Monday, June 28, 2021

Vi Diệu Pháp 05 - Tâm Siêu Lý - TT Sán Nhiên

 Tâm Siêu Lý (Phần 1) - Vi Diệu Pháp 05 - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 05" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Hôm nay chúng ta học Abhidhamma tiếp tục về Tâm. Bài trước đã học qua phần Tâm. Pháp Siêu Lý có 4 phần là: Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp, Niết-bàn. 

Chúng ta đã học qua ba đặc tính hay ba ý nghĩa của Pháp Siêu Lý là: đặc biệt không thay đổi, chủ của mọi pháp chế định, cảnh của trí tuệ cao siêu. 

Bây giờ chúng ta đi từng bước về từng một pháp của Siêu Lý. 

Pháp thứ nhất, Tâm Siêu Lý.

Cái biết của Tâm gồm có 3 ý nghĩa:

1) Không thay đổi

2) Cảnh của trí tuệ cao siêu

3) Chủ của mọi chế định.

Ba ý nghĩa này ta đi từng bước.

1) Đặc biệt không thay đổi của Tâm là, luôn luôn sanh diệt liên tục như vậy không gián đoạn. Do đó Tâm Siêu Lý đặc biệt không thay đổi là sanh diệt. 

2) Cảnh của trí tuệ cao siêu là, biết các tầng trời: Sắc Giới, Vô Sắc Giới và Niết-bàn. Vậy thì, trí tuệ cao siêu biết được là Pháp Siêu Thế.

3) Chủ của mọi chế định là, biết được pháp thế gian này, tất cả những pháp nào thuộc về thế gian thì nó tìm tới, là Hiệp Thế: gồm có Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Là chủ của mọi chế định Tâm đều biết hết tất cả mọi pháp thế gian này.

Bốn ý nghĩa của Tâm: 

1) Trạng thái của Tâm là sanh diệt không ngừng.

2) Phận sự của Tâm là dẫn dắt Tâm Sở đến với cảnh.

3) Sự thành tựu của Tâm là biết cảnh, khi tâm có cảnh rồi nó khắn khích trong cảnh không rời. Đó là đặc biệt của Tâm  

4) Nhân cần thiết của Tâm là phải có Danh Sắc (Danh là Tâm, Sắc là con người của ta) nếu không có hai đối tượng này thì Tâm không sanh ra được.

Có 4 nhân sanh ra Tâm:

1) Nghiệp quá khứ.

2) Tâm Sở.

3) Cảnh.

4) Thần Kinh. Nếu không có Thần Kinh nương tựa vào thì Tâm sanh không được.

Phải có 4 yếu tố đó mới sanh ra Tâm.

Do đó, khi chúng ta học về Thần Kinh, chúng ta sẽ thấy Abhidhamma giải đáp được một câu xưa kia được nghe: " Nhất thiết duy tâm tạo" tất cả vật thể trên thế gian này đều do tâm mình tạo ra, câu đó không phù hợp. 

"Nhất thiết duy tâm tạo" vậy thì cái gì sanh ra Tâm? Nó bị kẹt câu đó. 

Do đó phần Duy Thức Luận hay Duy Thức Học đứng lại tại nơi đó không giải đáp được, vì sao? 

Bốn nhân sanh Tâm chúng ta sẽ thấy ở phần Duy Thức Học hay Duy Thức Luận chỉ có 7 Tâm thôi, ngoài Ngũ Song Thức, A-lại-da thức và Mạc Na Thức. Còn ở đây chúng ta học 121 Tâm. Không đứng lại ở 7 Tâm Thức đó mà thôi, do đó khi chúng ta đi thẳng vào trong 121 Tâm Thức này chúng ta thấy hết sức chi tiết và rõ ràng đầy đủ hết tất cả những yêu cầu của chúng ta, như nói nó là thuộc về Cảnh của Trí Tuệ Cao Siêu. 

Tất cả những giải thích "Nhất thiết duy tâm tạo", thế thì tất cả mọi vật thể trên thế gian đều do tâm tạo, vậy cái núi tâm tạo được không, sông mình tạo được không, biển mình tạo được không, lá xanh tâm tạo ra lá vàng được không, hay chúng ta làm ra mặt trời mặt trăng được không, tất cả chúng ta đứng lại bó tay trước những trường hợp đó. Do đó, câu "Nhất thiết duy tâm tạo" được gát bỏ qua một bên trước khi chúng ta học Tâm Abhidhamma. 

Những Duy Thức Luận, Tỳ-bà-sa luận, Câu Sắc Luận, hay những pháp môn tất cả các Tổ viết về luận không đi thẳng vào trong vấn đề của Abhidhamma giải đáp.

Nếu nói tất cả vật thể trên thế gian này, tất cả mọi pháp trên thế gian này do tâm tạo thì, nhân sanh nào ra Tâm? 

Chúng ta phải nói đồ đạc trong nhà của ta đều là do cha mẹ ta làm ra, người nào sanh ra cha mẹ ta, mình nói ông bà, rồi ai sanh ra ông bà, rồi nói ông cố ông sơ, chúng ta nói một hồi bị kẹt.

Còn ở đây, có bốn nhân sanh ra Tâm, Tâm đã có sự lệ thuộc bởi nhân sanh ra nó, có liên hệ từ ở đó mới làm ra được tất cả các pháp mà Tâm có khả năng làm được. Còn nếu như không, chúng ta sẽ thấy tất cả chỉ có Tâm Thức mà thôi, nhưng thật ra trong Tâm Thức còn liên quan đến Danh và Sắc sanh ra Tâm Thức. 

