngồi thiền mà không có cảnh Tứ Niệm Xứ thì tức là họ đang sống trong cảnh không rõ không lớn.

2. Không có đối tượng, là họ sống không có đối tượng. Vì sao họ không bắt được đối tượng nào hết? Vì họ không có pháp học không có pháp hành, họ làm theo quán tính, họ làm theo thói quen hay họ mới bắt đầu thực tập ngồi thiền nên chưa bắt được đối tượng, họ bắt cái gì cũng mơ mơ không rõ, không xác định được. Còn nói tới phần bắt cảnh chế định, bắt cảnh siêu lý họ hoàn toàn không biết. Họ không có đối tượng, cuối cùng họ để tâm họ miên mang.

3.  Để trống không, trạng thái trống không. Họ cũng có tâm, họ biết tâm họ đang miên mang. Mà có cảnh vô họ không biết bắt, không biết niệm, không biết giữ.

4. Theo suy niệm riêng của mình. Rồi tới một thời gian họ đi theo sự suy niệm riêng của họ.

Cũng như vậy người ta đi làm, vô trong hãng xưởng, mới bắt đầu là phải học công việc này công việc kia phải thực tập, sau khi học  xong rồi trở về vị trí của họ thì họ làm việc suông sẻ. Còn có người cũng học tập, cũng thực tập, nhưng khi trở về vị trí của họ thì họ không bắt được cái gì hết, công việc họ không nắm bắt được, tâm họ trên mây mơ mơ, công việc của họ bị tắt, họ ngồi thụ động trống không, rồi họ chạy theo suy niệm riêng tư của họ.

Nhưng khi họ ngồi trống không, cho dù đang ngồi thiền hay trong công sở, họ đốt thời gian đó, họ cũng có quả báo của họ. Có nhân có quả.

Có người lập luận: "Thà tôi để tâm trống không còn hơn tôi tạo tác nghiệp." Họ lập luận thà để tâm trống không, họ không bắt cảnh nào xác định hết, hơn là tạo ra nghiệp.

Thí dụ như người không biết việc mà không dám tới hỏi người xếp, họ để tâm trống không còn hơn làm sai bị phạt hay bị la.

Cũng như ngồi thiền không dám tới hỏi vị Thiền Sư để lấy đề mục để ngồi thiền  lại, họ ngồi im luôn, người ta ngồi mình cũng ngồi.

Ngay khi Ngài Sĩ Đạt Đa (Siddhattha) tới hỏi UddakaAlarama, sau khi chứng đạt, Ngài thấy không phải, không muốn con đường Vô Sở Hữu,  Phi Tưởng Phi Tưởng Xứ và Ngài trở về tu cho chính mình, dù rằng Uddaka,  Alarama mời ở lại chia hai số đệ tử để Ngài dạy, Ngài cũng từ chối, Ngài một mình tu tập không hỏi ai. Ngài không tạo ra vế 1 hoặc vế 2, mà Ngài đi theo con đường Ngài có và trở thành bậc Chánh Đẳng Giác.

Trường hợp đi làm mà không biết công việc thì phải hỏi người xếp để biết công việc, nhưng trường hợp không có người hỏi. Mình phải giải quyết một cách rốt ráo, không để cho mình sống trong cảnh mơ mơ màng màng trôi lăn tốn hao thời gian.

Như Ngài Sĩ Đạt Đa (Siddhattha) từ giả Uddaka,  Alarama ra đi. Lúc Ngài ở cung thành ra đi Ngài không có định hướng, đầu tiên là Ngài chạy trốn cái nghiệp cột trói ràng buột hệ lụy của gia đình đang xiết chặt Ngài trong hệ lụy phiền não đó. Ngài không định hướng, Ngài đi thật xa và cắt tóc cởi áo hoàng gia và đưa con ngựa cho Xa Nặc trở về. Rồi Ngài đi, Ngài tin là có người Thầy chỉ, tới gặp Uddaka, Ngài mừng quá, ở đó thọ giáo, gặp Alarama, Ngài mừng quá, ở đó thọ giáo. Hai nơi Ngài thông suốt luôn, Ngài đạt kết quả xong Ngài bỏ ra đi, không chấp nhận 2 kết quả đó.

Lúc Ngài ra đi, Ngài không nương tựa ai nữa, Ngài không còn tin tưởng ai nữa, tới khi Ngài thành Phật, Ngài nói: "Ai là người ta tôn kính nhất trong đời này?" Thì Ngài ngó trong tam giới; Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, "không có người nào đáng để ta tôn kính hết, mà chỉ có giáo pháp đáng tôn kính thôi. Học giáo pháp mà ta tìm ra, ta thấy ra,"  không phải do Ngài lập ra.

Khi Ngài từ bỏ thì Ngài nhớ lại, Ngài nói: "Ta phải đắc chứng đạo quả," xong Ngài nói: "Không có gì mà ta tôn kính hết trên thế gian này trong tam giới; Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới không có người nào ta tôn kính, ta chỉ tôn kính Pháp bảo thôi, là giáo pháp mà ta tìm ra, chứ không phải giáo pháp ta lập ra.

Ngài không lập ra Pháp, mà Ngài tìm ra Pháp, và Ngài thấy Pháp đó đáng tôn kính, do đó Pháp Bảo đứng hàng thứ nhì trong Tam Bảo, trên là Phật, dưới là Pháp, Tăng đứng hàng thứ 3. Tăng là chỉ y cứ theo Phật theo Pháp thôi.

Do đó, khi nói một vị Sư hay một vị Thầy giỏi thì cũng là đang nghiên cứu Phật Pháp thôi chứ cũng đứng hàng thứ 3, cái giỏi, hay, tài, là do Phật với Pháp, còn vị Sư đó không có, phải xác định là như vậy.

Vậy thì Ngài tìm ra cái Pháp và Ngài tôn kính Pháp đó. Ngài tìm ra giáo pháp và Ngài đắc chứng trên giáo pháp đó mà Ngài tôn kính, chứ không phải là Ngài lập ra giáo pháp đó.

Khi Ngài từ bỏ 2 người Thầy Uddaka Alarama, Ngài tự đi tìm con đường Ngài hành thì Ngài nhớ hồi lúc Ngài 7 tuổi theo vua cha làm lễ hạ điền thì Ngài đắc Sơ Thiền.

Ngài đi 3 bước:

1. Không thầy

2. Giáo Pháp

3. Sơ Thiền (Định)

Ngài ra đi không có Thầy, Ngài lấy giáo pháp, nhớ lại đắc Sơ Thiền lúc 7 tuổi.

Vậy thì, trong đời sống bình nhật của mình:

1. Mình không có thầy, mình sống cho chính mình. 

2. Mình có Giáo Pháp.

Ngài từ bỏ UddakaAlarama, Ngài lấy cái gì xác chứng lần 2, Ngài có giáo pháp của Ngài, Ngài mới bác được UddakaAlarama.

Ngài trở lại gốc cây ngồi, Ngài nhớ lại hồi 7 tuổi đắc Sơ Thiền, và đêm đó Ngài đắc đạo quả, Ngài từ cái Định của Sơ Thiền, và đêm đó Ngài đắc Đạo Quả, sáng hôm sau Ngài thành Phật.

Bây giờ tiếp nối bài tuần trước, giờ Sư ráp vô. Tại kỳ trước Sư nói chưa hết.

Ngài trở lại Sơ Thiền, mà Sơ Thiền từ chỗ nào mà Ngài đắc Đạo Quả? Ngài phải từ cái Định, tâm Ngài phải Định, những cái trước là tâm Ngài động, Ngài tới ông thầy tâm Ngài động, Ngài từ bỏ thầy đi tâm Ngài động, Ngài chưa có cái gì hết, nhưng Ngài biết ở trong đầu Ngài là phải có giáo pháp, giáo pháp của ông thầy là không phải, do đó Ngài phải từ bỏ hết, Ngài ngồi xuống Định lại lắng xuống và thấy được.

Ngài tới ông thầy Ngài bị động, lúc chưa tới ông thầy Ngài cũng bị động, rồi ra khỏi ông thầy Ngài cũng bị động. Ngài nói: "cái tâm động này không giải quyết được gì hết. Ngài nhớ lại lúc Ngài có tâm định, đó là lúc Ngài 7 tuổi Ngài đắc Sơ Thiền, Ngài trở lại cái đó là gốc của tâm Ngài.

Vậy thì trong đời sống hàng ngày, cho dù 2 vế có cảnh rõ và không có cảnh rõ mấy cô có mà tâm mấy cô đang động mấy cô không có định không có giáo pháp.

Lúc Ngài học với 2 vị thầy UddakaAlarama Ngài cũng có định khi đắc thiền nhưng không phải định Ngài muốn, mà Ngài muốn cái định từ Sơ Thiền Ngài đắc khi Ngài 7 tuổi. Ngài đắc Vô Sở Hữu Xứ, rồi Phi Phi Tưởng Xứ, nhưng hai cái đó là hiệp thế. Cái định của Sơ Thiền cũng là của hiệp thế nhưng cái định này tâm Ngài không giao động. Cái định kia tâm Ngài bị giao động, tại vì Ngài đang bị giao động với trạng thái Ngài không chấp nhận cái này không chấp nhận cái kia, nên Ngài bỏ đi.

