Sunday, October 15, 2023

032 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 24 tháng 9, 2022

  032 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 24 tháng 9, 2022 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "032- Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, con nghe Sư giảng về những phiền não, về khổ. Mình nói sơ qua về Ngũ Uẩn Khổ. Nếu mình thấy được sắc của mình già thì mình lại bị Sắc Thủ Uẩn khổ, sắc thủ uẩn mình biết có cái già đó mà tại sao mình lại lọt vô Ngã Thủ Uẩn, còn khi mình biết được sự khổ đó mình lại lọt vô Thức Thủ Uẩn khổ. Thì cái biết như thế nào mình mới ra khỏi cái Thủ Uẩn đó được.

HT trả lời. Mình biết có phóng dật thì mình mới ra được. Mình niệm phóng dật, mình đang có uẩn mình qua thủ uẩn, mình không chắc từ cái uẩn qua thủ uẩn, mà mình chỉ biết là mình đang phóng dật thì mình mới qua cái thủ. Cái thủ này là cái tiền khiên tật thân, cái tập khí mình lâu đời thường hay chấp thủ dính mắc bám níu, nếu mình không phóng dật thì mình có niệm thì nó vừa nhích tới đâu thì mình niệm tới đó, niệm sinh diệt chứ không niệm qua thủ của mình chấp giữ, mình bị cái phóng dật, cái khuyết điểm của mình ở đó.

Nên Vipassana có mấy điều quan trọng. 

Vipassanānupassanakilesa =  minh sát tùy quán phiền não. 

Vipassanānikanti 

Nikanti là cắt bỏ hết hay gọi là suy phản là nhìn ngược lại, tức là mình quán xét suy nghiệm lại, mình coi ngược lại. Thì Nikanti là cắt bỏ trong Vipassana.

Thì Nikanti là những cái gì mà mình đang Vipassana (quán xét) mà pháp nghịch  nhảy vô, thì  Nikanti kèm Vipassana mới chặt đứt mấy cái đó ra, cái đó phải có.

Mà trước Nikanti  mấy pháp đi xuống.

Chẳng hạn như pháp 

1. Saddhā là Tín.

2.  Sati là Niệm 

3. Paggāha là Cần 

mấy pháp này đi xuống

Mình phải có Saddhā, đức tin, tín, tấn, định, tuệ. 

Sati Niệm thì mình biết rồi

Paggāha là cần mẫn, là sự nỗ lực, sự kiên nghị, sự kiên cường, tức là mình phải nỗ lực, sự cố gắng

Mấy cái đó mới làm được Vipassanānikanti, con đường này đi tới giải thoát, thì những ānupassanakilesa chen vô, giống như mình đang tu mình bị đổ nghiệp, thì khi bị nghiệp đổ vô thì mình chỉ quán thôi, chứ mình không thủ, chứ mình thủ là mình phóng dật.

 Mà mình phóng dật thì mình trách mình phóng dật thôi chứ không nói gì hết.

Do đó, mình chỉ quán thôi.

ānupassana là tùy quán, quán của mình chỉ là pháp sinh diệt, chứ không phải là "của tôi", không có "của tôi", nếu mình phóng dật là "của tôi" thì tập khí nó chụp.

Thiền sinh hỏi: Nên khi mình nhìn sắc mình nói là mình có già, thì cái đó lọt vô sắc thủ uẩn chứ không phải là mình thấy mình già?

HT trả lời: Đúng rồi, nó là sắc thủ uẩn, là mình bị phóng dật rồi. Mình sơ hở một chút là nó chụp mình liền. Mình thấy, mình sơ hở một sát na thôi, tâm đạo chỉ một sát na thôi. Giữa kilesa, giữa  Paggāha, giữa tâm đạo, giữa tâm phiền não chỉ có một sát na, mà một bên là đạo, một bên là phiền não, nếu thiếu niệm hay mình thiếu đức tin hay không có sự tỉnh giác mình lọt qua phóng dật thì mình chấp thủ. Giống như mình đi tới ngã ba đường mà mình phóng dật thì mình đi lạc đường, thay vì mình ra exit thì mình đi thẳng luôn, đó là mình đi lạc đường. Mình đi lạc đường không phải lỗi của mình, mà đi lạc đường là do mình phóng dật. Còn nếu như mình nói tôi có lỗi là mình có thủ, còn mình phóng dật là mình chưa nhìn thấy pháp.

Vậy thì bấy lâu nay mình niệm cái gì, mình tu cái gì, nó lúc nào cũng vậy, sắc đã từng có già, tâm có từng cái trụ rồi nó già, rồi nó sinh rồi nó diệt từng mỗi sát na, từng mỗi diễn tiến pháp, bây giờ mình thấy già của mình là già của chế định mà mình lại thủ vô. Thì 10 Minh Sát Trí của mình về từng sắc pháp danh pháp mà mình đã đi qua trong từng sát na, trong từng tuệ trí của mình tu, mình cũng thấy nó già, nó hoại, nó cũng diệt, mà thật ra lúc đó mình không có dùng được trong cái già chế định này, chứ thật ra mình già mỗi ngày, già mỗi sát na, mình lão hoại từng phút, bây giờ mình chấp vô đã già rồi thì mình đang phóng dật rồi.

------------------------------------------------

Minh Sát Trí có 10 là:

1. Sanh diệt trí (Udayabbayaññāna)

2. Hoại diệt trí (Bhangaññāna)

3. Hãi kinh trí (Bhavyatūpatthānaññāna)

4. Quả hoạn trí (Ādīnavaññāna)

5. Yếm ố trí (Nibbidāññāna)

6. Dục thoát trí (Muñcitukāmyatāñāna)

7. Giảm trạch trí (Paṭisankhāraññāna)

8. Hành xã trí (Sankhārupekkhāñāna)

9. Thuận tùng trí (Anulomaññāna)

10. Chuyển tộc trí (Gotrabhūññāna)

----------------------------------------


Do đó, mình chỉ quán chứ mình không thủ. Mình thấy hồi nãy không có, phút trước không có, phút sau có, thì chỉ là sinh diệt thôi, chứ mình không có thủ, thủ là mình thiếu tỉnh giác, mà tỉnh giác không có phóng dật sẽ vô.

Đó là chế định, trong khi mình hành Minh Sát Trí là Siêu Lý, nhưng khi vô tới thực tế mình chỉ phóng dật thôi, thiếu niệm, không tỉnh giác, mình lại ôm cái chế định làm cái thủ của mình, mình mâu thuẫn rồi, thì mình lúc bấy giờ người Thiền Sư hay là người hành giả mà có trí biết là mình đang phóng dật. Rồi mình nghĩ tới đó nó sẽ trở vô cái phần sanna cái pháp 6 nhóm nó có sanna nó có tưởng giải thoát.

Do đó, những Vipassanānupassanakilesa là mình tùy quán rồi.

ānu là nương theo hay đi theo quán thôi chứ không có thủ

Phần Nikanti này Sư đang giảng cho quí Phật tử nghe. Thì khi tu SamadhiSamadha thì phải thấy niccati (thường tồn), mà tu Vipassana thì  phải thấy aniccati (vô thường),  hai cái  ngược nhau.

Khi mình hành thiền với Samatha (Samādhi)  thì đề mục Kasina của mình là Niccati phải thường tồn, thường hằng hay thường xuyên.

Nhưng khi mình hành thiền Vipassana (hay Anupassanā là tùy quán) thì mình thấy thực tướng vô thường Aniccati  Lakkhana (Aniccati = vô thường, Lakkhana = thực tướng).

Nếu tu thiền Samadhi thì phải thấy đề mục thường. Còn tu thiền Vipassana mới thấy vô thường. Hai cái nghịch nhau.

 Vậy thì khi mình ngồi nghiệm mới nghiệm ra, người hành giả nào mà thấy cái gì cũng thường thường thì mình biết người hành giả đó đang đi đường nào. Còn người hành giả đi Vipassana thì thấy sinh diệt, thấy đó mất đó thì mình biết người hành giả đó đi đường nào, rồi mình nghiệm ra mình, mình nghe người ta trình bày pháp mình cũng hiểu được người đó đang đi.

 Khi quí Phật tử tu thiền Samadhi đạt tới An Chỉ là an trú hay là tới sự tập trung, tức là tới phần đình chỉ đang tập trung hành giả sẽ thấy an trụ với đề mục. 

Do đó khi mình học về Samadha thì đề mục là Niccati (thường còn, thường xuyên)

Khi học về Vipassana đề mục Aniccati (sinh diệt, thực tướng vô thường)

Thì cái Thủ của mình đang dính vô đó là mình đang bị phóng dật, mình thiếu niệm thiếu tỉnh giác. Nếu Thủ mà mình thấy nó thường là mình đang đi con đường Samadhi, mình khắn khích với cái thường đó chứ mình không thấy sự sinh diệt tức là mình không có quán mình chỉ có niệm thôi.

Có 3 Vimokkha = có 3 Giải Thoát là:

1) Suññatavimokkha = Rỗng Không là Vô Ngã, 

2) Animittavimokkha = Vô Tướng là Vô Thường, để giải thoát

3) Appaṇihitavimokkha = Vô Nguyện là Khổ Đau để giải thoát

Suññata - rỗng không 

Animitta - vô tướng

Appaṇihita - vô nguyện

Phần giải thích

1) Suññatavimokkha = Rỗng Không là Vô Ngã, để tu tập, là Paññindriya: là Tuệ Quyền, phải mạnh, phải cường liệt. Rỗng Không phải dùng trí tuệ mới thấy được

2) Animittavimokkha = Vô Tướng là Vô Thường, để giải thoát, là Saddhindriya là Tín Quyền

3) Appaṇihitavimokkha = Vô Nguyện là Khổ Đau để giải thoát, là Samādhindriya là Định Quyền

Như vậy thì con đường mình muốn giải thoát  qua sự thấu hiểu về tam tướng; Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.

Muốn đi con đường Vô Ngã mình phải dùng Trí (Paññindriya: là Tuệ Quyền) mình mới thấy.

Nếu đi con đường Vô Thường mình dùng Tín (Saddhindriya là Tín Quyền)

Nếu về Khổ Đau mình dùng Định (Samādhindriya là Định Quyền)

Thì mình mới chứng tri được.

Như vậy thì:

 Paññindriya: là Tuệ Quyền ==> chứng tri Tứ Đế / Nhân Quả

Saddhindriya là Tín Quyền) ==> Tứ Chánh Tín --> Nhân Quả, góc độ Liên Quan Tương Sinh

Samādhindriya là Định Quyền --> Chánh Định (trong Bát Chánh Đạo)

                                                 --> Sát na định (trong Minh Sát Tuệ)

                                                 ---> Cận định (trong An Chỉ)

                                                 ---> Nhập định (trong An Chỉ)

                                                                         ---> Khổ đau ----> hoại diệt

Đó là những chi pháp.

Khi mình đi tới con đường nhìn về Danh Sắc, cái này trên cơ sở đối tượng Danh Sắc, chứ mình không nhìn qua pháp nào. Tất cả những pháp này nằm trên Danh Sắc của Minh Sát Trí, trên cơ sở là Minh Sát Trí của Danh Sắc mà nó có 10 Minh Sát Trí.

Bây giờ muốn thấy được Rỗng Không Niết-bàn, hay muốn thấy được Rỗng Không thực tướng, hay muốn thấy Vô Ngã thực tướng thì phài dùng trí tuệ chứ không phải do cảm tính hay do tri thức của mình, phải dùng trí tuệ. Trí tuệ phải đặt ở trên Tứ Đế; Khổ, Tập, Diệt, Đạo, tất cả mọi pháp sinh lên phải đặt vô trong  khung của Tứ Đế.

Tứ Đế gồm có 2 là Nhân và Quả:

Nhân có 2 là Nhân Hiệp Thế và Nhân Siêu Thế

                    Tập Đế                   Đạo Đế

Quả có 2 là Quả Hiệp Thế và Quả Siêu Thế

                   Khổ Đế                Diệt Đế


Tuệ Quyền là cái key để mở cái cửa.

 Vijā là Minh thì mới diệt được cái Vô Minh. 

Minh sinh Vô Minh diệt. Vô Minh là Bát Bất Tri, bỏ chi pháp là Tâm Sở Si (Moha). Si có 4 si phần: Si, Vô Tàm, Vô Quí, Phóng Dật là Pamāda cùng nghĩa với Phóng Dật là Trạo Cử là Uddhacca, Uppamāda là không phóng dật.

Uddhacca là Trạo Cử, Ngài Tịnh Sự gọi là Điệu Cử, nhưng bây giờ Sư coi trong tự điển thì chữ Điệu không có, chỉ có chữ Trạo, giống như nấu thức ăn với lửa nhỏ thì thức ăn sôi nhè nhẹ, nhưng nếu lửa lớn thì nó sôi bừng lên gọi là sôi Trạo, thức ăn trong nồi không đứng yên, nó đảo lên đảo xuống.

------------------------------

(Bát Bất Tri là:

1. Bất tri khổ (Dukkhe aññāṇaṃ), không thông hiểu về sự khổ ngũ thủ uẩn.

2. Bất tri khổ tập (Dukkhasamudaye aññāṇaṃ), không thông hiểu tập khởi của khổ.

3. Bất tri khổ diệt (Dukkhanirodhe aññāṇaṃ), không thông hiểu sự diệt khổ.

4. Bất tri đạo lộ khổ diệt (Dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇaṃ), không thông hiểu con đường đưa đến diệt khổ.

5. Bất tri quá khứ (Pubbante aññāṇaṃ), không biết rằng mình đã từng hiện hữu ở quá khứ, có kiếp sống quá khứ.

6. Bất tri vị lai (Aparante aññāṇaṃ), không biết rằng mình sẽ có mặt trong tương lai, có kiếp sống sau.

7. Bất tri quá khứ vị lai (Pubbantāparante aññā-ṇaṃ), không biết có đời sống quá khứ và vị lai, tức là đời sống vui khổ hiện tại bị chi phối bởi quá khứ, và sở hành hiện tại ảnh hưởng vị lai.

