Monday, February 28, 2022

Vi Diệu Pháp 16 - Tâm Tịnh Hảo - TT Sán Nhiên

 Tâm Tịnh Hảo - Vi Diệu Pháp 16 - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 16" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Hôm nay chúng ta học qua phần Tâm Đại Thiện Tịnh Hảo.  Trong bảng nêu chi pháp, bắt đầu hàng thứ 7 trở xuống là những tâm tịnh hảo, những tâm trong sạch, tốt đẹp, khỏe mạnh, lợi ích và khôn khéo, những tâm này cho quả an vui. 

Tâm tịnh hảo, hay cũng gọi là tâm Sobhana, có 5 ý nghĩa:

- Tốt đẹp

- Khỏe mạnh

- Khôn khéo

- Lợi ích

- Quả an vui.

Khi ta nói ngược lại là những tâm vô tịnh hảo, cũng có 5 ý nghĩa:

- Xấu xa

- Bệnh hoạn

- Làm vụng về

- Bất lợi

- Cho quả khổ đau

Như vậy, Tâm Vô Tịnh Hảo tiếng Pali là Asobhaṇa còn gọi là Tâm Bất Hảo có 5 ý nghĩa là những gì xấu xa.

 Tâm Tịnh Hảo có 5 ý nghĩa ngược lại là có những gì là tốt đẹp. Đó là 5 ý nghĩa sai biệt nhau. 

Bây giờ ta đi vào chi tiết, Tâm Tịnh Hảo có 3 chức năng là: 

- Tâm thiện, có 8

- Tâm quả, có 8

- Tâm duy tác, có 8.

Ở đây ta đi qua 24 tâm tịnh hảo nhưng chỉ biết về dục giới nên gọi là Tâm Dục Giới Tịnh Hảo. Cõi dục giới là những cõi liên hệ với vấn đề lục dục.

Lục dục chúng ta được biết có 6:

- Sắc,

- Thinh,

- Khí, 

- Vị,

- Xúc,

- Pháp.

Đó là những gì liên quan đến lục dục, những gì thuộc về cõi dục giới là còn liên quan tới 1 trong 6 cảnh dục này. 

Khi qúi Phật tử lên cõi trời sắc giới, những lục dục này được cắt bỏ. Các vị Phạm Thiên sắc giới và vô sắc giới sống trong an trú thiền định, họ hưởng phước báu từ thiền định mà họ tu tập từ cõi người sau khi chết không bị hoại thiền họ được sanh về cõi trời sắc giới những phước báu của họ vẫn được hưởng.  Họ chỉ dùng hai loại duy nhất là sắc và thinh, còn khí, vị và xúc thì họ không dùng tới. Các vị Phạm Thiên ở cõi trời sắc giới, vô sắc giới không nghĩ tới vấn đề ăn uống, họ không còn nghĩ tới vấn đề vui chơi lạc thú như ở những cõi trời chư thiên ở dục giới. 

Ở các cõi trời Chư Thiên dục giới như Tứ Thiên Vương lên tới, Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Xuất Đà, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại, là 6 cõi trời an vui của dục giới, họ còn hưởng đầy đủ dục lạc như cõi người của mình, nhưng những trạng thái dục lạc đó một cách vi tế không có thô thiển như cõi nhân loại của mình, nhưng họ vẫn còn có hưởng, họ vẫn còn ăn uống như thường chứ họ không có khác biệt với con người chúng ta. 

Nhưng ở cõi trời Sắc Giới, Vô Sắc Giới các vị Phạm Thiên hưởng những phước báu của Chư Thiên ở tại nơi đó, họ hưởng phước báu của thiền định, họ được an lạc không lo nghĩ về ăn uống sinh hoạt nữa, và có tuổi thọ lâu dài.

Do đó, gọi là cõi dục giới là những cõi còn liên hệ đến lục dục. Nhưng qúi Phật tử sẽ đi tới cõi Sắc Giới, cõi Vô Sắc Giới, xa rời tất cả các dục lạc đó, bắt đầu bỏ dục lạc con người. Như chúng ta cũng vậy, khi chúng ta còn sống trong cõi người, chúng ta cũng còn lo ăn, lo sinh hoạt, vui chơi thoả thích, cái thường quen của con người, thì cái đó sẽ cho chúng ta có chủng tử  trở lại kiếp người dễ dàng.

Qúi Phật tử muốn ra khỏi cõi trời, ra khỏi cõi nhân loại, thì bắt đầu không sinh hoạt giống như cõi người, những gì vui chơi cõi người, ta nhàm chán, hoặc ta không thấy hoan hỉ, không thấy gì đáng thích thú, thì tâm tánh qúi Phật tử bắt đầu chuyển. 

Khi tâm tánh qúi Phật tử chuyển như vậy thì qúi Phật tử bắt đầu có chủng tử hướng qúi Phật tử đi về đâu? 

Như bây giờ qúi Phật tử muốn về các cõi trời dục giới như cõi Tứ Thiên Vương hay Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Xuất Đà, thì những cõi đó là những phước lạc thiện, những phước báu họ đã tạo, thì những cái họ muốn được hưởng ở cõi nhân loại cõi người này, họ bắt đầu làm những việc thiện để được phước báu đó.

Thí dụ, như họ thích; xả thí, trì giới, tham thiền, họ không còn muốn đờn ca xướng hát hay những vui chơi thoả thích ở cõi thế gian này nữa, bắt đầu họ đi ra lên cõi trời đó hưởng các phước báu của; bố thí, trì giới, tham thiền, họ bắt đầu đi tiếp, họ hưởng những cảnh đó, nhưng cảnh đó họ hưởng với trạng thái vi tế an lạc không có trạng thái thô thiển như cõi nhân loại. Nhưng tâm của họ vẫn còn đi tới con đường an lạc của các cõi trời mà ở cõi nhân loại này họ đã vun trồng cái chủng tử họ đã có tạo ra.

 Khi đó cách sống của họ ở cõi nhân loại bắt đầu thay đổi, họ không thích ăn uống thô thiển như con người, họ sống về tinh thần nhiều hơn, thì lúc đó bắt đầu họ tách ra cái gì mà nó thô thiển của thế gian này, vì sắc thân này, bắt đầu bớt, bớt lo, những cái đó giống như họ dọn mình  trong trạng  thái trong sạch, trong suốt nhẹ nhàng, và thảnh thơi thoải mái, họ đi tới cảnh an lạc hơn.

 Còn những người mà từ trẻ tới già không thay đổi, sống theo kiểu tập khí ăn uống thường quen và cũng đòi hỏi những nhu cầu của con người, thì họ đi từ người trở lại người, có thể là người trở xuống thấp hơn, ở bốn cõi khổ thú là như vậy đó.