 Mình cũng bị kẹt cái đó. Trong đời sống hàng ngày của mấy cô nếu không có Định thì cho dù đang làm việc thiện tâm của mấy cô cũng bị gạt, là mấy cô đang tạo tác nghiệp luân hồi.

Lúc Ngài ngồi một mình Ngài nhớ lại hồi 7 tuổi Ngài đắc Sơ Thiền, ở chung quanh Ngài cảnh rất là ồn người rất đông và mặt trời chiếu xuống Ngài đều bị che lấp hết với thiền định của Ngài, nó xoay chung quanh Ngài chứ không làm Ngài bị ảnh hưởng, Ngài nhập định một ngày trời, vua cha trở lại đảnh lễ Ngài.

Thì mấy cô nhớ khi mấy cô làm việc thiện, trong việc thiện mấy cô không có định, cô Anumodanà hoan hỉ với thiện, cô biết là có phước nên cô tạo tác một thiện nghiệp lực thì nó có quả nghiệp lực. Không nói tới phần bất thiện, bất thiện còn dữ hơn.

Do đó, với cảnh đông người và mặt trời chói vào Ngài, Ngài ngồi trong trạng thái tĩnh lặng trong một ngày trời. Ngài nhớ lại và lấy cái đó đi tiếp sáng hôm sau Ngài đắc đạo quả.

Việc nhập thiền Diệt Nidrodhajhāna là họ có đối tượng, có cảnh, bậc Anaham, Alahan có đối tượng có cảnh. Cảnh Phi Phi Tưởng Xứ, do đó họ vô được thiền Phi Phi Tưởng Xứ Nguời nhập Thiền Diệt là người đó phải có cảnh của họ là Phi Phi Tưởng Xứ, rồi khi tới Phi Phi Tưởng Xứ đó họ mới để tâm của họ vô không có được và tâm Phi Phi Tưởng Xứ mới rớt xuống, đề mục mới rớt xuống và Ngài định trong cảnh kia, không có bắt cái này.

Khi cô làm việc bất thiện còn nặng nữa, bất thiện cô tạo ra làm cô bị trạo hối, trạo cử, phóng dật. Còn làm thiện mình ở trong cảnh chứ không giữ tâm mình để thoát ra. 

Anh này vô tới thiền Phi Phi Tuởng Xứ anh giữ tâm mình lại, tâm Phi Phi Tưởng Xứ rớt xuống, tâm không sinh.

Ở đây mình trong cảnh thì ra nghiệp.

Nên Sư nói cái đường họ có mình phải tìm, mà không có mình phải có, không có không được, thì mình ra được, do đó, khi vô được Phi Phi Tưởng Xứ cô ở trong đó, cô không chịu giữ tâm lại để mà chạy theo thì tâm mới cắt được, tâm rớt xuống, tâm không sinh nữa, tâm không đi theo đề mục này nữa. Chứ lúc vô Thiền Diệt họ phải vô Phi Phi Tưởng Xứ, họ đi theo cảnh đó, đi từ Sơ Thiền họ có cảnh Sơ Thiền, đi Nhị Thiền họ có cảnh Nhị Thiền, họ đi theo cái đó, tới Phi Phi Tưởng Xứ họ biết dừng lại lúc nào, 2 sát na thôi, tâm đứng lại thì tâm rớt xuống liền không bắt cảnh Phi Phi Tưởng Xứ, tâm không sinh.

Ngài đắc được Sơ Thiền là định trong tâm của Ngài chứ không phải Ngài định trong cảnh, do đó Ngài mới đứng lại.

Còn cái này mình tạo thiền nghiệp, mình vô trong cảnh thiền này mình không đứng tâm mình lại, mình chạy theo đó luôn nên ra hiện báo nghiệp, hậu báo nghiệp, hậu hậu báo nghiệp.

Upatissa vừa nghe ĐĐ Assaji nói tâm dính vô cái đó chặc liền thì Ngài đắc Sơ Đạo Sơ Quả. Còn nếu chạy theo nó thì không đắc Sơ Đạo Sơ Quả. Upatissa nghe một cái pháp Ngài giữ tâm lại liền không chạy theo cảnh nữa, Ngài đắc đạo. Còn mình thì mình chạy theo, mình để tâm mình chạy theo mà còn hoan hỉ nữa.

Anh này đang có Phi Phi Tưởng Xứ, đang có tứ thiền Sắc Giới, anh cắt cảnh đó, anh giữ cái tâm lại là rớt cái tâm liền. Còn khi hết cái nguyện đó tâm sinh trở lại bắt cảnh lại và đi tục sinh. 

Thì anh này ra khỏi Thiền Diệt tâm trở lại liền có cảnh bắt trở lại liền.

1) Có cảnh: 

- Có cảnh Phi Tưởng Vô Sắc Giới

- Có cảnh Tứ Thiền Sắc Giới

- Có cảnh Cảnh Nghiệp, Cảnh Nghiệp Tướng.

2) - Chạy theo Cảnh ! 

- hay là giữ tâm !

Nói ra cái gì đó mình phải có trí để mình giải quyết hết chứ không chịu thua.

Vậy thì, khi đang làm việc thiện cô chạy theo cảnh hay giữ cái tâm, minh không bao giờ giữ tâm, cảnh nào mình cũng vô hết.

Mình có cảnh hết nhưng mấy cô chịu dừng lại không có giữ tâm mình lại hay chạy tuốt luốt theo. 

Do đó, cô mới nhớ lại coi khi nhập Thiền Diệt hay nhập Thiển ngọa, ngay cả lúc Niết-bàn cũng vậy, người ta nói là có 3 điều hay 4 điều để mình lập nguyện trước diễn trình kỳ hạn hay tuổi thọ hay là vật dụng không bị hư hoại, mấy cái đó lập nguyện xong phải trở lại cái nguyện là muốn đắc đạo quả hay muốn nhập Thiền Diệt. Mình phải có cái đó thì lúc đó mới hiệu quả.

 Từ đó mình mới thấy. Mình sống theo tập khí nhiều hơn là niệm, mình sống nhiều theo thói quen tập khí hay là kiết sử mình nhiều hơn là Niệm và Tỉnh Giác. Mình sống theo Niệm và trí tuệ khó lắm, cảnh nào mình của bắt hết.

Thiền sinh hỏi: Khi mình giữ tâm là mình bắt đầu đi vô định được phải không?

HT trả lời: Không phải, cái đó là bước thứ 2. 

Bây giờ mình học phần này quan trọng,  mình không chạy theo cảnh. Mình giữ tâm mình lại thì mới vô được nguyện của mình. Rồi mình thấy cảnh nghiệp tới trong giờ phút cận tử lâm chung điềm báo nó báo rồi, thì mình giữ tâm không chạy theo.

Câu hỏi của người trí: Thế giữ cái tâm có cảnh, làm sao để giữ tâm, cảnh gì cho mình giữ tâm? Tâm mình đang muốn giữ, giữ cảnh nào?

Vì tâm phải có cảnh, vậy giữ cảnh nào?

Mình sống trên đời này mình nói mình là một nạn nhân, mình khổ ghê lắm, người ta tạo ra những bất hạnh những khổ đau trút vô người mình thì mình có 3 cách để mình giải quyết chuyện đó.

Mình là nạn nhân có 3 cách giải quyết cái khổ nạn của mình:

- Trả thù

- Bỏ qua

- Tạo mới

Trong 3 cách này mình đi cách nào ?

Kinh Pháp Cú, kệ ngôn 03, 04

Ai ôm niềm hận rằng:

"Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi"

Hận còn mãi khôn nguôi


Ai không ôm niềm hận:

"Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi"

Hạn thù ắt tự nguôi

Mình không thù, không bỏ qua, vì bỏ qua là còn nhớ lại, còn trả thù là mình khắc ghi. 

Còn tạo mới là mình có giáo pháp mình đi theo giáo pháp, mình không đụng ai, và không ai đụng mình, mình đi con đường của mình, mình thắp đuốt lên đi, mình tự nương tựa chính mình, lấy giáo pháp làm thầy và tự mình y chỉ lấy chính mình. Không trả thù, không bỏ qua, đó là không nhắc tới, không đụng chạm, và coi như không có gì hết. Mình lấy giáo pháp mình nương theo giáo pháp. 

Lúc đó tâm bắt đầu định. Còn không tâm sẽ bị giao động, dù chỉ nghe chuyện gì đó là mình gợi nhớ lại liền. Mình phải có cảnh. Tâm phải có cảnh, mà cảnh này là cảnh giáo pháp chứ không phải cảnh đối tượng của mình.

Nên khi Ngài nhớ lại hồi 7 tuổi Ngài không có ai là thầy, Ngài ngồi dưới gốc cây và Ngài sống trong định của Ngài do chính Ngài có Ngài mới đi được. Còn các quí cô mà sống trong đời này mà đang làm thiện mà cô còn nhớ của mình thì nó sẽ ra một cái vòng tròn.