8. Bất tri pháp liên quan tương sinh (Idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu aññāṇaṃ), không biết duyên khởi các pháp, sanh do nhân quả liên quan, như do vô minh có hành, do hành có thức v.v...)

---------------------------------

Khi đi tới con đường mình nhìn về Danh Sắc,  trên cơ sở đối tượng Danh Sắc, chứ mình không nhìn qua pháp nào. Tất cả những pháp này nằm trên Danh Sắc của Minh Sát Trí, trên cơ sở là Minh Sát Trí của Danh Sắc mà nó có 16 tuệ minh sát

Tuệ thứ I- Nàmarùpa paricchedanàna - Tuệ Phân Biệt Danh Sắc.

Tuệ thứ II - Paccayapariggalanàna - Tuệ Phân Biệt Nhân Quả (Tuệ Phân Biện Nhân Duyên).

Tuệ thứ III - Sammasananàna - Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ não, vô ngã.

(Tuệ Thấu Ðạt)

Tuệ thứ IV - Udayabbayanàna - Tuệ thấy sự Sanh-Diệt của Danh Sắc.

Tuệ thứ V - Bhanganàna - Tuệ Diệt

Tuệ thứ VI - Bhayanàna - Tuệ Sợ

Tuệ thứ VII - Adinavanàna - Tuệ thấy Hiểm Nguy của Ngũ uẩn.

Tuệ thứ VIII - Nibbidanàna - Tuệ Chán nãn.

Tuệ thứ IX - Mũncitukamyatanàna - Tuệ muốn Giải thoát.

Tuệ thứ X - Patisankhanàna - Tuệ Suy Tư

Tuệ thứ XI - Sankharùpekkhanàna - Tuệ Xả Hành

Tuệ thứ XII - Anulomanàna - Tuệ Thuận-Thứ

Tuệ thứ XIII - Gotrabhunàna - Tuệ Chuyển Tánh, còn gọi là Tuệ "Cắt dòng phàm".

Tuệ thứ XIV - Magganàna - Ðạo-Tuệ

Tuệ thứ XV - Phalanàna - Quả-Tuệ

Tuệ thứ XVI - Pacechavkkhananàga - Tuệ Kiểm-soát Phiền-não và Tuệ Niết-Bàn.

Thì Tuệ Quyền Paññindriya, với người trí họ dùng Tuệ Quyền.

Người có đức tin là Tín Quyền Saddhindriya 

Người có định, tâm họ lúc nào cũng an trụ không phóng dật là người Định Quyền Samādhindriya.

Trong pháp đầu tiên Tuệ phân biệt Danh Sắc (Nàmarùpa paricchedanàna) là họ nhìn ra được liền, trí tuệ của họ nhìn ra được Danh Sắc này Rỗng Không. Không phải là họ chỉ thấy Danh Sắc không, mà đang nhìn thấy Danh Sắc này là Rỗng Không (Vô Ngã). 

Rỗng Không trên cơ sở nào mà họ nhìn thấy được Danh Sắc này, Danh này Rỗng, Sắc này Rỗng? 

Trên cơ sở nào với cái tuệ đầu tiên trong Minh Sát Trí. Một người trí tuệ quyền họ thấy được Rỗng Không này trong cái gì?

 Đầu tiên mình thấy nó không phải là "Ta". Không phải của "Ta". Đã thấy rồi, ngoài nhận thức hiểu sai. Thì trạng thái Không phải là "Ta", Không phải của "Ta" mà nhìn ra. 

Thì người hành giả nhìn vô đó, nhìn vô pháp tuệ Minh Sát Trí lần đầu tiên thấy phân biệt được Danh Sắc là họ đã có Chánh Kiến, và họ có Chánh Tư Duy, họ không đi niệm với  tỉnh giác 

Không phải của ta là Chánh Kiến, mà không phải của ta họ có Chánh Tư Duy liền, họ ly ái, ly tham, không còn dính trong tuệ đầu tiên. Còn nếu như mình không có thì qua cái tín, cái nhân cái quả đi qua minh sát tuệ thì mình sẽ đi qua trạng thái mình thấy nó chỉ vô thường, vô tới phổ thông tướng mình thấy tam tướng Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.

Ngài Upatissa (Ngài Xá Lợi Phất) nghe Đại Đức Assaji nghe giảng   "một pháp sinh lên bởi duyên, chính duyên sinh lên hiện bày các pháp là Ngài Upatissa đắc sơ quả liền, Ngài thấy không phải "Ta", không phải "của "Ta" liền, rỗng không liền, vô sơ đạo sơ quả liền 

Trên cơ sở là Danh Sắc nó rỗng không là họ đã có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy. Còn mình thì không có, mình lại chậm đi, mình đi niệm với tỉnh giác thì mình chỉ phân biệt Danh Sắc với niềm tin mình biết được đây là Danh Sắc Nhân Quả. Còn người trí, vô tuệ đầu tiên phân biệt Danh Sắc là họ đã nhìn thấy "không phải" "không của". 

"Không phải" là Chánh Kiến, "Không của" là Chánh Tư Duy, nên gọi là Vimokkha là giải thoát, nên nó cái chìa khóa. Nên trong Vimokkha mukha là cánh cửa dẫn đến giải thoát (Giải Thoát Môn). Vimokkha chính nó là Nibbana, còn Vimokkha mukha là con đường đi đến để Nibbana chứ nó không phải là Nibbana, nên mukha là cái tiền cái pre nó bắt đầu đi tới, phải phân biệt được 2 cái đó.

Thành ra với người tuệ là họ lấy Chánh Kiến, Chánh Tư Duy của Tứ Đế trên Nhân Quả Bát Chánh Đạo, họ vô Rỗng Không liền.

Còn người hành giả đi con đường Khổ Đau, cũng dựa trên Danh Sắc, họ trải qua giai đoạn đầu họ phân biệt được Danh Sắc, họ phân biệt Nhân Quả, Danh Sắc, họ trải qua được một giai đoạn ngắn qua được liền, nhưng họ tới  cửa Khổ Đau tâm họ không định được. Mà người hành giả muốn chứng tri được Khổ Đau này với Vô Nguyện của Niết-bàn tâm mình phải định (An Chỉ), chứ còn khổ đau này nó đang hoại diệt, do đó, cái cửa này họ vô không nổi, vô cái cửa mà đang hoại diệt nó đau lắm tâm họ không định nổi, niệm không nổi, họ bấn loạn lên rồi, họ sợ hãi lên rồi cái định không có, nên người hành giả mà muốn thấy được Vimokkha của Vô Nguyện trên sự chứng thực tướng khổ đau này tâm họ phải định, mà cái khổ này nó lại hoại diệt, hoại này nó diễn tiến liên tục. Giống như mình hoảng hốt, trước sự hoại diệt đó mình hoảng hốt mình không có định nổi làm mình không thấy thực tướng được.

Như vậy thì khi mình tu hành mình biết cái nào là sở trường, cái nào là sở đoản, cái nào là cái mạnh của mình, cái nào là cái yếu của mình, biết người biết ta thì mình phải trau dồi Vimokkha (giải thoát) của mình.

Bây giờ mình tới phần Tín Quyền Saddhindriya

Ở trên Vô Thường, mình thấy Danh vô thường, mình thấy tâm mình sinh diệt liên tục, tâm nghĩ thế này thế kia, mà tâm không có làm chủ nó, trong kinh  Pháp Cú:  "Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo" nhưng nó có phần phụ thuộc của nó, mà nó kết bè vô phụ thuộc nó mới ra được chức năng của nó hay là tên của nó là tâm, dĩ nhiên tâm thiện ta có phụ thuộc của nó ra tâm sở thiện, hoặc tâm bất thiện có phần phụ thuộc của nó là tâm sở bất thiện, mà bất thiện loại nào là tham, là sân, là si, bọn tham phần hay bọn hôn phần, bọn sân phần, bọn si phần, nó có những cái đó nó ra chức năng đó.

Thì người hành giả bị cái Tín tin cơ sở Danh Sắc này người hành giả nhìn thấy tâm sinh diệt, người hành giả thấy sắc pháp sinh diệt bởi nguyên nhân sinh ra nó sinh diệt hay là nó hoại diệt.

Sư nói qua Tín Quyền:

Danh Pháp:  Tâm ---> đang sinh / diệt. 

                      Tâm Sở -----> đang sinh / diệt

Sinh diệt có hai là nội cảnh và ngoại cảnh. Chức năng sinh diệt của nói nội cũng sinh diệt, ngoại cũng sinh diệt.

Bây giờ mình nói tới cảnh của nó thuộc vế sắc. Thí dụ như tâm nhận thức bắt cảnh sắc, tâm nhĩ thức bắt cảnh thinh, thì sắc của nó là hoại.

Sắc Pháp ------> có 4 nhân sinh là:

1) Nghiệp

2) Tâm

3) Vật thực

4) Quí tiết

Bây giờ  nói phần Danh Sắc.

Mình đang nói Sắc pháp nằm trong phần Minh Sát Trí:, 

- Sắc thân

- Oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Oai nghi có 2 là tiểu oai nghi và đại oai nghi (những cái này là sắc pháp hoại diệt)

- Sổ tức: thở ra thở vô

Những điều này thuộc trong 4 nguyên nhân; nghiệp, tâm, vật thực, quí tiết tạo ra

Đức tin (Tín Quyền) Chánh Tín có 4 đức tin: 

1. Tin Nhân

2. Tin Quả

3. Tin Nhân + Quả liên quan

4. Tin trí tuệ Đức Phật

Chánh Tín có 4 niềm tin chơn chánh, tức là tin rằng:

1. pháp nào sinh ra đều có nhân của nó, 

2. pháp nào sinh lên đều có quả của nó, 

3. pháp nào sinh lên đều có nhân + quả liên quan với nhau, không có lửa không có khói.

4. Tin vào trí tuệ Đức Phật.

Thì bây giờ mình đã biết nhân, quả, nhân + quả liên quan dựa trên Minh Sát Trí, Sư nói dựa trên pháp thực hành hay pháp tu tập về bhavana Vipassana là mình dựa trên Minh Sát Trí của phần Danh và Sắc của con người mình. Sư muốn nhắc quí Phật tử nhiều lần mình tu là mình lo cho chính mình chứ  không có để tâm bên ngoài, mình chỉ nhìn vô Danh Sắc của mình, thân, tâm, cứ nhìn vô mình quán sự sinh diệt hay sự hoại diệt, chứ không để tâm đến người khác, và mình không nói tới người khác, không nói tới chuyện của người khác, mình chỉ nói mình, cái đó mình mới là đang tu. Nói tới người khác, để tâm đến người khác là sai.

Thế thì, khi mình nói nhân nào quả đó mình phải biết Danh có nhân có quả, mình phải tìm ra cái Nhân của cái Danh, tìm ra cái Quả của Danh. Nhân nào của Sắc, Quả nào của Sắc. Nhân nào của Quả, 2 cái có liên quan với nhau không thì mới biết được.

Bây giờ Sư đi từng bước:

Như vậy thì, khi nói tới tâm và tâm sở của mình thì nhân sinh ra tâm này là mình phải biết rồi, có tâm sở thì có tâm, có cảnh thì có tâm. Niềm tin mình phải tin chắc, không cần ai nói, mình biết bằng sự thật.

Khi nào có tâm thì có tâm sở của tâm, có cảnh thì có tâm, không có sai trật. 

- Không có cảnh sắc thì không có tâm nhận thức. 

- Không có cảnh thinh thì không có tâm nhĩ thức. 

- Không có cảnh khí không có tâm tỷ thức. 

- Không có cảnh vị thì không có tâm thiệt thức. 

- Không có cảnh xúc không có tâm thân thức.

- Không có cảnh pháp không có tâm ý thức.

Mình biết vậy đó, nói một cách chính xác với đức tin của mình như vậy. Thì người hành giả thấy được cái đó, thấy rồi, biết rồi, mà nó mất đi, mất cái nhân đó, cái pháp này mất thì thấy trên sự vô thường của cái pháp với đức tin đó thấy rõ, chứ không ai nói làm lung lay.

Thí dụ minh chứng:

Sư nói hành giả có Tuệ Quyền qua rồi

 Bây giờ Sư nói hành giả có Tín Quyền đang ngồi thiền nghe tiếng ho, nghe tiếng chim hót, hay tiếng gõ cửa, thì hành giả có Tín Quyền nghe chỉ là trạng thái có nhân thì có quả, có sinh có diệt, hành giả  niệm cái đó trên sự vô thường, nãy không có, giờ có, rồi lại mất, nhớ lại là mình tưởng chứ thực ra là pháp không có, thì hành giả  đó có Tín Quyền trên Danh Sắc đó. Chỉ có một cái là, nãy có giờ không có, giờ có mà mất rồi.

Do đó, người có đức tin mà Tín Quyền họ thấy trên Vô Thường của trạng thái sinh diệt của nhân và quả với trạng thái nó thay đổi chứ họ không đi sâu vô cái "Tôi" cái "Ta".

Còn hành giả có Tuệ Quyền đi vô là cái "Tôi" cái "Ta" trên Tứ Đế đi qua phần chứng tri của bát bất tri, trên cấp của hành giả có Tuệ Quyền thấy được vô ngã vững chắc trên cái tướng rỗng không của sự thực tướng vô ngã này. 

Còn hành giả có Tín Quyền chỉ thấy sự sinh diệt thôi, thấy vô thường là đủ rồi.

