Wednesday, February 16, 2022

Vi Diệu Pháp 15 - Tâm Duy Tác (tiếp theo) Tâm Vô Nhân - TT Sán Nhiên

 Tâm Duy Tác (tiếp theo) - Tâm Vô Nhân - Vi Diệu Pháp 15 - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 15" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Thường thường làm việc gì mình luôn luôn có tác nhân tạo tác, thì tác nhân đó sẽ làm cho chúng ta có mãnh lực tạo tác nghiệp, tuy rằng làm với nguyện Balamật chúng ta cũng có tác nhân, đó là tác nhân cầu giải thoát.

Phải cẩn thận, không khéo qúi Phật tử đứng trên một lần ranh giới giữa bên đây là hiệp thế, bên kia là siêu thế, điều đó hết sức là vi tế, bên đây là ranh giới của hiệp thế, bên kia là ranh giới của siêu thế, ở đó qúi Phật tử phải có sự sáng suốt.

Chính đó là vô si, khi ta làm một hành động gì đừng có si mê, phải sáng suốt và rõ biết và khi chúng ta làm được điều đó chúng ta phải gạn lọc lại tri kiến, một cái kiến thức, một cái kiến chấp, những sự suy nghĩ của mình được gắng bó tại đó quyết định theo đó làm, cái đó là mình bị si mê. 

Chính tại: cái thói quen, cái tri thức, cái kiến chấp, hay là một mãnh lực gì nó tạo ra mà mình nghĩ là mình đang làm một việc làm Balamật. Qúi Phật tử phải cẩn thận. 

Qúi Phật tử có ý thức giác ngộ trên con đường cầu được giác ngộ và giải thoát, thì qúi Phật tử đã là bồ tát rồi. Có những người nghĩ bồ tát phải là cái gì cao siêu, cái gì xa vời với trạng thái ngoài tầm tay mà con người chúng ta không thể làm được, chỉ dành cho một cá biệt một người, một nhóm người nào đó họ mới làm được. Không phải vậy. Ý thức giác ngộ, ý thức sự thức tỉnh, ý thức sự giải thoát thì lúc đó ta đang là vị bồ tát. 

Chữ "Bodhisattva" Đức Phật Ngài nói rõ nghĩa là "Giác hữu tình" là chúng sanh có ý thức giác ngộ mong cầu được giải thoát, người đó là bồ tát. Chứ bồ tát không là một danh từ để định nghĩa một cá nhân, nhưng bồ tát đó là để mình nói rõ hành động của một chúng sanh có sự ý thức giác ngộ. 

Do đó có một số người suy nghĩ là chữ bồ tát đó để dành cho một cá nhân người nào, đó hay một đối tượng nào đó, một chúng sanh nào đó, có tánh cách siêu phàm hơn trạng thái ta đang có mà ta đang làm được. Không định nghĩa như vậy được.

Qúi Phật tử có lòng thương người, thấy chúng sanh đang lầm than đau khổ, qúi Phật tử giúp chúng sanh đang đau khổ lầm than đó là qúi Phật tử đang có ý thức của vị bồ tát cứu khổ cứu nạn cứu chúng sanh đang bị đau khổ lầm than đang cầu xin sự cứu khổ. Một con chó ra đường bị xe cán gãy 2 chân đang nằm rên la, qúi Phật tử ẵm nó vô săn sóc băng bó  lo lắng, đó là qúi Phật tử đang làm việc của vị bồ tát. Chứ không có gì gọi là xa xôi diệu vợi của một đối tượng nào đến, qúi Phật tử không làm được điều đó mà qúi Phật tử làm được. 

 Như thế, khi ta làm biết là làm, qúi Phật tử làm những cái gì qúi Phật tử biết làm như: bố thí, trì giới, tham thiền, cung kính, hoan hỉ trong thập thiện, làm trong trạng thái biết vì tạo ra phước báu, đó là thập phúc hành tông (Puññakiriyāvatthu), qúi Phật tử làm 10 điều đó có nhiều phước báu. 

Phước báu đó là phước báu gì; Phước báu nhân thiên, phước báu giải thoát. Không có hạn chế trong vấn đề phước báu mà không có nói ranh giới của phước báu ở đâu, từ vựng Puññakiriyāvatthu định nghĩa là nhân sanh ra phước báu hay con đường tạo ra phước báu chứ không nói phước báu gì, trong từ ngữ Đức Phật Ngài nói rõ như vậy, không có nói rõ đó là phước báu của nhân thiên hay phước báu giải thoát.

 Vậy thì khi chúng ta nói nhân sanh ra phước báu là chúng ta đã biết 10 pháp thiện, nhưng tác ý ta muốn có phước báu loại gì thì ta đã biết 3 loại phước báu là; người, trời, giải thoát. Thì qúi Phật tử phải nắm cái ý nghĩa đó, từ đó ta gọi là tác ý vô si tỉnh giác, trước khi ta hành động, đang gọi là tu tập tạo ra hành động.  

Có 3 loại bố thí, bố thí những gì trong ta, bố thí những gì ngoài ta, và bố thí những gì cao qúi.

- Bố thí những gì trong ta, ta có ta cho ra, đó là một cách bố thí.

- Bố thí những gì ngoài ta, ta có ta cho ra, đó là loại bố thí thứ hai.

- Bố thí những gì cao qúi.

Qúi Phật tử thấy bố thí 3 loại như vậy là 3 bậc thượng, bậc trung, bậc hạ. Thì cái gì trong ta, cái gì ngoài ta, 2 trường hợp đó làm qúi Phật tử suy nghĩ. Bố thí những gì trong ta làm ta vui thích, bố thí gì ngoài ta làm ta được khen ngợi tán tụng, bố thí ngoài 2 cái đó là bố thí cao thượng cao qúi.