Lấy giáo pháp. Thế thì giáo pháp mà Ngài định, Ngài định trong cái đó với giáo pháp đó Ngài đi đến đạo quả cái gì Ngài đang có.

 Như vậy thì khi mình tạo cái mới này với giáo pháp, chỉ có Pháp, không có người.

 Ngay khi mấy cô đang làm thiện nghiệp tâm mấy cô không có định, mấy cô đang chạy thiện nghiệp, đừng nói chi bất thiện nghiệp, bất thiện nghiệp còn làm xáo trộn hơn nữa.

Tạo mới là lấy giáo pháp làm thầy, nương tựa vào chính mình. Ngài đã trải qua, Ngài nói lại cho Ananda, bây giờ mình nghe. 

Nhưng câu hỏi của mình là mình tạo mới làm sao để đi đến Đạo Quả, làm sao để giải thoát qua khỏi thiện nghiệp, qua khỏi bất thiện nghiệp nhân và quả thì mình ra con đường giải thoát, ngay khi đang sống trong hiện tại này. Khó lắm, nhà Sư cũng vậy đó, người xuất gia cũng vậy đó. Họ nói vậy chứ, thật ra khi họ đang nói họ đang sống với cảnh họ đang nói chứ họ không giữ cái tâm được. Các quí Thầy quí Sư, các vị mà đang thuyết giảng cho hội chúng để hội chúng hiểu thì họ đang chạy với cái cảnh đó chứ không với cái tâm định để họ thoát cái cảnh lôi kéo của nghiệp báo

4) Cảnh trong Tâm Niệm Xứ, là tâm có cảnh Niệm Xứ, cảnh trong này có những diễn biến và mình để ý theo nó chứ mình không giữ được tâm mình, mình chỉ có Niệm thôi chứ không có Tỉnh Giác để giữ tâm và Tỉnh Giác mình đang Niệm, chứ không Tỉnh Giác để giữ tâm. Do đó, mình phải ra được tâm của mình và giữ tâm mình, mà nó có cảnh của nó và tâm và cảnh đó mình đạt được.

1. Không thầy

2. Giáo Pháp

3. Sơ Thiền (Định)

Cho dù mấy cô đứng vế bên nào cảnh cả hai mình đều không muốn. Mình đứng trong thế Sơ Thiền (Định) của Đức Phật và Ngài dạy và đứng trong thế bên đây là giữ tâm không chạy theo cảnh thì tâm không sinh, tâm không có cảnh.

Thế thì tới Phi Phi Tưởng Xứ, 2 sát na tâm thôi, cắt đứt liền, tâm sẽ không sinh.

Sư thí dụ, Boy Cow, Girl Cow làm xong phận sự họ đi liền, họ không ở lại để mà được khen được tặng. Những người Boy Cow, Girl Cow họ sống  trong tâm họ đang có chứ không phải họ sống trong cảnh mà tâm đang chạy theo.

Mình sống trong tâm mình đang làm, không sống trong cảnh mà tâm đang chạy theo. Chính cái đó mình mới làm chủ, còn không mình có chủ của nghiệp (nghiệp chủ  Kammassakatā) . 

Cái đó Sư sẽ giải đáp cho mấy cô giữ cái tâm với phần chúng ta đang giải đáp bài học tuần trước.

 Phần kỳ trước Sư đang nói về Túc Mạng Minh, sau tới phần Sinh Tử Trí hay Thiên Nhãn Tri rồi tới Lậu Tận thì nó ăn khớp vô tâm, không có lạc đề./. 


Friday, December 1, 2023

035 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 15 tháng 10, 2022

 035 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 15 tháng 10, 2022 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "035 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Khi kết tập Tam Tạng các vị tăng trẻ không được vô, họ ở ngoài nói là những vị trưởng lão đang giáo giới mình.

Thera là Trưởng Lão

vada là giáo giới

Theravadā là Trưởng lão giáo giới, sau thành hệ pháp Theravadā.

Thời Đức Phật không có Theravadā, chỉ có Đức Phật Ngài giáo giới thôi chứ không có ai giáo giới. Bây giờ bắt đầu Theravadā có 500 vị giáo giới, người nào nghe thì đi theo, còn không theo thì bỏ lên miền bắc. Thì lúc đó luận sư ngoại đạo không làm lại Đức Phật lúc Ngài còn tại thế, họ mới rút về miền bắc được các vị vua ở miền bắc ủng hộ tại vì họ có bùa chú nên các vị vua ủng hộ, nuôi dưỡng cho tiền bạc thì mấy ông Sư trẻ đi theo nhập vào nhưng vẫn giữ y áo không đổi hình tướng, bắt đầu được truyền dạy Tam Vệ Đà. Bên Đức Phật có Tipitaka là Tam Tạng. Luận Sư ngoại đạo họ dạy Tam Vệ Đà, rồi lấy cái đó làm cỗi gốc rồi đi truyền bá thâu đệ tử, rồi bắt đầu chia ra nhiều tông phái.

Sau 1,000 năm hình thành 18 tông phái số lượng đông hơn số lượng Theravadā nên gọi là Đại Chúng Bộ Mahāyana.

Các quí Ngài trong Theravadā Trưởng Lão Giáo Giới vẫn giữ nguyên truyền thống của Đức Phật dạy.

Còn số lượng đông chia làm nhiều tông phái gọi là Đại Chúng Bộ Mahāyana

Kỳ  lễ Kathina năm nay, ông Udom ngồi nơi bàn ăn, ông tài xế lái xe hỏi chùa mình đây Therawat hay là Mahāyana, ông nói chùa đây là Therawat (tiếng Thái), ông nói vậy sao giống như bên VN, thì ra ở chùa Đông Hưng ở Virginia Beach của thầy Chúc Độ thuộc phái Mahāyana cũng mời mấy ông này đến dự lễ Kathina. Thì người ta sẽ nhìn vô VN mình toàn là Đại Chúng Bộ Mahāyana, chứ người ta không nhìn Theravadā Trưởng Lão Giáo Giới, vì nó đang xen lẫn vô, chúc độ ở dưới đất, chúc đạt, chúc đạo nó chen vô, họ làm vậy đó. Thì người quốc giáo họ nhìn họ thấy, Sư đi qua bên Thái họ nói VN đâu có Therawat Trưởng Lão Giáo Giới  chỉ có Đại Chúng Bộ Mahāyana là từ sau khi Đức Phật Ngài tịch thì số tăng trẻ không được vô dự kết tập Kinh Tạng họ bỏ lên miền bắc, thì những luận sư ngoại đạo gia nhập vô nhét giáo hóa của Tam Vệ Đà vào rồi sau đó cho phát triển đầy đủ số lượng rồi họ trở xuống miền nam giết 60, 000 nhà Sư của Therawat đập phá chùa chiền tượng Phật, chặt cây Bồ Đề, lịch sử có ghi lại, số Chư Tăng còn lại chạy trốn. Sau khi giết hại phái Theravadā Trưởng Lão Giáo Giới , thì bên phía Balamon giết lại mấy ông sư Đại Chúng Bộ Mahāyana, thì mấy ông sư này hết đường chạy nên chạy vô trong hang núi dưới dãy núi Himalaya và thành lập phái Mật Tông, họ phải sám hối bằng cách trải dài người dưới đất, và họ không được đọc tiếng Pali, họ đọc tiếng Sanskrit, họ ẩn mình trong núi.

Thời Đức Phật không có gì là mật. Nhưng khi họ giết thầy của họ, mấy ông sư được nuôi trước kia rồi chạy theo luận sư ngoại đạo sau đó trở về giết 60,000 Sư thầy là các vị Trưởng Lão Giáo Giới Theravadā trước kia là thầy của họ, sau đó bị mấy người Balamon giết lại những người này, thì thuyết đó là ông Tào Tháo học, ông nói; "ngươi phản thầy ngươi thì ngươi phản lại ta, ngươi phản chủ ngươi thì ngươi sẽ phản lại ta", do đó Tào Tháo giết luôn không dùng. Thì mấy sư trẻ vừa giết thầy của mình xong thì bị người Balamon giết họ không có đường chạy, chạy theo mấy ông này không được tại vì mấy vị truyền đạo xuống miền nam là nước Tích Lan là Mahinda với người em gái là Singhamiha đã đắc quả Alahan xuống tàu đi Tích Lan mang theo Tam Tạng với cây Bồ Đề dấu trong búi tóc, cây Bồ Đề giờ đã phát triển bên Tích Lan. 

Thì mấy ông Balamon giết mấy ông học trò này không chạy theo mấy thầy của mình được nữa, cửa bên Tích Lan đóng rồi, mấy ông chạy ngược lại dãy núi Himalaya ẩn trong mấy hang động lập ra phái Mật Tông, xây dựng tu viện  Sampasampala là của mấy ổng.