Quí Phật tử đi qua 2 cái đó, Tín Quyền và Tuệ Quyền là đủ 

Thiền sinh hỏi: con nhớ bài trước Sư có nói qua, trong 3 tướng, nếu mình đứng trên tướng đó thì thì mình mới thấy

HT trả lời: Vô ngã phải dùng trí mới thấy. Thí dụ, mình thấy người ta chết mà người chết đó không liên hệ gì tới mình hết thì mình nói là vô thường. Nhưng khi người thân của mình chết, mình thấy sự chết của người thân mình nó không phải vô thường mà nó qua trạng thái nó không phải của mình nữa, nó qua vô ngã. Còn "người ta chết ta xót xa chẳng phải vì thương tiếc tu hành chưa đạt đạo lần lượt tới phiên ta", cái đó mình thấy dửng dưng lắm, chỉ thấy sự sinh diệt, sự vô thường hiện bày rồi biến mất vậy thôi, chứ mình chưa rúng động đâu. Cái anh thấy vô ngã mới rúng động. Cái vô ngã vượt ra khỏi quyền lực hay là mãnh lực của mình, sự quản lý của mình. Còn cái vô thường, thí dụ như xe cũ, nhà cũ hay xe hư nhà hư thì mình thấy nó là vô thường chứ mình không có rúng động, người nhà mình bịnh hay người thân mình bịnh, người nhà mình mất người thân mình mất thì mình rúng động hơn. 

Mình thấy dửng dưng như trong bịnh viện mình nghe bao nhiêu người mất. Như khi Sư chịu đựng cảnh con Guli mất trước mắt Sư. Cô Hoa Huệ có người mẹ chồng của cô ở VN mất mà ở trong bịnh viện muốn đi về nhà, muốn rút ống hỏi cô Tịnh Nhẫn trả lời vì Sư bận, sau Sư nghe cái đó là vô thường thôi.

Cái vô ngã là cái gì ảnh hưởng tới mình, còn cái vô thường là cái gì bên ngoài.

Vô ngã  có cái ngã của mình. 

Còn vô thường là cái pháp của nó chứ nó không đụng tới cái ngã của mình.

Vô ngã là đụng vô cái ngã của mình là xúc động liền hay rúng động liền. Còn vô thường chỉ là Pháp thôi.

Đụng vô người thân của mình là đụng vô cái ngã của mình, còn cái vô thường là cái bên ngoài, nó chưa đụng vô cái ngã của mình, nó chỉ là cái Pháp thôi. Cái khổ đau cũng vậy.

Sư chưa nói tới phần Định, mình nói qua phần Tuệ Quyền, Tín Quyền, Định Quyền. Thì phần Tín nằm ở trên trạng thái của vô thường là mình có niềm tin chắc có nhân thì có quả, có sinh rồi có diệt, nó có sự liên hệ với nhau sự hiện bày của Pháp như vậy, thì niềm tin vững chắc rồi không có thay đổi,  mình bắt đầu mới nhìn thấy mỗi pháp sinh diệt với thực tướng vô thường, đó là sự thật, còn ngoài ra mình không biết trên cơ sở đó mình sẽ không nhìn thấy Pháp vô thường trên trạng thái sinh diệt của nó.

Quí Phật tử ngồi thiền không có nhìn trên nhân quả của mỗi Danh và Sắc thì quí Phật tử niệm chỉ là niệm của thiền An Chỉ thôi chứ không phải quán Pháp của thiền Minh Sát. Mình có niệm nhưng không có quán. Còn quán mình phải nhìn trên thực tính thực tướng của Pháp mới ra. 

Do đó, lúc đó người có Tín thì nhìn thấy thực tướng vô thường. Người có Tuệ nhìn thấy thực tướng vô ngã trên bản ngã mà họ đang chứng tri trên Tứ Đế.

Cái ngã nó đụng tới mình, cái vô thường đụng tới pháp.

Trong vô ngã mình thấy vô thường.

"Chư hạnh vô thường Thị sinh diệt pháp Sinh diệt diệt dĩ Tịch diệt vi lạc"

Nghĩa là: Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, có sinh rồi thì phải có diệt.

Trong bài kinh Aniccā Vata saṅkhārā các Hành Là Vô Thường, là các pháp hữu vi thật là không bền vững, nó có tính chất sinh diệt, mình chỉ nhìn thấy các pháp vô thường sinh diệt trước mắt của mình thôi chứ chưa nói tới cái ngã của mình.

Vô tướng là không có hình tướng hình trạng 

Rỗng không là không có gì hết.

Trong bài 031 Paṭṭhāṇa tuần trước Sư nói, quí Phật tử ngồi nghiệm lại: Rỗng không, vô nguyện, vô tướng. Mà không có phiền não, không có ngũ uẩn; sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chỉ thấy pháp trong Danh Sắc này mình nhìn thấy nó rỗng không thì mới thấy là vô ngã.

Còn phần khổ đau nó không đứng yên, khi nó hiện bày lên tính chất của khổ đau nó không đứng yên, giống như nước lúc bắt đầu chưa nóng chưa sôi, khi mà nóng mà sôi rồi thì nó không đứng yên, nó sôi rồi thì nó sôi hoài.

Thí dụ 3 nồi nước:

1. Nồi nước lúc chưa sôi tới lúc sôi là vô thường.

2. Nồi nước sôi ít tới sôi nhiều là khổ đau. 

3. Nồi nước cạn dần và hết là vô ngã

Nồi nước sôi ít tới sôi nhiều là khổ đau. Mình muốn nhìn thấy được nó phải có tâm định, định quyền mới làm được. 

Còn lúc nó sôi mà mình cũng sôi luôn, mình hốt hoảng luôn mình phóng dật thì không bao giờ mình thấy, mình chỉ tưởng thôi, chứ không có tuệ nhìn thấy.

1. Nồi nước đang nguội lửa đốt làm nó sôi, hồi nãy không có giờ nó có là vô thường.

2. Nồi nước sôi ít tới sôi nhiều là khổ đau.

3. Nồi nước đang sôi tới cạn dần rồi hết luôn là vô ngã, rỗng không, còn cái nồi không.

Với người trí họ nhìn bắt đầu từ nồi nước thứ 3, từ cái rỗng không nhìn ngược lại. Vừa bắt nồi nước lên là họ biết liền. Khi bắt nồi lên bậc lửa lên là biết nó phải có những diễn tiến đó, không phải mình tưởng, mà nó phải đi như vậy. Còn người không biết thì bắt nồi nước lên nó diễn tới đâu biết tới đó.

Người mẹ nói với người con: "bắt cho má một nồi nước sôi đi con". Đâu có nồi nước nào sôi đâu, nhưng không bao giờ người mẹ nói bắt cho má nồi nước, mà người mẹ nói "bắt cho má một nồi nước sôi." là người mẹ biết bắt nồi nước này lên nó sẽ thành nước sôi. Còn người con sau khi bắt nồi nước khi nó sôi thì người con nói: Má nước đang sôi, giờ tính sao?" thì người mẹ nói tắt bếp đi chứ không nó cạn, thì người mẹ phải nói như vậy.

Thì người mẹ nói: bắt cho mẹ nồi nước sôi để mẹ nấu canh. Thì câu nói này là người mẹ nhìn từ giai đoạn nước đã sôi đi ngược lại, từ nồi thứ 3 trở ngược lại nồi thứ 1.

Như vậy thì 

- Trong cái rỗng không mình thấy vô ngã,

- Trong trạng thái không có một cái gì tồn tại thấy được vô thường, 

- Trong trạng thái khó chịu bất toại nguyện mình thấy khổ đau.

Ba cái đó cái nào là lớn, cái nào là nhỏ, cái nào là nhiều, cái nào là ít, cái nào là mạnh, cái nào là yếu, mình sẽ tìm ra.

Ba thực tướng: của  Pháp

Vô Ngã

Vô Thường

Khổ Đau

Quí Phật tử điền; pháp vô ngã ra sao, pháp vô thường ra sao, pháp khổ đau ra sao. Nói thực tính của nó.

Vô Ngã pháp của nó là không gì của ta.

Vô Thường pháp của nó là thay đổi, không đứng yên.

Khổ Đau pháp của nó là khó chịu hay bất toại nguyện, bất như ý.

Sư thí dụ rồi, bây giờ quí Phật tử nói. Thí dụ căn nhà thì vô ngã của nó là gì, vô thường của nó là gì, khổ đau của nó là gì?

Vô Ngã: Căn nhà là một sự hợp thành, rồi nó rã ra từng bộ phận thì nó không còn là căn nhà nữa.

Vô Thường: Căn nhà cũ, mới, tốt, xấu, hư, mục, hoại, đó là vô thường.

Khổ Đau:  là cái dính mắc của tâm mình vô căn nhà đó làm mình khổ đau, mình dính mắc vô nhà đó mình có khổ, dù thực tính thực tướng của nó hiện bày ra sao mà mình dính mắc vô nó là mình khổ. Vậy thì dính mắc này mình tập.

Cái khổ đau là khổ đế, cái khổ đau này dù cái nhà nó mới, nó cũ, nó tốt, nó xấu mà mình cứ dính mắc vô nó là mình khổ, mình đi đâu xa một chút là mình chạy về, đó là dính mắc rồi.

Còn cái vô thường này mình chưa có mà chỉ nhìn thấy thôi.

Còn cái vô ngã mình thấy sự hợp rồi tan, rã ra từng phần từng miếng.

Thí dụ về con người mình: 

Thế nào là vô ngã.

Thế nào là vô thường

Thế nào là khổ đau.

Nhìn từ dưới đi lên

Con người mình, thế nào là khổ đau?  Mình dính mắc vô con người mình nhiều quá, mình lo lắng, lo sợ nhiều thứ là mình đang khổ với nó.

Con người mình, thế nào là vô thường? Trẻ, già, đang khỏe thấy mình bịnh, đang hăng hái thấy mình uể oải mệt mỏi không có sức nữa là mình thấy vô thường.

Con người mình, thế nào là vô ngã? Nghiệp Chủ là Vô Ngã Kammassakatā 

Cái nào Đức Phật nói mình ngồi nghiệm ra để mình thấy được vô ngã. 

Có 3 pháp sinh kiêu mạn = Ngã Mạn có 3:

1. Tưởng trẻ mãi không già --> sinh kiêu mạn

2. Tưởng khỏe mãi không bệnh --> sinh kiêu mạn

3. Tưởng sống mãi không chết --> sinh kiêu mạn

Vậy thì, khi quí Phật tử đi tới một pháp vô ngã mà người của mình thì không nhìn cái này, cái này thuộc về chế định, thuộc về Nikaya, quí Phật tử quên một pháp chính của Siêu Lý  có nghe qua rồi mà không nhớ Nghiệp Chủ là Vô Ngã Kammassakatā 

Vậy thì khi nói tới căn nhà thì mình biết nó chỉ là Kammassakatā - Nghiệp Chủ là Vô Ngã. Tất cả do một pháp sinh lên mình thấy đây chỉ là Nghiệp Chủ thôi, nó đang dẫn dắt, nó đang tạo tác mà mình không thấy được nó thì mình chấp lầm "Tôi" "Ta" của mình, con người mình sống dưới một mệnh lệnh của Nghiệp Chủ (nghiệp quá khứ) .

Như vậy, trí tuệ của Đức Phật trên lý Tứ Đế. Đức Phật là Budho, là Budha, là trên Tứ Đế. Do đó, niềm tin của mình là trí tuệ dựa trên Tứ Đế của Đức Phật, phàm nhân không thấy được Tứ Đế, Thánh nhân cũng không thấy được Tứ Đế, chỉ có bậc Chánh Đẳng Giác mới thấy được Tứ Đế. 

Niềm tin của mình dựa trên trí tuệ của Đức Phật. Đức Phật Ngài được gọi là Ngài giác ngộ lý Tứ Đế, mình phải tin vào đó là xác thật.

 Do đó:

- Trên cái ta của mình là Kammassakatā - Nghiệp Chủ là Vô Ngã.

- Trên vô thường là sự diễn biến thay đổi.

- Khổ đau là có sự dính mắc cảm giác hay tri giác của mình trong sự dính mắc này mình mới khổ đau. Của mình thôi, Sư không nói của người ta, nếu quí Phật tử dính mắc người khác thì lại khác, mẹ dính mắc với con lại khác. Ở đây, chỉ nói mình dính mắc mình thôi, mình chủ chương mình tu không đụng tới người khác, mình chỉ giải quyết mình thôi và mình thấu hiểu mình thôi. 

Về con người mình:

Thì sự dính mắc này là khổ rồi, khi nào mình có dính mắc gì của mình là mình khổ.

Còn diễn tiến  là mình thấy nó thay đổi vô thường. 

Còn mình không làm chủ được nó, nghiệp lực nó làm chủ mình và nó tác động dẫn dắt mình và tạo tác mình thì mình mới thấy đây là vô ngã, mình bất lực với nghiệp chủ.

Vậy thì, khi mình ngồi thiền thấy được khổ đau, thấy được sự vô thường, thấy được sự vô ngã, lực bất tòng tâm, ngoài nghiệp lực này không làm nổi.

Do đó, khi Upatissa (Ngài Xá Lợi Phất) đến gặp Đại Đức Assaji một pháp sinh lên bởi cái duyên, chính cái duyên hiện bày cái pháp thì Ngài nói là cái đó nghiệp chủ tạo ra rồi không có cái gì là của tôi ta được nữa thì Ngài chứng sơ đạo sơ quả.

Vậy thì khi mình hành thiền Vipassana chứ không phải thiền Samadha thì trên cái nghiệp chủ này mình thấy được vô ngã, chủ nghiệp lực này tạo tác ra con người này chứ không ai cả.

Cái này là Nikaya nói pháp ba chi trong Tăng Chi, Pháp sinh kiêu mạn có 3

Có 3 pháp sinh kiêu mạn = Ngã Mạn có 3:

1. Tưởng trẻ mãi không già --> sinh kiêu mạn

2. Tưởng khỏe mãi không bệnh --> sinh kiêu mạn

3. Tưởng sống mãi không chết --> sinh kiêu mạn, 

Ngã mạn là một pháp của ngã chấp mà trong vô ngã này chỉ là nghiệp chủ. 