Thì khi con người quyết định do nơi tâm lý của họ, thí dụ như một ngày nào đó họ cảm thấy không còn thấy thích hợp sinh hoạt gì nữa, bắt đầu muốn lánh xa dần sự phức tạp thường ngày và muốn đến thế giới riêng của mình, trong sinh hoạt hàng ngày mà họ không tiếp xúc nữa là họ đã có hướng đi của mình rồi, và bắt đầu đi, đi theo hướng nào? Họ đi theo cái hướng của họ đã chọn lựa một trong hai hướng đi như ta biết, hướng đi không muốn giống loài người thì họ sẽ đi trong thiền,  họ muốn đi giải thoát. 

Chúng ta thấy có 5 điều ở đây:  Lợi ích, tốt đẹp, khôn khéo, khỏe mạnh, quả an vui.

- Họ đi tìm cái gì lợi ích cho họ, và không đi tìm cái gì bất lợi cho họ, là họ hướng ra đi của họ. Cái gì mà có lợi ích họ đi tìm tới, còn cái gì họ thấy bất lợi không lợi ích, họ tách ra, họ lánh xa từ từ.

- Còn cái gì thấy tốt đẹp họ đi tới, họ không đi tới cái gì gọi là xấu xa thường quen của nhân loại, họ bắt đầu tách ra.

- Họ đi với trạng thái khôn khéo của họ chứ họ không đi với trạng thái vụng về tâm lý của họ. Sư không nói vụng về về tay chân nhưng họ vụng về tâm lý của họ, họ không khôn khéo, họ tính cho có lợi ích thì cách đó họ trở lại là người. Người có khi vụng về, có khi cũng có sai lỗi, có những thiếu xót thì bắt đầu đi theo chủng tử đó cho người đó. Nhưng mà đối với người khôn khéo họ bắt đầu tách ra, họ làm việc khôn ngoan cho chính họ, họ khéo léo vun tròn những hành động của họ để cho họ bắt đầu hoàn chỉnh. 

- Khi mình có những năng lực của mình khỏe mạnh, không có bệnh hoạn mệt mỏi, không có ham thích vui trong đó.

- Rồi từ đó con người ta thấy được an vui, còn nhìn thấy con người ta mà bí xị buồn thì người này quá người rồi không có cơ hội làm trời cơ hội giải thoát đâu. 

Chính vì vậy mình phải dọn đường đi, qúi Phật tử phải chuẩn bị. Sư muốn nói mình càng học giáo lý của Đức Phật qua những lời dạy của Đức Phật mình có được quyền chọn lựa con đường mình đi chứ không có ai bắt buột mình, mình không nên để mất cơ hội quyền lựa chọn đó một cách thù thắng riêng của mình. 

Như trong quan hôn tang tế đời sống xã hội ngoài đời, qúi Phật tử có thể phải tham dự vào các việc như quan hôn tang tế, vấn đề ma chay, đám cưới lễ hỏi, qúi Phật tử bị chi phối đủ thứ vấn đề. 

Nhưng, ta phải có sự khôn khéo dành riêng cho mình một góc kẽ nhỏ trong đời sống của mình, con đường đi của mình, thì đó gọi là khôn khéo. 

Chứ đừng chi phối cả cuộc đời của mình đắm chìm trong trạng thái cho hết vào việc quan hôn tang tế của xã hội này, mình sẽ trở lại làm người. Mà phút giây không thanh lọc được tâm mình tốt đẹp, mình có khi xấu xa buồn phiền trong đó thì tuột xuống bốn cõi khổ thì uổng lắm.

 Mình ráng nhìn lên thì ta đi tới thiên rồi ta mới đi tới giải thoát. Ta phải đi từng bước như vậy đó. 

Tác ý phải khôn khéo, phải mạnh, phải khỏe, phải dứt khoát để mình đi tiếp chứ không để bị lui sụt hay chễnh mãng. Phải có trạng thái khôn khéo để  có lợi cho chính mình, từng phút giây trôi qua mất đi chúng ta không lấy lại được nữa, từng phút giây trôi qua rất mau. Mình phải có góc nhỏ riêng của mình, góc nhỏ đó là góc nhỏ tâm linh mà tâm linh khôn khéo sáng suốt để mình được hưởng lấy sự thanh lọc tâm của mình để mình lên cõi trời, đi đến giải thoát. 

Khi biết được Phật Pháp, hiểu được giáo lý, và hiểu được điều đạo đức, hay biết được phước báu để mình đón nhận nắm bắt được thời cơ đó chứ không bỏ qua cơ hội được. Trong khi đời sống hàng ngày mình còn bị dính qua 6 cảnh; sắc, thinh, khí, vị, xúc, nhưng mình phải có một góc riêng của mình, sắc cũng có, thinh cũng có, khí cũng có, vị cũng có, xúc cũng có, pháp cũng có, đã sống trong thế gian này thì "cư trần bất nhiễm trần", còn trong thế gian này thì còn dính bụi, do đó mình dính bụi nhưng trong trạng thái mình phải có góc nhỏ khôn khéo của mình, phải có hướng đi riêng của mình, đừng bỏ mất, làm cái gì cũng phải có một góc nhỏ khôn khéo tâm linh của mình để thanh lọc điều lợi ích con đường đi của mình có ý nghĩa và có giá trị và hữu ích cho quả an vui cho chính mình.

Con người mình có hai hướng đi rõ ràng. Đức Phật Ngài nói: "Tâm không hướng về thiện thì tâm hướng về bất thiện ngay" tâm ta không nghĩ điều lành thì tâm ta nghĩ điều xấu liền, không cách nào bỏ trống tâm tư mình dễ dàng cho qua đi, chúng ta còn sống trong dục giới.

 Ở cõi Trời Sắc Giới, cõi Trời Vô Sắc Giới, họ không có điều kiện đi tìm cái gì xấu để nghĩ tới để mà hại người khác, không có thì giờ, không có cảnh đó để mà nghĩ ra nữa, họ chỉ có những pháp thiện trong con người họ tu để mà họ đi tới thôi. Tuy nhiên, họ không tránh được con đường suy nghĩ sai lệch hay còn gọi là tà kiến, như Phạm Thiên Baka đã cho rằng ông ta sống lâu trên cõi Trời Sắc Giới, ông nghĩ ông đã đạt Niết-bàn tại nơi đó, nhưng Đức Phật nhìn thấy ông có tà kiến, tại vì tuổi thọ lâu chứ không phải là giải thoát. Đức Phật Ngài lên độ vị Phạm Thiên Baka. Đức Phật Ngài giải đáp được tà kiến của ông ta, tuy nhiên các vị Phạm Thiên không có một cái gì mà gọi là hại ai hết.