Thứ hai nữa đánh đổ được câu nói xưa kia con người Việt Nam học, nghiên cứu gọi là Tiềm Thức. Qúi Phật tử không nên dùng chữ Tiềm Thức. Tiềm Thức là Tâm Thức ngủ ngầm. Như chúng ta nói tàu ngầm gọi là tiềm thủy đỉnh là chiếc tàu ngầm ở dưới giòng nước. Tiềm là chìm sâu ở dưới nước nên ta gọi tàu ngầm là tiềm thủy đỉnh. Vì thế khi ta nói Tiềm Thức là Tâm chìm sâu, do đó chữ Tiềm Thức này phải gác bỏ qua một bên khi học Abhidhamma của Đức Phật.

Khi chúng ta học sẽ thấy nội trong bốn pháp ý nghĩa của Tâm hay bốn nhân sanh Tâm đã giải đáp được tất cả những danh từ xưa kia chúng ta lầm lẫn nói Tiềm Thức là Tâm ngủ ngầm ở nơi đâu chưa giải thích được, thực ra không có tâm chìm ở dưới, nếu có thì chỉ có tâm chưa biết cảnh, tâm chưa có cảnh hay, cảnh chưa có, gọi là Tâm Hữu Phần (Bhavaṅga) gồm có:

Bhava là kiếp sống

 anga là chi phần, 

Chi phần này giúp đỡ cho sự sống này còn tồn tại lúc nó chưa hoại diệt, nên người ta gọi là Tâm Hữu Phần, nó là hiện hữu, nó đang có mặt, nó chưa bị tiêu diệt, nên gọi là Tâm Hữu Phần nó chưa có cảnh. 

Nhưng, khi cảnh đến thích hợp, những Tâm Hữu Phần này sẽ nhường sang một bên, để cho những tâm đối tượng đưa vô cảnh, nó đến bắt lấy mà giải quyết vấn đề, biết sanh diệt và biết cảnh khắn khích trong tâm. 

Khi nói tới vấn đề này, chúng ta sẽ thấy rõ ràng trạng thái của Tâm là sanh diệt rồi sanh diệt mãi mãi. Tâm sanh diệt từ khi chúng ta mới sanh ra cho đến khi chết, từ kiếp này cho đến kiếp khác nối nhau mãi. Như vậy, tới khi nào chấm dứt? Đó là khi Tâm tử của bậc Alahán lúc đó sẽ chấm dứt dòng tâm thức, còn nếu như ta chưa đạt tới bậc Alahán, Tâm chúng ta còn sanh sanh diệt diệt mãi cho tới khi nào ta đạt tới bậc Alahán, đạt tới giai đoạn Tâm Tử của bậc Alahán lúc đó sẽ chấm dứt dòng tâm thức.

 Thành phần phụ thuộc của Tâm Sở là nó đến với cảnh làm cho cảnh với tâm khắn khích nhau, Tâm biết cảnh và khắn khích trong cảnh đó hoài không ra, chỉ khi có một cảnh khác mạnh hơn lôi cuốn chúng ta mới ra khỏi cảnh đó, còn không, một khi tâm đã bắt rồi nó không ra. 

Nghe một âm thanh ta thích, thì âm thanh đó tồn đọng ở trong tâm của ta, khi tâm dính mắc rồi, âm thanh phát xuất từ bên kia nhưng thâu vào lỗ nhĩ  là Tâm Nhĩ Thức ta bắt được âm thanh đó lên thì khi âm thanh đó đã hết ở bên kia rồi nhưng tâm ta còn giữ nó lại, ta vẫn không quên được âm thanh đó nên gọi là khắn khích trong cảnh.

Do đó, đi vào Pháp Hành khi chúng ta bắt được cảnh, cảnh đó là cảnh quá khứ chứ không phải cảnh hiện tại, cảnh hiện tại bên kia vô đến bên ta là cảnh của qúa khứ rồi, phải biết như vậy chúng ta mới hiểu được và chúng ta không có quên được, khi ta bắt được cảnh quá khứ như vậy tức là tâm ta chạn lại để mà biết lại và hiểu được lại và nắm bắt lại, cái đó gọi là tưởng trong cảnh, không phải chánh niệm trong cảnh.

Khi làm liên tục như vậy thì cảnh đến qúi Phật tử càng ngày rõ hơn thì lúc đó qúi Phật tử sẽ thấy là cảnh có trong tâm ta và tâm ta đang ở trong cảnh đó, lúc đó ta tách rời ra khỏi trạng thái cái của "tôi" và chúng ta đang biết cảnh mà thôi, tâm chỉ còn biết cảnh mà thôi, chúng ta không còn biết cái của "tôi" lúc đó qúi Phật tử mới thấy cảnh rõ lên. 

Do đó, khi chúng ta nói ta biết cảnh và khắn khích trong cảnh đó là quan trọng, khi mà chúng ta không nắm được cái đó thì sẽ thấy chúng ta sống ở trong tưởng của cảnh quá khứ, mà đạo quả Niết-bàn này là phải bắt cảnh hiện tại chứ không có bắt cảnh quá khứ được, mà những gì chúng ta có biết chưa phải là Niết-bàn, Niết-bàn đến rất là nhanh, ngay khi đến rất là nhanh thì chúng ta sẽ có Niệm chứ không có Tưởng.

Thí dụ, qúi Phật tử đóng đinh, một tay cầm cái búa một tay nắm cây đinh, qúi Phật tử đập cái búa không trúng vào đầu cây đinh mà trúng vào đầu ngón tay của mình, chát một cái thiệt mạnh, ngay đó là Niết-bàn. Đầu tiên qúi Phật tử choáng váng rồi vì quất quá mạnh mà, không ngờ là đập búa vào ngón tay của mình, điếng hết rồi, sau đó mới thấy đau quá thì là quá khứ rồi. Rồi qúi Phật tử đem câu chuyện đó kể lại thì chuyện đó đã qua hết rồi. Ngay cái chát một cái thiệt mạnh, ngay đó là Niết-bàn. Còn khi kể lại là nhớ lại chứ không phải Niết-bàn.