Trẻ mà già là nghiệp lực. Khỏe mà bệnh là nghiệp lực. và sống đi đến chết là  nghiệp lực. Nó thuộc sắc nghiệp lực ở trong sắc pháp, chứ không phải thuộc sắc tâm, sắc vật thực hay sắc quí tiết. Nó là sắc nghiệp lực, do đó đưa cho ta thấy Kammassakatā - Nghiệp Chủ là Vô Ngã. 

Rồi trong Kammassakatā - Nghiệp Chủ là Vô Ngã kéo thêm 4 pháp nữa. Do đó người muốn đi tới phần vô ngã mình phải đi hành xả, hành xả tuệ, mình mới thấy được. 

Người sống hành xả tuệ, ở trong đây có nói Sankhārupekkhāñāna hành xả trí, an phóng tĩnh mặc, trước một pháp hữu vi, danh sắc là pháp hữu vi là có nhân tạo tác ra pháp này thì mình sau khi an nhiên và tĩnh mặc mình mới hành xả được. Chứ mình rúng động, mình chao động, mình phóng dật với nó thì không có an nhiên tĩnh mặc, gọi là an phóng tĩnh mặc trong pháp này.

Trong pháp hành Nibbāna paramatha thì, có 10 Minh Sát Trí, bắt vô từ tuệ thứ III, Phổ Thông Tướng,  Tuệ thứ III - Sammasananàna - Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ não, vô ngã. Không đi qua phần Tuệ Phân Biệt Danh Sắc. Vô đầu tiên là Phổ Thông Tướng Tuệ thứ III - Sāmañña tuệ Phổ-thông (sammasanañāṇa) - Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ não, vô ngã. Tới sinh diệt hoại diệt xuống tới phần sankhara là pháp thứ 8, thứ 9 của 10 tuệ Minh Sát Trí của pháp hành Nibbāna paramatha  là Hành Xả Trí Sankhārupekkhāñāna, rồi nó qua Thuận Tùng Anulomaññāna nó nằm trong 10 Vipassanā ñāṇa, nó cắt 2 tuệ: tuệ phân biệt danh sắc, tuệ phân biệt nhân quả danh sắc.

Do đó trong pháp học là vậy đó, mình đi vô pháp hành mình phải thực hành. Cái này quan trọng lắm.

Thiền sinh: Thưa Sư, trong Pháp Học có 16 tuệ Minh Sát, nhưng khi qua thực hành thì tuệ I, Tuệ Phân Tách Danh Sắc, và tuệ II, Tuệ Phân Tách Nhân Quả thì có phải bỏ qua không? (by pass)

HT trả lời: Không bỏ qua, mình có 16 tuệ; tuệ I Tuệ Phân Tách Danh Sắc, tuệ II Tuệ Phân Biệt Nhân Quả Danh Sắc, rồi mới tới Tuệ III, Tuệ Phổ Thông. 

Người độn căn họ đi qua hai tuệ đó, tuệ I và tuệ II, người lợi căn họ đi vô Phổ Thông Tướng (tuệ thứ III) luôn, không cần phải đi qua phần phân biệt Danh Sắc.

Do đó, quí Phật tử đừng đặt câu hỏi by pass, nhưng mình biết, cái này nằm trong nibbāna  Paramatha Niết-bàn Siêu Lý, tức là mình đi tới trực chỉ Níp-bàn  chứ không phải đi qua pháp học rồi pháp hành. Không đi pháp hành mà vô ngay Níp-bàn. Đầu tiên là Kammaṭṭhāna có 2 nghiệp xứ có 2. Níp-bàn Siêu Lý vô là nghiệp xứ Kammaṭṭhāna có 2 là An Chỉ Nghiệp Xứ và Minh Sát Nghiệp Xứ. 

Minh Sát Nghiệp Xứ dịch là trú xứ để thực hành, hay để tạo tác. 

An Chỉ Nghiệp Xứ dịch là trú xứ để thực hành thiền An Chỉ thôi. Nó bắt đầu vô ngay.

Samadha có 7 nhóm.

Vipassana có 6 nhóm, rồi từ đó bắt đầu giải thích.

Nếu mình đi cái kia cũng vậy.

Nếu không có Abhidhamma, đi qua của Ngài Mahashi, Ngài Kudana, Panita, mà đi vòng vòng, nhiều khi đi không tới nữa, còn cái này Abhidhamma thì biết liền, tại vì cũng là tâm sở sắc pháp Níp-bàn, nhưng  họ bắt được dính liền.

Bữa nay Sư nói tới phần Vimokkha (cánh cửa dấn đến giải thoát) có 3, tới phần Vimokkha mukha lại có 3 nữa là tam cửa giải thoát, mà  Vimokkha mukha thì để đi tới Níbbana, còn Vimokkha này Níbbana trên thực tập của mình là Tuệ Quyền, Tín Quyền và Định Quyền, mình đi vô cái đó chứ mình không đi Ngũ Căn nữa.

Hồi đó mình đi ngũ căn; tín, tấn, niệm, định, tuệ. Còn cái này mình vô tuệ, tín, định.

Như vậy thì Tuệ, Tín, Định:

Tuệ ---> Chánh Kiến

Tín ---> Chánh Niệm

Định ----> Chánh Định

Với một người hành giả, với một người học giả ta thấy:

Với người Học Giả thì bắt đầu là Niệm, Định, Tuệ.

Với người Hành Giả thì bắt đầu là Tuệ, Niệm, Định

Danh Sắc, khi nhìn thấy Danh Sắc này chỉ là Nghiệp Chủ, thì mỗi sự diễn tiến của nó thì mình chỉ có Niệm thôi. Và khi nói khổ đau hiện bày mình chỉ có Định Tâm thôi.

để hình 032 - 1.48.13 


Đó là cái key.

Khi người hành giả vô ngồi thiền nhìn vào Danh Sắc thì người hành giả lấy cái tuệ làm việc.

Còn người học giả vô ngồi thiền nhìn danh sắc thì Niệm, khi khổ đau đến thì tuệ không phân biệt được, tiếp tục khổ đau nó đến, lúc đầu mới ngồi thiền không thấy khổ đau, mình ngồi Niệm được, cái sự diễn tiến của khổ đau nó bắt đầu khởi lên, giống như nước bắt đầu sôi, thì lúc đó mình không có định, không có tuệ để phân biệt được.

Nhưng người hành giả lấy tuệ nhìn danh sắc thì chứng tri nghiệp chủ thì khi diễn tiến của Danh Sắc này nó có ra sao thì mình phải giữ được cái Niệm mà cái định của mình an trú trước trạng thái khổ của Danh Sắc, mình mới nắm bắt được Pháp./.




Sunday, October 1, 2023

031 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 10 tháng 9, 2022

                                                                    031 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 17 tháng 9, 2022 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "031- Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Anupālakasatti nghĩa là đi theo bảo hộ, hay Tùy Hộ

Satti là mãnh lực

Sati là niệm

pālaka là bảo hộ

Anu là đi theo

Vipassana, Anuvipassana là thiền quán, mãnh lực này đi theo bảo hộ cho sắc pháp đó, hay câu sinh với nó

Anupālakasatti có 2 nghĩa là: Dưỡng dục và chiếu cố

Anupālakasatti là đi theo bảo hộ, hay Tùy Hộ, giống như người đi theo kèm cho đứa con không bị té. Nhưng trong ý nghĩa đi theo là vừa chiếu cố vừa dưỡng dục, nuôi dưỡng và chiếu cố quan tâm chăm sóc chăm nom. Do đó, chức năng Sắc Mạng Quyền làm công việc này cho các sắc pháp câu sinh với nó hay là nuôi dưỡng. Do đó Anupālakasatti là mãnh lực tùy hộ. 

Mấy đứa trẻ cần môi trường rộng rãi để sinh hoạt tốt cho phổi của chúng. Hồi bé ba mẹ Sư để cho Sư ở môi trường rộng rãi. Chư Thiên ở chỗ rộng rãi, chứ Chư Thiên không ở nơi chật, Chư Thiên ở 12 do tuần trở lên trong phạm vi rộng rãi, cái đó là cái chủng tử. Phật tử VN mình nói riêng, họ không đọc kỹ kinh sách của Đức Phật. 

Đức Phật Ngài dạy kỹ lắm, cái sống, cái ăn, cái ở, cái nghĩ, cái suy, Ngài dạy hoàn hảo lắm, cái may mắn của Sư là được đọc trong Chánh Tạng Pali, thành ra Sư mới biết Đức Phật Ngài  sống vượt ngoài tam giới, mà Ngài đã trải qua trong tam giới nên Ngài hoàn hảo, Ngài thấy trước, thấy xa, nên khi mình đi theo lời dạy của Đức Phật mình thấy an lành, thấy mình may mắn, mình có phước báu.  

Do đó mình phải cẩn thận, mình phải tiền hữu hậu, mình phải biết 3 thời; hiện tại, quá khứ, vị lai.

Thiền sinh hỏi: 28 sắc pháp, cái này là do nghiệp. Khi mà 28 sắc pháp đó do 4 xứ sinh ra sắc pháp này. Ý con hỏi là những cái này do nghiệp, khi mà tâm tử đi và tâm tục sinh vừa ra một cái thì ngay phút đầu tiên tục sinh thì cái sắc này phát sinh, nhưng mà tục sinh ngay sát na đó thôi rồi sau đó nó từ từ mạnh lên nhưng mà nó không còn hiệu quả để sinh tiếp nữa, nó nương theo để phát triển lên thôi. Thí dụ baby từ noãn thai trải qua 5 giai đoạn lớn lên, nhưng mà còn cái Sắc Mạng Quyền này không phải là lúc sát na sinh nhưng mà nó sẽ có sau này, đúng không thưa Sư?

HT trả lời: Không có, nó có luôn, nó là nghiệp. Nó ra đầu tiên, nó là 8 sắc bất giãn biệt, ngày xưa Ngài Tịnh Sự gọi là 8 sắc bất ly, nhưng Sư dịch từ Pali đúng theo tiếng Hán Nho là bất giãn biệt, tức là không tách rời ra được, giãn là tách rời, biệt là biệt ly. Thì nó thuộc loại này, nó đi theo nghiệp.

Do đó, Sắc Mạng Quyền khi tục sinh là đã có hiệu hữu rồi, còn Sắc Tâm, Sắc Vật Thực, Sắc Quí Tiết sau đó mới lên, còn mấy sắc thần kinh đều là sắc nghiệp là Sắc Mạng Quyền đã có rồi không chậm trễ. Tới khi mình chết sắc pháp đó sắc thân mình chết thì Sắc Mạng Quyền chết theo. Nhưng Sắc Nghiệp chết, Sắc Tâm chết, Sắc Vật Thực chết với người chết, tuy nhiên Sắc Quí Tiết chưa chết nó đi theo đến khi trở thành tro bụi luôn, Quí Tiết âm dương nóng lạnh.

 Còn người chết thì Sắc Nghiệp chết với sắc thân nó, Sắc Thân chết thì Sắc Nghiệp chết, thì đi tục sinh nghiệp dắt đi theo, Sắc Mạng Quyền đi theo thành một sắc pháp mới để nuôi dưỡng sắc pháp đó nữa, nó chiếu cố quan tâm bảo hộ, nó liên tục vậy đó.

Cũng như tâm của mình, 7 tâm sở biến hành, khi có tâm là có nó không chậm trễ, dù mới sinh ra hay trừ khi chết, mà chết nó đi cái nghiệp khác ra tâm tục sinh, nó đi theo tâm mới cũng có tâm sở mạng quyền. Hai cái đó như bóng với hình với mình, nó đi theo nuôi mình. 

Cũng như khi mình ăn uống vật thực, trong sự ăn uống vật thực là bổ phẩm thì trong đó cũng có Sắc Mạng Quyền của sắc đó để nó nuôi cái bổ phẩm đó để có, còn không thì nó hư rã, Sắc Mạng Quyền cũng quan trọng lắm 

Tập I kỳ này Sư bổ túc lại thì sẽ thấy là đầy đủ hết chức năng của 28 sắc pháp này, bữa Sư compile chương II, chương III, chương IV cộng luôn pháp Siêu Lý nó lên 7 trăm mấy bây giờ Sư rút lại

Niết-bàn Siêu Lý có 3 là:

Niết bàn thứ 1, Santisukha là Tịnh Lạc

Niết bàn thứ 2, Niết-bàn có 2:

- Niết-bàn hữu dư y và

-  Niết-bàn Vô dư y.

Niết bàn thú 3, Niết-bàn có 3: 

3.1 -  là Rỗng không

3.2 - Vô Tướng.

3.3 - Vô Nguyện.

Giải thích về Niết-bàn Siêu Lý thứ 1:

1. Santisukha = Tịnh Lạc. 

1. Santisukha = Tịnh Lạc. Là khi đạt tới trạng thái Tịnh Lạc này cũng liên quan đến giai đoạn giải thoát. Phần Tịnh Lạc này đi tới trạng thái không còn phiền não, không còn ngũ uẩn, gọi là niết-bàn. 

Nó có một sát na đạo là chứng ngộ Niết-bàn, chứng đắc Niết-bàn hay đạt được Niết-bàn, chỉ một tích tắc, nó lẹ lắm, chỉ trong khoảng đó là mình không có phiền não, không có, tham, sân, si, tật, nghi. Thứ hai nữa là không có ngủ uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tôi, ta, mình mới tìm cái đó (không còn phiền não, không có ngũ uẩn là đáp số), bây giờ mình đi tìm giải pháp. 