Các chư Thiên Dục Giới thì khác. Câu chuyện 30 vị tỳ khưu nghe lời Đức Phật tu tập thiền định đi vào trong rừng già tu, nhưng vì các vị tỳ khưu không nghĩ tưởng tới những vị mộc thần.

Các vị mộc thần sống trên cây cảm thấy bất tiện nên tìm cách làm cho chư tỳ khưu không còn ở được và phải ra đi. Đêm đêm các vị thọ thần làm đủ cách để phá khuấy không cho chư tăng ở yên hành thiền.

Chư vị tỳ khưu thấy khó an trụ tâm trong tình trạng như vậy nên trở về chùa bạch lại tự sự với Đức Thế Tôn.

Đức Phật dạy chư Tăng bài Kinh Karaṇīyamettasutta - Kinh từ bi để đảnh lễ chào hỏi tất cả chúng sanh ở đâu thì nghĩ tới chúng sanh đó, và khuyên 30 vị tỳ khưu này trở lại ngay địa điểm trước rồi cùng đọc lên bài Kinh này khi vào rừng. Chư Tăng làm theo lời dạy.

Những tư tưởng Từ Ái an lành được ban rải ra, thấm nhuần bầu không khí trong toàn khu rừng. Các vị thọ thần ở khắp nơi trong rừng nghe Kinh cảm thấy thanh bình an lạc, phát tâm kính mộ chư Tăng, và kể từ đó thay vì khuấy nhiễu làm trở ngại, tận tình hộ trì và nâng đỡ chư Tăng.

Do đó những vị chư thiên dục giới cũng chưa thanh tịnh, trừ khi các chư thiên bồ tát đắc chứng đạo quả Sơ Nhị quả người ta gọi là Thất Lai hay Nhất Lai ở cung trời Tusita Đâu Suất Đà, những vị đó an trú trong sự thanh tịnh của đạo quả của bậc Thánh nhân bây giờ trở thành chư thiên ở trong trạng thái lo tu tập họ không nghĩ tới chuyện hù nhát ai thì hàng chư thiên đó mới đặc biệt thôi mà còn ở trong Dục Giới Thiên còn ở các cõi trời khác Đao Lợi, Tứ Thiên Vương, hay là Dạ Ma, hay Hóa Lạc Thiên, Hóa Tự Tại, họ có đầy đủ hết lục dục mà họ đang hưởng.

Những gì mình đang hành động, tâm mình đang nghĩ tới nó sẽ chạn lại nơi cảnh giới mình sẽ đi. Thí dụ như qúi Phật tử thấy mình thường hay chọc ghẹo phá người nào đó thì qúi Phật tử sẽ gặp lại y chang như vậy. Những cái đó là những gì mình đang tạo ra, mình có chủng tử từ nơi tâm mình nghĩ tới, do tâm mình tạo ra hết.

Tâm mình tạo ra 3 hướng đi, và tâm có đối tượng của nó:

- Tâm tạo ra hướng về thân. Lúc đó, thân đi đến đối tượng của thân.

- Tâm tạo ra hướng về lời. Lời đi đến đối tượng của lời, nó tương xứng với lời.

- Tâm tạo ra hướng về ý. Ý đi đến đối tượng của ý nó hiện bày ra.

Từ nơi tâm mình đang nghĩ về đối tượng thì nó hình thành ra thân, lời, ý. Rồi từ đó thì mình cũng đi, mình đi từ nơi đối tượng của mình có 3 hướng là nhân, thiên, và giải thoát, Sư không nói tới 4 con đường ác đạo, tuy nhiên tâm mình vẫn có những đối tượng mình hướng tới đó. Tâm của mình khi nghĩ tới cái gì xấu xa không có lợi thì tâm minh xa rời cõi người, nghĩ cái gì xấu xa mà không có lợi là tâm mình bắt đầu ra khỏi vị trí con người. 

 Đức Phật nói con người có 2 hướng vừa xấu vừa tốt. Nếu một ngày mà tâm qúi Phật tử chỉ nghĩ cái gì toàn là xấu, không có một lời nói nào  hành động thân lành mạnh trong sạch tốt, đó là chủng tử đưa mình đi 4 đường ác đạo, ngày đó, phút giây đó, mình đã tạo chủng tử xấu. 

Thí dụ, buổi sáng mình làm việc tốt, chiều làm việc không tốt, hay sáng mình làm việc không tốt, chiều mình làm việc tốt, tức là có phút giây đó, giờ đó, mình tạo chủng tử người, vừa tốt vừa xấu là chủng tử người. 

Nhưng, ngày qúi Phật tử làm từ sáng tới tối đều làm việc tốt, điều lành, điều thiện, điều lợi cho mình, lợi cho người, lợi cho tất cả chúng sanh, lợi cho tất cả thế gian, thì ngày đó mình có chủng tử của thiên. 

Khi qúi Phật tử đang đi tới con đường thiện đó nhưng không muốn hưởng, qúi Phật tử nói"tôi làm việc tốt  tâm tôi muốn ra đi giải thoát" lúc đó chủng tử bắt đầu ra khỏi nhân thiên và đi tới giải thoát.

Giải thoát đi đến góc độ nào? Giải thoát đi đến góc độ phải là ẩn sĩ. Giái thoát lúc đó là phải thu thúc lại, giải thoát lúc đó là phải tránh chứ không có ra ngoài nữa, lúc đó trạng thái của người đó là muốn giải thoát ra, là ẩn sĩ rồi. 

Họ làm việc thiện mà họ còn ở trong đời lúc đó là được sanh thiên. 

Nhưng khi họ làm việc thiện họ muốn là ẩn sĩ, là họ muốn giải thoát. 

Thí dụ, vị Sư đi khất thực ngang qua qúi Phật tử để bát cúng dường thực phẩm để vị Sư thọ thực xong thì qúi Phật tử vô ngồi thiền tu tập tâm linh liền. Nhưng khi qúi Phật tử vô ngồi thiền liền, thì mình đã làm việc thiện, xả thí, rồi mình trở vô tu thiền về tâm linh, đó là ẩn sĩ liền. Chứ còn trạng thái nhìn thấy Sư đến mình để bát, rồi coi Sư đi ra sao, đi tới đâu, rồi nghĩ đời sống Sư đó ra sao, đứng nghĩ miên man là mình trở lại người. Còn mình hoan hỉ với phước mình hồi nãy để bát ông Sư chắc Sư dùng chắc vui lắm, đó là sanh cõi trời. 

Những việc làm đó là mình có chủng tử thiện, qúi Phật tử ngồi nghiệm lại nhìn lại mình có biết bao nhiêu cái chủng tử trong đời mình đã tạo ra rồi mình quên mất. Giờ mình biết rồi mình không tạo nữa, cái gì đáng làm thì mình tạo, cái không đáng làm không tạo nữa gọi là khôn khéo, mình làm như vậy đó là mình có nhiều lợi ích, mà lợi ích đó là từng ngày từng phút giây. 