Thiền sinh: khi biết cảnh tới mình nhận biết cái cảnh đó là quá khứ rồi, như vậy là mình không thấy sự diệt của nó bởi vì là khi cảnh tới tức là cái đó đã sanh diệt rồi thì làm sao mình nhìn thấy được cái sanh diệt của nó?

TT trả lời: Chính cái đó qúi Phật tử sẽ thấy cái này là kỹ thuật, cẩn thận nghe Sư nói. Khi lộ ngũ đến bằng 5 cửa giác quan: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, là sắc, thinh, khí, vị, xúc, nhưng, cái này hoàn toàn đến với Phật tử thuộc về quá khứ, không bắt cái hiện tại được, cảnh nó đến với qúi Phật tử toàn từ quá khứ, qúi Phật tử đem vô là quá khứ.

Nhưng khi cảnh sắc đến với tâm của qúi Phật tử thì chỉ qua có một sát na tâm là Tâm Nhãn Thức bắt cảnh sắc thôi, rồi tất cả những sắc còn lại qúi Phật tử thấy nó thuộc pháp, không còn là cảnh sắc đó nữa, Tâm Nhãn Thức bắt có một sát na tâm thôi, khi Tâm Khai Ngũ Môn mở cửa cho Tâm Nhãn Thức thâu lấy cảnh sắc thì sau đó Tâm Tiếp Thâu, kế đến Tâm Thẩm Tấn, kế đến là Tâm Đoán Định rồi tiếp nó là 7 sát na tâm, 7 dòng sát na tâm này là Tâm Đổng Lực để hưởng cảnh, nếu có cảnh dư thì ta có 2 na cảnh (qúi Phật tử chưa học đến phần này) rồi xong xuôi ta trở lại Tâm Hữu Phần. 

Như vậy, khi cảnh sắc đến với qúi Phật tử nó chỉ có một sát na là Tâm Nhãn Thức thôi, âm thanh đến chỉ có một sát na Tâm Nhĩ Thức nó đưa lại Tâm Tiếp Thâu xong đến Tâm Thẩm Tấn, đến Tâm Đoán Định, nó không còn tâm nào biết cảnh nữa, tất cả nó được giữ lại qua những chức năng của Tâm đối diện của nó nối tiếp để làm việc đó. Chính do đó qúi Phật tử sẽ thấy tất cả, sắc, thinh, khí, vị, xúc, đến với qúi Phật tử có một sát na tâm rồi trở lại những cảnh ngủ này thuộc cảnh Pháp của Ý Môn là Tâm Ý Thức nó biết, rồi khi Pháp nó đến với qúi Phật tử cảnh sắc này đến nó chuyển qua Tiếp Thâu nó thành cảnh Pháp, nó không còn là cảnh sắc, rồi tiếp tục hưởng cảnh pháp này qua trạng thái Tâm Nhĩ Thức đem cảnh sắc vô qúi Phật tử. 

Cái hình ảnh, Sư và qúi Phật tử đứng chụp hình, chụp hình xong xuôi rồi thì khi máy bấm một cái rồi bắt được cái hình xong rồi thì không còn Sư và qúi Phật tử ở đó nữa nó giữ cái hình đó thôi rồi từ đó in ra hình ảnh, toàn bộ là cảnh pháp chứ không phải là cảnh sắc nữa, cảnh sắc của pháp mà ta đã thâu vô cái máy chụp hình, rồi từ nơi đó qúi Phật tử nhìn thấy cảnh đó qúi Phật tử nói là tôi trong đây, hay là hình của tôi trong đây, hình tôi trong đó, một số người đang đứng với tôi đây, là qúi Phật tử chạn lại thôi, nó qua rồi, một sát na máy bấm một cái sau đó số người này không còn nữa, thì ngay khi đó qúi Phật tử nhìn cảnh sắc mà qúi Phật tử đang coi là trạng thái chạn lại của những tâm thức này nó đem vô cho hưởng cái cảnh này thì cái này thuộc về pháp của cảnh sắc do tâm nhận thức truyền vào là cảnh pháp chứ không phải là cảnh sắc nữa, thì lúc bấy giờ cảnh hiện tại của Tâm Đổng Lực (là tâm Ý Thức khởi lên là tâm thọ hưởng cảnh) mà là qúa khứ của Tâm Nhận Thức mang cảnh sắc, qúi Phật tử bắt được cảnh hiện tại đó qúi Phật tử thấy sanh diệt và đặc tướng Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã tại nơi Tâm Đổng Lực. 

Đây là lộ trình tâm sẽ thấy rõ.

                                            Hình được chụp lại từ video Vi  Dieu Phap 05

Khi tâm bắt cảnh, nó khắn khích trong cảnh đó là cảnh hiện tại, ngay khi ta có chánh niệm với pháp đang hiện bày chứ không phải là cảnh của ngũ môn: Sắc, thinh, khí, vị, xúc, chỉ có một sát na tâm đến với ta thôi mà nó làm ta đau khổ cả một kiếp, bao nhiều buồn vui lẫn lộn trong cảnh, sắc, thinh, khí, vị, xúc, làm ta đau khổ cả một kiếp, chỉ có một sát na tâm thôi, nó tấp vô một cái rồi giao cho Tâm Ý Thức, Tâm Ý Thức nuôi dưỡng hoài trong trạng thái mơ mộng tưởng tượng của mình, và khắn khích trong đó không buông ra.