Hiện bây giờ những kinh điển viết trên lá bối còn dư xót của các vị Trưởng Lão mà Ngài Mahinda đem xuống Tích Lan, thì các vị Mật Tông đó họ còn lượm được, tại vì khi họ vô giết các vị Trưởng Lão thì kinh điển còn ghi trên lá bối chưa diệt được thì các ông Mật Tông mới lượm đem vô nghiên cứu, rồi họ mới truyền thừa ra là ông Đạt Ma này chết thì tục sinh ông Đạt Ma khác, ông nhỏ đi lên. Thì bầy giờ mới lộ ra, ông Đạt Ma 14 nói đời của ông là hết, người của đài BBC hỏi, nếu vậy thì sẽ tục sinh thành người nào? ông trả lời một người đàn bà sẽ là tục sinh của tôi, mà người đàn bà đó là người Tây Phương chứ không phải là người Đông Phương, thứ hai nữa người đó rất là đẹp. Trong khi đó, bên Trung quốc nói họ có vị Đạt Ma thứ 15 rồi, họ chống liền, cái đó coi như là phá hết. Nên các quí Phật tử mình phải cẩn thận. Mật Tông là sau khi giết thầy rồi trốn trong hang núi lập tông phái bí mật, họ sám hối nằm nguyên người trải dài ra.

Theravadā là Trưởng Lão Giáo Giới, VN dịch là Phật Giáo Nguyên Thủy không đúng với từ vựng Pali này,  Thera là Trưởng Lão, vada là giáo giới hay là giáo dưỡng, nên dịch là hệ phái Theravadā là Trưởng Lão Giáo Giới là nguyên gốc. Còn Đại Chúng Bộ Mahāyana là số lượng đông.

Thái Lan Theravadā chia thành 2 phe; phe hoàng tộc vua mà xuất gia đi tu gọi là Dhammayutta là chính phái, còn dân giả như mình gọi là Māhanikāya là chính bộ, người dân đi tu thì không được vô hệ Dhammayutta, như Ngài Tịnh Giác, Sư hỏi Ngài qua bên Thái Lan 18 tuổi Ngài tu theo loại gì? Ngài trả lời: Dễ gì mà tu được ở Dhammayutta mình chỉ được tu ở Māhanikāya thôi, mặc áo màu cam, còn ở Dhammayutta mặc áo mầu rêu đất, như mấy quí Sư đi dự lễ ở chùa mình là thuộc Māhanikāya mà ông Sư Udom mà đi tới chùa Hoàng Thái vừa rồi là phái Dhammayutta là thuộc phái hoàng tộc, khi họ đi tu họ không qui y với mấy Sư Māhanikāya, họ qua Tích Lan tu rồi trở về chùa hoàng Thái. Dù trong Māhanikāya có vị Trưởng Lão 70 tuổi hạ họ cũng không qui y làm thầy, mà qua Tích Lan qui y. Nên phe tu ở Tích Lan trở về lập ra Dhammayutta, chính mấy ông Tích Lan mới là chính gốc, tại vì Ngài Mahinda đem đến, còn Māhanikāya họ không chịu.

Cũng như bây giờ Cambot sau năm 1979, nghĩa là sau năm 1975 cộng sản Pol Pot vô tiêu diệt hết thì năm 1979 Chư Tăng VN qua, Ngài Hộ Tông, Ngài Bửu Chơn, Ngài Vĩnh Nghiêm, Ngài Hộ Giác đi qua gồm 7 Ngài truyền giới cho các Sư Cambot, mấy Sư người Cambot không chịu tu theo  quí Ngài VN, họ nói Sư VN là họ trò của mình mà bây giờ làm thầy của mình, nên họ qua Thái Lan tu rồi khi trở về cũng sinh hoạt nhưng không vô giáo hội của Sư Tep Vong là Tăng Thống của giáo hội Cambot nhưng thọ giới với Chư Tăng VN.

Do đó, bây giờ Cambot thành hình 2 phe là Tep VongBum Sum, Bum Sum thì mất rồi, vị này là một trong 40 vị viết Tam Tạng của Cam Bốt, Ngài mất rồi. Còn Tep Vong thì cai quản hết giáo hội Cam Bốt. Một số các vị sang Thái Lan tu rồi trở về Cam Bốt nhưng không gia nhập vào giáo hội của Ngài Tep Vong.

Cũng như một số nhà Sư VN sau này không chịu tu với các Ngài Trưởng Lão của VN, họ xuống Trà Vinh, Rạch Giá, Sóc Trăng tu với các Sư Khmer.

Vậy thì, tại sao mình chia ra nhiều? Là sau khi Đức Phật viên tịch 1,000 năm tới 2,000 năm sau chia ra 18 tông phái. Sự tích câu chuyện này nằm trong bộ thứ 5 của Abhidhamma Bộ Ngữ Tông Kathavatthu. Sư sẽ viết bộ này, Ngài Tịnh Sự dịch ra rồi nhưng Ngài dịch tóm tắt. 

Bộ Ngữ Tông Kathavatthu chia ra 500 luận thuyết, gọi là tranh cãi nhau đúng sai trong bộ thứ 5 này. Thì Moggalliputta Tissa dịch là Mục Kiền Liên Tử, vị này là Alahan sau Phật lịch 1,000 năm Ngài kết tập Tam Tạng lần thứ III tại Ấn Độ, rồi sau đó qua Tích Lan rồi qua Miến Điện. Thì vị này làm lại bộ Kathavatthu Bộ Ngữ Tông này là 1,000 câu. Thời Đức Phật chỉ có 500 câu, sau đó Ngài Moggalliputta Tissa Mục Kiền Liên Tử chú giải 500 câu này. Đức Phật Ngài đã nói trước là sau khi Đức Phật viên tịch thì giáo pháp bị phân hóa chia ra nhiều tông phái. Rồi bên đây, bên kia nói tôi đúng anh sai bắt đầu kình cãi nhau, hơn thua nhau.

Rồi từ đó, quí Phật tử phải nhớ nói lại cho con cháu mình biết là các quí Ngài không có lấy Chánh Tạng làm gốc mà lấy tư kiến mình làm gốc, chỉ nói không, nói tôi đúng, mà không nói trong Chánh Tạng, bây giờ mấy bộ sách này ra mới có chứ các quí Ngài không có. Thành ra mới sinh ra tranh cãi. Còn nếu như mình có Chánh Tạng thì cứ theo giáo pháp mình nói thì không có tranh cãi được.

Do đó, các quí Phật tử trẻ tuổi là phải gìn giữ riềng mối này là phải có Chánh Pháp ở trong nhà hay trong kiến thức của mình để mình giữ mối này, các quí Phật tử phải có để làm dẫn chứng thì các con cháu mình mới biết mà đi theo đúng được, chứ còn không tới thời 100, 200 năm nữa, đời Sư qua đi rồi thì coi như rã nát, vì không có Chánh Tạng, không có Chánh Pháp, và không có người truyền lại cho mình. Cái đó là cái sai lầm, hay là một sự thất thố, thua thiệt của Phật Pháp của mình. 

Mà đó là vận mệnh, tại vì, Đức Phật Ngài để lại 5,000 năm giáo pháp mà nay là năm 2566 rồi, qua hơn nửa rồi, qua 2566 rồi, mà trong câu chuyện, khi Đức Phật Ngài nhận lời Ananda cho người nữ vô xuất gia làm tỳ khưu ni là giáo pháp đã mất một nửa rồi. 

Đức Phật Ngài đắc đạo quả và các vị Chư Thinh Văn đắc đạo quả, 2 cái khác nhau. Thí dụ như Ngài Sariputta đắc đạo quả cách khác, Ngài Moggallàna đắc đạo quả cách khác, Đức Phật Ngài đắc đạo quả khác. Đối với Đức Phật Ngài trong 3 canh Ngài đắc 3 cái giác. Nhưng đối với các hàng Thinh Văn của Đức Phật thì có 2 hạng, sau này quyển I in ra quí Phật tử sẽ thấy được một hạng là Thinh Văn hữu học tức là bác học là bậc Alahan, bác học là phải thông suốt Patisambhidā Tứ Vô Ngại Giải, tức là người uyên bác; biện vô ngại giải, lý vô ngại giải, pháp vô ngại giải, từ vô ngại giải.

Có một hạng là Alahan không có Patisambhidā Tứ Vô Ngại Giải tức là Thinh Văn Giác Alahan họ không thuyết giảng. Do đó, mỗi một người khác.

Và cái khác nữa là 

Thinh Văn Giác, đệ tử của Đức Phật đắc đạo quả khác

Bậc Chánh Đẳng Giác đắc đạo quả khác, Ngài đắc 3 giác: Giác thứ nhất là canh 1, giác thứ 2 canh hai, giác thứ ba canh 3. Thời đó Ấn Độ có 3 canh, sau này mình chia làm 5 canh, một canh của mình chia làm 2 tiếng, còn thời Đức Phật 1 canh là 4 tiếng. 

Canh 1 từ 6 giờ chiều tới 10 giờ đêm. 