Những cái đó là những cái trạng thái Vô Si Tỉnh Giác, qúi Phật tử có tỉnh giác trong việc làm chuyện đó, không làm gì bất thiện, qúi Phật tử có sự sáng suốt chánh niệm, biết làm việc đó không làm trong trạng thái bất thiện  sẽ có Hữu Lý Tỉnh Giác, Thích Nghi Tỉnh Giác, Thông Hành Tỉnh Giác. 

Nhưng qúi Phật tử không có Vô Si Tỉnh Giác là qúi Phật tử rớt trong trạng thái một là vị kỷ, hai là vị tha, trong khi qúi Phật tử đang làm việc thiện đó.

Chúng ta đi tiếp, chúng ta đang học về Duy Tác, thì qúi Phật tử phải khai thác chữ Duy Tác này, chúng ta đi tới trạng thái Duy Tác này là qúi Phật tử coi chữ Duy Tác là những hành động thôi.

Như vậy thì duy nhất hành động bởi một tác ý tác động, không vì cho tôi, không vì cho ta, không cho người, không cho ai cả, chỉ có pháp mà thôi, ta làm được điều này ta có duy tác, không vì cho tôi, không vì cho người, tôi chỉ làm vì pháp. 

Trong bộ Chú Giải giải thích, trong lời dạy của Đức Phật, Ngài nói Đức Phật Ngài là Toàn Tri Diệu Giác biết hết tất cả mọi việc trên thế gian này, và Đức Phật Ngài nói trong con người chúng ta có một vị Phật Toàn Tri Diệu Giác đó là Tâm Khai Ý Môn. Phật đã thành, Phật chưa thành, Ngài nói là Ngài là "Phật đã thành". Mình khai thác Tâm Khai Ý Môn mình sẽ là "Phật sẽ thành".

 Nên Đức Phật nói Ngài là Phật Toàn Tri Diệu Giác, Ngài biết tất cả trong mọi chúng sanh trong con người chúng ta cũng có một vị Phật Toàn Tri Diệu Giác là Tâm Khai Ý Môn. Khai thác được cái đó, tác ý trong đó, lộ ý môn ta hiểu, lộ ngũ môn ta hiểu, tác ý tại đó.

Tâm Khai Ý Môn, chúng ta không bỏ qua một cơ hội, một viên ngọc qúi nhất của con người chúng ta ở Tâm Khai Ý Môn là được, ta mở cửa lộ nào cũng phải có Tâm Khai Ý Môn hết, mở cửa lộ ý cũng phải Tâm Khai Ý Môn, lộ cửa Đổng Lực của tâm Lộ Ngũ Môn cũng phải Khai Ý Môn mở cửa cho Tâm Đổng Lực là Khai Ngũ Môn làm việc, thì chúng ta làm trật một cái là hư hết cả hai ý môn và ngũ môn, giác hay là mê, tỉnh hay là mê đều do Tâm Khai Ý Môn, mà ta làm được là Duy Tác Phàm Phu, nếu tu được thì thánh tại nơi đó.

Chúng ta hiểu một cách sơ sài thì uổng phí lắm, chúng ta phải khai thác Khai Ý Môn của mình, Khai Ý Môn là cái Ý của mình rất là quan trọng (thiện hay ác là do cái ý) nó mở được lộ ngũ nó mở được lộ ý, nó tạo ra nghiệp ngũ môn, nó tạo luôn nghiệp của ý môn, giác hay không giác, tỉnh hay là mê tại nơi đây, giác ngộ là duy tác phàm phu còn không là chúng ta ở phàm phu tục tử.

Khai Ý Môn là mở cửa Lộ Ngũ Tâm Đổng Lực, Khai Ý Môn mở cửa Lộ Ý cũng của Tâm Đổng Lực.

Trong lộ trình Tâm Lộ Ý Môn là Khai Ý Môn xong là tới Tâm Đổng Lực liền, nó không qua Tâm tiếp thâu, Tâm thẩm tấn. 

Còn Lộ Ngũ Môn thì Tâm Đổng Lực là Tâm Đoán Định xong là qua Tâm Đổng Lực liền. Tâm Đổng Lực có là bởi Tâm Đoán Định. Đoán Định là Khai Ý Môn, nó đứng trước của ngõ của mỗi dòng tâm thức đổng lực, mà mình làm sai việc gì là tại đó hay đánh giá thấp kém vì cái đó, hay ta vun bồi duy tác phàm phu cũng tại nơi đó, Tâm Khai Ý Môn làm hành động phàm phu tục tử liền.

Thiền sinh: Thưa Sư, là con người bình thường thì ai cũng có một lúc thì tâm sẽ nghĩ đúng tâm mình rất thiện, nhưng mà đôi khi vì môi trường sống nó khác, khi mà nó khác thì tự nhiên tâm thiện của mình nó không trổi dậy ngay lập tức, thì có một thời gian thí dụ như mình suy nghĩ lại thấy là mình không nên nghĩ như vậy, thì lúc đó mình có làm ra nghiệp không?

TT trả lời: Làm ra nghiệp rồi, đó là nghiệp cũ mình đã làm rồi, sau đó mình nhớ lại thì mình có trạng thái hối tiếc hay hối hận hay là buồn lo, thì cái đó bỏ qua một bên, nhớ lại rồi hối hận là tốt rồi, thức tỉnh rồi, giác ngộ rồi, hiểu biết rồi, nhưng đừng để nó chi phối mình nữa mà mình phải đi tiếp, đi tiếp, không nghĩ lại chuyện đã xảy ra, gọi là câu sanh nghiệp chứ không làm tạo thêm nghiệp nữa. "quá khứ không truy tầm, tương lai không ước vọng, chỉ sống trong hiện tại mà thôi". 

Qúi Phật tử đừng có lo, với góc độ đó là qúi Phật tử đang làm vì pháp, còn nếu qúi Phật tử nói quá khứ mà qúi Phật tử truy tầm thì qúi Phật tử có cái tôi trong quá khứ, và tôi ở trong vị lai thì qúi Phật tử không sống trong pháp, qúi Phật tử đánh mất cái pháp đang hiện tại cần phải nắm bắt chứ không phải là "tôi" có mặt trong đó. 