Mình học pháp của Đức Phật, các quí Phật tử được may mắn là Ngài đưa đáp số đưa lời giải đáp cái đáp số đó cũng có nhiều khía cạnh, tuy nhiên vì căn cơ của mình, vì nghiệp lực của mình, vì phước của mình, mình không có bắt được thôi, chứ ngoài ra không có cái gì hết. Ngài là một vị Đạo Sư thuyết giảng với bàn tay xòe ra, không phải bàn tay nắm lại, Ngài là công truyền, không bí truyền, không có gì là bí mật, không có gì là dấu kín. Nhưng mình vô không được, mình tìm không được, mình không hiểu được, đó là vấn đề của mình.

Ngài nói: Niết-bàn có 2 là, không còn phiền não không còn ngũ uẩn. Mình bắt đầu tìm cái trước để đi tới đáp số này. Giờ mình đang sống, đang sinh hoạt, không hành thiền, chỉ sinh hoạt bình thường như tắm, ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi, mình làm sao mà được Tịnh Lạc, không còn phiền não, không có ngủ uẩn "tôi, ta". Giờ mình đi tìm. 

Hay là mình bắt buộc phải trở vô thiền, vô khóa tu, có thầy chỉ, có phương pháp, mình mới hành được, mình phải tìm ra cái đó.

Cho đến khi mình có điều kiện, mình có khóa tu, có Thầy dạy, có phương pháp tu, mình có không còn phiền não không, mình không có ngũ uẩn không? Đó là câu hỏi của mình.

Cũng như các quí Sư quí Thầy lên thuyết pháp, họ không còn phiền não, họ sống trong Pháp để nói Pháp được thanh tịnh. Còn nếu họ nói Pháp mà còn phiền não thì coi như Pháp đó không chỉnh chu tinh khiết nữa.

Chẳng hạn mình đang có tâm sân, tâm tham, tâm phóng dật trong thuyết Pháp đó hay có một cái nghi trong thuyết pháp đó thì bài thuyết pháp đó không trong suốt. Vị giảng sư đó không có được tịnh lạc, thuyết Pháp còn "tôi, ta" nữa, thọ, tưởng, hành, thức của mình lộ ra, thì bài thuyết pháp đó không được tịnh lạc.

Giải thích về Niết-bàn Siêu Lý thứ 2 là:

2. Niết-bàn Siêu Lý thứ 2 có 2 là: Niết-bàn hữu dư y và Niết-bàn Vô dư y.

a) Niết-bàn hữu dư y là còn dư sót để mình nương nhờ. Cái gì còn dư sót để nương nhờ? Cái nghiệp quả của mình.

b) Niết-bàn vô dư y là không còn dư sót để nương nhờ cái nghiệp quả của mình.

Như Đức Phật Ngài đắc chứng đạo quả, Ngài hữu dư y Niết-bàn lúc Ngài 35 tuổi, 45 năm Ngài đi thuyết pháp chỉ dẫn cho người ta tu, Ngài còn hữu dư y tức là Ngài còn nghiệp quả của Ngài, còn những cái còn trổ ra cho Ngài. Như bệnh kiết lỵ Ngài cũng phải trả cái nghiệp quả của Ngài. Thứ hai là Ngài bị Đề-bà-đạt-đa lăn đá chảy máu chân, đó là nghiệp quá khứ của Ngài, là do Ngài tranh dành ngai vàng của anh em của Ngài và Ngài bị trả cái quả này. Mà Đề-bà-đạt-đa vì vô minh nên tạo ra cái nghiệp quả này.

 Do đó mình phải hiểu có những khi nghiệp người khác làm mà mình nhẩy vô lãnh nghiệp. 

Trong một kiếp Ngài tranh dành ngai vàng với anh em Ngài, kiếp này Ngài phải trả phải đổ máu, nhưng ông Đề-bà-đạt-đa thì vì lòng tham lòng sân ông lăn tảng đá làm chảy máu chân Đức Phật, đó là một trong ngũ nghịch đại tội, vô gián địa ngục. Nên Đức Phật Ngài nói với Chư Tăng: Cái này là cái nghiệp của Như Lai mà Đề-bà-đạt-đa nhảy vô làm nên Đề-bà-đạt-đa lãnh tội ngũ nghịch đại tội.

Cho nên câu nói: "cái nghiệp mà lãnh" là chuyện xưa rồi, mình không nói như vậy với ai được, mà chỉ cần nói một câu: "phóng dật phải khổ". Nếu không phóng dật, mình có chánh niệm. Bài tuần trước, sống có chánh niệm sống có trí tuệ, thì mình không tạo tác ra chuyện vô minh. Chỉ có phóng dật mới tạo ra chuyện vô minh. Nên Đức Phật nói: Phóng dật là con đường chết, không phóng dật là con đường sống. Do đó mình đừng có nói cái này nghiệp, cái này quả trổ phải gánh. Không cần nói như vậy, chỉ cần nói anh phóng dật, vậy là đủ rồi. Phóng dật thuộc phiền não, mình phóng dật phiền não trổ sinh ra liền. 

Đối với bậc Alahan, đối với bậc Chánh Đẳng Giác Ngài đã diệt trừ mọi tiền khiên tập thân, phiền não của Ngài, Ngài không còn cái gì phiền não mới phát Sinh lên, mà Ngài còn những phiền não Quả phải trả. Đứng trước tình huống đó, mình phải đứng ở giữa, mình phải có Chánh Niệm và Trí Tuệ. 

" Cái này tôi không sinh không tạo nữa, nhưng quả nó đến rồi tôi trả không sao hết". 

Đó là người có Chánh Niệm và Trí Tuệ, và người đó không phóng dật. 

Còn không mình cộng thêm 2 luôn, vừa thiếu Chánh Niệm vừa thiếu Trí Tuệ, và vừa phóng dật, vừa gây ra phiền não, vừa trả vừa tạo Mình chỉ phóng dật thôi, quả phải trả vừa tạo tác cho sinh lên.

Nên bây giờ mình phải có Chánh Niệm để đừng cho Sân, phải có Trí Tuệ để đừng có tạo tác ra nữa. Sống trong đời này, Sư chưa nói là những cạm bẫy, những cám dỗ, hay những bẫy sập, mà mình nội trả cái của mình cũng chưa hết, đừng tạo thêm nữa. 

Cái nghiệp mình còn mà mình không biết bao nhiêu, trừ khi mình đắc thần thông như, tha tâm thông, hay thiên nhãn thông, mình nhìn lại quá khứ nghiệp của mình.

Cũng như mình có trí tuệ, mình nhìn bình xăng của xe mình chạy biết còn bao nhiêu galon xăng để chạy, gặp trường hợp cái phao của bình xăng bị hư, như trường hợp xe khởi máy không được, kêu người thợ sửa xe đến coi, sau khi kiểm soát tất cả máy móc trong xe đều không có vấn đề, và kim chỉ trong bình xăng còn một nửa, nhưng người thợ sửa xe vẫn châm thêm xăng vào bình và cho máy khởi chạy thử thì máy xe chạy, coi lại kim chỉ bình xăng thì nó bị hư không còn chỉ đúng nữa.

Thì đời sống của mình là như vậy. Do đó, mình mới biết. Quí Phật tử học phải có trí, mình chạy với cái nghiệp của mình.

Mình biết mình còn bao nhiêu nghiệp không? Chưa có túc mạng thông, chưa có tha tâm thông, chưa có thiên nhãn thông, không có biết nổi đâu.

Do đó, khi mình không biết thì mình đi hỏi người ta: Ông cho tôi biết tôi còn bao nhiêu nghiệp nữa để tôi trả cho hết nợ" Không ai trả lời được.

Má Sư ngày xưa tới 2 giờ trưa mà ba Sư chưa đi làm ba Sư còn trên lầu nên má không biết. Má Sư dưới đất nghe leng keng leng keng, má Sư nói người giúp việc kêu vô. Ba Sư ở trên lầu đi xuống bắt quả tang, Ba Sư nói: "Sáng mắt còn chưa biết mà đi hỏi ông mù." 

Sư chỉ cho quí Phật tử làm: Mình bây giờ túc mạng thông không có, tha tâm thông không có, thiên nhãn thông không có. Mình học mình phải có trí. Mình có thể mua một cái máy làm tượng Phật. Có một gia đình làm tượng Phật, họ mua máy về làm được nhiều tượng Phật, người ta xin thì cho, thì mỗi người xin lãnh tượng Phật của mình làm tức là mình tạo được một thiện nghiệp, mà nhiều người xin thì mình tạo được nhiều thiện nghiệp cho mình, mà nhiều thiện nghiệp thì bất thiện nghiệp rượt mình không kịp.

Trong kinh sách không bao giờ nói cái đó.

Khi xả thí là một việc thiện là tâm Đổng Lực, là cái nghiệp nó đi, cái thiện đi tiếp, cái bất thiện không chen vô được. Còn mình giữ nó đằng kia nó tới nó chụp là dính luôn. 

Chỉ có mình làm việc thiện bằng mọi phương pháp nào trong Thập Phúc Hành Tông hay là trong Thập Thiện thì mới chạy được cái nghiệp và nghiệp bất thiện không trổ được.

Khi Đức Phật Ngài thọ bữa cơm cuối cùng từ ông thợ săn đồ tể Cunda,  rồi từ đó Ngài đi về Kusinara Ngài không thuyết pháp giảng đạo cho Chư Thiên hay nhân loại thì nghiệp mới dứt. 

Còn nếu quí Phật tử từ sống cho đến chết, hơi thở nào mình cũng tạo nghiệp. 

Tại sao Sư phải làm kinh sách hoài, vì không để cho nghiệp chen, nghiệp không có chỗ chen vào, trừ khi ngủ, ngủ phải ngủ thiếp mật chứ bất thiếp mật là nghiệp cũng chen vô, nó dẫn nghiệp tới thì Thú Tướng sinh lên trong cái suññatā trống, thì 3 cái nghiệp; Nghiệp, Nghiệp Tướng, Nghiệp Thú Tướng chen vào, mình phải lấp kín chứ không nghiệp nó tới, mà không biết cái nào nó tới, mình không đi tìm, mình cứ tạo nghiệp thiện tiếp tục tạo việc thiện, nếu dừng việc thiện thì bất thiện nó sẽ chen vào, trừ những lúc đi ngủ, còn thức thì kiếm việc thiện làm, không để thời gian trống, thì nghiệp bất thiện không có cơ hội chen vô.

Từ lúc Đức Phật thọ bữa cơm cuối cùng của người thợ săn Đức Phật nói với Ananda chôn chén cơm thừa, đề nguy hiểm, từ đó Ngài đi về Kusinara Ngài không giảng dạy, nghiệp quả nó trổ ra và trổ liên tục, suốt đoạn đường đi Ngài bị kiết lỵ không ngừng tới thân Ngài hết nước và không có nước uống, đó là nghiệp lực, đó là Đức Phật.

Còn mình thì sao, không ăn chung gì. Nên Sư nghiệm 2 - 6 mà mình không có tạo ra 1, 7 thì không thể nào chống lại 2 - 6, 1,7 là mình hưởng

---------------------------

trích đoạn bài giảng Phát Thú 028 về nghiệp từ 2 - 6 và 1, 7

Cảnh gì mà không thực? Cảnh Nghiệp, Nghiệp Tướng, Nghiệp Thú Tướng 2 - 6 của quá khứ mình tạo ra.

Thường Cận Y là quả của tâm Đổng Lực Câu Sinh, nó là quả của tâm Đổng Lực từ sát na  2 đến sát na 6 ( 2 - 6) nó ra Thường Cận Y Dị Thời Nghiệp. Một cái câu sinh chỉ có tâm Đổng Lực một, nó hiện báo nghiệp, còn Đổng Lực 7 nó qua Dị Thời Nghiệp của thời vị lai.

Trong 7 sát na tâm Đổng Lực, thì sát na thứ nhất là Hiện, sát na thứ 7 là Hậu, còn 5 sát na giữa là Hậu Hậu.

Thì  Hiện Báo Nghiệp (cái thứ nhất) là Câu Sinh nó chỉ có một, còn 5 cái giữa là Hậu Hậu Báo Nghiệp Quá Khứ  là Dị Thời Nghiệp Quá Khứ, còn cái thứ 7 là Hậu Báo Nghiệp là Dị Thời Nghiệp Vị Lai.

Hiện Báo Nghiệp (cái thứ nhất) có 1 trên 7, mà cái 2 với 6 (Hậu Hậu Báo Nghiệp) là Lộ Trình Tâm nào cũng có. Do đó, khi thân, ngữ ý mình làm một chuyện thôi mà 2 với 6 này quá khứ hiện tại nó trống nó trổi ra, nên Sư nói khi mình trả quả mình trả từ sát na tâm.""

Do đó, đời sống của mình phải cẩn thận, mình Câu Sinh nhiều hơn hay là Dị Thời Nghiệp, Thường Cận Y nhiều hơn. Minh phải biết không cái nào nhiều hơn cái nào ít hơn, mà chỉ có trạng thái thiếu Tỉnh Giác hay có Tỉnh Giác thôi, thì có quân bình, nếu có Tỉnh Giác mình có quân bình, cho dù 1 và 7 của hiện tại, nhưng mà mình biết Tỉnh Giác thì mình có 2 - 6 của quá khứ cộng lại thì cũng bằng với cái mình đang làm thiện, còn không thì thấy không công bằng. Bảy cái mà sài có một, còn 6 cái kia là của quá khứ vị lai thì mình sợ rồi, mình không chịu, nhưng mà thực ra nếu mình Tỉnh Giác mình lấy được cái 2 - 6 với cái 7 của quá khứ mình cộng lại được.

Do đó, khi nói tới Cửu Huyền, có 2 là; Cửu Huyền 7 và cửu huyền 2 - 6. Cửu Huyền 7 là mới, ông bà cha mẹ của mình mới, thì cái đó, khi làm việc phước mà mình hồi hướng mình hồi hướng đến Cửu Huyền 7 chứ mình không hồi hướng đến Cửu Huyền 2 - 6 vì mình không biết những ông bà cha mẹ đó.

Mình hồi hướng là hồi hướng cho số 7.