Canh 2 từ 10 giờ đêm tới 2 giờ sáng

Canh 3 từ 2 giờ sáng tới 6 giờ sáng

Thời của mình một canh chia 2 giờ. Mình lấy nửa đêm giờ tý canh ba,  làm cái mốc là canh ba, 

Thí dụ:  nửa đêm 12 giờ là giờ tý - là canh 3.

Canh 1 là 8 ----> 10

Canh 2 là 10 --> 12

Canh 3 là 12 ---> 2 (nửa đêm 12 giờ là giờ tý - là canh 3)

Canh 4 là 2 ----> 4

Canh 5 là 4 ----> 6

Canh 1 là 8 --> 10, lấy mốc thời gian là 8 giờ.

Là thời của mình sau này

Còn thời Đức Phật - Ấn Độ có 3 canh thôi, lấy mốc thời gian là 6 giờ.

Cũng như ở trên nước Mỹ mình ở có 4 mùa; xuân, hạ, thu, đông. 

Bên Ấn Độ có 3 mùa là mùa nóng (kiết hạ), mùa mưa (kiết vũ), mùa lạnh (kiết đông). 

Đối với Đức Phật, bậc Chánh Đẳng Giác nào cũng vậy, sau này Đức Phật Di Lặc Maitreya, hay 3 vị Phật trước là Kakusandho, Konagāma, Kassapa, Phật thời mình là Gotama, Phật vị lai là Maitreya 

Phật quá khứ: 

Kakusandho, 

Konagāma, 

Kassapa,

Phật hiện tại là Gotama

Phật vị lai là Maitreya 

Mấy vị này đến với giáo pháp của mình các Ngài đắc chứng giống nhau:

1) Canh 1, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đắc Túc Mạng Minh hay Túc Mạng Tùy Niệm Trí Tiếng Pali Pubbeanussayasati ñāṇa này là gốc, còn viết là Pubbenivāsānussaṭiñāṇa

Pubbe là túc mạng

nivāsānussaṭi là tùy niệm

ñāṇa là trí

Quyền Paṭṭhāṇa quyển màu xanh hay quyển màu đỏ, kiếm phần Thường Cận Y Duyên hay Cảnh Cận Y Duyên, có nói mấy trí:

- Thần Túc Trí, 

- Tha Tâm Trí, 

- Túc Mạng Tùy Niệm Trí, 

- Tùy Niệm Giác Trí, 

- Vị Lai Thiên Giác Trí, 

- và Tâm Khai Môn, nằm trong phần Cận Y Duyên.

Đi từ ngũ thông đến lục thông, Đề Bà Đạt Đa chỉ tới ngũ thông thôi, còn Ngài Sariputta, Moggallàna, thì lục thông, thì các quí Ngài đi (thứ tự không quan trọng) :

- Thần túc thông, 

- Tha tâm thông, 

- Túc mạng thông, 

- Thiên nhĩ thông,

-  Thiên nhãn thông,

-  Lậu tận thông. 

Thần túc thông Iddhi-vidha là một người biến thành nhiều người, có năng lực thần thông bay đi khắp nơi, như bà Yasodhara Đức Phật kêu là Bin Ba, khi bà sắp sửa viên tịch bà đến lạy Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn, nay con xin viên tịch". Thường thì các bậc Thinh Văn Giác trước khi viên tịch đến đảnh lễ Đức Phật giống như cáo từ xin phép đi. Thì bà Yasodhara đến đảnh lễ Đức Phật xin đi viên tịch. Thì Đức Phật Ngài nói: "Này Bin Ba, ngươi nên làm những điều lợi ích gì ngươi nên làm." Thì lúc đó bà Bin Ba biết liền, bà có thần túc thông, bà đang đảnh lễ Đức Phật thì ba lui ra bà hóa phép thành người cao lớn hơn cả chánh điện, rồi bà thu lại, rồi bà lại hóa phép cao lớn, rồi ngồi xếp bằng kiết già và hiện ra 100 người Bin Ba, rồi thu lại, và đi tới đi lui, xong rồi bà dùng lửa tam muội kasina hỏa thiêu. Đó là bà có Thần túc thông.

Cũng như Đức Phật Ngài với các Chư Tăng trên đường đi về để độ vua cha bị rồng chúa Nandopananda tà kiến, xòe đuôi chặng đường đi trên núi, Đức Phật xuống núi ngồi, Chư Tăng xin đi hàng phục rồng chúa Nandopananda, Đức Phật Ngài làm thinh Ngài không đồng ý. Ngài Mục Kiền Liên xin đi hàng phục rồng chúa Nandopananda. Đức Phật Ngài nói: "này Mục Kiền Liên nên làm những gì nên làm."

Thì Mục Kiền Liên đi đến ép con rồng chúa sát vào núi, rồng chúa Nandopananda nói: "Đánh lén không hay, đánh trước miệng ta mới hay"

Ngài Mục Kiền Liên nói: "Ta đi từ miệng ngươi vô."

Rồng chúa Nandopananda há miệng ra, Ngài Mục Kiền Liên đi vào miệng nó, nó táp Ngài nhưng vì Ngài đi lẹ nên nó táp hụt, Ngài vào miệng nó và Ngài đi kinh hành. Nó nói: Ngươi đi nhanh quá ta không táp kịp.

Ngài nói: "ngươi mở miệng ra ta đi ra, ta sẽ đi chậm"

Tức là không đánh lén, không đánh nhanh, mà đánh đúng ý nó. Ngài vừa đi ra thì Rồng chúa Nandopananda phun lửa ra thì Ngài nhập đề mục lửa và thổi ngược lại lửa táp vào râu cháy hóa thành người nam, Ngài chụp nó đem đến cho qui phục Đức Phật. Đó là Thần Túc Thông.

Khi Đức Phật Ngài về độ hoàng thân quốc thích, Ngài hiện song thông, tức là mỗi lỗ chân lông của Ngài, bên đây lửa, bên đây nước, mỗi lỗ chân lông đều có lửa và nước, để hàng phục tất cả hoàng thân quốc thích, họ ngã mạn, khi Đức Phật về họ không đảnh lễ Đức Phật, họ đưa con cháu ra, còn các vị trưởng lão bác chú của Ngài không ra đảnh lễ Ngài. Đức Phật Ngài biết nên Ngài muốn độ nên hiện ra song thân, rồi đi qua đi lại trên bầu trời, rồi nước và lửa phóng ra, lúc đó hoàng thân quốc thích cùng với vua cha là vua Tịnh Phạn mới quì xuống đảnh lễ:

"Con đem hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Đức Phật." 

Trong bài kinh Sám Hối Phật Bảo.

Thì lúc đó Ngài đánh cho bụi cát bay lên, vi trần là bụi cát. Câu kinh này trong bài kinh Sám Hối Phật Bảo.

"Con đem hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Đức Phật." Là câu kinh mà hoàng thân quốc thích của Ngài đọc khi sám hối với Đức Phật, tại vì họ ngã mạn. Thì lúc đó Ngài mới hạ xuống, còn không Ngài đi xẹt xẹt làm bụi bốc lên.

Còn câu: "Con đem hết lòng thành kính hai hạng Pháp Bảo là Pháp Học và Pháp Hành"

Hoặc câu: "Con đem hết lòng thành kính hai bậc Tăng Bảo là Phàm Tăng và Thánh Tăng." 

Mình phải nói rõ "hai hạng" và "hai bậc."

Thì khi Đức Phật Ngài hiện song thân bên nước bên lửa là Ngài hiện thần thông Thần Túc Thông. Năng lực đó chỉ có Đức Phật Ngài hiện bày song thân thôi, các quí Ngài khác không làm nổi.

Lục Tận Thông tới Alahan mới có. Còn ngũ thông thì hàng phàm phu cũng có, đắc được ngủ thiền là có thể đắc thần thông được.

Đề Bà Đạt Đa đắc ngũ thông. Đề Bà Đạt Đa muốn hàng phục  A Xà Thế để cướp ngôi vua cha là Bình Sa Vương, ông hiện thân con rắn nằm trên đùi A Xa Thế là Thần Túc Thông, nhưng sau tâm ông sân ông bị hoại thiền mất hết thần thông, bắt đầu nghiệp trổ ra nữa ông đọa địa ngục luôn.

Còn Tha Tâm Thông là biết tâm của người, tức là họ nhập định vô họ đọc được tâm của mình đang hiện bày sinh diệt cái gì. Như Mục Kiền Liên mỗi sáng Ngài đi bát, Ngài người Ấn Độ thuộc dân da đen, Ngài Xá Lợi Phất và Đức Phật người Nepal thuộc dân da trắng, Ấn Độ có 2 phe dân da đen và dân da trắng. Thì có cô kỹ nữ thương Ngài Mục Kiền Liên, cứ mỗi sáng Ngài Mục Kiền Liên đi ngang qua nhà bà, bà đi theo ngó tướng Ngài Mục Kiền Liên ôm bát. Bữa đó Ngài Mục Kiền Liên biết, Ngài đứng lại, Ngài nhập định ngài dùng tha tâm Ngài đọc được tâm cô đó là đang ái luyến. Ngài nói: "Nhìn cái gì trong xác thân này ngoài da bọc mủ máu tanh hôi." Ngài độ bà kỹ nữ thức tỉnh, bà không đem tâm ái luyến nữa, bà qui ngưỡng Ngài Mục Kiền Liên. 