Năm ý nghĩa: Tốt đẹp, Khỏe mạnh, Khôn khéo, Lợi ích, Quả an vui,  này do tâm mà có, cái tốt đẹp là đối tượng, khỏe mạnh là tối tượng, khôn khéo là đối tượng của tâm, lợi ích là đối tượng của tâm, quả an vui tầm cầu nghĩ tới là đối tượng của tâm, lúc đó mình mới ra thân, lời và ý. Đó gọi là 5 đối tượng của tâm. 

Trong 5 đối tượng bắt ngược lại: xấu xa, bệnh hoạn, vụng về, bất lợi, quả khổ đau, mình sẽ đi tới con đường đó. Thí dụ 

Mình đi chợ mua thực phẩm xong muốn về nhanh để còn đi lo chuyện khác, nhưng có người lái xe trước xe mình họ chạy chậm thì mình khó chịu tâm mình sân. Tại sao mình phải sân, mình không giữ được tâm mình, mình đang chạy theo đối tượng vụng về và bất lợi, khi mình thấy thì mình ngừng lại, còn không mình sân lên, mình phát ra từ thân, lời và ý, mình bung ra thì con đường mình đi là đi xuống quả khổ.

Thiền sinh: Thưa Sư, theo Sư nói muốn giải thoát thì ẩn sĩ, thì trong việc đóng góp làm viêc thiện mình để ẩn danh được không?

TT trả lời: Để ẩn danh không được. Chữ "ẩn sĩ" không phải là mình phải ẩn danh, khi mình đóng góp tiền làm từ thiện mình không cần ẩn danh.  Ngày Đức Phật Ngài, và các Sư bây giờ cũng vậy, sau khi nhận thọ thực của ai thì Ngài phải chú nguyện cho người đó, Ngài chia phước cho, một người cúng dường mà đề là ẩn danh thì không được, mình không muốn nhận là chuyện của mình, nhưng phải có tên có tuổi để nhà Sư chú nguyện và chia phước tới. 

Nếu một người làm phước cúng dường mà để ẩn danh, thì nhà Sư đó đang bị là ẩn khuất, bị bức xúc, họ không có nhu cầu đi tìm nhưng họ bị búc xúc là họ đang thiếu nợ, không biết làm sao chia phước cho người đã cúng dường đến mình.

 Qúi Phật tử làm phải có s khôn khéo, có lợi ích cho ta và lợi ích cho người, chứ qúi Phật tử không làm trong trạng thái vụng về mà bất lợi cho ta và bất lợi cho người, như vậy mới làm cho người được quả an vui không bị quả khổ đau. 

Có người còn đề là vô danh, thì khi Sư chia phước gặp những người đề vô danh thì Sư đọc là Nguyễn văn A, Nguyễn văn Soài, Nguyễn văn Mít liền thì làm sao Sư thiếu nợ người đó, mà gặp lúc đó người đó là người đàn bà mà Sư đọc là Nguyễn văn A, như vậy là lộn tên rồi, thì ông Nguyễn Văn A ông hưởng mà cái bà làm việc thiện đó không hưởng, rồi bà nói "tôi làm việc thiện cả đời làm phước mà tôi ẩn mà sao tôi khổ hoài vậy?" Tại vì cái phước bà làm nhưng bà không nhận được mà ông Nguyễn văn A ông nhận hết rồi. Giống như cô cho Sư một cái thùng quà cái Sư hồi âm cho người đã cho nhưng mà đi lộn địa chỉ.

Nên qúi Phật tử phải có sự suy nghĩ khôn khéo mà lợi ích cho ta cho người, nhất là đối với nhà Sư, đối với những vị mà người ta chăm chỉ người ta lo tu tập, người ta tìm thấy pháp chứ người ta không lo bận rộn nhiều chuyện thế gian, người ta cầm tờ ẩn danh phải đi tìm cái tên ẩn danh này, lúc đó rớt vô trạng thái một người "không chân dung". Qúi Phật tử phải tránh né những trường hợp đó.

Thiền sinh: Thưa Sư, khi Sư đi khất thực, người Phật tử cúng dường thì Sư có chú nguyện liền không?

TT trả lời: Qúi Phật tử có quyền lắm, Chư Phật Độc Giác các Ngài không có thuyết pháp, không độ ai hết, không có đệ tử, các Ngài tự tu tự chứng tự đắc đạo quả tự giải thoát, không có hàng đệ tử như là Đức Phật toàn giác hay là Thinh Văn Giác, tuy nhiên với thân giáo của Ngài các vị đó làm cho mình một điều lợi ích nhưng khi mình để bát cho các Ngài, mình đều được qúi Ngài chúc phúc, mà qúi Phật tử không dùng phút giây đó để mình nguyện thì cũng được, cái đó là mình muốn bỏ, nhưng mà mình muốn tiến tu thì mình cần, tại vì nếu như kiếp đó mình chưa đắc đạo quả mình phải nguyện, nguyện đến đạo quả Niết-bàn, các Ngài sẽ chúc phúc cho mình, thì mình phải có lời nguyện ở đó nếu không mình không có cơ hội. 

"Tất cả con đường nước đều chảy từ sông ra biển" thì cũng như tất cả từ nơi thân, lời, ý của người đang làm ra được chảy đều về cho người có phước báu đón nhận được điều đó có, qúi Phật tử phải nguyện liền đừng để mất cơ hội. Những cái đó là tác ý khôn khéo. Qúi Phật tử phải có những cái tác ý khôn khéo. Bố tát phải có tác ý khôn khéo, nếu không tác ý khôn khéo sẽ bị trôi lăn liền, tại vì bồ tát là nghĩ tới chúng sanh, nhưng vị bồ tát phải có góc nhỏ cho chính tâm linh cho mình để mình được giải thoát, rồi sau đó họ đòi lại của chúng sanh, phải tính cả hai chiều, đối với những người bồ tát tính cả hai chiều, qúi Phật tử tính có một chiều thôi cho chính mình mà thôi, nhưng mà đối với vị bồ tát tính hai chiều cho chúng sanh là cho hết nhưng mà cho chính mình thì cho tất cả, phải lấy hết tất cả con đường đạo quả giải thoát cái đó người bồ tát phải làm hai chiều hướng đi mà không khôn khéo là rớt ra ngoài liền. 

Những cái đó gọi là tâm biết đối tượng, mà cái đối tượng này khôn ngoan tại nơi đây, mà vụng về thiểu trí cũng tại nơi đây để, hiện bày ra thân đi theo đối tượng đó, hiện bày ra lời đi theo đối tượng đó nói lên, để hiện bày theo ý nghĩ suy theo con đường vụng về hay khôn khéo từ nơi tâm hướng tới nhắm tới và đạt tới, qúi Phật tử sẽ thấy điều đó.