Qúi Phật tử phải nhớ:

- Tôi cần phải nắm pháp, chứ không phải là tôi cần có mà tôi có pháp đó.

 Hai cái đó khác.

- Khi việc thiện đến, thấy việc thiện đến Phật tử làm, chứ không cần nói là "tôi phải làm". 

Thì qúi Phật tử ra khỏi pháp "tôi" mà qúi Phật tử chỉ thấy "pháp" mà thôi.

Như hồi nãy Sư nói qúi Phật tử không cần phải nhắc mới làm, tại khi nhắc thì là có "tôi" trong đó, còn qúi Phật tử thấy "pháp" mà, đứng lên là làm liền thấy là làm liền thì cái đó là "pháp" chứ không phải là "tôi" mà cũng không phải vì "người", đó là Duy Tác Phàm Phu với Tâm Khai Ý Môn mở cửa Đổng Lực của Ngũ Môn hay là Ý Môn cũng y như vậy. Chúng ta ra được chữ Duy Tác, tính cái đó có chủng tử rồi đó, thì trong cái Đổng Lực đó là qúi Phật tử đang là "pháp" chứ không phải "tôi ta" trong đó, từ đó tiếp tục đẩy cái dòng chủng tử đó trôi qua góc độ của một Duy Tác, đi tiếp nữa, chứ Phật tử không có trạng thái để mà đón nhận nữa, ra khỏi cửa ngõ, ở lại thì kẹt ở trong đó.

 lộ trình tâm  



Lộ Ngũ Môn:

- Đầu tiên là, Tâm Khai Ngũ Môn.

- Kế đến là, Tâm Nhãn Thức.

- Kế đến là, Tâm Tiếp Thâu.

- Kế đến là, Tâm Thẩm Tấn.

- Kế đến là, Tâm Đoán Định là Tâm Khai Ý Môn.

- Kế đến là, 7 Tâm Đổng Lực.

Tâm Đoán Định là Tâm Khai Ý Môn, nó nằm ngay cửa ngõ vô Tâm Đổng Lực, để nó quyết định cái Đổng Lực này làm theo sự quyết định của nó xong rồi mới đưa qua nó, Đổng Lực làm theo nó.

Cô thư ký hay là cô y tá cầm vô đưa ông bác sĩ nói người này bị bịnh này thì ông bác sĩ cứ theo hồ sơ đó mà làm, ông bác sĩ không có đi theo người bệnh nhân nữa, tại vì sau khi kiểm tra xét xong đủ thứ các bệnh lý như thử máu, thử nước tiểu v.v..  rồi thì ông bác sĩ chỉ coi hồ sơ đó mà cho thuốc chứ không cần thử lại bệnh lý nữa, nếu như hồ sơ bệnh lý ghi nhầm của người khác thì bác sĩ không biết vì chỉ coi theo hồ sơ bệnh lý chứ không coi người bệnh, thấy cái đó là pháp.

Lộ Ý Môn:

- Đầu tiên là, Tâm Khai Ý Môn.

- Kế đến vô 7 Tâm Đổng Lực. Không có tiếp thâu, thẩm tấn, đoán định, mà vô trực tiếp ngay đó.



Tâm Khai Ý Môn bắt ngay vô Đổng Lực, không cần đợi tiếp thâu, thẩm tấn, đoán định, qúi Phật tử phải nhận xét đó, mà khi mình nhận xét mình phải ý thức đó gọi là Ý Thức Giới  nắm bắt tại đó.

Qua lộ trình tâm thì chức năng Khai Ý Môn quan trọng, đứng ở hai cửa ngõ đều là đổng lực cả mà hai cửa ngõ đó đều tạo tác nghiệp cả, 

vậy thì nghiệp nào chúng ta đang nói, thân nào chúng ta đang có, lời nói nào chúng ta đang hiện bày đều cẩn thận bởi Tâm Khai Ý Môn đưa tới tất cả. Đức Phật nói:

- "nghiệp chính mình tạo ra, chính đó là tài sản của mình, chính đó là nơi nương tựa của mình, chính đó là thân bằng thân quyến của mình." 

Hãy biết nhận lãnh trách nhiệm trong từ mỗi suy nghĩ và hành động của mình, ngay lúc đó qúi Phật tử giác ngộ rồi, có tỉnh giác rồi, và hiểu Vô Si Tỉnh Giác ở nơi đó. 

Ở đây Sư muốn nói điểm lộ trình tâm. Trước khi vô Tâm Đổng Lực, Tâm Khai Ý Môn của Lộ Ngũ hay Lộ Ý, hai cửa đó đều quan trọng cả. Chính điểm đó chúng ta cần suy nghĩ? Khai ý môn ở đâu? Khai ý môn như thế nào? Khai ý môn trong ta và đó là duy tác phàm phu, mà nói duy tác phàm phu bởi cái gì? Duy tác phàm phu vô nhân là nó là vô tham, vô sân, vô si.

Khi ta nói Duy Tác Vô Nhân là: không tham, không sân, không si, không có nhân tương ưng với nói, nhưng nó có nhân sanh ra nó. 

Như vậy thì, ở nơi Khai Ý Môn là Tâm Duy Tác Phàm Phu mà ta có, tại sao vừa vô đến Tâm Đổng Lực ta lại: có tham, có sân, có si, hay là ta, có vô tham, vô sân, vô si? 