Đó là Tha Tâm. Bây giờ mình nói tha tâm giống như là người đọc được tâm người khác. 

Túc Mạng là ngó là nhớ lại tiền kiếp của mình, có kiếp làm người nam, có kiếp làm người nữ, kiếp này làm thiên, kiếp này làm bò, ngó lại kiếp quá khứ là túc mạng. 

Một vì tỳ khưu muốn đắc đạo quả trong kiếp này không muốn trôi lăn nữa, ông lên gặp Đức Thế Tôn, trong mùa an cư này con ở chỗ nào con nhập hạ an cư mà con đắc đạo quả. Đức Phật nói: "tới gặp một bà thí chủ,  bà đó đắc được Tam Quả, bà đắc Tha Tâm Thông, bà sẽ giúp cho ngươi đắc đạo quả trong kiếp này"

Vị tỳ khưu này mới tu, ông hỏi: Bạch Đức Thế Tôn, bà có gì đặc biệt không thưa Đức Thế Tôn?"

- "Bà đắc Tam Quả, bà biết Tha Tâm Thông, bà đọc được tâm ngươi."

Ông tỳ khưu đi đến gặp bà, thì ông ở một nhà, bà ở một nhà, hai nhà kế bên nhau. Thì vị tỳ khưu tối ngồi thiền thì ông nghĩ: "Không được, ta ngồi thiền mà bà đọc được tâm ta thì xấu hổ lắm." Đến sáng ông qua chào bà và không ở nữa, và đi về. Đức Phật thấy ông đi vô Đức Phật hỏi sao ông không ở đó mà lại đi về.

 Ông tỳ khưu nói: "con ngồi thiền mà bà đọc được tâm con, xấu hổ lắm."

Đức Phật nói: "ngươi cứ tới đó, bà sẽ độ được ngươi".

Ông tỳ khưu không chối từ được nên lại đến ngồi thiền mà không dám phóng dật. Thì bà ngồi ở nhà kế bên bà soi tâm ông ở bên kia,  bà cho ông thấy kiếp quá khứ hai người là vợ chồng, mà kiếp nào lên bà cũng giết ông, giết 89 kiếp rồi, bà nhiếp tâm cho ông này thấy, ông ngán rồi muốn bỏ không ngồi tiếp nữa, thì bà nói tiếp tục đi còn kiếp cuối là kiếp thứ 90, ông ngồi tiếp thì thấy đến kiếp 90 bà cứu ông khi ông sắp bị tử hình, vua quan sắp tử hình ông thì bà đứng ra bảo lãnh cứu ông chồng là ông tỳ khưu đó. Thì ông tỳ khưu hoan hỉ thì pháp hỉ lên và ông đắc đạo quả, bắt đầu ông coi lại tâm bà này thì bà này bốn quả. Sáng ra bà qua cúng dường để bát xong thì ông tỳ khưu đi về. Đức Phật hỏi: Ngươi có kết quả gì không?  Ông không dám nói nữa, đắc bốn quả rồi. Thì đó là Tha Tâm Thông.

Thiên nhãn là thấy xa. thấy trên trời, thấy Chư Thiên

Thiên nhĩ là nghe xa. 

Lậu Tận Thông là diệt các lậu. Có 4 lậu: Kiến lậu, vô minh lậu, hữu lậu, dục lậu. Đó là bậc Alahan.

Thinh Văn Giác đắc ngũ thông.

Bậc Alahan đắc luôn tới Lậu Tận Thông. 

Ngài Đề Bà Đạt Đa chỉ có Thần Túc Thông thôi, vì Đề Bà Đạt Đa là phàm thiền chứ không phải là Thánh thiền, các vị còn là phàm phu có khi đắc luôn, có khi đắc lẻ. Cũng như Ngài Anuruddha đắc được Thiên Nhãn thôi chứ không đắc hết lục thông, nhưng Ngài Mục Kiền Liên, Ngài Xá Lợi Phất đắc hết.

Sau khi các vị Thinh Văn Giác của Đức Phật đắc quả Alahan thì đa số các Ngài đều đắc Lục Thông và Tứ Vô Ngại Giải Paṭisambhidā.

Tứ Vô Ngại Giải Paṭisambhidā:

- Biện Vô Ngại Giải

- Từ Vô Ngại Giải

- Lý Vô Ngại Giải

- Nghĩa Vô Ngại Giải

Tức là họ là những nhà bác học, họ uyên bác. 

- Biện Vô Ngại Giải tức là họ biện luận tranh biện sắc xảo.

- Từ Vô Ngại Giải là ngôn từ ngôn ngữ nào họ cũng biết hết, ngôn ngữ của Magadha Ma Kiệt Đà, ngôn ngữ của Chư Thiên, họ đều biết hết

- Lý Vô Ngại Giải là nói đúng pháp đúng lý chứ không nói càng nói ngang.

- Nghĩa Vô Ngại Giải nói có nghĩa.

Các đệ tử Alahan của Đức Phật thì đắc lục thông và tứ vô ngại giải Paṭisambhidā. Bên Bắc Tông họ không có Vô Ngại Giải này mà họ có Vô Lượng Nghĩa Thọ, có nghĩa là 'muốn nói sao cũng được', họ đi mé bên ngoài của Tứ Vô Ngại Giải Paṭisambhidā. Chứ thật ra có một quyển Paṭisambhidā Đức Phật Ngài dạy nữa nằm trong Nikaya của Khuddaka Nikaya Tiểu Bộ Kinh, mai mốt Sư sẽ cho ra bộ này, Sư nguyện Sư có đủ thì giờ Sư cho ra hết.

Thời Đức Phật Ngài nguyện, mỗi một vị Chánh Đẳng Giác lúc còn tu Bồ Tát các Ngài nguyện đến kiếp họ tu mà đắc đạo quả nguyện là 'cho tôi độ được hết tất cả chúng sinh', hay là nguyện 'cho tất cả Thinh Văn Giác của tôi đắc được Lục Thông và Tứ Vô Ngại Giải. Thì lời nguyện đó nên các Ngài có được do lời nguyện của các Ngài. Thì mấy người kia họ ráp vô trong chủng tử, sinh vô cùng thời với Đức Phật đó luôn, chứ không phải tự nhiên có được.

Khi Đức Phật Ngài đắc canh hai là Tử Sinh Trí. Trong bộ Chú Giải gọi là Thiên Nhãn Trí. 

Tiếng Pali là:

Cuti là tử

upapatā là sinh

Thì Cuti + upapatā kết hợp thành Cutupapatā ñāṇa là Tử Sinh Trí.

Tức là Ngài đắc đạo quả ở giác thứ hai (canh hai) là Ngài thấy chết ở đây, tục sinh ở kia, chết đằng kia tục sinh đằng nọ, sinh tử trong lục giới trong 6 cõi luân hồi. Ngài thấy được hết, người ta chết chỗ này sinh chổ kia, chết đằng kia sanh đằng nọ. 

Mình có 6 cửa, lục đạo: 

-- 4 Khổ Đạo là: Địa ngục, ngạ quỉ, atula, bàng sinh.

-- 2 Thiện Đạo là Nhân và Thiên.

Loài người lưng đứng, tất cả loài súc vật lưng nằm ngang như sư tử, cọp beo, chó, mèo. Khi mà nó đổi hệ đứng lên được thì nó mới phát ra được âm thanh, còn nó đi ngang thì chưa phát được âm thanh. Mấy đứa bé khi mới sinh ra nói không được tại nó nằm ngang, khi nó lật nó trườn, nó bò, rồi khi nó đứng lên bắt đầu mới nói được, hệ khẩu bắt đầu phát triển thì nó mới bắt đầu nói được, còn nó nằm hoài hay bò hoài thì không nói được. Có những đứa bé khi nó vừa đứng lên bước đi là nó nói được.

Đối với Đức Phật Ngài là Bồ Tát, khi Ngài sinh ra từ nơi bụng mẹ ra là Ngài đi và Ngài mới nói, còn khi Ngài ra đời Ngài té xuống thì bốn Tứ Thiên Vương ẵm Ngài lên Ngài nằm trên tấm da như da trừu hay da trâu đem lại giao cho hoàng hậu Maya, thì lúc đó Ngài không nói. 

Khi Ngài bước ra khỏi bụng người mẹ, Ngài đi 7 bước Ngài nói "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn"

Khi Ngài ngã xuống 2 vòi nước nóng và lạnh rửa Ngài xong rồi thì ắm đưa đến hoàng hậu Maya thì lúc đó Ngài không nói được, sau đó Ngài đứng lên mới nói được.

Bàng sinh một số kinh sách gọi là xúc sinh, bàng sinh là lưng nằm ngang, chúng sinh đi lưng nằm ngang thì gọi là bàng sinh.