Mình việc thiện nào đúng thì mình mới có phước vả người đón nhận việc hồi hướng mới có hiệu quả được, chứ còn không chung chung thì không được.

--------------------------

Mình phải làm việc thiện liên tục thì nghiệp bất thiện của quá khứ  2 - 6 không chen vô được.

Thiền sinh hỏi: Khi nói mình không làm việc thiện thì bất thiện chen vô liền. Thì cái bị xen kẽ vô là bất thiện, tức là xen cái mới, xong rồi nó cũng có cơ hội để xen vào. Thì Đức Phật không tạo việc thiện nhưng tâm của Ngài là thiện thì sao bất thiện xen vào được?

HT trả lời: Tâm thiện là tâm quả, Ngài không tạo ra tâm duy tác mới, mà tâm duy tác không để lại quả thì lúc đó bất thiện quả xen lên.

Nhàn cư vi bất thiện. Nhàn cư là không có tạo việc thiện, không làm việc thiện thì bất thiện xen vô. Nhàn cư là không làm việc thiện thì quả kia (quá khứ) trổ liền.

Cho dù đi ra ngoài dã ngoại đi nữa cũng phải làm việc thiện gì đó (thí dụ như niệm chú hay niệm Phật) thì mới chạy được nghiệp bất thiện. Chứ còn mình cười vui vẻ quên tất cả thì nghiệp quá khứ nó sẽ xen vào, cái đó gọi là phóng dật, thiếu niệm và thiếu trí tuệ trong mọi sinh hoạt trong mọi sự sống, đó là tập khí mình quen thường. Mình chỉ có niệm với trí tuệ khi có khóa tu thôi, còn mình vô môi trường nào khác mình bỏ thiền, bỏ tuệ, lúc đó mình đang phóng dật, mình đâu có làm việc thiện, chữ nhàn cư là mình không có làm việc thiện, thì bất thiện nó chen vô.

Từ đây về sau quí Phật tử phải nhớ không để một sự phóng dật nào. Mình sống phải có niệm, phải có trí, tìm việc thiện tạo tác đừng để bỏ trống, bỏ căn nhà trống là có phi nhân vô, bỏ tâm trống là có bất thiện tới.

Đức Phật một ngày Ngài có 5 Phật sự: Sáng Ngài đi bát, trưa thuyết pháp, chiều dạy Chư Tăng, tối dạy Chư Thiên, gần sáng quán xét chúng sinh hữu duyên. Ngài không bỏ trống lúc nào. Nhưng ngày cuối ngày Ngài về Kusinara  Ngài không giảng không làm Phật sự nào nữa.

Thiền sinh hỏi: Lúc Ngài nhận thức ăn của Cunda, thì theo trong sách viết là Ngài đã biết là nghiệp lực của Ngài là lúc Ngài ăn thực phẩm đó?

HT trả lời: Mấy cô không đọc kỹ trong kinh không có nói. Khi bữa ăn cuối Đức Phật Ngài nói với Ananda: Này Ananda, nên nhớ Như Lai có hai bữa ăn thù thắng đầy phước báu là trước khi đạo quả và viên tịch Niết-bàn, hai bữa ăn đó là phước báu vô lượng, đừng để thợ săn Cunda bị mặc cảm tội là do bữa cơm của mình mà Đức Phật Ngài viên tịch.

 Nhưng thật ra Ngài biết Chư Thiên bỏ tiên thực vô, mà tiên thực thì người nhân loại không tiêu hóa được, một ngày Chư Thiên dùng no một tháng, còn mình một ngày dùng no 7 ngày, do đó nếu mình ăn nhiều là bị bội thực, mà bội thực thì sinh ra bịnh, thí dụ như bịnh tiểu đường là những nhà giàu ăn đồ bổ dư thừa thận không lọc được nên bị tràn vô trong máu, đó là bịnh nhà giàu. Những người đói khát nghèo khổ đâu bao giờ họ bị những bịnh đó vì họ còn không đủ ăn, ăn một ngày rồi nghỉ 3, 4 ngày không ăn. Nên mấy cô để ý, ở đây, bữa nay Sư không ăn tại vi Sư biết đủ rồi thì ngừng, khi vật thực tiêu mới ăn thực phẩm mới vào. Do đó, khi tiên thực bỏ vô Chư Thiên nói đây là bữa ăn cuối cùng nên phải cúng dường vì không còn cơ hội nào cúng dường Đức Phật nữa, Đức Phật ăn xong nói Ananda đem chôn liền, không cho Chư Tăng nào thọ tàn thực, Ngài kêu chôn thật sâu tại vì sợ mấy con thú nghe mùi tới bới lên ăn sẽ bị chết. Rồi Ngài đi về Kusinara, những vật thực  Ngài đã ăn vào tiêu hóa không được nên sinh ra bịnh, nghiệp quả của một lần Ngài cho thuốc lầm cho một bịnh nhân bắt đầu chen vô đúng giai đoạn này và trổ ra nghiệp. Cũng như Đề Bà Đạt Đa nghiệp vô đúng giai đoạn tiền kiếp Ngài tranh dành ngai vàng Đề Bà Đạt Đa chen vô đúng lúc. 

Thì người nào có tội? Không người nào tội hết, Cunda không tội mà Chư Thiên bỏ vật thực cũng không có tội, tất cả đều có phước. Nhưng Ngài phải trả cái nghiệp. Ngài biết, nhưng Ngài không cản Chư Thiên để cho Cunda cúng dường thôi. Ngay cả Ananda, khi Đức Phật Ngài nằm trên tảng đá ở Kusinara Ananda sắp xếp chỗ ngồi cho những người tới viếng Đức Phật, Đức Phật gọi "Ananda xích ra Chư Thiên đến đảnh lễ Như Lai đừng cản Chư Thiên đang buồn, họ không thấy được Đức Phật họ không hoan hỉ." Ananda không biết, Ananda xích ra thì bắt đầu Chư Thiên đảnh lễ thả hoa mạn đà la xuống cúng dường Đức Phật lần cuối cùng.

Thì Ngài biết, Ananda không biết. Thì khi Cunda cúng dường Ngài bữa cơm Chư Thiên nói đây là bữa cơm cuối, nếu không cúng dường thì không có cơ hội cúng dường nữa, thì họ biết, từ đó về Kusinara Đức Phật Ngài không dùng vật thực nữa. Năng lực của bậc Chánh Đẳng Giác là vậy, tuyệt vời, Ngài đã thường vô nhập thọ tưởng định, nhập thiền diệt, 7 ngày không ăn. Ngài 49 ngày quán pháp khi đắc đạo quả không dùng trong 7 tuần lễ, trong suốt 49 ngày Ngài không dùng vật thực nào hết, thì trong thời gian Ngài đi về Kusinara Ngài không dùng vật thực, đó là việc bình thường của Ngài, nhưng nghiệp quả trổ vô ngay lúc đó là việc cho thuốc lầm với tiên thực không tiêu hóa được là chết.

Mình không thể nào để "nhàn cư" trong đời sống của mình. Nếu để mình nhàn cư thì bất thiện trổ ra, quí Phật tử phải kiếm việc thiện làm để tạo phước thiện cho mình và để đức lại cho con. Đó là cách mình chạy nghiệp. Mình cứ làm, ai đến xin thì mình cho. Cách đó là Sư học của Ngài Tịnh Sự,

"Tại gia thí tài, xuất gia thí pháp, song thí đồng hỉ, phước báu vô lượng."

Đừng để đời sống của mình nhàn cư vi bất thiện, đời sống mình mà để nhàn cư vi bất thiện là sống thiếu chánh niệm, thiếu trí tuệ, là người sống trong phóng dật, đừng để trống quả trổ qua đó. Nhiều khi mình tu hành hay mình đi chùa tu mà sao cứ than mình khổ hoài, là vì mình không biết phòng hộ và bảo vệ cho chính mình, tại mình phóng dật nghiệp quả chen vào thì khổ cho mình. Có khi có gia đình làm khổ cho gia đình tại vì sống chung, cộng trú cộng nghiệp. Phải cẩn thận, phải sống trong chánh niệm, sống trong trí tuệ và sống trong nỗ lực làm việc thiện chứ đừng để nhàn cư.

Trường hợp bị mất trí nhớ. Tại sao bị mất trí nhớ? Tại vì không dùng não. Thời gian càng phải làm mà không làm, lấy kinh sách đọc, hay ngồi thiền, hay nghe pháp, hay làm việc thiện, lúc đó não mình phải làm việc. Còn mình không làm gì thì bắt đầu nghiệp báo chen vô, mình đóng của mình lại thì nghiệp ở ngoài chen vô của mình. Giống như nhà mình ở, để đèn sáng, đi ra đi vào, ăn trộm không dám vào, nhưng nếu thấy không đèn, không người ở là nhà trống thì ăn trộm vào và mình bị mất đồ.

Trong kinh Đức Phật dạy Nhân Sinh Trí Tuệ, 

Dịch kinh sách là nhân sinh trí tuệ, là nhân sinh chánh niệm, phải ghi nhớ, phải tìm hiểu từ vựng, tìm hiểu câu văn, đó là cách mình không để tâm trống. Đó là Sư chia sẻ với quí Phật tử, sống đời sống mình đừng có nhàn cư vi bất thiện, mình sống phải có hoạt động, phải có sinh hoạt, phải có tu tập, phải có trau dồi, phải có hoạt động sinh hoạt làm việc thiện liên tục, không bỏ trống.

Từ xưa bắt đầu ngày Sư dạy học cho tới ngay đứng lớp với quí Phật tử đây, không bao giờ có trong sách mà Sư giảng, mà không có người nào hỏi. Ngày trước Sư giảng ở truờng Cơ Bản Phật Học, hay là giảng cho Tăng Ni các khóa tu, khóa an cư, học Trường Bộ, Trung Bộ mở ra rồi Sư giảng, các vị hỏi sao nãy giờ Sư giảng mà con không thấy gì trong sách giống như ở trên bảng. Sư trả lời, nếu mà Sư tới đây mà Sư giảng giống như ở quyển sách, giáo án của quí Phật tử quí Tăng Ni đang đọc, thì ở nhà đọc đâu cần đến lớp. Không ai trong lớp hỏi Sư tại sao Sư giảng trong lớp không bao giờ có trong kinh, mà trong quyển kinh đã có như vậy rồi, mà Sư chỗ nào Sư giảng ra được mà không có trong kinh này. Đó mấy cô mới thấy mấy cô nhớ chưa, mà chi có một mình Sư, không có người khác. Thì cho dù mấy cô không hỏi thì bữa nay Sư hỏi để quí cô tìm ra cách Sư giảng trong lớp.

Số lá trong tay và số lá trong rừng, Sư phải tìm hết, Đức Phật nói cho mình nghe là những lá trong tay là 84,000 Pháp Uẩn (Dhamma-kkhandha), Sư có quyển đó 84,000 Pháp Uẩn, Tạng Luật, Tạng Kinh, Abhidhamma, Sư đều có Sư coi, rồi trong 84,000 Pháp Uẩn có liệt kê, Sư coi trong Tạng, từng Tạng, từng bộ Sư đối chiếu lại, Sư mở qua cuốn Kho Tàng Pháp Bảo (Dhamma Dhana) có 2 thể loại, thể loại của Thái và thể loại của Tích Lan, thể loại Thái ngữ, thể loại Anh ngữ. Sư coi 2 loại rồi Sư ráp lại, không có như Sư đúng lớp giảng. Giờ Sư đưa sách ra, Sư giảng quí cô thâu, mấy cô về ngồi nghiệm rồi mấy cô viết ra những lời Sư giảng, rồi cầm cái đó đi ra giảng, không có giống được. 

Tức là hoàn toàn những gì mà Sư đứng ở trên lớp này đều là trải nghiệm của sự tu chứ không phải trên kinh điển sách vở, hai cái khác nhau. Do đó, các quí cô phải nhớ, phải hiểu chúng ta có:

1.  Pariyatti Dhamma tức là Pháp Học 

2.  Patipatti Dhamma Pháp Hành, 

3.  Pativedha Dhamma là Pháp Thành

Ba pháp này khác nhau hết.

1. Pariyatti Dhamma tức là Pháp Học gồm có Tam Tạng và Chú Giải + Phụ Chú Giải

2.  Patipatti Dhamma Pháp Hành gồm có An Chỉ tu tập + Minh Sát tu tập

3.  Pativedha Dhamma là Pháp Thành gồm 4 Đạo + 4 Quả + 1 Niết-bàn

Thì:

1. Pariyatti Dhamma tức là Pháp Học có 84,000 Dhamma-kkhandhā Pháp Uẩn. Rồi Chú Giải của Tam Tạng có 23 bộ. Luật Tạng có 21,000. Kinh Tạng có 21,000. Abidhamma Vô Tỷ có 42,000. Nhưng Chú Giải Aṭṭhakathā chỉ có 23 quyển thôi, Phụ Chú Giải Ṭika  có 5 quyển Ṭika 

2.  Patipatti Dhamma Pháp Hành có:

-  36 An Chỉ Sắc Giới,

     4 An Chỉ Vô Sắc Giới (Không Vô Biên, Thức Vô Biên, Vô Sở Hữu, Phi Phi Tưởng Xứ (-  Minh Sát có 16 Trí, -  4 Niệm Xứ 

========== Cộng lại thành

   40 An Chỉ

Rồi

  Minh Sát có 16 Trí

 4 Niệm Xứ 

===========Cộng lại thành

20 Minh Sát Tuệ


3.  Pativedha Dhamma là Pháp Thành gồm 4 Đạo + 4 Quả + 1 Niết-bàn

Sư vẽ bản đồ 031 - 1.08.06



Đầu tiên cái số 1 mình học 84,000 Pháp Uẩn, rồi 23 quyển Chú Giải, 5 quyển Phụ Chú Giải. 

Đến số 2 mình còn An Chỉ và Minh Sát 40 và 20. 