Có một sát na thôi, nó là Duy Tác Phàm Phu mà vô đây là Đổng Lực tạo ra nghiệp, có tham, có sân, có si, có vô tham, vô sân, vô si, nhân tương ưng liền ngay đó, mà nó còn là dị nghiệp, hậu nghiệp, hậu hậu báu nghiệp, mà Tâm Khai Ý Môn trước cửa ngõ là vô nhân mà sau lại là Tâm Hữu Nhân? Tại vì bị mất chánh niệm, bị thất niệm

Thí dụ, đứa bé vừa sinh ra đời cha mẹ bỏ nó vô chùa, từ trong chùa nó học với các vị thầy vị sư nó không có chuyện gì phải tiếp xúc với đời, vậy mà nó vừa ra ngoài đời có một chút thì nó tham, sân, si, chửi tục, làm việc xấu.

Một tâm Duy Tác Vô Nhân mà kế bên một Tâm Đổng Lực Hữu Nhân, nó không có kẻ hở sát na mà nó liền khít nhau.

Là khi qúi Phật tử làm việc thường ngày qúi Phật tử bị thất niệm, có tỉnh có mê. Thì đó là đang trạng thái biết rồi trạng thái mê.

Như vậy, ở đây nó đó mình theo đó, cửa ngõ Khai Ý Môn chưa tạo nghiệp, qua đến Đổng Lực thì tạo nghiệp, vậy thì nghiệp duyên làm cho mình làm ra nghiệp báo trở lại. Như vậy thì ở tại đây qúi Phật tử biết nó có nghiệp duyên nó lôi qúi Phật tử trở lại "tôi" với "người". nghiệp duyên là dị thời nghiệp "tôi" và "người". Trước mắt là con người của mình hay là pháp , khi nó ở trong chùa thì nó là pháp, nó ra ngoài đời thì nó là có "tôi" nó đem chuyện đó vô trong chùa "người dạy nó".

Do đó ở đây là mình bị dính chỗ này (Tâm Đổng Lực), qúi Phật tử không có đứng lại được ở đây (Tâm Khai Ý Môn) qúi Phật tử đi vô trong mãnh lực của nghiệp duyên (Tâm Đổng Lực) thì qúi Phật tử trở lại thân kiến, ngã mạn, vô minh, ái dục, mất Duy Tác Phàm Phu Vô Nhân của mình, qúi Phật tử trở lại Tâm Đổng Lực Hữu Nhân tạo tác nghiệp báo.

Khi qúi Phật tử ngồi thiền, pháp đến, lúc bấy giờ qúi Phật tử nhìn thấy pháp và qúi Phật tử thấy pháp của pháp (không có "tôi" trong đó) thì qúi Phật tử sẽ đi tiếp theo Duy Tác Phàm Phu của Tâm Khai Ý Môn mở cửa Đổng Lực đi tiếp luôn. Còn nếu như qúi Phật tử đứng tại nơi đó qúi Phật tử suy nghĩ pháp này thì qúi Phật tử bị giao động bởi pháp này như; tê, nhức, mỏi, đau, thì qúi Phật tử bị theo cái; tê, nhức, mỏi, đau, qúi Phật tử không thấy được Vô Thường, Khổ, Vô Ngã không thấy pháp mà thấy "tôi" trong đó, thấy người mình trong đó.

Khi qúi Phật tử ngồi thiền hay qúi Phật tử đang đi thiền hành, quí Phật tử phải cẩn thận, khi pháp nó đến nó không phải là "người" không phải "tôi" không phải "ta" không phải là pháp thuần thôi, không phải của "người" không phải của "tôi", vô thường không phải của "tôi", vô thường không phải của người mà chỉ là "pháp" thôi, nhưng qúi Phật tử nói cái này là của "tôi" thì lúc đó qúi Phật tử không thấy được pháp Vô Thường.

Qúi Phật tử đang ngồi thiền bình thường rồi đi tới tê, bình thường này là tôi đang bình thường. Rồi tới tê, tôi đang thấy tôi đang bị tê, sau giai đoạn này là vô thường, qúi Phật tử đi xuống ra đổng lực, qúi Phật tử thấy pháp. Qúi Phật tử thấy bình thường này cái tâm qúi Phật tử đang thấy bình thường, đang ngồi thấy êm ái thích hợp khỏe, mà thấy nó tê là qúi Phật tử đang đi ra khỏi  chứ qúi Phật tử không thấy sự vô thường nó đang hiện ra.

Thiền sinh: Thưa Sư, tức là khi thân mình bắt đầu chuyển qua tê là mình biết nó vô thường, tức là mình nhận biết cái thực tính của nó thì lúc đó mình bỏ đi theo pháp không theo người.

TT trả lời: Đúng vậy, khi thấy tê hiện bày biết nó là Vô Thường, mình bỏ tê mình đi theo pháp (theo dõi hơi thở vào ra)

Tâm Duy Tác đến một cách máy móc không để tạo tác quả báo mà mình chỉ nhận thức thấy nó. Cái tê nó tạo tác quả báo, khó chịu sân si, giận hờn, tức tối là quả báo của tê, không kiểm soát cái tâm, còn vô thường không để lại quả báo, pháp không để quả báo, đó là Duy Tác mà mình không bắt lấy cái pháp để mình có Duy Tác thế thì mình có Đổng Lực của trạng thái Hữu Nhân, nhìn thấy Vô Thường là pháp, không nhìn lại mình.

Nếu nhìn lại mình, tôi thấy nó tê là qúi Phật tử thấy cái tôi. Lúc bấy giờ quí Phật tử không nhìn thấy pháp bởi Khai Ý Môn mà qúi Phật tử muốn hành động theo của mình tại Đổng Lực, qúi Phật tử không có nhìn pháp của Khai Ý Môn thấy mà quí Phật tử muốn hành động của đổng lực qúi Phật tử tạo ra cái nghiệp báo của mình và mình mang theo mình hưởng. Thấy Đức Phật mà không theo Đức Phật mà mình đi theo con người của mình nên Đức Phật nói Như Lai là Toàn Tri Diệu Giác, mỗi chúng sanh đều có Phật Giác ở trong con người của chính chúng sanh là Tâm Khai Ý Môn.