Thì lục đạo là 4 cõi khổ và 2 thiện đạo, mình đi lên đi xuống trong cõi lục đạo. Thì tử đằng đây, sinh đằng đó, tử đằng đó sinh đằng kia, sinh sinh tử tử Đức Phật Ngài thấy hết.

Đắc đạo quả của Đức Phật ở giác thứ hai là Ngài giác được Tử Sinh Trí Cutupapatā ñāṇa hay còn gọi là Thiên Nhãn Trí, tức là con mắt của Ngài nhìn thấy được sự sinh tử đó.

Canh 3 Ngài đắc được Lậu Tận Trí Āvavakkhaya ñāṇa, tức là Ngài diệt hết tất cả mọi lậu hoặc 

Āvava = Lậu Hoặc

kkhaya = Diệt Trừ

Đây là đường Ngài đắc đạo quả 

1 - Canh I đắc Túc Mạng Minh hay Túc Mạng Tùy Niệm Trí Tiếng Pali Pubbeanussayasati ñāṇa này là gốc, còn viết là Pubbenivāsānussaṭiñāṇa.

2 - Canh II đắc Cutupapatā ñāṇa là Tử Sinh Trí.

3 - Canh III đắc Lậu Tận Trí Āvavakkhaya ñāṇa.

Đường này các vị Thinh Văn Giác đắc đạo quả có tu thiền có hành đạo thì có được những trí này.

Thì trong mấy cái này từ Thần Túc Trí, Tha Tâm Trí, Túc Mạng Trí, Thiên Nhãn Trí, Thiên Nhĩ Trí, Lậu Tận Trí.

Thinh Văn Giác họ có 3 là; Thiên Nhãn Trí và Lậu Tận Trí và Túc Mạng Trí của Đức Phật, để tu đắc đạo quả của họ.

Tuy Đức Phật Ngài đắc đạo quả đêm ngày Rằm Tháng Tư sáng hôm sau Ngài là bậc Chánh Đẳng Giác. Thật ra Ngài có đủ Lục Thông (Thần túc thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Thiên nhĩ thông, Thiên nhãn thông, Lậu tận thông. 

Nhưng Ngài chỉ đắc 3 là:

 1 Túc Mạng Minh Trí Pubbenivāsānussaṭiñāṇa, 

2 - Cutupapatā ñāṇa là Tử Sinh Trí, 

3. Lậu Tận Trí Āvavakkhaya ñāṇa, 

3 cái này là chánh yếu Ngài đi đến đạo quả luôn.

Hôm nay chúng ta nói về pháp Vô Ngã. 

Coi 2 vế: Một là Chánh Đẳng Giác, vế kia là Thinh Văn Giác, chúng ta sẽ thấy:

để hình 035 - 1.07.34



Các Ngài đi tu mà còn đi qua Thần Túc thì còn cái "Ta" còn cái ngã, họ đi mây về gió, họ còn cái ngã vì họ biến hóa thần thông.

Rồi Tha Tâm; ta nhìn thấy tâm ngươi, biết tâm người đang nghĩ gì, thì còn cái "Ta" là còn cái ngã.

Túc Mạng, khi mình nhìn Túc Mạng là mình nhìn thấy mình. Đức Phật Ngài nhìn thấy Ngài, lúc Ngài là Bồ Tát Ngài nhìn thấy Ngài kiếp này làm Bồ Tát, kiếp làm vua, kiếp làm dân, kiếp làm thú, Ngài thấy túc mạng của Ngài. Thì khi mình nhìn vô những kiếp đó, giống như coi phim, phim vui mình cười, phim buồn mình khóc là mình nhập vô trong tình cảnh đó, còn nếu mình chỉ coi thôi, không vui không buồn thì lúc đó cái "Ta" cái "Tôi" không vô trong đó, cái "Ta" cái "Tôi" đứng ở ngoài, như vậy là kiếp sống này đâu phải của mình. Chỉ là cái nghiệp nó ra như vậy thôi, nghiệp đó ra người giàu, người nghèo, người xấu, người đẹp, người đông anh em, cái đó là nghiệp riêng chứ không có mình trong đây. Mà nếu mình nhập vô thì có cái "Ta" mình vô trong đó, còn nếu mình đứng ngó thôi, không có "Ta" trong đó.

Nếu như mình đi coi phim người ta đóng mình đâu có nhập vô. Sư có người em bà con, con của cậu Tám, em của má Sư, má Sư thứ Sáu,  vô coi tuồng Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, lúc nó ngồi khóc hu hu, Sư đánh nó một cái, người ta đóng tuồng được trả tiền, mắc chi mà mình khóc người ta có trả tiền cho mình đâu. 

Vậy thì khi ngồi thiền những gì diễn ra mình không nhập vai vô, mình chỉ coi những gì đang diễn ra. Mình lấy cái trí để mình Tùy Niệm để mình theo mình nhìn thôi, mà mình lại nhảy vô theo nó là mình thua nó, cái vô ngã là chỗ đó. Bồ Tát mới là tác đạo được thì Ngài mới đắc đạo quả được, còn mình theo nó thì sao đắc đạo quả được. Còn Thần Túc là mình đi mây về gió mình đi chơi thì con đường đó không phải là con đường đạo quả rồi.

Sư không có gài gì hết mà tại vì mấy cô không nhìn thấy nên Sư chặng lại Sư hỏi để mấy cô nhìn thấy sai chỗ đó mà sửa lại.

Mình ngồi thiền mình không nhảy vô, nhảy vô là sai, mình không vô là Vô Tướng, nếu mình vô nó đá mình ra là mình Vô Nguyện, mình vô mà không có vai tuồng nào là mình Rỗng Không. Mình muốn có mặt trong đó, người ta không cho mình, mình không có vai nào hết là Vô Tướng, vô không được là Vô Nguyện, muốn không có là Rỗng Không, không có vai tuồng nào cho mình là mình vô tích sự.

Nên con đường Đức Phật đi mình không đi theo, mà mình đi vòng vòng mới vô được, còn Đức Phật Ngài vô ngay, Ngài là Chánh Đẳng Giác và thấy một cách chính chắn. Còn mình được nghe mình được biết, mình được học. Thinh là được nghe, Văn là được học mình mới biết làm sao đắc ngộ, còn Ngài là Chánh Đẳng Giác vô thẳng không lệch không sai.

Ngài thấy như vậy Ngài tùy niệm và trí phát sinh lên thấy được Ngài thức tỉnh và giái ngộ liền, chứ Ngài không trôi lăn theo nó. Còn mình đây trôi lăn theo nó thực ra là mình đang sai lệch.

Thật ra mình không thấy Vô Ngã, mà mình muốn có mặt mình trong đó thì không bao giờ có được Túc Mạng Tùy Niệm Trí  Pubbenivāsānussaṭiñāṇa, mà cái này là kiếp quá khứ. Kiếp Ngài sinh ra là bá hộ, kiếp Ngài sinh ra là ông vua, kiếp Ngài sinh ra là lính, kiếp Ngài sinh ra là người nam, Ngài ngồi coi Ngài thấy thôi, Ngài tùy niệm ngó thôi, Ngài tách ra Ngài không thấy có "Tôi" có "Ta" trong đó.

Còn mình coi rồi mình nhập vai vô mình nhảy vô thì mình không có tùy niệm mà mình đang thất niệm, mình không có trí, mình thấy cảnh mình vô cảnh luôn. Còn Ngài thấy cảnh Ngài tùy niệm, trí Ngài sáng lên Ngài nhận thức liền, mỗi pháp đến Ngài nhận thức liền, còn mình đây mỗi pháp lên mình suy luận theo ý của mình "Tôi" "Ta" của mình vô liền. Do đó, mình không có kết quả giống như Bồ Tát có kết quả.

Như thế thì, khi mình học pháp diệt Vô Ngã thì những cái gì mà mình đang có thì mình đang là thấy niệm chứ mình không nhìn thấy những diễn tiến của các pháp của nó với tùy niệm trí mình sinh lên giác ngộ trong trạng thái Vô Ngã.

Mình ngồi thiền mình biết nhưng biết của mình là mình thất niệm, mình mất trí luôn, thất niệm là mất trí mình rớt luôn trong đó.

Sư chưa nói tới Tử Sinh Trí nó còn ghê gớm, Sư chưa nói tới Lậu Tận Trí diệt tất cả lậu hoặc.

Lậu Hoặc có 3 loại lậu:

1. Lậu hoặc

2. Cảnh lậu hoặc

3. Cảnh lậu hoặc nhưng chẳng phải lậu.

1. Lậu hoặc có 4 là: 

Kiến lậu là tà kiến, 

Dục Lậu, Dục Lậu là trong cảnh dục

Hữu Lậu, Hữu Lậu là trong các cõi trời Sắc Giới, Vô Sắc Giới

Vô Minh Vô Minh lậu là ở trong trạng thái bất tri.