Hôm nay chúng ta học qua bài Tâm Tịnh Hảo.

Sư muốn qúi Phật tử nhìn thấy góc độ bỏ qua những gì gọi là bất thiện, tham, sân, si, để qúi Phật tử không còn phải bận tâm lo nghĩ những điều mình đã từng có tham, từng có sân, từng có si, đó đã là quá khứ. Quí Phật tử chỉ nhìn tới những cái tịnh hảo, nhìn tới những gì là thiện hảo, những gì trong sạch tốt đẹp ngay bây giờ Phật tử bắt đầu làm nên cái tâm mình hướng tới đó. Còn những gì mà đã qua thì chúng ta vì vô minh hay không hiểu biết, giờ ta đã biết ta hiểu, không có ngồi nhớ lại những điều đó, chúng ta phải đi tới tiếp tục nữa với những tâm tịnh hảo cho lợi ích cho chính mình.

Khi ta còn tâm dục giới thì còn ảnh hưởng trong lục dục: sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp.

 Khi ta nhìn thấy một con người thì ta nhìn qua lăng kính đang nhìn thấy đây là sắc, thì lúc bấy giờ qúi Phật tử sẽ không có hiện bày lên trạng thái thiện và bất thiện. 

Nhưng khi nhìn thấy con người mà không nhìn qua lăng kính đây không là sắc mà đây là người thì qúi Phật tử sẽ thấy thiện và bất thiện.

 Khi qúi Phật tử nhìn thấy đây là con người thì qúi Phật tử đang nhìn thấy ở góc độ của thế gian hiệp thế. Nhưng khi qúi Phật tử nhìn thấy một con người với góc độ là sắc là nhìn ở góc độ siêu thế. 

Khi qúi Phật tử thấy người là sắc thì qúi Phật tử chỉ thấy là sắc, như nhìn một cành hoa nó chỉ là sắc, nhưng đằng sau cảnh sắc đó là cành hoa đó qúi Phật tử thích muốn hái, thì qúi Phật tử đang thấy sắc này là ở trong trạng thái của thiện trong cái bất thiện của mình. Sắc này là sắc hiệp thế do con người ở trong cõi dục giới ta có nghĩ tới.

Khi mình nghe được âm thanh để hiểu ý nghĩa, qúi Phật tử làm theo ý nghĩa đó hay qúi Phật tử hưởng ý nghĩa đó (nghe thuyết Pháp), hay qúi Phật tử nghe một âm thanh đó ở trạng thái thích và không thích  hai cái ý nghĩa nó khác. 

Qúi Phật tử trả lời cho Sư nghe, qúi Phật tử nghe âm thanh trong trạng thái hiểu nghĩa thuần túy để mà biết, còn qúi Phật tử nghe âm thanh để mà thích, cái nào qúi Phật tử chọn. 

Qúi Phật tử nghe Sư hỏi câu hỏi đó thì qúi Phật tử sẽ ra được con đường mình đang nghĩ tới.

Nghe âm thanh của Sư nói để hiểu, còn nghe nhạc thì bài thích bài không thích. Thế thì nghe nhạc thích là mình có tâm thích nghe nhạc thì mình mới có trạng thái thích nghe nhạc. 

Như vậy thì, khi qúi Phật tử nghe một âm thanh để thích và không thích thì âm thanh không còn trạng thái để hiểu nghĩa, qúi Phật tử đi sâu hơn nữa do chính mình đang đặt trong âm thanh đó rồi. Còn mình nghe để hiểu nghĩa thì mình không đi vô sâu.

 Sắc cũng vậy, khi qúi Phật tử nhìn thấy sắc để hiểu được nghĩa nhưng mà là trạng thái dừng lại. Qúi Phật tử ở trạng thái nhìn thấy sắc mà còn thích hoặc không thích trong cái sắc đó nữa là qúi Phật tử bắt đầu đi vô sâu trong lãnh vực của mình vào cảnh sắc đó, cảnh sắc đó làm cho mình đi vô sâu cảnh sắc đó. Đi vô sâu là hiệp thế, còn nghe để mình  hiểu nghĩa là siêu thế.

Thiền sinh: Thưa Sư, nếu nghe để hiểu nghĩa thì cái đó đã là đi sâu rồi?

TT trả lời: Nghe để hiểu nghĩa thì đâu có gì là đi sâu đâu, như Đức Phật nói pháp: "Thế gian là vô thường" mình nghe là mình hiểu rồi, đâu có gì là sâu đâu, còn ví dụ, "thế gian là vô thường" mà mình nghe mình thấy thích ghê nha, thì là có chuyện gì sai sai.

Sư trở lại nói với qúi Phật tử. Khi qúi Phật tử ăn thì qúi Phật tử muốn ăn ngon hay ăn để chỉ biết là ăn thôi, ăn để có sức khỏe để tu tập. Thực tế thì những cái đó là tâm qúi Phật tử đang đi vô trong cảnh của mình qua; thân, lời, ý. 

Nhìn qua góc độ hành thiền cũng vậy, khi nhìn vô sâu thì thấy tất cả đều là sự không hợp tác giữa thân và tâm, hai khối đó không hợp tác trong con người của ta. Khi người tu ngồi thiền nhìn cho sâu vào thân tâm, thân ta muốn cái này tâm ta muốn cái kia, có khi thân muốn cái kia mà tâm ta muốn cái này, làm cho thân tâm không hợp tác với nhau. Ta nhìn thấy hai góc độ đó khi ta ngồi thiền. 

Nhưng thật ra thân và tâm lúc nào cũng vậy khi mình vô sâu. Mình muốn nhìn vô sâu hơn cái thân này nó không hợp tác với tâm của mình. Mình thấy tâm này khó chịu khi nó không hợp tác với thân này, rồi mình đi sâu đi sâu một hồi mình ở trong đó luôn, mình ở trong cái khó chịu không hợp tác của thân và tâm của mình.

Con đường mình sẽ đi, nó sẽ đưa mình đi tới chỗ mình đã chọn, còn con đường nào mình quyết định đi mà không đi theo trạng thái mình sẽ đi theo quyết định mình đã chọn nó sẽ ra con đường nó dắt mình tới chỗ mình sẽ đi tới, hai cái đó hoàn toàn khác.

 Qúi Phật tử đi với trạng thái cho thấy cảnh được biết thì qúi Phật tử sẽ đến với trạng thái mình đã biết, qúi Phật tử đi với trạng thái không biết thì nó sẽ đến đón nhận với trạng thái khách quan của chính nó đang có.