Qúi Phật tử ăn được một buổi trưa xong thì nghĩ tới buổi chiều, ăn bữa nay lại nghĩ tới ăn ngày mai, qúi Phật tử không ăn nữa bắt đầu nó ra cái pháp chứ không thấy con người mình đang muốn đòi hỏi tiếp, còn mong muốn cái gì đang còn nó ra cái pháp mà qúi Phật tử không thấy cái đó là cái pháp, qúi Phật tử chìu nó là qúi Phật tử theo cái chiều của nó đang đi. 

Nên Đức Phật Ngài nói là luân hồi chuyển xoay, mình không vẽ được cái vòng tròn này được, cái vòng tròn khép kín, luân hồi chuyển xoay, nếu vẽ nó được thì nó cắt ngang mà qúi Phật tử không đi đường tròn mà đi đường thẳng, tại vì cái vòng tròn qúi Phật tử bẻ ra thì nó ra thẳng.

Thiền sinh: Thưa Sư, cái tâm, khi mình ngồi thiền thì lúc tình trạng như là tê mình nhận thức được tê, nhức, mỏi, đau, tức là khi mình để ý đến thọ của mình thì mình thấy hết tê, xong rồi thức giữa đó thì tâm mình để đâu? 

TT trả lời: Thức đi theo pháp, chứ không phải là thức đi theo tưởng, tưởng dắt qua hành, ở đó cái thức lầm lẫn ở trong tưởng. 

Thiền sinh: Thưa Sư, Sư nói là Tâm Khai Ý Môn ngay sau đó là Tâm Đổng Lực có thể là Hữu Nhân, làm sao mình làm được Tâm Đổng Lực Vô Nhân?

TT trả lời: Không có Tâm Đổng Lực Vô Nhân. Khi bắt được cảnh ngõ thì phải ra Đổng Lực liền còn không thì nó trở về Hữu Phần.

---------------------

Sau một giờ hành thiền, Phật tử trình pháp

Thiền sinh: Thưa Sư, gần đến cuối giờ ngồi thiền chân bị đau con thấy thân con nghiên về phía trước như vậy có phải là nó làm tăng lên cơn đau? 

TT trả lời: Cơn đau tới thân của mình nương theo đó làm giảm bớt cơn đau hơn làm tăng thêm cơn đau. Thí dụ như qúi Phật tử thấy nhiều người hành giả thiền sinh họ ngồi chút xíu bị đau thì họ nghiên qua một bên để cho nhẹ bớt đi, họ nghĩ nghiên qua bên đây thì bên kia bớt nặng thì họ sẽ nhẹ bớt đau bên đây, nhưng mà họ càng nghiên qua một bên thì một chút xíu bên đây sẽ bị đau. Do đó, trạng thái mình đổi oai nghi mình không giữ được oai nghi mình chìu ý cái thân mình để cho giảm bớt chứ không tăng thêm, nhưng nó sẽ cộng lại với hai cái oai nghi đó mà ta đã chịu, do đó bây giờ mình nói giảm bớt bên này nhưng mà chút nữa nó cộng thêm bên kia rồi chút xíu nó cũng trở lại với trạng thái đau nữa, thì mình thêm cái này với cái này đó là mình không giữ thân mình cân bằng, đó là thứ nhất.

Thứ hai là câu hỏi các qúi Phật tử hỏi Sư nghe thì Sư theo cái đó Sư đặt lại câu hỏi chứ Sư không trả lời, cứ mỗi lần tới cuối giờ làm sao mình biết đó là cuối giờ như vậy là mình theo dõi giờ là mình bị vướng cái đó, mình buông cái đó đi, đừng gần cuối giờ, mà chỉ thấy từ tê qua cái đau là mình đang đi theo cái chờ đợi đó là nó cho mình thấy, mình đừng nói một giờ, hôm nay mình ngồi 6 tiếng không có giờ nào hết thì lúc đó qúi Phật tử đâu thấy cuối giờ đâu, tâm lý của mình bị tại đó nó làm cho mình có liền.

Thiền sinh: Thưa Sư, bây giờ con ngồi bán kiết già cho nó đau sẵn trước đi, thì lúc đó con không cảm thấy sự đau lên xuống nữa, tức là cơn đau nó cứ đều như vậy thôi nhưng mà biết nó đau, thì không còn cảm thấy cơn đau lên xuống nữa, thì như vậy có đúng không?

TT trả lời: Cái đó là Sư muốn nói cái đó trở lại trạng thái mình ngồi trong tiểu oai nghi, đại oai nghi, hồi nãy mình ngồi chưa có chuẩn trong cái oai nghi để mình theo dõi được thì cái đó nó mới đổ ngã mình, tại vì khi ngồi trong tư thế đại oai nghi thì mình không bị đổ ngã được. Còn cái này mình đã chuẩn bị sẵn thì là mình ở vị trí đại oai nghi không bị đổ ngã mình cứ theo dõi pháp bình thường trở lại. Do đó mình phải ngồi tìm một cái oai nghi mà đúng nhất gọi là đại oai nghi, gọi là kiên cố, gọi là đại oai nghi, thì từ đó mình chỉ thấy pháp thôi chứ mình không phải chuẩn bị lo nữa, khi mình còn đang tiểu oai nghi rồi qua đại oai nghi, mình đang sửa soạn, mình chỉnh thì lúc nào mình cũng còn có trạng thái xen kẽ vô nó làm, còn mình lại lo cái đó nữa phải giải quyết nó nữa nên Sư muốn Phật tử làm cái gì nó đơn giản thì nó dễ hơn, mình cứ làm cái khó một chút xíu mình gặp cái khó mình làm sao sửa được, như trường hợp thì mình ngồi sẵn cái khó đi ngồi đại oai nghi thì cái chuyện đó dễ dàng, còn bây giờ mình đang tiểu oai nghi đang ngồi bán kiết già rồi bây giờ mình sửa lại ngồi kiết già, tại vì mình còn đang đi tìm hiểu nó còn cái đó mình không cần tìm hiểu mình đã có sẵn rồi công thức nó như vậy mình làm đúng như vậy rồi pháp hiện bày ra mình giải quyết nó giải quyết pháp đó thôi mình không cần phải lo sửa soạn cái nào khác.