 Cảnh tà kiến là cảnh chấp thường, chấp có, chấp không, nó là cảnh lậu hoặc, 

-Cảnh dục là 6 cảnh là sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp, là cảnh lậu hoặc, cảnh này là cảnh đắm chìm, mình thấy cảnh sắc mình đắm chìm trong cảnh sắc, mình thấy cảnh thinh đắm chìm trong cảnh thinh, thấy cảnh khí đắm chìm trong cảnh khí, thấy cảnh vị đắm chìm trong cảnh vị, cảnh xúc đắm chìm trong cảnh xúc. Đó là lậu hoặc trong cảnh lậu hoặc.

-Cảnh hữu lậu là đắm chìm trong sắc giới, vô sắc giới là cảnh hữu lậu, nó là lậu hoặc mình đắm chìm trong đó.

- Cảnh Vô Minh là cảnh bát bất tri (bất tri Tập Đế, bất tri Khổ Đế....) mình không biết gì hết, mình ở trong Tục Đế, ở trong Tập Đế mà mình không biết, đó là cảnh lậu hoặc của lậu hoặc, của vô minh lậu, người sống trong khổ mà không biết khổ, đó là cảnh vô minh lậu. Như con kiến nằm trong chén đường nó không thấy nó khổ vì chỗ đó ngon, tốt, chứ thật ra nó là đang vô minh lậu.

- Cảnh Lậu Hoặc nhưng chẳng phải lậu tức là những Tham, Sân, Si, nó dính trong lậu hoặc nhưng nó không phải là lậu hoặc. Lậu hoặc chỉ là Dục, Hữu kiến. Còn tham sân là cảnh mà nó không phải lậu, nó thuộc về cảnh thôi, nó biết mấy cảnh đó thôi nhưng nó không phải là lậu hoặc trong hữu lậu hay vô minh lậu.

Thì 3 cái; Lậu Hoặc, Cảnh Lậu Hoặc, Cảnh Lậu Hoặc nhưng chẳng phải lậu, nó nằm trong phần Lậu Tận Āvavakkhaya mà mình không biết.

III Āvavakkhaya ñāṇa Lậu Tận Trí

1. Lậu Hoặc: Kiến, Dục, Hữu, Vô Minh

2. Cảnh Lậu Hoặc : Cảnh Tà Kiến, Cảnh Dục, Cảnh Hữu Lậu, Bát Bất Tri

3. Cảnh Lậu Hoặc nhưng chẳng phải lậu.

Phần này để tuần sau mình nói tiếp.

Như vậy thì khi Đức Phật Ngài đi trên đường đắc đạo quả Chánh Đẳng Giác mà Ngài Túc Mạng Tùy Niệm Trí là Ngài thấy sự sinh diệt từng mỗi mạng sống một kiếp sống của Ngài với một trạng thái trí để thấy thôi chứ không phóng dật để thất niệm để bị đắm chìm hay thủ đắc trong đó. 

Còn mình đây không có thì lúc đó mình đang ở trong trạng thái "Ta" "Tôi" của mình trong cái nhiễm đắm này.

Vậy thì khi đang ngồi hành thiền Vipassana mà thiếu một cái niệm mà không có trí thì cái này I)  Pubbenivāsānussaṭiñāṇa Túc Mạng Tùy Niệm Trí . Thì coi như là đang đi trong trạng thái "Ta" "Tôi" mà mình đang hành thiền. Trí này Tỉnh Giác. Niệm là Niệm Lực hay là Chánh Niệm, mình thiếu.

Trở về pháp Vô Ngã. Pháp Vô Ngã này là nó đi trên con đường của Vipassana. Pháp Vô Ngã này muốn chứng tri được pháp Vô Ngã phải đi trên đường Vipassana con đường Minh Sát Tuệ, mà con đường Minh Sát Tuệ này mình có 2 con đường, đường đi của bậc Chánh Đẳng Giác và đường đi của bậc Thanh Văn Giác. 

Do đó, chính những trường hợp mình đang đi đây mình phải luôn luôn cảnh giác mình đang đi với con đường nào, ngoài 2 con đường này ra không có con đường nào đi tới để diệt Vô Ngã được.

Như vậy thì Sư đang nói đề tài Vô Ngã. Một bên là Vô Thường, một bên là Khổ Đau. Hay một bên là Khổ Đau, một bên là Vô Thường. Tùy mỗi hành giả.

Vế 1                        Vế 2                   Vế 3

Vô Thường <------- Vô Ngã ---------> Khổ Đau.

Khổ Đau <---------- Vô Ngã ---------> Vô Thường

Thì khi hành giả ngồi thiền Vipassana, cái nào hành giả thấy trước, Vô Thường, Vô Ngã, Khổ Đau.

Bây giờ quí Phật tử ngồi thiền 

Có ai hỏi khi ngồi thiền Vipassana mới vô thấy tướng gì, quí Phật tử ngồi nghiệm, mới vô ngồi thiền chứ chưa ngồi lâu mình thấy tướng này tướng kia, nhưng khi mới vô ngồi thiền thì làm sao thấy vô thường được, làm sao có khổ đau được. 

Do đó, khi người ta hỏi mình, mình phải dùng trí, mình phải ngồi nghiệm lại, mình nhớ lại, không thấy vô thường, không thấy khổ đau, mà mình theo được hơi thở mình thấy được Vô Ngã. Từ cái Vô Ngã đó mới nghiệm được sự Vô Thường hay là Khổ Đau nó theo sau. 

Do đó, Vô Ngã là gốc của mỗi pháp Sabbe dhammà anattà Chư Pháp là Vô Ngã còn mấy cái kia là pháp hữu vi nó mới có pháp Vô Thường pháp Khổ Đau Sabbe saṅkhārā aniccā'ti: Các pháp hữu vi là vô thường. tất cả mọi pháp hiện hữu trong thế gian này là Vô Ngã Sabbe dhammà anattà. Nhiều khi mình vô ngồi thiền đầu tiên vô mình không thấy khổ không thấy vô thường, mình thấy hơi thở vô và hơi thở ra mà mình niệm đúng nó thì mình mới thấy là không có "Ta" có "Tôi" trong đó, nó làm chủ hết, nó hoạt động hết, nó sinh diệt ra vô của nó hết và mình chỉ ngồi ngó mình niệm thấy và theo dõi.

Do đó, hành giả không thấy được vô thường, không thấy được khổ đau.

Vậy thì khi mà Upatissa gặp ĐĐ Assaji nghe một pháp sinh lên bởi duyên, chính duyên sinh lên hiện bày các pháp" Ngài chứng đắc Sơ Đạo Sơ Quả trên vô ngã, Ngài không chứng đắc trên khổ đau, không chứng đắc trên vô thường.

Do đó, cơ hội để thấy được Vô Ngã này với một trí sắc bén là những phút giây ban đầu mà liễu tri được là bắt được Vô Ngã. Còn Khổ Đau chưa chắc là thấy được thực tướng mà có khi nó là tập khí của mình niệm được cái khổ đau trong cái thói quen mình được biết cái khổ đau này như thế nào chứ không phải là thực tướng được. Vô Thường cũng vậy nữa, hành giả thấy đau trong khả năng của mình ghi nhận được chứ không phải là thực tướng, chứ cái vô ngã ngay khi đầu tiên vô thấy hơi thở vô hoặc ra của nó làm chủ rồi, nhưng quí Phật tử không có tùy niệm trí lúc đó mà quí Phật tử lo bài bản Thinh Văn Giác của mình, lo cho đầy đủ hết để mà có cái niệm đầy đủ hết thì lúc đó là mình mất cơ hội, lúc đó mình chạy đi tìm cái vô thường chạy tìm cái khổ đau trong pháp vô ngã mình đã đánh mất nó ngay phút ban đầu ./.

--------------------------------------------------

Vô Minh Avijjā có 8, còn gọi là bát bất tri là 8 điều mình không biết. Là bốn bất tri Tứ Đế + với bốn bất tri quá khứ, hiện tại, tương lai, và liên quan tương sinh:

1. Bất tri khổ (Dukkhe aññāṇaṃ), không thông hiểu về sự khổ ngũ thủ uẩn.

2. Bất tri khổ tập (Dukkhasamudaye aññāṇaṃ), không thông hiểu tập khởi của khổ.

3. Bất tri khổ diệt (Dukkhanirodhe aññāṇaṃ), không thông hiểu sự diệt khổ.

4. Bất tri đạo lộ khổ diệt (Dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇaṃ), không thông hiểu con đường đưa đến diệt khổ.

5. Bất tri quá khứ (Pubbante aññāṇaṃ), không biết rằng mình đã từng hiện hữu ở quá khứ, có kiếp sống quá khứ.

6. Bất tri vị lai (Aparante aññāṇaṃ), không biết rằng mình sẽ có mặt trong tương lai, có kiếp sống sau.

7. Bất tri quá khứ vị lai (Pubbantāparante aññā-ṇaṃ), không biết có đời sống quá khứ và vị lai, tức là đời sống vui khổ hiện tại bị chi phối bởi quá khứ, và sở hành hiện tại ảnh hưởng vị lai.

8. Bất tri pháp liên quan tương sinh (Idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu aññāṇaṃ), không biết duyên khởi các pháp, sanh do nhân quả liên quan, như do vô minh có hành, do hành có thức v.v...