Đến số 3 còn lại 4 Đạo, 4 Quả, 1 Niết-bàn

 Mình viết ra và vẽ bản đồ rồi mình ngồi nghiệm ra.

Thì bây giờ mấy cô biết là Sư đến với các Phật tử, lý do gì mà quí Phật tử hỏi Sư đứng lớp giảng khác hơn sách giáo khoa Sư viết ra, cho dù là giáo án hay là Chánh Tạng đọc không giống như trên lớp Sư giảng. Sư đứng lớp mỗi một chỗ, mỗi một nơi ở với Tăng khác, ở với Ni khác, ở với Phật tử khác, người già khác, người trẻ khác, người mới vô học khác, người học lâu có khác. 

Tam Tạng Sư cũng có nói, Pháp Hành Sư cũng có nói, Đạo Quả Sư cũng có nói, mỗi cái Sư đều có bỏ vô. Do đó khi mấy cô mở quyển sách Tam Tạng ra hay sách Chú Giải, hay mở sách Phụ Chú Giải, hay là mở sách giáo án hay sách khoa thư, thấy có cái này Sư đang nói về Pháp Hành. Mấy cô mờ sách của Ngài Kudala, Ngài Panita, Ngài Janaka v.v.

Bữa nay Sư nói Niết-bàn.

Do đó, mấy cô biết là khi mấy cô nắm được cái key đó cái chìa khóa đó thì mai mốt không có Sư mà mấy cô đi giảng dạy trong trạng thái "nhàn cư vi bất thiện" vì mình sống trong pháp, mà sống pháp này mấy cô sống cỡ nào cũng được, Sư đều hoan hỉ, mấy cô muốn độ, muốn xả thí thì mấy cô làm được hết, mấy cô làm sao thì làm, nhưng mấy cô phải đi bằng cách hướng dẫn như hình Sư viết trên bảng.

để hình 031 - 1.13.08



Đầu tiên mấy cô đưa hết ra (số 1), rồi bắt đầu rút lại (số 2) và cuối cùng là (số 3).

Do đó, không có giáo án và không có trong buổi lớp học nào cả. 

Bữa nay Sư giảng về Niết-bàn là như thế, nhưng Sư qua một lớp khác giảng về Niết-bàn sẽ khác hoàn toàn và nó hoàn toàn có những điều phải học hỏi thêm.

Những cái Sư đến với lớp học là Sư trên trải nghiệm đầu tiên mà Sư đi học, rồi Sư được học, người dạy cho mình học như Ngài Tịnh Sự, rồi Sư mới nghiệm ra. Bây giờ Sư tới với các Phật tử cũng trên giáo án, trong quyển giáo án nào cũng vậy, của Ngài Panita, Janika, Kundala, hay của Ngài Jotika bây giờ đang viết bộ Abhidhammattha Sangaha mà Sư dịch, Ngài đâu có đi trong Chánh Tạng, chỉ một chút Aṭṭhakathā, một chút Ṭika, một chút các Ngài cứ bỏ vô, mà bài học có một chút trong Chánh Tạng, nhưng mà có mỗi thứ một chút, đó là Pháp Học thôi, Ngài bỏ Tam Tạng vô một chút, Ngài bỏ Chú Giải vô một chút, một chút Phụ Chú Giải, nên quyển sách nhiều lên là vậy. Cuốn sách nguyên thủy Tứ Pháp Siêu Lý do Ngài hiệu trưởng Brahmamāsa Dhīrabhaddho đưa cho bên viện Saddhammajotika để in ra cho học viên học rất mỏng chừng 30 trang hay 40 trang mà Sư làm quyển để các học viên mình học, có chút xíu hà. Nhưng Sư nghĩ phải bỏ vô bỏ vô vì cái này là vỡ lòng hay là sơ cơ hay là sơ cách cho người học vỡ lòng hay người sơ cơ mình vô học do đó mình phải bỏ vô, tại vì họ học quyển sách này không có thầy chỉ dạy do đó họ phải học cho được để họ hiểu, tới khi họ hiểu rồi thì tới lớp Sư không nói nữa, Sư sẽ nói những gì họ cần phải hiểu thêm về mặt đó, trên trải nghiệm tu của mình chứ không phải trên lý thuyết suông mà không có thực tập.

 Do đó, Sư trình bày cho quí Phật tử nghe. 

Vậy thì, khi quí Phật tử tới Niết-bàn mình không còn phiền não, không có ngũ uẩn "tôi ta" sắc thọ tưởng hành thức của mình, đừng nói tới ngũ thủ uẩn nữa, ngũ uẩn suông thôi chứ không nói tới ngũ thủ uẩn được thì mấy cái này thứ lớp học tập từ đọc Kinh Điển (Pháp Học), tới tu tập An Chỉ hay Minh Sát (Pháp Thành), đến giai đoạn 4 Đạo + 4 Quả + 1 Niết-bàn (Pháp Thành) các quí Phật tử phải thu dần rút lại chỉ có một.

Nếu quí Phật tử phát triển nhiều lên thì phiền não nhiều lên, ngũ uẩn còn nhiều lên, mà cô teo cái phiền não lại, teo ngũ uẩn lại thì bắt đầu mới có sự tịnh lạc.

để hình 1.13.08



 

Bắt đầu là 21, rồi tới tiếp cũng là 21, tới 42.

Bắt đầu xuống 40, xuống nữa còn 20 (trong 20 có 14 + 6 = 20)

Rồi xuống còn 4 rồi xuống còn 1.

Vậy thì, những khóa tu đã trải qua với Sư hướng dẫn cho quí Phật tử, những khóa học của mình mà quí Phật tử đã trải qua thì mấy cô phát triển lên nhiều hay là mấy cô thu dần nhỏ lại?

Cái biết của Đức Phật như lá trong rừng, nhưng Ngài đến với chúng sinh chỉ như nắm lá trong tay, thì lá trong bàn tay là bao nhiêu? quí Phật tử phải hiểu. Tức là cái gì không cần thiết Ngài không nói, những cái nào cần thiết thì Ngài nói, nhưng Ngài nói với những người cần có, còn những người không cần có Ngài không nói, Ngài không tới. Chúng sinh có 6 loại tính; tính dục, tính sân, tính si, tính tín, tính giác, tính tầm, mỗi tính Ngài bỏ vô mỗi pháp tương ứng với tính đó để người có tính đó tu tập được. Cho dù tu tập được rồi để đến sự tịnh lạc là mình phải bỏ hết tất cả, chứ không có lúc bấy giờ mới thấy được là sự tu tập của mình không có kết quả.

Phần 1. Santisukha = Tịnh Lạc là bỏ rồi, mà tới Niết-bàn hữu dư y nó còn dư xót nó trổ quả làm nên nghiệp quả, tới khi hết dư xót (Niết-bàn vô dư y) là mình hết cuộc đời mình. 

2. Niết-bàn có 2 là Niết-bàn hữu dư y và Niết-bàn Vô dư y.

Hữu dư y Niết-bàn là mình còn sống, là còn dư sót để mình nương nhờ. Cái gì còn dư sót để nương nhờ? Cái nghiệp quả của mình.

Vô như y Niết-bàn tức là tâm tử của bậc Alahan. là không còn dư sót để nương nhờ cái nghiệp quả của mình. 

Tiếp nữa là: 

Niết-bàn Siêu Lý thứ 3:

3. Niết-bàn Siêu Lý thứ ba có 3 là: 

3.1 -  là Rỗng không

3.2 - Vô Tướng.

3.3 - Vô Nguyện.

Trong cái này thì

3.1 - Rỗng không là không có 

3.2 - Vô Tướng là không có hình thù tướng dạng gì hết. 

Thí dụ, người ta hỏi: bạn thấy con ma hay thấy con quỉ (loài phi nhân) bây giờ mình tả hình dạng nó, nhưng nó là vô tướng thì làm sao tả được, thí dụ như mình tả là nó có răng nanh, mắt lồi, thì cái đó là do mình tưởng tượng rồi tả ra, chứ thật ra không phải là hình dáng của con ma. Và 100 người thấy 100 con ma kể lại không người nào giống người nào. Do đó, Vô Tướng là không có hình thù tướng trạng gì để xác định được. Trong một đội quân mà không có tướng thì đoàn quân đó loạn liền. Trong một nhà không có gia chủ thì người trong nhà muốn ra sao cũng được sẽ loạn. Đó là vô tướng, còn vô quân lại khác nữa.

3.3 Vô Nguyện là không mong cầu, không mong muốn.

Nghĩa là không ước nguyện, không mong muốn, tại vì vô nguyện. Thí dụ, thấy người ta đi vượt biên trót lọt, có người rủ mình đi không, mình trả lời là không đi, mình không mong cầu, đó là vô nguyện. Còn thấy người ta đi, mình cũng muốn đi như người ta thì đó là có hữu nguyện. Còn vô nguyện là không cầu không mong.

Sư định nghĩa từ ngữ thôi, mấy cô hiểu nghĩa rồi mình mới tìm ra được.

3.1 - Rỗng không là không có 

Rỗng không tức là không có, mình đang khát nước, có người đưa cái ly không, không có giọt nước nào, tức là ly rỗng không.

3.2 - Vô Tướng

Vô tướng là không hình thù tướng dạng.

Vậy thì:

 Rỗng Không là Vô Ngã.

Vô Tướng là Vô Thường.

Vô Nguyện là Khổ đau.

Thì 3 cái này là Thực Tướng, khi chứng được 3 thực tướng này thì có 3 cái Niết-bàn này.

Vậy thì, Rỗng Không tức là không có phiền não, Rỗng Không tức là không có ngũ uẩn ở trong đó.

Vô Tướng tức là không có hình tướng nào, nếu mình nói ngũ uẩn có hình tướng thì hãy tả cái hình tướng của ngũ uẩn; thức của mình sao, thọ của mình sao, tả không được. Mà mình tả, mình kể, mình trình bày, mình biết cái đó là ảo, không thực.

Nếu: người này tả, người kia kể, người nọ trình bày, nó chỉ vậy thôi. Nên vị Thiền Sư nghe mấy thiền sinh lên trình pháp, sắc của ông này như vầy, thọ của ông kia như vầy, bà này nói: thọ, tưởng, hành, thức là như vầy. Thì vị Thiền Sư nghe. 

Mà bài học cũng chỉ như ta vừa nghe giảng từ:  

1. Tam Tạng - Chú Giải - Phụ Chú Giải

2. An Chỉ tu tập + Minh Sát tu tập

3. 4 Đạo + 4 Quả + 1 Niết-bàn

Giảng rộng ra thì 

Pháp Học  1). 84,000 Dhamma-kkhandhā gồm: 21,000 Luật Tạng

                                                         21,000 Kinh Tạng

                                                         42,000 Abidhamma Vô Tỷ 

     23 quyển Chú Giải Aṭṭhakathā

      5 quyển Phụ Chú Giải Ṭika 

2. Patipatti Dhamma Pháp Hành có:

-  36 An Chỉ Sắc Giới,

     4 An Chỉ Vô Sắc Giới

----------------------------------- 

40 An Chỉ

và 

16 Minh Sát Trí

 4 Niệm Xứ

-------------------

20 Minh Sát Tuệ


3) Pháp Thành có:

4 Đạo + 4 Quả + 1 Níp-Bàn

Và tóm lại như hình dưới đây

để hình 031 - 1.08.06



Nó chỉ như vậy thôi, mà qua tới phần thứ 3 là.

3. Niết-bàn Siêu Lý thứ ba có 3 là: 

3.1 -  là Rỗng không

3.2 - Vô Tướng.

3.3 - Vô Nguyện.

là Vô Thường, và vô ngã

Khi mấy cô ngồi thiền mấy cô có thấy là mình rỗng không không?  không có thì bắt đầu mình bỏ cái đó liền. Mình thấy có đau, mình thấy mình đi, thấy mình ngồi, thấy mình đứng, thì làm sao nói mình rỗng không được.

Mình thấy mình có tướng không? Trong khi mình ngồi thiền mình có tướng không? Vị Thiền Sư hỏi khi cô ngồi thiền có tướng không? mình ngồi kể cái tướng của mình khi ngồi thiền, ông thiền sư nói về tu tiếp đi.

Ngồi thiền cô có cầu nguyện cái gì không? Không mong cầu gì hết.

Đức Phật Ngài nói trong Tam Tạng rồi mấy Ngài Chú Giải viết ra rồi tới mấy Ngài Phụ Chú Giải viết ra nữa cuối cùng chỉ có 1 Niết-bàn thôi. Đâu có gom hết tất cả vào Niết-bàn được.

Do đó, viết xuống rồi thử tìm ra câu trả lời cho mình, tìm đáp số cho mình. 

3. Niết-bàn Siêu Lý thứ ba có 3 là: 

3.1 -  là Rỗng không

3.2 - Vô Tướng.

3.3 - Vô Nguyện.

là cái đáp số cho mình đi tới.

Không có phút giây nào mình thấy mình Rỗng Không, mình Vô Tướng, mình Vô Nguyện, mà lúc nào cũng thấy mình mong cầu, mong tôi đạt quả Niết-bàn, tôi mong được giải thoát, mong đủ thứ hết.

Bao nhiêu cái mong cầu của mình, bao nhiêu ước nguyện của mình, bao nhiêu sự tu tập của mình thì không bao giờ là "không có chi cả", mình ôm một khối, mà một khối đó là khối phiền não trong cái ngũ uẩn này. Mà trong đó thực ra chỉ là Thực Tướng; Rỗng Không (Vô Thường), Vô Tướng (Vô Ngã), Vô Nguyện (Khổ đau) mà mình không biết.

Người Phật tử mình cũng vậy, cứ đi qua đi lại 2 vế, mà bỏ điểm giữa, mà điểm giữa là cái quyết định và nó cắt đứt 2 vế đó gãy và không còn hiện hữu nữa, thì mình mới giải thoát được, nhưng người ta không chịu làm vậy. Người ta muốn có 2 gánh, ở giữa người ta không nghĩ tới.

để hình 031 - 1.43.18



Ngó qua bên tay trái là mình đang đi tìm, ngó qua bên tay phải là cái đang có mà mình không muốn, còn ở giữa không bao giờ mình nhìn hết. Giống như mình gánh có một giỏ đằng trước một giỏ đằng sau, ngó giỏ đằng trước thấy hết bỏ đồ thêm vô, ngó đắng sau hết bỏ châm thêm vô, không bao giờ ngó chính mình.

Mình ngó bên đây, ngó bên kia, không bao giờ mình ngó chính mình.

Người Phật tử tới tìm Phật Pháp, mình trở về lo tu liền, nhưng không bao giờ thấy thực tế thực tính. Cho dù Đức Phật Ngài thuyết  hết các kinh sách, cho dù các nhà Chú Giải viết hết, và quí Phật tử có đọc hết thì cũng teo dần lại thôi chứ không phát triển được, mà thấy phát triển nữa là đáng nguy.

Đức Phật nói tam giới như hỏa trạch, tức là 3 cõi giới này Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới như lò lửa nó đốt cháy. 

Như một lò lửa đốt cháy, khi tất cả những vật thể nào nằm trong lò lửa nó đốt cháy chỉ teo dần chứ  không nở ra, cái đó gọi là thực tướng, cái đó gọi là thực tính. 

Nếu như một vật thể bỏ trong tam giới như hỏa trạch này mà nó càng nở bự, phát triển bự hơn cái lò lửa luôn, thì cái đó là ảo.

Do đó, khi ngồi thiền, hay tu, hay học, mà càng ngày càng phiền não, mà phiền não càng ngày càng nhiều thì đó là không phải thiệt, là mình đi sai. Giờ mình tìm được con đường đi cho đúng mà mình đi con đường đó là không đúng, mình thấy phiền não càng ngày càng có thêm là sai.

Giống như mấy cô đang có bịnh, đi đến một bác sĩ, mà bác sĩ chữa không hết bịnh mà càng ngày bịnh càng nặng thì người bác sĩ đó không phải là người bác sĩ giỏi, và đường mình đi chữa bịnh đó không đúng, mình không thể nào đi tiếp với ông bác sĩ đó được.

Vậy thì, khi ngồi thiền hay học tu học Phật Pháp hay học việc tu hành của mình, nhưng càng ngày càng thu lại thì mới kết quả được. Những người mới tới với Phật Pháp họ mang về rất nhiều kinh sách để đọc, nhưng sau khi họ đọc nhiều rồi thì họ hết đọc nữa.

Thiền sinh hỏi: Bạch Sư, thí dụ một người tu càng ngày càng thấy phiền não lên là đi không đúng đường. Nhưng một người tu mà thấy càng có nhiều phiền não chung quanh, thì cái nhìn đó là sao?

HT trả lời: Đó là bị phóng dật. Một tỳ khưu sau khi 3 tháng an cư trong rừng trở về thăm Đức Phật, trên đường thấy lửa cháy, hoảng hốt sợ hãi ông lên đồi ngồi nơi đó không có lửa, Đức Phật biết Ngài nhiếp tâm đọc: "Nhìn gì lửa chung quanh, nhìn chính mình lửa trong tâm, chính đó mới cần nhìn." Vị tỳ khưu nghe giật mình, ông chỉ nhìn ra ngoài thấy lửa xung quanh, trong khi chính mình đang có lửa trong tâm, là tâm sân, vì sợ hãi với lửa xung quanh, tâm ông đang sân mà ông không thấy, ông chỉ nhìn thấy lửa ở ngoài làm ông hốt hoảng, chứ ông không thấy ông có tâm sân. Sau 3 tháng an cư vậy mà bây giờ thấy lửa xung quanh thì nổi tâm sân lên, thì như vậy cuộc tu của 3 tháng an cư không có kết quả.

Do đó, Sư có những lúc Sư nói cô Tịnh Nhẫn, Sư nói chung quanh phiền não quá, mình có phước lắm, cô ráng tu đi chứ bây giờ Sư thấy ở ngoài khổ lắm, khổ trăm ngàn khổ, khổ vô cùng tận. Nhưng không phải lấy cái đó để mình bị phiền não, lấy cái đó làm Cảnh Trưởng để mình ráng lo tu tập giải thoát cái khổ.

Giống như nãy Sư nói, nếu mình để trạng thái phiền não đó là một cái 'Nhàn cư" của mình, mình chỉ ngó chung quanh, mình sợ, chứ mình không lo tu thì là mình đang nhàn cư, anh rảnh quá mới ngồi than, còn người ta bận quá người ta đâu có thì giờ để thấy, thì đâu có thì giờ để than thở. 

Hồi đó Sư ở với Sư Ba, Sư Ba nấu khoai mì, tối ngâm nước, sáng ra nước ra màu vàng là chất acid cyanhydric (HCN), chất này giết hồng cầu, do đó đừng bao giờ ăn khoai mì.

Cái đòn gánh có 2 giỏ, nhìn giỏ đằng trước bỏ vô, nhìn giỏ đằng sau thấy thiếu bỏ vô, còn mình chính giữa mình không nhìn thấy nó thiếu gì để bỏ vô vì thế mình không có bỏ vô.

Do đó, khi mình tu, mấy cô nhìn xung quanh mà phiền não, cái đó là một Cảnh Trưởng cho mình thì mình bắt đầu chạy với 2 ngón tay. Cũng như Sư hay nói ở vườn trồng bắp, mà bị hái trộm mất hết trái bắp này đến trái bắp kia thì mất đó mình phải lo, vì nó hái tới trái cuối nó cũng sẽ hái. Nên khi Sư nghe cô Tịnh Nhẫn nói bữa nay có nhiều Thầy nhiều Sư lên thuyết, Sư nói tốt quá, mình mừng, tại vì có mấy Thầy mấy Sư cái chắn, mình ở đây mới yên được, nếu không có mấy Thầy mấy Sư thuyết giảng thì chết mình vì mình phải thuyết giảng hết.

Cây có nhiều trái khác với cây không có trái, cây có nhiều trái bị hái làm sơ xác, trong khi cây không có trái vẫn còn tươi tốt. Buổi sáng vua trên đường đi thấy cây có nhiều trái, buổi chiều trên đường về cây bị sơ xác vì người ta trèo lên hái làm hư hại. Điều đó, khi mình nhìn thấy xung quanh là khổ thì mình mới nhìn tới, chết rồi nó hái tới rồi, thì khi mình nhìn tới đó thì mình phải lo cho mình. Nhưng không phải nhìn cái đó mà mình lấy cái đó làm cái phiền não của mình, cái đó là mình sai.

Sư lúc nào cũng nhìn ra với Chánh Kiến, với Tứ Đế, chứ không phải Sư nhìn ra với Tà Kiến, với Chấp Thủ của mình.

Sư nói chúng sinh khổ, mình phải thoát khổ chứ không khổ chung với chúng sinh.

Chúng sinh khổ thì mình thoát khổ chứ không khổ trong chúng sinh.

Đó là mình phát nguyện, đó là động cơ, mình nhìn thấy họ khổ như vậy là động cơ cho mình thức tỉnh không dễ duôi nhàn cư vi bất thiện được. Họ nhàn cư nên họ mới bị cái quả bất thiện chụp họ. Bây giờ mình bận thì không có quả nào nó đến bắt mình được thì lúc đó mình mới an toàn.  

Vậy thì Sư nói tiếp.

Nếu tu mà còn thấy ngũ uẩn quí Phật tử làm thì quí Phật tử đang có, còn quí Phật tử dốc hết, còn bao nhiêu tiền dốc hết vào chuyện đầu tư thì lúc đó mới thấy là mình không còn. Vậy thì khi quí Phật tử tu vô cái ngũ uẩn này vô trong một cái giờ tu này, một giờ hành này, dốc hết ngũ uẩn không hay chỉ phân nữa hay là 2/3 hay là 6/4, hay 7/3, nếu mà còn thì quí Phật tử còn.

Bồ Tát nói: "Xương có tan rã, máu có khô cạn, mà không đến đạo quả, quyết không rời cội cây này." Ngài dốc hết không còn chừa một cái gì nữa thì mới đắc đạo quả.

Một đêm đầu đà, ở Việt Nam cũng vậy, ở bên Mỹ cũng vậy, những đêm đầu đà Sư làm lễ, có một mình Sư, trong khi chùa nào cũng có 6, 7 vị Sư, mỗi một vì làm chủ một lễ, thuyết pháp, luận đạo, ngồi thiền. Còn Sư ôm hết từ trên xuống dưới Sư dốc hết ra tới 2 giờ sáng, luận đạo Sư cũng làm, vì Sư sống trong pháp, Sư không có một cái gì là của Sư hết, thì Sư không có cái gì chen vô được, không có phiền não nào vô hết, thì trong Pháp hết, một đêm đầu đà rất là an vui tịnh lạc. Còn mấy Sư kia chia ra mỗi người một chút thì mấy Sư đó bắt đầu có những phiền não của họ.

Phiền não có nhiều loại lắm: 

1. Tham,

2.  sân, 

3. si, 

4. mạn, 

5. nghi, 

6. kiến, 

7. vô tàm, 

8. vô úy, 

9. phóng dật.

10. Tật đố

11. Lận sắc 

 Đó là những phiền não. 

Quí Phật tử đang sống trong mạn, ngã mạn, là một phiền não. 

Rồi người sống vô tàm vô úy, không hổ thẹn không mắc cở trong chuyện xấu ác, chuyện bất thiện, thì người đó đang sống trong phiền não, họ đang sống trong phóng dật, không có chánh niệm, là họ đang sống trong phiền não. 

Phiền não không phải chỉ có tham, sân, si.

Mấy cô không sống trong hoài nghi, tà kiến.

Vậy những cái nào mình có. Mình đang tu hay mình đang học, hay đang dịch kinh sách, hay đang đọc kinh sách, mình còn có những phiền não này là mình còn ngũ uẩn. Mình dốc hết vô, không để phiền não chen vào, thì lúc đó chỉ có Pháp và Pháp thôi.

 Phiền não nghi, mạn, kiến là quí Phật tử thường có, khi đã có mấy phiền não này thì:

- Kiến đi với tham

- Mạn đi với tham

- Nghi đi với si

- Vô tàm vô úy đi với si

- Tật đố đi với sân

- Lận sắc đi với sân

- Phóng dật đi với si.

Như vậy thì, khi mình đang ngồi thiền hay mình đang ngồi học, hay đang dịch kinh sách mà mình đang còn phiền não, mình phải lọc cái phiền não đó ra. Hay mình đang thuyết pháp, hay mình đang ngồi học, hay đang thính pháp v.v... mà mình còn phiền não, mình còn ngũ uẩn (tôi, ta) vẫn còn có cái khổ cho mình. Phải dốc tâm vô thì mới hết. Những phiền não là do tham, sân, si tạo nên.

Khi mình nói tới tâm đi với tính. Người nào có tâm thì có tính.

Tính ái dục, tính sân, tính si, tính tầm, tính tín, tính giác. Đó là 6 tính. Giờ mình biết mình tính nào không? Trong 6 tính này nó không có đơn độc một, nó có đôi. 

Tính đức tin thường đi với si.

Tính tầm thường đi với ái dục.

Tính sân thường đi với giác.

Người tính mà nói đâu biết đó (tính giác) người đó hay sân, tại vì thấy cái gì cũng tìm hiểu và biết rồi sẽ khó chịu liền.

Còn người tầm thì hay tìm người đó ái nhiều lắm, họ thích. 

Tính dục là tính ái, nước đỏ

Tính sân là nước đen

Tính si là nước đục

Tính tầm là màu vàng nhạt

Tính tín là màu xanh

Tính giác là màu trắng, trắng như kim cương

Bây giờ mình đã có tính giác (màu trắng) rồi lại có tính sân (màu đen) nữa thì nó ra màu xám (màu trắng đi với màu đen thành màu xám xịt luôn).

Bây giờ quí Phật tử mới thấy là 

Tâm: Tâm đi với tính.

Tính dục chừng nào thì tâm tham chừng nấy

Tính sân chừng nào là tâm sân chừng nấy

Tính si chừng nào là tâm si chừng nấy

Tính tầm chừng nào thì tâm tham chừng nấy

Tính tín chừng nào thì tâm si chừng nấy

Tính giác chừng nào thì tâm sân lên chừng nấy

Dục đi với tầm là, tham đi với tham

Sân đi với giác là, sân đi với sân

Si đi với tín là, si đi với si.

Tâm đi với Tính, anh có Tính gì thì Tâm anh là vậy. Tâm với Tính đi đôi với nhau, Tâm với Tính là cái bản ngã cái nghiệp cũ của mình, mình phải biết mà lo tu, phải có Chánh Niệm và Trí Tuệ.

Khi người ta hỏi, Tâm của cô, Tính của cô, hai cái đó y chang không thay đổi, lâu ngày gặp lại tính vẫn vậy, tính sân vẫn sân, tính tầm vẫn tầm, tính đức tin vẫn đức tin, không có một trí tuệ gì hết trơn.

Khi mình biết mình có tâm tham và tính tham, mình biết được rồi thì mình lo tu, chứ không lấy cái đó để mình ôm ấp giữ lấy, cái đó là mấy cô đang sống trong một phiền não, một ngũ uẩn của tôi, ta.

Thì bây giờ, đâu có khi nào mình lấy màu đen là tâm sân mà bỏ vô tính Giác màu trắng như ngọc kim cương mình trộn nó để cho ra màu xám đâu. Cũng có khi nào mình thất niệm, khi mà thiếu trí, thì tính Giác của mình nó trở qua tính Sân làm xám đi màu máu của mình không còn trong suốt nữa./.