Qúi Phật tử nhìn thấy hình ảnh mình 25 năm về trước, thích thú, tại vì trẻ hơn bây giờ phải không, mà qúi Phật tử muốn được như vậy mà muốn cũng không được vì nó đi qua rồi. 

Chính cái đó là những trạng thái khắn khích trong cảnh ta không buông ra. Sư nói đi nói lại là như vậy đó, khắn khích mãi không buông ra, giữ bao nhiêu tấm hình cũng vậy, còn hoài còn hoài không thay đổi, nó vượt không gian và thời gian luật của vô thường, giữ hoài cái đó là qúi Phật tử khắn khích ở trong cảnh không đi đến Trí Tuệ Cao Siêu được, qúi Phật tử ở trong Chủ của Mọi Chế Định.

Thiền sinh: Có phải tại tâm thức của mình còn tham sân si?

TT trả lời: Không phải tâm thức, mà là tâm sở có tham sân si, tâm thức dẫn tâm sở vào tham sân si.

Bây giờ, Sư dẫn qúi Phật tử vào Pháp Hành. Khi chúng ta khắn khích trong cảnh, cảnh đó là cảnh pháp. Con chó sủa, tiếng sủa của con chó đã qua rồi, nhưng ta giữ lại trong tâm còn niệm "sủa à, sủa à". Do đó, các vị Thiền Sư thường dặn các thiền sinh không cần giữ lâu, càng giữ trong cảnh khắn khích của nó là quá khứ, không có gì hiện tại, chỉ cần niệm 3 lần thôi "nghe nghe nghe", rồi trở lại với hơi thở liền, vì nó là đã là quá khứ.

 Thứ hai, khi qúi Phật tử đang ngồi thiền, những pháp lên tâm qúi Phật tử bắt được đó chính là cái hiện tại. Còn nếu như qúi Phật tử qua khỏi ý thức của mình qua cái pháp, sắc, thinh, khí, vị, xúc, toàn bộ là ta chạn lại thôi. Ngay cả tê ở dưới chân nó chạy lên Tâm Ý Thức của qúi Phật tử biết cũng là sau khi cái tê đã báo cho Phật tử, rồi ta chạn lại, tê quá tê ta chạn lại, chứ thật ra cái tê đó nó thay đổi rồi, nhưng, chúng ta cứ chạn lại thấy tê quá tê, thực ra chúng ta càng thêm vô, càng suy nghĩ nhiều vô đó chứ thực ra nó không có, nó chỉ như vậy thôi. 

Con người chúng ta có Danh (Tâm) và Sắc (Thân), sắc pháp chúng ta đếm được có 32 thể trược, không thể thêm được, bắt đầu xuống thôi chứ không thêm vô. Nhưng, Tâm pháp (Danh) của ta vô cùng vô tận thêm hoài cũng được không bao giờ hết. Chính hai cái đó khi ngồi thiền chúng ta sẽ thấy cái gì càng muốn giữ, ta giữ Danh pháp (Tâm pháp) tại vì nó nhiều quá chúng ta phải giữ cho bằng được, còn Sắc pháp này chúng ta có giữ nó cũng mất tại vì có nhiêu đó sẽ hết. Qúi Phật tử thấy ăn bao nhiêu chén thì no rồi, khi đã no rồi qúi Phật tử không giữ được cái no mãi được, chừng 3 tiếng là lại thấy đói. 

Tâm của mình nguyên mãi cho tới khi tới tâm tử vô sanh thì thôi. Chính đó chúng ta sẽ khai thác Tâm, đừng lo khai thác cái Sắc, nhưng, Sắc lại là trạng thái làm cho Tâm bị khắn khích trong đó không buông ra.

Thiền sinh: Thưa Sư, khi mình ngồi thiền theo dõi sắc pháp tới, là chú tâm vào hơi thở (hơi thở là sắc pháp) như vậy là mình đang tu Thiền Quán mình đang tu Thiền Chỉ?

TT trả lời: Tu Thiền Quán là mình theo dõi hơi thở vô dài và hơi thở ra dài, hay hơi thở vô ngắn hơi thở ra ngắn, hơi thở ra nhanh hơi thở vô chậm, hoặc thở vô nặng thở ra nhẹ v.v...Hai hơi thở vô và hơi thở ra, trước và sau không giống nhau được đó là Thiền Quán.

Còn tu Thiền Chỉ là mình chú tâm vào hơi thở vô và hơi thở ra, không cần nhìn xem hơi thở nặng nhẹ nhanh chậm, 

Hai cái Thiền Quán và Thiền Chỉ cũng là nhìn hơi thở nhưng hai cái hoàn toàn khác nhau.

Khi theo dõi hơi thở vô và ra, chúng ta đang hành Thiền Quán, qúi Phật tử đang đi  Lộ Ngũ là,

- Tâm Ý Thức thấy hơi thở vô và ra, 

- khi hơi thở tới mũi chạm vào mũi thì ta có Tâm Thân Thức biết cảnh xúc, 

- hơi thở vô chúng ta theo dõi tiếp nữa là Tâm Tỷ Thức theo dõi cảnh khí đi vô.

Bây giờ chúng ta vô phần hít hơi thở vô và ra. Hơi thở vô và ra ta phân tách như sau: 

- Khi hơi thở vô đụng mũi, thì lúc đó Tâm Thân Thức biết cảnh xúc ngay đầu mũi, 

- rồi hơi thở đi vô trong mũi lúc đó Tâm Tỷ Thức biết cảnh khi đi vào.

- Tới khi nó đi tới cuối không đi được nữa có người nghe tới ngực có người thấy xuống tới bụng phồng lên thì lại là Tâm Thân Thức biết cảnh xúc.