Thành ra những pháp hành này, những pháp tu này chúng ta chỉ tìm qua những kinh nghiệm mà thôi, chứ thực ra nó không có chỗ nào nó thoát ở đâu hết nó nằm ở đó thôi, mà tại vì mình không có kinh nghiệm thành ra giữa cái đó cố gắng mình tìm ra của mình sự kinh nghiệm mà mình dày dặn, kinh nghiệm mình có kiến thức, kinh nghiệm giải quyết kinh nghiệm này Phật tử sẽ đi tới.

Hồi nãy Sư nói cái cuối cùng đó là khi ta nói từ bình thường đến tê thì không thấy cái tôi này mà qúi Phật tử thấy pháp Vô Thường là qúi Phật tử sẽ thấy Nhân và Quả, cái tê bình thường là qúi Phật tử sẽ tìm được cái nào nhân cái nào là quả, cái nào là sanh cái nào là diệt, phổ thông tướng tại đó vô thường khổ đau, khi mà qúi Phật tử bắt vô được vô thường đó là qúi Phật tử đi tới phổ thông tướng, thì qúi Phật tử đâu còn thấy cái sanh nữa, lúc đó chỉ thấy diệt thôi, mà cái đó là mình đang ở trong cái góc độ đó, mà cái đó là Duy Tác Vô Nhân, vì mình đâu còn tham muốn sân si trong đó nữa, cái đó đi ra luôn nên Sư nói chữ cửa ngõ ở Duy Tác Phàm Phu là cửa ngõ để đi qua Duy Tác Thánh Nhân từ nơi tác ý, tác ý của mình là Vô Si Tỉnh Giác là mình phải thấy đi tới ra luôn còn không có đi trạng thái "tôi tôi tôi", "tôi nhức", "tôi đau", "tôi mỏi" "tôi tê", không có nữa mà mình thấy Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Vô thường đâu nói tê, vô thường đâu nói đau, vô thường đâu có nhức, vô thường đâu có mỏi, nhưng tôi có nhức có mỏi có đau.

Bữa trước tuệ phân biệt danh sắc, tuệ phân biệt nhân quả, tuệ phân biệt được sanh diệt, phổ thông tướng rồi tới diệt diệt diệt. Bữa nay tới tâm Khai Ý Môn, mà Khai Ý Môn là cửa giác ngộ, cửa đó là Duy Tác Vô Nhân nhanh nhất, cửa đó mở vô Lộ Ngũ Ý nhanh nhất của tâm Đổng Lực tạo ra nghiệp báo hay không tạo nghiệp báo, mình xong rồi, mình chỉ còn Tâm Tiếu Sinh thôi, nụ cười suông của bậc Alahán thôi.

Bài pháp Khai Ngũ Môn, Khai Ý Môn, Tâm Tiéu Sinh, 3 pháp Duy Tác Vô nhân, nhưng Sư đưa lăng kính của pháp hành vô với kinh nghiệm Sư bỏ vô trong bài pháp đó cũng là một cái tác ý khôn khéo, thì cũng vậy khi qúi Phật tử biết dùng cái tác khỏn khéo từ một bài pháp được thuần 3 tâm thức đó qúi Phật tử dùng được.

Thiền sinh: Thưa Sư, Sư có nói là lúc thiền thì mình có tác ý khôn khéo cũng như mình vừa vô thiền thì mình đặt hướng đi của thiền của mình, nhưng trong lúc thiền mình cũng phải có khái niệm thời gian thiền của mình, chẳng hạn như hôm nay mình nói một tiếng, mặc dù mình không theo được một tiếng nhưng con nhớ là Sư dặn là mình chia làm 3 giai đoạn, khi mới đầu thì mình nhắm mục đích của mình, trong lúc thiền thì mình niệm pháp và khi mà gần xong thì mình rút tỉa kinh nghiệm thì con nghĩ mình cũng có khái niệm thời gian mình. 

Thứ hai nữa là con thấy mỗi lần con ngồi thiền con không có cảm giác tê nhức mỏi đau có lẽ là mình phải ngồi lâu hơn thành ra cái đối tượng tê nhức mỏi đau đối với con không thấy hiện bày, mặc dù con có đổi tư thế để xem chỗ nào nó tê nhưng con không có cảm thấy, thì cái đối tượng của con lúc đó chỉ có hơi thở mà thôi, vậy con có phải ngồi lâu hơn hay là tìm cái đối tượng nào khác?

TT trả lời: Điều tối kỵ nhất của vị thiền sinh đi vào con đường tu tập là tìm cầu, nó không bao giờ có, tự nhiên nó tới, đó là cái pháp của nó. Thí dụ, mình ngồi không thấy tê nhức mỏi đau, giờ mình ngồi thêm nữa, ngồi thêm nữa cũng không có, lúc đó mình mới thấy là sự thật nó là pháp chứ không phải mình quyết định nó để mình có pháp, nó là pháp chứ không phải mình quyết định nó để mình mới có pháp. 

ĐĐ Ananda biết ngày mai là kết tập Tam Tạng và rất cần ngài có đắc Alahán nhưng Ngài vẫn còn sơ quả, nguyên một ngày hôm đó Ngài tìm pháp nhưng Ngài không tìm ra, Ngài bỏ cuộc trở về giường ngã người xuống đắc quả liền.

Những người đó là những người đang bị cái ái, cái lòng khao khát, họ đi tìm nó, làm sao họ thấy được, mà đạo quả Alahán là phải diệt ái dục thuộc về 5 phần kiết xử nhưng Ngài Ananda vẫn đi tìm, nắm 84,000 pháp môn, kết tập Tam Tạng ngày mai là ngày sẽ đọc nhưng ngày hôm nay Ngài chưa diệt được ái dục của Ngài đang đi tìm pháp mà Ngài không tìm được, Ngài tìm không có, bỏ không tìm nữa đi về giường ngã xuống nằm lúc đó pháp tới bắt kịp còn không qua luôn rồi.

 Nên qúi Phật tử sẽ thấy cái đầu tiên nhất là nó không có là nó không có và, khi nó có là nó có liền, và nó có qúi Phật tử bắt không kịp lúc đó mình mới nói chứ không thể nào qúi Phật tử ngồi thêm giờ để tìm, đó là không phải. 

Qúi Phật tử tới một dòng sông người ta nói nơi đó có cá là câu được cá sao, không có, cứ thả câu xuống có cá thì nó cắn, nó không cắn thì thôi, rồi mình đi, qúi Phật tử ngồi lâu hơn nữa thì có cá sao, không có, ngày khác mình lại đến ngồi câu cá, có khi câu được, đó là là chân lý. Nên tối kỵ nhất khi hành giả ngồi thiền để nhìn thấy những cái gì nó có chứ không đi tìm, mình phải cắt ái dục đó trước, cái đó thứ nhất.

Thứ hai, trạng thái tỉnh táo là diệt cái vô minh, coi sự sáng suốt mình thấy vấn đề, từ đó nó sẽ đến lặng lẽ, lặng lẽ pháp nó lên, có khi bữa nay không có thì mình không cần đi tìm, ngày mai có thể nó có và lúc đó mình chuẩn bị chưa, đó là cái quan trọng không ai nói được, như đi câu cá dòng sông đó có cá đâu, đi câu cá đâu phải lúc nào cũng câu được cá đâu.

Do đó Sư cũng nói với qúi Phật tử điều tối thượng điều cả quyết như vậy đó là không đi tìm, pháp tự đến và tự hiện bày, chính mình chuẩn bị để mình bắt được, mình giác ngộ tại đó hay là mình chứng đắc nơi đó, từ từ thôi nhưng mình phải hành động. 

Thành ra, Sư muốn nói với qúi Phật tử nghe là mình có cơ may, trong quá khứ mình không đánh đập chúng sanh do đó kiếp này mình không bị tê, nhức, mỏi, đau, còn chúng sanh kia trong quá khứ có đánh đập chúng sanh nên bây giờ họ ngồi bị tê, nhức, mỏi, đau.

Nhưng, tâm mình có an trú không? tâm mình có phóng dật không? lúc đó mình nhìn vào danh pháp đâu phải chỉ đi tìm sắc pháp không. Nhìn danh (nhìn vào tâm) thấy pháp bắt đầu nó lên thì mình khỏe cái thân rồi đó, sắc pháp yên rồi thì danh pháp nó lên, lúc đó tham lên, sân lên, hoài nghi nó lên, phóng dật nó lên, hối hận nó lên, hôn trầm thụy miên nó lên, nhìn cái pháp đó, nó cũng là pháp, mình bắt vô, tại sao vừa hôn trầm lại đi tới phóng tâm, vô thường, tâm mình sinh diệt thật là mau, diễn biến thật là mau, sanh diệt quá lẹ, nhìn vào danh (nhìn vào tâm), không cần phải đi tìm sắc pháp, không cần phải đi theo chiều hướng đó. 

Qúi Phật tử phải nhìn hai chiều là danh (tâm) và sắc (thân), mình coi cả hai bên là mình nắm bắt được, cách nào qúi Phật tử cũng tìm ra được, chứ không phải qúi Phật tử đòi hỏi tìm cầu, pháp tự nó đến, quan trọng nhất là mình đủ kiến thức để mình giải quyết được là mình mừng.

Một vị dạy võ xuất chiêu ra rồi nói tôi không thấy ai đánh tôi hết trơn giờ tôi đi tìm người ta đánh tôi nha, không có, nhưng mà cái hay là người nào mà đánh mình mình biết giải quyết được hay không, chứ còn bây giờ mình cứ đi tìm có ai đánh tui không tôi đang đi tìm nè, cái đó không có, sống bình yên, tự nhiên bình thản, cứ đi tới khi gặp pháp giải quyết được là xong, còn không là mình bỏ chạy, thời cơ nó đến một lần một sát na giây phút hiện tại bắt được lúc đó đạo quả, nó không cho hai lần, nên Sư nói với qúi Phật tử cái đó là một kinh nghiệm, không tìm thời gian dài, nó không cho mình biết thời gian nào đến, nó không cho mình biết thời gian dài nào mình chờ nó đến 

Thiền sinh: Thưa Sư, thường thường khi con thiền thì con gặp 2 trạng thái, 1 trạng thái là tâm rất là yên lặng thật là êm, lúc đầu thì con theo dõi hơi thở thì nó hơi nặng, sau khi đến trạng thái đó thì hơi thở rất nhẹ trong một thời gian ngắn từ từ nó trở lại, trong khi đó con vẫn nhận thức được hơi thở và theo dõi hơi thở.

Trường hợp nữa là con vô một tình trạng gọi là một cái rớt rất là nhanh như là mình rớt vào một cái gì rất là yên lặng mà dần dần cũng trở lại bình thường?