Như vậy thì lục dục, ở cõi Dục Giới khác với cõi Trời Sắc Giới, khác với cõi Vô Sắc Giới không có trạng thái vô sâu trong cái thấy. Còn ở cõi Dục Giới thấy mà còn vô sâu trong đó để mà thấy để mà hưởng lấy cái thấy của mình bỏ qua uống lắm, mình đi sâu vô nữa gọi là dục giới. 

Dục là gì? là đeo níu, bám níu, khao khát muốn hưởng lấy gọi là dục, còn sắc giới chỉ thấy sắc thôi chứ không có dục ở trong đó gọi là sắc giới. 

Còn đi đến trạng thái Vô Sắc Giới là không còn muốn nhìn thấy gì nữa, vậy thì ở đây, trong một ngày qúi Phật tử chia làm ba giai đoạn có khi buổi sáng muốn có dục giới, buổi trưa muốn sắc giới, chiều tối muốn vô sắc giới, tối ngủ mà nằm mơ thì trở lại dục giới, còn ngủ không có mơ là đã đến Niết-bàn. Một ngày qúi Phật tử đi qua những giai đoạn mà không kiểm soát được tâm của ta, thì qúi Phật tử thấy con đường nó đi như vậy đó, nhưng mình kiểm soát tâm thấy mình đi vòng vo trong Tam Giới, mà đừng có phải đi qua tam giới 31 cõi trời hay 31 cõi thế gian này qúi Phật tử nhìn lại tâm mình đã đi trong vòng đó một ngày như vậy đó, một ngày qúi Phật tử đã đi trong 31 cõi như vậy.

Như vậy, qúi Phật tử đi tới thân, lời, ý, sau khi hiểu đối tượng. Hay là qúi Phật tử đi tới đối tượng mà không tới thân, lời, ý, là do qúi Phật tử quyết định mà thôi, không ai làm cho qúi Phật tử hết. 

Nếu qúi Phật tử đi tới thân, lời, ý, là do đối tượng yếu mà thân, lời, ý nó mạnh, còn nếu qúi Phật tử đi tới đối tượng thôi mà không đi tới thân, lời, ý, thì do thân lời ý chưa đủ mạnh lôi qúi Phật tử ra, thì qúi Phật tử đang ra với góc độ vô sắc giới và giải thoát, qúi Phật tử không đi tới trạng thái dục giới hay gọi là sắc giới còn đang có những hình ảnh tác động mình lôi cuốn theo nó.

Có một vị tỳ khưu đi theo 500 vị tỳ khưu trên con đường Đức Phật về Kushinagar. Đức Phật Ngài sắp sửa viên tịch Niết-bàn, các vị tỳ khưu đi trong tâm trạng ảo não buồn phiền, có một số vị tỳ khưu thanh tịnh trong sáng nhìn thấy các pháp đang hiện bày Đức Phật sắp sửa viên tịch Niết-bàn tại Kushinagar. Những vị tỳ khưu trong sạch thanh tịnh đó là những vị Thánh Tăng, nhưng con số phàm Tăng thì buồn, trong đó có một vị tỳ khưu không đi theo đoàn mà tách ra đi riêng vào ngồi trong một cái lều. Câu chuyện đó 500 vị tỳ khưu thưa với Đức Phật là: 

-  Có một vị tỳ khưu tách ra khỏi đoàn không đi theo Đức Phật tiễn đưa Ngài ra đi Niết-bàn về Kushinagar, vị tỳ khưu đó không có tôn kính Đức Thế Tôn. 

Đức Phật nói:

- Như Lai không phải là đối tượng của vị tỳ khưu đó, mà tâm của vị tỳ khưu đó đang muốn thanh lọc, đó là đối tượng của vị tỳ khưu đó phải đi tìm, Như Lai không phải là đối tượng mà vị tỳ khưu đó đi tìm.

Đức Phật nói rõ cho chư tỳ khưu như vậy. Có những người đi theo để nhìn thấy Đức Phật, trạng thái đó là đối tượng của mình, và đánh mất đi đối tượng chính thức của mình là tâm thức mình đang cần có, mà những cái gì mình chạy theo là trạng thái theo đối tượng của bên ngoài, chứ không phải là đối tượng tâm linh mình đang cần có.

Do đó, đối với 500 vị tỳ khưu trình lên Đức Phật thì Đức Phật nói đối tượng của Như Lai chưa phải là đối tượng tâm thức mà vị tỳ khưu đó đang chọn, người đó muốn Niết-bàn là đối tượng vị tỳ khưu đó đang đi tới, nên người đó tách đoàn đi riêng. 

Nếu như, qúi Phật tử đi theo đoàn 500 vị tỳ khưu đến Kushinagar để chứng kiến Đức Phật Niết-bàn trong khi qúi Phật tử vẫn còn là phàm tăng, vì đối tượng là Đức Phật lớn hơn của mình, chính mình không coi trạng thái giải thoát của mình lớn để mình nhìn thấy Đức Phật Ngài ra đi, mà Ngài đã xong rồi, Ngài ra đi là cái chuyện Ngài Phải có, thì có mặt mình hay không có mặt mình Ngài cũng phải đi tới đó, nhưng mình lại lo cho chính Ngài mà không lo chính mình, cái đó đối tượng đó thân ta hành động theo Ngài, lời ta nói theo Ngài, ý ta nghĩ về Ngài mà ta quên tâm ta là đối tượng của mình.

Khi qúi Phật tử nhìn thấy sắc, sắc đã có, qúi Phật tử muốn sắc đó là của mình qúi Phật tử đang đi theo cái sắc đó, sắc của nó mà giờ qúi Phật tử muốn hay không muốn, của nó mà, cũng như Đức Phật vậy thôi, qúi Phật tử tiếp tục đi tiếp với nó thì sắc nó lôi qúi Phật tử đi theo, mình thích cái đó.

Hết bài nhạc mình buồn, thinh là thinh của nó mà, nhưng qúi Phật tử muốn cái đó của mình, mình ở trong đó thì qúi Phật tử bắt đầu đi theo đó đi ra cái quyết định của mình. 

Do đó, mình đang ở trong dục giới là bị bám giữ níu lấy, mình bám nó, nó bám mình, nhện bám lấy lưới nhện, mà lưới nhện bám con nhện không buông bỏ, hai cái đó kết hợp với nhau, mình ở trong đó. Qúi Phật tử sẽ nói cái nhà giữ chân qúi Phật tử hay là qúi Phật tử cũng dính mắc vào trong căn nhà này qúi Phật tử không ra.