- Rồi bắt đầu ở dưới hơi thở đi ra, Tâm Tỷ Thức thấy cảnh hơi đi ra.

- khi nó đụng vô mũi của ta thì lúc đó Tâm Thân Thức biết cảnh xúc nơi đầu mũi.

1) Thân Thức - biết cảnh xúc đầu mũi khi hơi thở vô 

2) Tỷ Thức - biết cảnh khí đi vô

3) Thân Thức - biết cảnh xúc khi hơi thở đến cuối con đường cái bụng phồng lên.

4) Tỷ Thức - biết cảnh khí khi hơi thở đi ra.

5) Thân Thức - biết cảnh xúc nơi đầu mũi khi hơi thở đi ra.

Đó là lộ trình tâm như: 

 1) là, lộ trình tâm Thân Thức, 

 2) là lộ trình tâm Tỷ Thức, 

 3) là lộ trình tâm Thân Thức, 

 4) là lộ trình tâm Tỷ Thức, 

 5) là lộ trình tâm Thân Thức.

Rồi khi mỗi một cái như vậy: 

Thân Thức biết cảnh xúc gió vừa đụng vào đầu mũi ta thì vừa sau Tâm Thân Thức là (1a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày. 

Tới khi qua khỏi mũi khí vô trong lỗ mũi ta, lúc đó Tâm Tỷ Thức biết khí vô thì lúc đó (2a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày.

Tới khi hơi thở đụng tới bụng phồng lên thì (3a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày.

Tâm Tỷ Thức hơi thở bắt đầu ra (4a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày

Tâm Thân Thức Hơi thở đi ra đụng vào đầu mũi.(5a) Tâm Ý Môn biết pháp đang hiện bày 

Như vậy thì chúng ta ráp nó lại

1) Tâm Thân Thức biết cảnh xúc khi đầu mũi đụng hơi thở vô: - là quá khứ

1a) Tâm Ý Thức biết pháp hiện bày: - là hiện tại

2) Tâm Tỷ Thức biết khí đang vô trong người: - là quá khứ

2a) Tâm Ý Thức biết pháp đang hiện bày. - là hiện tại

3) Tâm Thân Thức biết cảnh xúc hơi thở làm phồng bụng: - là quá khứ 

3a) Tâm Ý Thức biết pháp đang hiện bày.- là hiện tại

4) Tâm Tỷ Thức biết hơi thở đi ra. - là quá khứ

4a) Tâm Ý Thức biết pháp đang hiện bày. - là hiện tại

5) Tâm Thân Thức biết cảnh xúc hơi thở đang ra đầu mũi. - là quá khứ

5a) Tâm Ý Thức biết pháp đang hiện bày. - là hiện tại

(Qúi Phật tử nhẫn nại viết từng cái như vậy mới ra được tiến trình lộ trình tâm bắt cảnh vô và ra của hơi thở, rồi chút nữa chúng ta mới mổ xẻ chi pháp vô và ra của hơi thở)

Lộ trình tâm đi như vậy. 


Khi xúc đụng vô đầu mũi ta niệm được điều đó là pháp đang hiện bày chứ thật ra nó đã vô tới cổ họng rồi, thì pháp đang hiện bày là cảnh xúc thôi, Khi khí vô ta niệm được nó vô thì nó là quá khứ rồi, vì nó đã xuống tới bụng phồng lên rồi, thì lúc bấy giờ khi qua cái đó thì Tâm Ý Thức đang hiện bày là hơi thở đang vô trong người ta, cảnh pháp nó còn cái khí nó bắt đầu đi tiếp đi tới lúc phồng cái bụng lên, khi qúi Phật tử hay được lúc cái bụng phồng lên qúi Phật tử niệm cái đó là Tâm Ý Thức, niệm nó phồng lên nhưng hơi thở đã đi ra rồi.

Thiền sinh: Như vậy Ý Thức đi sau hơi thở?

TT trả lời: Không, Ý Thức biết không phải nó đi sau mà nó cùng biết (Tâm trong Tâm) nghĩa là nó có 2 lộ trình tâm đi bên nhau giống như hai chiếc máy bay bay kềm bên nhau, cùng biết.

Do đó, nó là Tâm trong Tâm nên khi hành Tứ Niệm Xứ là Tâm trong Tâm, niệm Tâm trong Tâm, niệm Tâm trên Tâm là cái này. Niệm Tâm trong Tâm là, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Thân Thức, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Tỷ Thức, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Thân Thức, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Tỷ Thức, Tâm Ý Thức niệm trong Tâm Thân Thức.

Rồi bắt đầu niệm Tâm trong Tâm. Cái Tâm Ý Thức này (1a) và Tâm Ý Thức (2a)Tâm  Ý Thức (3a), Tâm Ý Thức (4a)  bắt cái hiện tại, cái kia nó qua rồi Tâm Ý Thức nó bắt 3 cái hiện tại vô làm một, qúi Phật tử ra Niết-bàn.

Khi hơi thở vô pháp hiện bày, và pháp thấy hơi thở trạng thái vừa đụng và vô, hai cái đó nó bắt ngay hiện tại là nó đã đi qua liền, thì pháp hiện tại này báo tiếp theo là nó đang vô (3a) cái bụng phồng lên, những cái đó gọi là những trạng thái Tâm Ý Thức bắt ngay hiện tại. Như thế thì liên tục như vậy, ở đây là vừa sanh vừa diệt, nó không còn nữa. 

 Rồi lúc đó, từng mỗi giai đoạn sanh diệt này nó được nhập vào hàng kế bên và cũng lại sanh diệt, không giữ được, chính cái ta thấy pháp Vô Thường, Khổ Đau, Niết-bàn



Qúi Phật tử không phải đi theo suốt một ngày, một giờ, hay là một buổi theo dõi hơi thở vô ra vô ra, qúi Phật tử chỉ cần thấy được pháp đó là qúi Phật tử thành công.

Tại vì qúi Phật tử đang ở tình trạng khắn khích trong cảnh, không nắm được lý tính của pháp. Nên qúi Phật tử ngồi thiền xong tới chiều ngày hôm sau qúi Phật tử lại nói hơi thở con con thấy con thấy v.v... là qúi Phật tử theo pháp hay là theo tướng của pháp chứ không theo thực tính của pháp. Tức là theo cái qúa khứ (1) rồi kể lại mà không kể cái hiện tại (1a) thấy sự sanh diệt, chính do đó qúi Phật tử đi theo cái quá khứ cả ngày hết tuần hết tháng hết năm, không cần nhiều, bắt được một cái là xong, một sát na tâm. Ngài Ananda vừa ngã lưng xuống đắc liền không phải đi suốt ngày đêm.

Con đường đắc đạo quả là Tâm Ý Thức biết cảnh pháp, không phải do Tâm Ngũ Thức; nhãn, nhĩ, tỷ, thức, bắt được.

Qúi Phật tử sẽ thấy tất cả cảnh chúng ta bắt được; sắc, thinh, khí, vị, xúc, chỉ có một sát na, còn tất cả những cảnh; sắc, thinh, khí, vị, xúc, trở lại Tâm Ý Thức của ta thưởng thức cảnh đó thôi chứ không tồn tại với ta.

Thiền sinh: Thưa Sư, ý Sư nói lúc mình nhận thức được, mình biết được như vậy thì cái đó đã qua rồi?

TT trả lời: Nó qua rồi, có người giữ lại là vì còn khắn khích trong cảnh đó.

Thiền sinh: Vậy mình vẫn chú tâm vào hơi thở vô hơi thở ra để làm gì?

TT trả lời: Để mình thấy được sự sanh diệt của nó. Như trong một cuốn phim mình theo dõi người diễn viên đi ra đi vô, rồi đi ra đi vô, thì mình theo dõi ông diễn viên đi ra đi vô hay mình theo dõi nội dung cuốn phim?

Qúi Phật tử theo dõi hơi thở vào và ra để thấy sự sanh diệt của nó đó là pháp chứ không phải là thấy đối tượng, quá khứ là đối tượng, hiện tại là pháp, qúi Phật tử còn thấy đối tượng là còn "tôi ta", qúi Phật tử thấy sự sanh diệt thì mới diệt thân kiến được.

Thiền sinh: Thưa Sư, con muốn hiểu rõ hơn về sanh diệt của tiến trình hơi thở.

TT trả lời: Khi mình thở vô khí tiếp xúc với đầu mũi mình rồi nó mất, mình thấy cái pháp hiện bày, rồi khí đi xuống mình cảm nhận được là bụng phồng lên là pháp hiện bày, mình phải để ý thấy tiến trình tâm thức sanh diệt, mà tiến trình tâm thức sanh diệt do bởi pháp bị hiện bày sanh diệt.

Thí dụ, hơi thở của ta thở vô rồi thở ra mau quá theo dõi không kịp, cái nghiệp của mình là như vậy, mai mốt mình chết cũng mau vậy mình niệm không kịp mình sẽ đi nhanh vậy đó, rút kinh nghiệm liền. Mình cứ cho qua không chịu nghĩ tới nó rồi nó lập lại lần nữa, hơi thở vô rồi hơi thở ra kỳ này mình thấy ngắn quá, cái đó là tuổi thọ mình ngắn lại, mình phải hiểu cái ngắn đó là tuổi thọ mình sẽ ngắn như vậy, kiếp sống của mình sẽ đi nhanh như vậy ngắn như vậy, mình niệm liền như vậy. Tại hơi thở giống như áng mây báo cho mình biết mưa hay nắng, hay là gió, hay là giông bão, chứ nó không có nghĩa gì cả, nó sẽ đi không đứng lại trong không gian đó mãi mãi với mình, mình muốn giữ nó là mình vẽ ra bức tranh đó thôi chứ thật ra mây đã đi rồi, mây nó đến như thế nào mình phải hiểu cái nghĩa đó, mây đen nó báo cho biết là trời sắp sửa mưa chúng ta phải chuẩn bị những gì cần thiết. Cũng vậy khi hơi thở ta vô nhanh mà nó ra lẹ hoặc nó vô nhanh mà nó ra chậm, nó vô ngắn mà nó ra dài qúi Phật tử phải chuẩn bị là hơi thở này nó cho ta biết cuộc sống ta bắt đầu là gì rồi đó. 

Chứ qúi Phật tử cứ ngồi đếm hơi thở vô ra, nó là như vậy của nó mình không cần đếm. Qúi Phật tử có đếm được bao nhiêu áng mây nó đến trên bầu trời mỗi ngày không? hay áng mây nó sẽ đi như thế nào mình đâu cần biết, mà mình lo cho đời sống này, mây chỉ cho ta biết để ta thức tỉnh thôi chứ ta không cần nghĩ tới. Cuộc sống ta như thế nào thì khi ta ngồi thiền sẽ chạn lại như vậy, trong khi qúi Phật tử ngồi cô đọng lại trong một giờ  những diễn biến trong đời sống của qúi Phật tử sẽ chạn lại trong một giờ ngồi theo dõi hơi thở mình.

Thiền sinh: Thưa Sư, như vậy mục đích chính khi mình ngồi thiền quán để tìm sự sinh diệt thấy được bản chất thực tính của nó chứ không phải là mình ngồi để đếm hơi thở?

TT trả lời:  Mình ngồi thiền quán hơi thở để tìm bản chất thực tính của hơi thở. Khi mây tụ lại trên trời ngay trước nhà của qúi Phật tử thì nó cũng không phải là của qúi Phật tử, thì hơi thở này cũng không phải của mình vì mình không quyết định được nó phải thế này nó phải thế kia, nếu hơi thở này mà là của mình thì mình quyết định được có sự sống hoài mà không chết. 

Đức Phật nói sự chết và sự sống là hơi thở có ra mà không có vô là sự chết đến với mình, hơi thở này không phải là của mình nó chỉ là hợp thành mà thôi, cũng như mây chỉ là hợp thành trong không khí quyển ta đang sống mà thôi chứ không phải của mình, nó hợp với nhau để hiện bày chứ thực ra nó không phải là của mình.

Biết cảnh và khắn khích trong cảnh là trạng thái của tâm, luôn luôn có phận sự đó, thành tựu của ta là gì ở luôn trong cảnh đó ra.

Khi nhìn thấy đám tang, có người buồn, có người vui, có người không buồn không vui. Nhưng, đám tang là một cảnh để cho ta nhìn, tại sao nó tác động tâm lý ta vui buồn không vui không buồn? tại vì mình giữ cảnh đó rồi cảnh đó tác động mình. Còn khi mình nhìn thấy như thấy rồi mình quán tưởng pháp mà tâm mình đang thấy được cái gì của nó, đó là giá trị để mình nhìn thấy và, mình hiểu biết sự nhìn thấy của mình có giá trị.

Như vậy thì, 

Hơi thở vào xúc chạm nơi lỗ mũi đó là pháp chế định, là vì "hơi thở của tôi"là pháp chế định, nhưng cái pháp hiện bày là Siêu Lý, cảnh của trí tuệ cao siêu ở tại đây. Mình phải bỏ pháp chế định lấy pháp Siêu Lý, nhưng, phải có Chế Định để mình tách biệt ra được cái nào là Chế Định mới thấy cáic Siêu Lý. Thí dụ như mình bắt được cái giả tìm ra được cái thiệt, bỏ cái giả lấy cái thiệt, giữa hai cái giả và cái thiệt này cũng không còn tồn tại nó tách ra cảnh của trí tuệ cao siêu rời khỏi các cõi giới để đi tới Niết-bàn. 

Sư nói để qúi Phật tử hiểu được Chế Định và Siêu Lý. Nhưng mà siêu lý chúng ta tìm thấy là trạng thái trí tuệ bắt đầu sanh lên, qúi Phật tử bắt đầu thấy cảnh của trí tuệ tất cả đều là sanh và diệt, nó đặc biệt không thay đổi tất cả các pháp. 

Đức Phật Ngài nói: Tất cả pháp hữu vi đều có tính vô thường, khổ và vô ngã.

Tất cả pháp hữu vi là có nhân sanh ra nó.

Học một pháp Siêu Lý học Tâm Siêu Lý là ra rồi đó.

Đó là cái key lấy từ pháp Tứ Niệm Xứ qua tâm Siêu Lý. Ta học Tâm Siêu Lý là ta không nắm pháp Chế Định nữa, mà đặc biệt không thay đổi là nó phải biết Cảnh của Trí Tuệ Cao Siêu, qúi Phật tử phải đi tới cái đó mới được còn lượm Chế Định hoài thì qúi Phật tử ở trong pháp Hiệp Thế. 

Những cái gì Sư viết xuống hôm nay đều có tác ý để qúi Phật tử nắm được hết. Sư chỉ cho qúi Phật tử một pháp Siêu Lý để nắm được cái key pháp hành. Qúi Phật tử phải nắm được pháp đang hiện bày, pháp hiện tại là pháp đang hiện bày, là cái pháp qúi Phật tử giữ, còn pháp quá khứ  không giữ. Thì pháp hiện bày là sanh đó diệt đó, từ mỗi pháp đều có tính chất sanh rồi diệt,  chính cái đó là vô thường, pháp nào có tên gọi là vô thường là pháp có tánh vừa sanh rồi lại diệt, diệt rồi sanh.

Ta gọi là Niệm, Định, Tuệ. Niệm mạnh lên để thấy được bản chất của pháp, Định mạnh lên để thấu bỏ thực tính, Tuệ phát sanh lên thấy được thực tướng .



Khi Định mạnh tâm không lay chuyển lúc đó Tuệ mới phát sanh lên thấy được thực tướng rõ ràng, còn nếu tâm không Định được, còn hoang mang, còn hoài nghi hay còn giao động phóng dật thì sẽ không sanh Tuệ.

Như vậy, ngay khi hiện tại pháp đang đến toàn bộ là sanh diệt. Lúc bấy giờ ta sẽ thấy Danh hay là Sắc, tâm qúi Phật tử  đang có chánh niệm nhìn vô sắc pháp đang hoại diệt, sanh diệt. hay tâm bắt đầu bị chi phối bởi sắc, qúi Phật tử  khắn khích trong cảnh. 

- Nếu qúi Phật tử nhìn vô thấy tính chất này sanh diệt mà sắc pháp đang hoại diệt mà Danh (tâm) vẫn còn chăm chú nhìn vào Sắc thì Danh (tâm) này đi tới Định.

- Còn nếu như Danh (Tâm) không nhìn thấy Sắc (Thân), mà nhìn thấy cảnh sắc đang sanh diệt khắn khích ở đó thì mất Định và qúi Phật tử đi ra ngoài.

Thiền sinh: Thưa Sư, thí dụ là mình đang ngồi thiền đang đau, mình biết đau là mình đang chăm chú vào sắc, như vậy mình ra khỏi Định?

TT trả lời: Mình đang ngồi thiền mình thấy đau và mình biết đau, cái đau đó là Chế Định, nếu mình chịu không nổi, xả thiền là mình bỏ cuộc.

Ngay khi đang bắt cái hiện tại có hai hiện tượng Danh và Sắc, thì Sắc (Thân) đang bị tác động là tê, nhức, mỏi, đau, qúi Phật tử niệm, tê, nhức, mỏi, đau, là Chế Định, là Hiệp Thế. 

Nhưng nếu nhìn tới luôn, tê, nhức, mỏi, đau, cảnh của nó là hoại diệt, thì giai đoạn nhìn, tê, nhức, mỏi, đau, chỉ là Niệm.

 và giai đoạn hoại diệt là Định. Cái hoại diệt là thực tính.

Hễ khi mình thấy Sắc đang hoại diệt không niệm tê nhức mỏi đau nữa, nếu niệm tê nhức mỏi đau là Chế Định nó đi ra ngoài luôn.

Cái hoại diệt là thực tính.

Lúc đó, khi mình thấy tê, nhức, mỏi, đau, đến mình bắt đầu mới thấy Sắc Pháp đang hiện bày một thực tính bản chất của nó là hoại diệt và Sắc Siêu Lý. 

Còn mình còn tiếp tục niệm tê nhức mỏi đau là Chế Định.

Thiền sinh: Nếu mình đạt được định, nghĩa là mình không sợ cái tê nhức mỏi đau?

TT trả lời: Tại sao lại sợ nó, nếu mình sợ nó là mình đi ra là bỏ thiền, trở lại Chế Định sống với Hiệp Thế, là mình giải đáp nó, nó khắn khích ta, ta có trong đó.

Khi hoại diệt này mình mới thấy bản chất thực tướng của nó là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, một trong 3 tướng này mình chụp bắt được, người có trí tuệ mạnh bắt được tướng Vô Ngã, người có trí tuệ thường bắt Vô Thường Khổ đau.

Niệm để thấy pháp (tê nhức mỏi đau).

Định để thấy thực tính (bản chất của nó là hoại diệt)

Tuệ để thấy thực tướng (Vô Thường, Khổ, Vô Ngã)

Nếu không qúi Phật tử sẽ bị Tâm dẫn đi lang thang phóng dật.

Danh nhìn thấy Sắc bị cuốn hút theo cảnh của nó khắn khích trong đó ta ở trong Chế Định. Do đó qúi Phật tử phải nhìn thấy Sắc năng hoại diệt không phải là của "tôi" của "ta" trong đó, ngay tại lúc này qúi Phật tử đã ra khỏi cái thân kiến. 

Người mạnh về trí tuệ họ luôn luôn sắc bén về trí tuệ vận dụng trí tuệ nhiều họ sẽ thấy được tướng Vô Ngã, còn nếu như người mà không mạnh về trí tuệ thì họ sẽ thấy được tướng Vô Thường và Khổ Đau.

ĐĐ Xá Lợi Phất, ĐĐ Mục Kiền Liên thấy tướng vô ngã chứ không thấy vô thường, khổ. Bà Visàkhà, Bà Kisagotami thấy tướng vô thường, khổ, không thấy tướng vô ngã, tại bà thấy tất cả thân quyến của bà ta chết, vô thường quá bà đau khổ, bà thấy hai tướng này. Ở trong lớp này qúi Phật tử đa phần  tại đây đều thấy vô thường khổ chứ  không thấy vô ngã, không mạnh về trí.

Thiền sinh: Lúc con ngồi thiền con thấy đau nhức có lúc trong khoảng khắc nhỏ con không thấy tê nhức mỏi đau rồi con lại thấy tê nhức mỏi đau, rồi con lại không thấy tê nhức mỏi đau. Vậy nghĩa là làm sao?

TT trả lờiĐó là chưa có niệm mạnh, khi thấy có khi thấy không có là niệm chưa mạnh, nếu niệm mạnh thì định mới mạnh, nếu niệm còn yếu là định không vô được, định là cửa ngõ đợi niệm cứng định mới vô, niệm mạnh thì định mới có, niệm yếu định không vô được. 

Ở Việt Nam có loại tàu hũ nước đường gừng, tàu hũ đặc lại thành một khối, khi đụng vô là khối tàu hũ hoại ra, nó giống như tứ đại hoại diệt. Qúi Phật tử nhìn khối tàu hũ nước đường quán là biết. Thứ hai là sương sâm đưa ra ngoài nắng là nó rã ra thành nước.

Là hoại diệt, hồi nãy mình thấy nó như vậy nhưng nhìn thật kỹ vô nó chỉ là pháp hoại diệt của Sắc Pháp, Tứ Đại mà thôi. Qúi Phật tử ngồi thiền bị tê nhức mỏi đau, khi ngủ nằm có bị tê đau nhưng không biết vì ngủ mê không để ý đến.

Thiền sinh: Vậy có nghĩa là nếu con có định rồi thì con không còn cảm thấy tê nhức mỏi đau nữa phải không?  

TT trả lời: Mình vẫn thấy tê nhức mỏi đau như thường, nhưng mình chỉ nhìn qua tướng hoại diệt của nó, mình nhìn thấy nó đang rã đang hoại diệt, chứ không cần phải nhìn cái tê nhức mỏi đau nữa. Mình vẫn còn tê nhức mỏi đau nó càng hiện bày cái tê nhức mỏi đau, mà càng hiện bày thấy hoại diệt càng nhiều càng rõ, mình mới thấy được tướng Vô Thường, Khổ Đau. Vô Ngã.

Còn tiếp phần 2

No comments:

Post a Comment