TT trả lời: cái chỗ nói rớt xuống rất nhanh mà tĩnh lặng mà đi vô luôn là mình tới luôn, lúc đó đã đi tới trạng thái mọi pháp đang sanh lên buông bỏ hết đi qua trạng thái tĩnh lặng như vậy là qúi Phật tử đã đi gần tới không diệu. Đọc lại bài con đường thứ tư con đường Niết bàn, còn đường thù thắng đạo của Ngài Jatila Ngài giải thích bài Niết-bàn như thế nào, lúc bấy giờ qúi Phật tử sẽ đọc lại sẽ thấy Niết-bàn tại nơi đó. có 3 trường hợp nó đến là Niết-bàn như một người biết về Niết-bàn, đặc tướng của nó tĩnh lặng hoàn toàn không có một chuyện gì cả hoàn toàn tĩnh lặng trong đại oai nghi, không nhìn thấy cái ngã, không có trạng thái giựt người, không có trạng thái hoảng hốt, ngồi yên tĩnh thản nhiên, đó là trạng thái biểu tri của nó là trạng thái rất an lạc, hạnh phúc nhẹ nhàng, đó là sự biểu tri của nó, mà lúc đó mình không thấy "tôi ta" trong đó chỉ thấy mình hưởng nó cái pháp của nó đến.

Giữa trạng thái được lon coke uống vô sẽ có trạng thái suy nghĩ cái uống này để mình làm cái gì không, cái đó khi qúi Phật tử uống vô một ngụm coke vô thì qúi Phật tử sẽ có một cảm giác gì của nó hay là của mình, nếu của nó là pháp, nếu của mình là của mình, mình thích quá là của mình, còn của nó làm cho mình thấy mát dịu, ngụm coke đi tới đâu mình thấy mát lạnh tới đó, êm ái tới đó, giải hết những nỗi khát nước mình đang mệt mỏi, đó là pháp, lúc đó qúi Phật tử uống nước coke vô để làm gì, qúi Phật tử ngậm nó "oh cái này thích quá" thì là của tôi, còn cái này nó đi tới đâu mình hưởng tới đó là pháp.

Thiền sinh: Thưa Sư, những kinh nghiệm của con qua những lúc mà nó vô định tự dưng người con cũng như vậy nhưng theo định nghĩa thì cũng chưa là Niết-bàn.

 TT trả lời: Qúi Phật tử muốn nó là Niết-bàn, trở lại 4 bài viết của Ngài Jatila, nó muốn trở lại nó sẽ trở lại, muốn nó dài lâu nó sẽ dài lâu, bất chợt nó sẽ tới , cái đó nó đã có, ngày mai qúi Phật tử trở lại kêu nó trở lại nó trở lại là của mình có còn không có thì mình trở lại không được, như vậy là phản kháng đạo quả Niết-bàn . 

Nên qúi Phật tử phải đọc lại trong các bài đó, Sư nói cái phước của qúi Phật tử mình là được Ngài Jatila viết hết ra xưa nay không có ai nói, giờ Sư đưa ra qúi Phật tử đọc lại rồi mình nghiệm lại của mình, thấy pháp như vậy mình phản kháng lại mình coi nó có hay không, nó ra hết như vậy.

Gọi là nhập thiền quả chứ lúc đó không còn là thiền quán, quí Phật tử sẽ trở lại nhanh. Thí dụ qúi Phật tử đang đi thiền quán để mà thấy, khi mà qúi Phật tử có đạo quả Niết-bàn rồi thì nó sẽ trở lại như là mình đang có, qúi Phật tử muốn nó trở lại nó sẽ trở lại một giờ đồng hồ chứ không phải nó xuống một giây rồi nó đi, nó trở lại một giờ đồng hồ ta hưởng an lạc với nó, nếu qúi Phật tử thấy còn đau còn nhức còn tê nó không phải là Niết-bàn, qúi Phật tử ngồi thiền thấy gần hết giờ thì tê nhức mỏi đau lên thì cái đó không phải là Niết-bàn. 

Có những trạng thái đó, nó giữa hai trạng thái, trạng thái đó là Khinh An Giác Chi của Thất Giác Chi, rồi lúc đó qúi Phật tử còn phải đi đến Tịnh Giác Chi tới Hành Xả Giác Chi thì lúc đó mới qua con đường chuyển tập rồi đi tới con đường Đạo Quả.

Do đó, giữa trạng thái Khinh An Giác Chi qua Phỉ Giác Chi thì lúc đó trạng thái nhẹ nhàng vi tế và an lạc, nó chỉ là Khinh An Giác Chi mà thôi, không phải là Niết-bàn. Giữa hai cái đó qúi Phật tử phải coi chừng cận thận đừng để nhầm lẫn.

Thiền sinh: con tưởng là con bị phóng dật.

TT trả lời: Phóng dật hay là thất niệm là khi nào mình không có hiểu biết còn cái này mình đang có hiểu biết, mình đang ở trạng thái tỉnh giác và có sự ghi nhớ, do đó không phải là phóng dật thất niệm. Nhưng trạng thái Hỉ Giác Chi, Khinh An Giác Chi là mình đi đến giai đoạn đó là mình đã vượt qua những gian khổ khó khăn sắp tới nơi được an vui rồi thì lúc đó người mình thấy thoải mái mẻ khỏe khắn đó là những trạng thái đó thôi nó chưa tới trạng thái chuyển tập của nó, do đó mình vẫn đi tiếp. Nhưng trong cái đó Sư chỉ cho qúi Phật tử thêm một kinh nghiệm nữa là khi mà trạng thái Khinh An Giác Chi mà mình đang có mình coi lại cái tâm mình nhìn thấy pháp, thứ hai là mình coi lại cái thân mình, vừa nghĩ tới thân mình là lúc đó trở lại liền, mình phải coi cái đó lúc đó pháp đến mình đang đi tới mình hưởng không, phải coi lại thân mình nữa đó, nhin không kịp, không cần phải nhìn thấy nữa, lúc đó nó lôi cuốn giống như dòng suối lôi mình đi, không còn nhìn thấy trước, không nhìn thấy sau, mình thấy nó đang lôi mình đi thôi, lúc đó qúi Phật tử sẽ đi tới luôn ./.


2 comments:

  1. Cảm ơn Chị. Giữ gìn sức khỏe nha Chị. Em tải xuống hết theo lời Chị dặn rồi. Chúc nguyện Chị an lành.
    Em, NT

    ReplyDelete