 Đó là dục giới rất là thông cảm, mình không chấp, nhưng mình hiểu được, do đó một ngày qúi Phật tử sẽ có Dục Giới, một ngày mình thấy Sắc Giới, một ngày Vô Sắc Giới, có khi một ngày mình chia làm 3 thời; Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, con người mình một ngày như vậy cho vui, nhưng khi qúi Phật tử sẽ thấy 3 cái đó mình có đi nữa cũng không bằng giải thoát, ngày đó mình an tịnh, mình buông nó ra, không giữ lại những cái đó, qúi Phật tử giữ cái gì của ta có? nó là của nó mà.

Sư kể qúi Phật tử nghe một câu chuyện là có một anh chàng thanh niên đó 15 tuổi ở Biên Hòa là người Thiên Chúa giáo nhưng anh ta có một trạng thái ma nhập. Một buổi tối lúc 12 giờ khuya anh giựt sập cái tủ trang trí đồ pha lê của cha mẹ rồi anh ta dẫm lên những mảnh kiếng đó, chân bị mảnh kiếng cắt máu chảy đầm đìa. Gia đình đi mời ông cha ở nhà thờ gần đó đến đọc kinh Thánh, nhưng anh ta cứ ngồi cười cười. Gia đình mới nói đi mời Sư, Sư lúc đó còn trẻ lắm (cách đây cũng 20 năm rồi). Sư bắt ghế ngồi nhìn thấy nó là sắc thôi, nếu qúi Phật tử nhìn vô sâu nữa sẽ bị nó lôi đi theo nó. Nghe thinh là thinh thôi chứ không đi vô sâu nữa. Nó bắt đầu cười giỡn la hét, Sư làm như không biết, Sư ngồi im ru, cha mẹ nó nói sao Sư ngồi im ru vậy, Sư nói: 

- "Đâu cần làm gì đâu, nó muốn làm gì để cho nó làm nhưng tới sáng nó không được về, nó phải  ở đây với anh chàng này".  

Tại vì Sư đọc kinh siết  nó ở trong đó rồi, Sư ngồi im ru, nó thì cười cười, nó cười thì kệ nó, mình thấy sắc thôi, tới 4:30 sáng nó đi không được, nó nói cho nó về, Sư không trả lời, nó năn nỉ cho nó về, Sư không trả lời, nó nói không cho nó về là đánh chết đó, Sư không trả lời, muốn đánh thì đánh, tới 5 giờ sáng mặt trời mọc rồi cái nó hoảng kinh, vì nó có bè bọn nó phải về chỗ của nó, ở đây không phải của nó nên nó phải về. Tới phiên Sư hỏi nó: 

- "Giờ có muốn về không?"

Nó nói "muốn về", 

Sư hỏi: "từ bỏ chưa?"

Nó trả lời: "từ bỏ"

Sư hỏi: "muốn trở lại tối mai không?"

Nó trả lời: "không?"

- "Tại sao?

- Tại mai Sư còn ở đây đâu dám trở lại"

- "Hứa không?"

- "Hứa"

Thế là  Sư cởi ra cho nó về. Mình đâu có giữ nó, mình tháo ra cho nó đi về với bọn của nó. Còn chàng thanh niên đó ở lại với cha mẹ, băng bó vết thương và chàng thanh niên trở lại bình thường.

Qúi Phật tử sẽ thấy, nếu qúi Phật tử đi vô sâu thì nó không có gì của mình hết cả, của nó, mình thấy pháp mình mới chữa được nó, mình trị được nó, mình giải quyết được nó, chứ mình đem cái đó vô mình thì không phải của mình làm chi, nó có nhóm bọn của nó, ngay cả con người đó nó cũng phải có nữa mình cần chi mà giữ, những cái đó mình nhìn pháp là như vậy đó.

Tê, nhức, mỏi, đau, nó có bè bọn của nó mình không cần đi tìm nó, và nó đi về với bè bọn của nó mình nhìn thấy nó thôi, nhưng mình nhìn vô sâu trong nó, nó dắt mình theo bè bọn của nó, mình đi vô trong đó nó đánh mình chết, mình ở trong vị trí của mình và, của nó là của nó không đem về làm của mình, mình không muốn nó vô của mình nữa hai bên biệt lập hoàn toàn. không đi chung đường với nó được.

Do đó, qúi Phật tử sẽ thấy cái pháp đi như vậy đó. Những cái đó là pháp hành, những cái đó mình biết mình nhìn thấy được thì mình mới giải quyết được còn không thì mình chỉ trên lý thuyết về pháp học chơi vậy thôi.

Qúi Phật tử không thể nào sống hết cả cuộc đời, một cái hoa hồng đem vô mình cắm trên bàn thờ Phật xong mình nhìn vô đó, bông hồng đẹp quá, mình không thể sống cùng nó được, nó là của nó và nó sẽ ra đi với chính nó và tính chất của nó đang có, mình không giữ được của nó, nó đi theo nó.

Âm thanh cũng vậy, nghe thích hay không thích là do mình đặt vô và của nó chính của nó. Khi trời mưa phát âm thanh ra tiếng sấm sét gầm thét rú hét lên của nó qúi Phật tử muốn giữ nó hay hoảng hốt sợ hãi cũng không làm được gì, của nó là của nó.

Do đó những cái mình phải hiểu được nắm bắt chỗ đó chính xác.

Mùi hơi, vị, xúc, của nó, những cái đó mình muốn làm thêm nữa cũng không được, chính nó có nhiêu đó, nó cho mình nhiêu đó, mình có duyên với nó và nó có duyên với mình, chứ nó không có cho, qúi Phật tử đừng có nói là nó cho, không có, có duyên với nó mình gặp nó và nó gặp mình, chứ trạng thái duyên của nó là cái duyên của chính cái duyên đó nó cho mình, hết rồi thôi không có nói gì khác hơn.

Những cái đó gọi là Tâm Tịnh Hảo, còn những cái ngoài Tâm Tịnh Hảo thì gọi là Tâm Vô Tịnh Hảo.

Thiền sinh: Thưa Sư, nếu như vậy thì những người có nghề nghiệp họ vui thích trong việc làm của họ, họ để tâm vào việc làm, thì cái đó có phải là trở thành tâm bất thiện không? bởi vì mình thích mà mình để tâm vô, nó vẫn là nó, nhưng khi mình làm với đam mê thì có phải là dích mắc không?

TT trả lời: Dục có ba:

1) Tham dục (ái dục Taṇhāchanda) tức là sự mong muốn dính mắc, sự mong muốn thuộc về tham ái.

2) Tác dục (Kattukamyatāchanda) tức là sự mong muốn thuộc duy tác, sự muốn không thiện, không bất thiện, như vị A-la-hán muốn đi, muốn đứng, muốn nằm, muốn ngồi, muốn thuyết pháp v.v..

3) Pháp dục (Dhammachanda) tức là sự mong muốn thuộc thiện pháp, sự mong mỏi làm điều lành, mong mỏng việc tu tập.

Qúi Phật tử sẽ thấy đối với công ăn việc làm hay tại công sở mình đang làm là qúi Phật tử làm với trạng thái tác dục chứ không thể làm trong trạng thái tham dục trong công việc làm tại công sở mình được. 

Con đường tu của mình không phải sống với Tác Dục, mà phải sống với Pháp Dục của mình, không phải là sống với Tham Dục và Tác Dục, hai cái đó rõ ràng. 

Công việc trong công sở mình làm không có trạng thái nào mà có Tham Dục trong đó hết, mà là trạng thái Tác Dục, mình đi làm để mình sống, cái đó không gọi là đam mê được, bổn phận trách nhiệm làm với Tác Dục, không dính mắc trong Tham Dục.

Mình phải hiểu là dục có 3, mình phải hiểu được cái dục đó để xem khi mình làm việc gì thì nó thuộc loại dục nào. 

Không ai đi làm việc nghề nghiệp trong Tham Dục hết mà là làm trong Tác Dục, sống để mà làm, làm để mà sống, đó là Tác dục chứ không có Tham dục trong đó.

Còn tu là mình phải Pháp dục, tại vì mình cầu pháp để mình được giải thoát khỏi khổ trong đời này, mình chỉ đi theo pháp thôi, đó không phải là đam mê trong Pháp, không phải là tham trong Pháp. 

Do đó quí Phật tử sẽ thấy có những tác ý khôn khéo, nếu không có khôn khéo mình sẽ vụng về trong sự tác ý của mình, trước đối tượng không có khôn khéo thì mình sẽ đi theo thân, lời, và ý của nó, qúi Phật tử không có đối tượng là tâm thì qúi Phật tử sẽ đi theo thân, lời, và ý, con người mình không chịu thiếu và không bao giờ thấy là đủ do đó mình cứ chạy đi tìm những gì của mình có và chưa có, cái đó là mình đang đi ngoài Tâm, chứ không phải trong tâm.

Sư nói nó đơn giản như vậy qúi Phật tử thấy không. Qúi Phật tử phải nhìn thấy cái đó gọi là pháp, mà Pháp chứ không phải là Ý, nếu qúi Phật  tử đi xa vô là Ý là có "tôi", còn pháp nó chỉ là nó thì đó là "cảnh".

Thiền sinh: Thưa Sư, mình đi làm mình thích việc làm thì theo con hiểu ý Sư nói rằng là mình làm để sống, mình không để cảm xúc mình vô đó giống như mình cứ đơ đơ, còn nếu mình thích quá thì mình chặt ngay đó phải không?.

TT trả lời: Pháp thì có Pháp thiện và pháp bất thiện, còn tác dục là muốn làm chứ không có trạng thái đeo níu để làm, việc thiện mình muốn làm để được trọn vẹn thì đó là tác dục, còn mình làm việc thiện này để mình dính vô được thưởng, được khen, được hưởng gì trong đó thì từ tác dục rớt vào tham dục. 

Qui Phật tử đi làm việc công sở, đi giúp đỡ một người, làm bất cứ việc gì trong bệnh viện như y tá, bác sĩ, kỹ sư, công nhân, làm trong trạng thái tác dục, cuộc đời này cho chúng sanh trong việc thiện mình đang làm, chứ không phải cho chúng sanh để mình được hưởng, để có mình trong đó, đó là tham dục. Qúi Phật tử phải cẩn thận, qúi Phật tử muốn làm việc thiện nhưng việc thiện này cho nó vun tròn phát triển đó là việc thiện đang làm, nhưng không để mình dính mắc trong đó không ra được, mình còn phải đi nữa. Bác sĩ có một tác ý giúp bệnh nhân một ngày 24 tiếng đồng hồ sống trong bệnh viện không về nhà, sáng mở mắt ra là vô trong bệnh viện làm việc suốt tới tối rồi không muốn về nhà hết bệnh nhân này đến bệnh nhân kia làm hoài thì đó là tác dục.

Ở đây, Sư muốn trở lại; sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp, là của nó, không phải của mình, vì nó là lục dục, nó có chất dính, chất bám, chất lôi kéo, chất giữ lấy, nên nó mới là dục, qúi Phật tử phải nhớ như vậy, khi qúi Phật tử đụng vô chất keo nó có chất dính, không thể nào qúi Phật tử nói keo đụng vô không dính tay qúi Phật tử được, khi nào không có chất dính nó chỉ là sắc thôi, còn nó dính là dục.

Cuốn phim qúi Phật tử đang coi chỉ là sắc thôi, hết phim đứng lên ra về, nhưng mà còn quay lại coi nữa, coi nữa, thì đó không phải là sắc nữa mà là dục.

Khi Sư còn ở VN, một lần trong chuyến đi hành hương từ Sàigòn ra Hà Nội, trên xe anh tài xế có cuốn băng casset nhạc trong đó có bài "chiếc áo bà ba". Sư ngồi ngay cái ghế đằng trước, kế bác tài xế. Bài hát "Chiếc áo bà ba" cứ hát xong bài đó Sư quay băng lại để nghe lại, và cứ như vậy, không cho chạy qua bài hát khác. Có bà ni sư nói: "Thưa Sư, chiếc áo bà ba rách nát rồi mà Sư cứ quay băng trở lại" cứ chiếc áo bà ba và bến Ninh Kiều mà nghe tới nghe lui không chán, nghe từ Sàigòn đến Hà Nội có mỗi một bài, nghe hoài nhưng không thuộc vì nó chỉ là thinh thôi, không đem vào thì làm sao thuộc được, cái bà Ni Sư: "Con lạy Sư, Sư cho qua bài khác được không?" Sư nói: "Không, chỉ một bài này thôi, không qua bài khác". Anh tài xế nghe hoài một bài muốn khùng luôn, giờ chỉ có tắt là hết nghe, chứ không qua bài  khác. 

Nên qúi Phật tử thấy là cắt như vậy mới hết được, còn không cứ để nó hát mà Sư ngồi ngay đó là Sư bị tra tấn. 

Đó qúi Phật tử thấy không, nó không phải của nó nhưng mà nó muốn cho của nó do đó nó đòi, còn mình không cho thì nó phải buông là "tâm phục khẩu phục", nhớ đời luôn, biết là đi với Sư là không được nghe nhạc.

Do đó, qúi Phật tử nhìn thấy cái bảng viết là sắc, tay Sư để vô tay rớt xuống, còn nếu đây là dục tay Sư để tay vô là dính, nếu Sư níu vào cái bảng khi mỏi tay thì cái tay cũng rớt, đó là tịnh hảo (tâm tịnh hảo là tâm không bám víu vào; sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp).

-----------------------------
Còn tiếp phần ÌI

2 comments: