Tuesday, October 1, 2024

057 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 06 tháng 5, 2023

 057 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 06 tháng 5, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "057 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Oan trái này là thân bằng quyến thuộc thân thích của mình mới sợ, thân thích này đi qua như vợ chồng, cha con, ông bà, cha mẹ, bạn bè thân thuộc là oan trái. 

"Vô oan trái bất thành phu phụ, vô oan nghiệp bất thành phu tử".

Tức là cha con là oan nghiệp, mà vợ chồng là oan trái, quay cuồng qua lại,  một chuỗi giây là nghiệp báo mà nó là nghiệp chủ, không xa, không phải là vô cớ vô duyên hay không có nhân duyên không có tác nhân, nó đến mình không nhìn ra.

Đọc trong sử, chuyện Vua An Dương Vương, Mỵ Châu thả lông ngỗng cho giặc là Trọng Thủy tới giết cha, cái nỏ thần thì bị tráo mất. Thì đó cũng là oan trái.

Đề Bà Đạt Đa oan trái với Đức Phật, Đề Bà Đạt Đa là anh vợ của Đức Phật, Công Chúa Yasodhara là em của Đề Bà Đạt Đa, con của đức vua  Suppabuddha (Thiện Giác).

 Mình phải sợ, kẻ thù không xa, ngay trong người thân của mình là kẻ thù, mình mới thấy sợ, quí Phật tử đừng có quên, kẻ thù của mình không ở đằng xa ở ngoài chiến trường, mà ngay cả vợ chồng, cha mẹ, anh em của mình là oan trái.

Người trí nhìn thấy pháp Vô Thường, hay pháp Khổ Đau, hay Minh Sát Trí quán thấy pháp này tu tập về tâm thì nó mất, thì nó không tác động, còn không thì oan trái.

Chính chuyện đó là Ba La Mật, chính chuyện đó mới vượt thoát mới giải thoát. 

Trái soài chín mọng gọt vỏ xong đưa cho quí Phật tử ăn vô thấy ngon thì quên Vipassana (quán tưởng) là bắt đầu quí Phật tử tạo tâm tham sinh lên. Không kịp thừa hưởng là mình đã tạo nghiệp liền. Thứ 2 là tâm tham,  thứ nhất là tâm quả rồi tạo tâm tham, rồi 1, 2, 6, 7, đổng lực.

Do đó, mình mới thấy là không có niệm là quí Phật tử không bao giờ ngừng,  mình học qua phần Thân Niệm Xứ thì tại sao trong bài Tứ Niệm Xứ hay bài kinh Niệm Xứ Satipatthàna sutta, Đức Phật nói Thân, Thọ, Tâm, Pháp, mà trong khi đó mình biết Thọ chỉ là Tâm Sở thôi, nó thuộc loại tứ đồng của Tâm mà Thọ này là pháp gì mà Ngài nói đó là pháp Liên Quan Tương Sinh.

 Mình phải đọc lại Thập Nhị Nhân Duyên trong phần Xúc Duyên Thọ, Thọ Duyên Ái, Ái Duyên Thủ. Thọ đó là Thọ Niệm Xứ, chứ không phải Thọ của Tâm Sở. Thọ Thân, Thọ Tâm, mình chưa nói tới, mình nói tới Thân Niệm Xứ.

 Vị hành giả cũng như các vị Thiền Sư không có kiến văn, không có Tuệ Văn, Suta-Mayā paññā là Văn Tu Sở Tuệ, thì hành giả sẽ đi qua Tâm Sở liền và mình lạc hướng, và mình không gặt hái được kết quả.

Thành ra mình mới coi qua phần Paṭiccasamuppannā Liên Quan Tương Sinh cái khâu Xúc Duyên Thọ, Thọ Duyên Ái, Ái Duyên Thủ, Thủ Duyên Hữu, Hữu Duyên Sinh, cái đó mới tìm tới.

Vậy thì khi qua Thân Niệm Xứ. Sư nói hoài mà quí Phật tử không hiểu ý Sư. 

Thân có Thọ thì Tâm có Pháp. Thân có Pháp thì Tâm có Thọ. Nó liên đới nhau, đó là Paṭiccasamuppannā Liên Quan Tương Sinh 

Nằm ở chương 7 của Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp, Sư sẽ giải thích phần đó

Nên người không có học không có Tuệ Văn đọc bài kinh Paṭiccasamuppannā Liên Quan Tương Sinh:

- Thứ nhất họ lọng cọng trong phần Thọ, 

- Thứ 2 họ lọng cọng trong phần Pháp, 

- Thứ 3, thân tâm họ có thể nói theo kiến thức chứ không nói theo Pháp.

Thọ Niệm Xứ này là Thọ của Paṭiccasamuppannā Liên Quan Tương Sinh.  Đọc trong phần Liên Quan Tương Sinh về Thọ rất rõ ràng, trong đó có Thọ Uẩn, Thọ Thủ Uẩn, Thọ Tâm, Thọ Thân, Thọ Liên Quan Tương Sinh. Khi nói tới Thọ Liên Quan Tương Sinh mình nói phần Duyên Sinh Duyên Hệ thì mới giải thích được phần Thọ Niệm Xứ của Thọ Liên Quan Tương Sinh, rất là chính xác.

Nếu mình không biết Pháp thì mình không có kết quả, mà mình biết Pháp mình hành không đúng sẽ khó có kết quả, nên những người đó sẽ có Thọ kiết sử của họ, chứ không phải là Thọ của Pháp, Thọ kiết sử của họ là tôi đau, tôi nhức, tôi buồn, tôi vui, mấy cái đó là Thọ kiết sử chứ không phải là Thọ của Pháp.

Mình hành Pháp với kiến văn của mình, Pháp mình biết như trong bàn tay thì mới vận dụng được 

Bữa cơm cuối của Đức Phật thọ với ông thợ săn Cunda, sau khi Ngài ăn không hết Ngài bảo Ananda đem chôn số thực phẩm còn dư xót lại, không được cho ai ăn, phải chôn thật sâu để các con thú không đào lên ăn. 

Trong bài kinh thứ 3 của Trung Bộ Kinh Kinh thừa tự Pháp (Dhammadàyàda sutta) Đức Phật Ngài dạy: 'Đệ tử Như Lai thừa tự Pháp chứ không thừa tự tài vật". Có 2 vị tỳ khưu từ xa tới, Đức Phật vừa xong bữa thọ thực của Ngài thì còn thực phẩm dư, Ngài có đủ điều kiện để cho 2 vị tỳ khưu từ xa tới dùng được, nhưng Ngài không cho thọ thực dư đó, và Ngài nói lên bài Pháp. 

Đức Phật cái gì Ngài cũng nói Pháp được, Ngài cho Ngài cũng nói Pháp, Ngài không cho Ngài cũng nói Pháp để Ngài dạy, tại vì Ngài theo căn cơ mà Ngài nói Pháp chứ không phải Ngài theo kiến tánh, hay là trong sở tri của Ngài mà Ngài nói. Khi Sư đọc bài kinh đó Sư giống như ở trong bối cảnh đó khi Đức Phật Ngài nói Pháp mới được.

Thì vật thực đó Ngài kêu đem chôn, nhưng nếu mình không dịch đúng là ông thợ săn Cunda này đi săn được con heo rừng về ông làm rồi cúng dường Đức Phật, thì HT Thích Minh Châu dịch là nấm chiên đàn hương, phải nói là nấm vì là ăn chay, còn nói con heo là ăn thịt. Thì nếu mình dịch chiên đàn hương là nấm thì lấy gì mà Đức Phật Ngài kêu chôn, thì nghĩa sai liền. 

Thứ hai là, khi đó Chư Thiên là cuối cùng cúng dường vật thực cho Đức Phật chứ không còn cơ hội nào cúng dường nữa, thì vật thực này là vật thực của Chư Thiên bỏ vô. Thì mình mới nghiệm ra là trong sự tu hành của mình đây, trong đời sống Đức Phật và Chư Tăng mình đây luôn luôn có sự giao thoa giữa Chư Thiên và nhân loại cùng nhau tu hành. Cho nên mình cúng ngày Rằm mà sai ngày là không được, thí dụ ngày Rằm là thứ Năm Chư Thiên về mà mình tắt đèn, đến ngày thứ Bảy hay Chủ Nhật mình mới cúng Rằm thì vì sai ngày nên Chư Thiên không về. Đó là mình ích kỷ chỉ lo sống cho thân mình thôi.

Món ăn đó không dùng được tại vì vật thực của Chư Thiên. Một ngày một đêm của Chư Thiên ở Tứ Thiên Vương bằng 50 năm của mình. Một ngày một đêm của Chư Thiên ở Đao Lợi Thiên là 100 năm của mình, một bữa ăn của Chư Thiên có thể no được một tháng, còn của mình một bữa ăn là no được 7 ngày, sắc vật thực được 7 ngày mà Chư Thiên là một tháng. Do đó khi mình ăn vật thực của Chư Thiên không tiêu hóa được, một tháng sau nó mới tiêu hóa thì mình bị bệnh cancer liền, có khối u liền, nó sơ cứng và nó phá những tế bào chung quanh. Thì lúc bấy giờ vật thực đó Đức Phật nói chúng sinh không đủ duyên để thọ, không có khả năng để thọ, mà Ngài thọ Ngài cũng bị kiết lỵ, mà bệnh kiết lỵ nó gồm 2 cơ duyên gộp lại, là trong kiếp quá khứ Ngài cho thuốc lầm bây giờ quả báo, Kammassakatā nghiệp chủ nó rượt tới cái ngày trả trong kiếp chót lúc Ngài sắp sửa viên tịch Níp-bàn phải trả cái bệnh kiết lỵ này suốt 3 tháng trời trên đường Ngài đi tới vườn Kusinara, rồi kèm theo vật thực rồi kèm tuổi già và viên tịch tại đó.

Mình mới nhìn thấy là sắc pháp của Ngài nó tiêu bóp lại , sắc nghiệp có, sắc tâm có, sắc quí tiết có, sắc vật thực có, trong buổi đó, chứ mình không có nhìn đơn thuần chỉ có một pháp thôi. Nói sắc nghiệp nào kể ra, sắc tâm nào kể ra, sắc quí tiết nào kể ra, sắc vật thực nào có ngay trong lúc đó kể ra, mới ra được, mới có ý nghĩa.

Sư hướng dẫn quí Phật tử như vậy thì mới có kiến văn quảng bác được, nếu không thì quí Phật tử nói theo tư kiến của mình, nếu mà dạy người ta sai sau này nhận quả báo, dạy nghề người ta sai thì mình hại người ta ngay trong kiếp này, mà dạy đạo người ta sai là mình hại người ta sai trong nhiều kiếp sinh lên là có tà kiến do sai lầm, khó sửa lắm. Còn mình không có đủ duyên để độ người ta để người ta lạc thì mình mang tội.

Do đó, thân bằng quyến thuộc là oan trái. Ngài biết, nên Ananda có tâm từ, ông nhìn xung quanh thấy cái gì là chạy vô xin với Đức Phật, như bà Gotami xin  với Đức Phật cho nữ giới vào tu, Đức Phật không cho, Ananda xin 3 lần với Đức Phật mới cho. Sinh ra đời cùng thời với Đức Phật có Ananda là quí lắm. Sau này các Đức Phật Chánh Đẳng Giác chưa chắc có thị giả như Ngài Ananda.

Thì Ananda mới chạy vô với Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn, sao không cứu Đề Bà Đạt Đa, Đề Bà Đạt Đa là thân bằng quyến thuộc của mình mà, là anh của bà Công Chúa Yasodhara vợ của Đức Phật. 

Đức Phật nói, Ananda, Như Lai đã cho rồi, đã cứu rồi. Nếu Như Lai không cho, nếu Như Lai không cứu là chiếc xe của Đề Bà Đạt Đa thì xe lao xuống vì không có thắng. Ngài cho Đề Bà Đạt Đa tu, hướng dẫn cho đắc thiền để hiện bày thần thông, là Ngài giảm rồi, nhưng tánh nào tật nấy. Kammassakatā là nghiệp chủ mạnh hơn cái đức cái lực của Đức Phật độ. Nên mình mới thấy lực của bậc Chánh Đẳng Giác còn thua Kammassakatā  nghiệp chủ của mình.

Đức Phật trả lời Ananda.

Ananda đừng có nói vậy, nếu Như Lai không cứu Đề Bà Đạt Đa là xe đổ giốc không thắng là tuộc giốc lâu rồi chứ không đợi ngày hôm nay đâu.

Trong một kiếp Đức Phật Ngài là Bồ Tát cứu con ngỗng bị ông Đề Bà Đạt Đa bắn, Đức Phật chỉ cứu con ngỗng đó nhưng ông Đề Bà Đạt Đa đã trở lại oan trái với Đức Phật. Oan trái này không phải là pháp mà oan trái này là do nghiệp chủ tạo ra, pháp đứng bên ngoài.

Thiền sinh hỏi: Trong Tứ Như Ý Túc: Dục, Cần, Tâm, Thầm. Tiếng Pali của Tác Dục, Tham Dục là gì  ? 

HT trả lời: Trong quyển  Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp, trang 101 và 102

6/ Chanda - Dục: Là Pháp có sự mong muốn  Cảnh.

Xuất nguyên từ ngữ căn: "Chad", mong ước, mong muốn. Đặc tính chánh yếu của Chanda là "ước muốn làm", cũng như vói tay nắm lấy một vật.

Có ba loại Chanda - Dục, là:

a. Kāmachanda - Tham Dục: là khát vọng duyên theo lục trần, một trong năm Pháp Triền Cái (Nivarama). Đây là một loại Pháp Bất Thiện.

b. Kattukamyatā - Tác Dục: là "ước muốn làm", gồm cả hai loại, bất thiện và thiện.

c. Dhammachanda - Pháp Dục: là ước muốn chân chánh.

Chính ước muốn chân chánh này, đã thúc giục Thái Tử SIDDHATTHA từ bỏ mọi thú vui dục lạc của đời vương giả.  Người Phật tử luôn có Dhammachanda, với ước muốn chân chánh, để chứng ngộ Níp-bàn. Quả thật đây không là sự tham ái.

Theo chú giải nhận xét như sau: "Sự cố gắng quyết ý, hay ý chí là do Cần (Viriya). Trạng thái thích thú trong đối tượng là do Hỷ (Piti). Có ý định liên quan đến đối tượng là do Dục (Chanda).

---------------------------------

Thí dụ: Có mấy Phật tử vô chùa thấy Sư quét nhà, họ nói "Sư cho con làm", Sư đưa chổi cho họ quét, Sư đi rửa chén, họ lại nói "Sư cho con làm", Sư để họ rửa chén, Sư đi cắm bông, họ lại nói: "Sư cho con làm". Đó là Tác Dục.

Cái gì cũng muốn làm, thiện cũng muốn làm, bất thiện cũng muốn làm, đó là Tác Dục.

Thiền sinh: theo như người hỏi này có tham khảo online là Tác Dục có nghĩa là sự muốn làm của một vị Alahan đối với chúng sinh. Nhưng khi Sư giảng thì Tác Dục có nghĩa là hành động gồm cả hai, Thiện và Bất Thiện, người này xin Sư làm sáng tỏ. 

Sư nói thí dụ, rồi cái quả báo người ta sẽ làm là vua Diêm Vương ở dưới địa ngục 15 ngày, ở cõi Tứ Thiên Vương 15 ngày, cứ như vậy lưng chừng.

Mình ở trong nhà có máy lạnh hay trong chiếc xe mở máy lạnh, khi tới nơi mình tắt máy lạnh mình đi xuống, từ bãi đậu xe mình đi vô văn phòng làm việc hay nhà mình ở là khoảng không gian nắng nóng, rồi vô trong nhà mình mở máy lạnh lại, rồi mình ăn uống ngủ nghỉ xong rồi mình lại đi ra ngoài để đi làm, thì bước ra ngoài trời nóng lên xe mở máy lạnh, thì khó chịu và khổ sở mình không chịu được, thì mình là Diêm Vương liền. 

Đọc lại chương V, tích chuyện của ông Diêm Vương là trong đời quá khứ ông đã từng làm thiện làm bất thiện giờ ông mới có quả báo này, 15 ngày ông ở Tứ Thiên Vương nó mát lạnh, 15 ngày ông xuống ở dưới Diêm Vương nóng bức, ông không phán xét gì đến tội nhân, ông chỉ hỏi về 5 vị Thiên Sứ Devadutas là ngươi có thấy trẻ sơ sinh không, có thấy người già không, có thấy người bệnh không, có thấy tử thi không, có thấy người phạm nhân không, trả lời là thấy, rồi hỏi có sợ không, trả lời sợ, hỏi xong thì đi.

Do đó, quí Phật tử thấy ông không làm gì hết, mà chúng sinh đâu có ít, mà ông phải giải quyết 15 ngày như vậy. Ở dưới địa ngục không có mặt trời mặt trăng nên không có ngày và đêm.

Chỉ vì Tác Dục mình làm mình phải chịu, do đó mình mới né,  Dục, Tham Dục là xấu rồi, Tác Dục là màu xám vừa trắng vừa đen. Ông Diêm Vương không phải ông muốn cái đó nhưng cái khổ là ông đã tạo rồi bây giờ ông phải ở trong cảnh như vậy.

 Nên mình thấy mới giựt mình, mình phải chạy, không đi theo con đường đó.

Thì bằng cách nào ? Là từ đây về sau mình làm việc Thiện, không làm việc Bất Thiện, đừng làm cả 2.

Người ngồi học là Thiện, người tranh thủ để ngủ là Bất Thiện, rồi không ai nhắc, mình ngủ hoài là kiết sử, là tập khí. Khi tâm bắt một cảnh, mình tạo ra rồi thì cảnh đó có rồi thì mình không còn Ba La Mật, không cần tới Alahan

Còn pháp Dục này là ý muốn chân chánh, nhưng mình đam mê trong cái này nó sẽ rớt qua phần Tham Dục chứ không phải Pháp Dục tu hay Pháp Dục thiện. Phải nhìn với trí tuệ.

Dục chia làm 3, nó chỉ là Tâm Sở, nó không quan trọng bằng Tâm mình và Pháp mình nương.

Trong 3 Pháp Hành, Sư nói là một trong 10 bước pháp nguyện mà bậc Chánh Đẳng Giác làm thì mình noi theo để mà một Pháp Hành là Giới, Định, Tuệ, thì cái nào là Giới ?  không phải là Giới để mình làm những phần mà Ngũ Giới, Bát Giới, Thập Giới, mà Giới này là hàng rào nằm trong phần Tàm và Quí với đạo đức của mình ở trong lãnh vực bất thiện và ác, đó là sila. Chứ không phải là Giới mà mình nói tu dưỡng Ngũ Giới, Bát Giới, Thập Giới là Sila là Pháp Hành. Cái này là hàng rào của Tàm và Quí giữ đạo đức của mình ở trong phần tốt và xấu, hổ thẹn và ghê sợ điều xấu ác, là sila, mình phải có Tàm và Quí trong khi suy nghĩ, trong khi hành động, trong khi nói năng. Nó thuộc Giới ngăn ngừa, phải diệt trừ từ trong tâm ý. Tác ý là phải Tàm Quí trong đạo đức của giới hạnh của mình về thân, ngữ, ý của mình nằm trong khuôn khổ của Tàm Quí chứ không phải trạng thái giữ giới suông thì mới thành công.

 Định cũng vậy.

Tâm       ----- >    Cảnh

Động                   Động

Yên                     Yên

Tâm động hay tâm yên

Cảnh động hay cảnh đứng yên.

Đi thi người ta hỏi giữa tâm và cảnh, tâm động hay tâm yên, cảnh động hay cảnh yên, cái nào đúng cái nào sai.

Chính cái đó là một bài toán mà chính cái đó là Pháp Hành, chính cái đó nằm ở trong cái khuôn, người ta gọi là Samādhi là Định An Chỉ, mình phải tu.

Hồi nãy mình nói qua phần Sila rồi, bây giờ mình qua Định. 

Thì  điểm Samādhi là mình phải Định An Chỉ, phải trụ tâm lại. Tại sao có cái đó, là tại vì mình nhìn lên Tâm và Cảnh của mình đây là thuộc loại nào mà Đức Phật kêu mình phải Định An Chỉ. Nếu mình khai thác được Định An Chỉ, mình tu, mình hành được Định An Chỉ thì mình nhìn mới thấy được Pháp Tâm và Cảnh mới được chính xác. Mà mình nhìn được Pháp Tâm và Cảnh chính xác thì mình hành pháp này mới có kết quả được rốt ráo.

Người ta hỏi tâm anh động hay tâm anh yên. Cảnh anh đang thấy qua lục căn hay ngũ căn của anh là động hay là yên, tôi không biết, thế thì anh không có Định An Chỉ.

Tâm mình động hay tâm yên, tâm tôi động, thì mình nói tâm mình động, tâm tôi yên, thì mình nói tâm mình yên.

Ngài kêu là Pháp Hành là mình phải thực hành hay tu hành hay tu tập, phải luyện tập. Định An Chỉ là mình phải làm sao yên đừng có động, hay nó trụ đừng có chạy như tâm viên ý mã, thì mình phải hỏi lại. Đức Phật kêu mình phải Định An Chỉ, phải Hành Giới xong rồi phải Định giữ tâm mình hay là giữ cảnh mình phải tìm ra.

Như thế thì khi mình nhìn thấy 2 cái vế này thì tâm động hay là cảnh động, tâm động hay là cảnh yên, mình có 4 pháp:

1) Tâm động      Cảnh động  --- > Thực Tính thực tướng -> Pháp

2)  Tâm động      Cảnh yên ----->  Kiết sử -> triền cái

3)  Tâm yên         Cảnh động ---> Định An Chỉ -> Kiết sử

4)  Tâm yên         Cảnh yên -----> Minh Sát Trí -> kiết sử

Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. 

Tâm bất biến là tâm yên

Đời vạn biến là cảnh động

Tâm yên mà cảnh động là tâm có Định An Chỉ, và Cảnh của nó là Kiết Sử, nó lập đi lập lại, Triền Cái là một lần hai lần thôi.

Tâm Yên / Cảnh Yên là Minh Sát Trí bắt thực tướng, lúc đó là diệt kiết sử.

Tới giai đoạn Định An Chỉ, Sư chưa nói tới Minh Sát, là quí Phật tử đứng giữa giòng.

Tâm yên - Cảnh động là Định An Chỉ. Tâm phải yên để nhìn thấy Cảnh động của kiết sử của mình nó trổ ra. 

Chứ nếu Tâm động mà Cảnh yên hay Cảnh động là mình đang ở trong trạng thái bị Pháp quay tròn, thực tính thực tướng rồi kiết sử triền cái quay tròn.

Rồi tới phần Minh Sát Trí khi qua khỏi phần Phổ Thông Tướng những kiết sử bắt đầu hiện rõ lên thì Minh Sát Trí phải bắt nó.

Thế thì khi ta nói Định An Chỉ, thế nào là Định An Chỉ, là lúc đó Tâm mình phải yên mà Cảnh đang động mới thấy được, còn Tâm mình động, Cảnh động hay Cảnh yên thì mình ở trong kiết sử với triền cái hay trong thực tính thực tướng  nó đang quay Cảnh của mình trong Tâm của mình, mình không bắt gì được hết.

 Ngài Paṇḍita ghi  3 pháp 

Trong quyển 

Sati And The Yogi

Niệm Lực và Hành Giả

Đại Trưởng Lão Giáo Thọ Sư Paṇḍita

Trang 270 

1. Thực Tướng Thực Tính (Sabhāva lakkhaṇa)

2. Thực Tướng Hữu Vi. (Saṅkhata lakkhaṇa)

3. Thực Tướng Phổ Thông (Samañña lakkhaṇa)

Thực Tướng Thực Tính có nghĩa là một tiêu chí hoặc đặc tướng đặc định hoặc đặc biệt của các hiện tượng tinh thần và thể chất.  Ví dụ, sự kiên ngạch hoặc sự nhu nhuyễn (Địa Giới hoặc yếu tố khuếch đại) là tiêu chí hoặc đặc tướng đặc định hoặc đặc biệt của xương và thịt một cách tương ứng.  Tiêu chí hoặc đặc tướng này chỉ thuộc về Địa Giới và không thuộc vê bất luận yếu tố nào trong số ba yếu tố còn lại (sự kết dính, sự nhiệt độ và sự chuyển động).

Thực Tướng Thực Tính khác nữa là Hỏa Giới (yếu tố nóng bức và lạnh ngắt). Thủy Giới (yếu tố của sự kết dính và tính lưu động) và Phong Giới (yếu tố của sự chuyển động) cũng là các Thực Tướng Thực Tính.

Tiêu chí hoặc đặc tướng đặc biệt của tâm thức là tâm ý thức hoặc tài năng ý thức. Tiêu chí hoặc đặc tướng đặc biệt của Xúc là đang sắc diệu tâm thức và dẫn nhập nó đến tiếp xúc với một hiện tượng khác. Tiêu chí hoặc đặc tướng đặc biệt của Thọ là năng lực cảm thọ.

Trang 272

Từng mỗi một tiêu chí hoặc đặc tướng đặc biệt của các hiện tượng tâm sinh lý đều có giai đoạn đầu, giai doạn giữa và giai đoạn kết thúc. Trong ngôn ngữ kinh điển Pãli, những giai đoạn này đã dược định danh là Sinh, Trụ và Diệt. Sinh có nghĩa là giai đoạn đầu hoặc sự khởi sinh lên của một hiện tượng. Trụ là sự trì tục thời gian, hoặc sự trì tục, hoặc sự diễn tiến hướng đến sự phá diệt. Diệt là sự tan vỡ hoặc sự phá diệt. Ba Thực Tướng này (các tiêu chí hoặc những đặc tướng) được gọi là Thực Tướng Hữu Vi (Hữu Vi = hỗn hợp hoặc phụ hữu điều kiện).

Tiêu chí hoặc đặc tướng thứ ba của tất cả các hiện tượng tâm sinh lý được gọi là Phổ Thông (thông thường hoặc phổ thông). Sự không thường tồn, sự bất mãn ý, và sự phi bản ngã của tất cả các hiện tượng phụ hữu điều kiện cấu thành tiêu chí hoặc đặc tướng thông thường hoặc phổ thông của chúng.

------------------------------------

Lúc bấy giờ thấy được vai trò chức năng nó

Lúc trụ rồi diệt, sinh trụ diệt lúc đó Tâm bắt đầu Định An Chỉ, thực tướng hữu vi, thực tướng phổ thông, lúc đó Minh Sát Trí thấy được các pháp kiết sử của mình

Tức là hành giả qua tuệ thứ 3 Phổ Thông Tướng là thực tướng phổ thông lúc đó là Minh Sát Trí nó bắt đầu săn bắt chính xác với các pháp của nó, Minh Sát Trí nắm bắt chính xác các kiết sử chứ nó không còn bắt cảnh nữa thì lúc bấy giờ mà hành giả bắt trật, cứ nhìn vô Cảnh mà bắt bỏ kiết sử phổ thông tướng đang nằm trong đó thì không có kết quả của tiền Minh Sát Tuệ. Chức năng lúc này là sampajañña làm việc nó qua chức năng của sati rồi, sampajañña là Tỉnh Giác. 

Nên người hành giả mà nắm bắt bài kinh Tứ Niệm Xứ Satipatthàna sutta và không nắm bắt được chức năng sampajañña là Tỉnh Giác thì người hành giả quời quạng khó bắt được pháp hành của mình. 

Nên 3 pháp hành Giới, Định, Tuệ, người ta đặt câu hỏi thế nào là Định An Chỉ là Tâm động hay Cảnh động, Tâm yên hay Tâm động, Tâm động Cảnh yên, mình phải biết ở trong giai đoạn đó.

Như vậy thì khi ngồi thiền, Sư ngồi Sư coi Sư nhìn thấy, ngay khi quí Phật tử ngủ gục thì quí Phật tử ưu tư lo lắng rổi cảm thấy mình có lỗi có tội, mình hành thiền mà để bị hôn trầm hay mình ngủ gục hay mình không có kết quả trong pháp hành thì mấy cô đọc lại quyền của Ngài Paṇḍita quyển In This Very Life.

Một hôm Mục Kiền Liên ngồi thiền bị ngủ gục, Đức Phật Ngài nói: "Này Thích tử (Ngài kêu Mục Kiền Liên là con của Ngài) ngươi ngồi thiền có ngủ gục phải không ? Mục Kiền Liên trả lời là có, Mục Kiền Liên đệ nhất thần thông, Trí Thượng Thinh Văn cánh tay trái của Đức Phật mà ngủ gục, thì Đức Phật nói là, ngay khi đang thiền mà ngủ gục thì Định của hành giả rõ ràng có nhưng không có tuệ thôi, chứ không phải điều đó xấu, hành giả đã vô định rồi, có Định nhưng không có Tuệ. 

Vì Ngũ Quyền của mình không có quân bình, mạnh quá nên vào Định luôn. Có Định An Chỉ nhưng chưa có Minh Sát

Tâm yên Cảnh đang động. Cảnh nào ? Không phải Cảnh hơi thở, không phải đối tượng mà Cảnh này là kiết sử nó đang đánh mình, là pháp hữu vi nó đến đánh mình liền, pháp hữu vi là có nhân tạo ra.

Nhưng mình vượt qua được, Tâm yên Cảnh yên là lúc đó là giai đoạn ghê lắm, mình phải có Minh Sát Trí để nhìn thấy rõ kiết sử để mà bám chặt, lúc Tâm yên mà mình để cho Cảnh động kiết sử chi phối mình thì mình mới gục, nhưng khi Tâm yên mà giữ được Cảnh ở trong kiết sử nó hình thành rõ ra thì mới bắt được Minh Sát Trí.

Nên quí Phật tử an tâm vô ngồi học có Định An Chỉ mà có ngủ gục thì không có gì là tội lỗi cả.

Do đó, mình không biết pháp mình giống như đi trong rừng vậy đó.

 Mình ở trong giai đoạn nào mình biết thì mình mới bắt đầu biết pháp đang tới với mình nó thuộc loại nào.

Ngồi thiền Tâm mình động mà Cảnh yên.

Ngồi thiền Tâm mình yên mà Cảnh yên.

Mình phải thấy rõ, còn nếu không thấy thì coi như không có kết quả.

Do đó, qui Phật tử phải ghi nhớ 4 Pháp này. 

1) Tâm động      Cảnh động  --- > Thực Tính thực tướng -> Pháp

2)  Tâm động      Cảnh yên ----->  Kiết sử -> triền cái

3)  Tâm yên         Cảnh động ---> Định An Chỉ -> Kiết sử

4)  Tâm yên         Cảnh yên -----> Minh Sát Trí -> kiết sử

Pháp hữu vi nó tấn công mình mà mình không biết.

Do đó, coi lại đi trang 270

Khi Thực Tính Thực Tướng ở Tâm động Cảnh động.

Rồi tới Thực Tướng Hữu Vi

                               Danh Sắc : 1) Tuệ Phân Biệt Danh Sắc 

                                                 2) Tuệ Phân Biệt Nhân Quả Danh Sắc

nó nằm trong pháp hữu vi.

Qua tuệ thứ 3 là Tuệ Phồ Thông Tướng, Thực Tướng Phổ Thông.

Qua tuệ thứ 4 Minh Sát Trí lúc đó không còn bị giao động, không còn bị pháp hữu vi tác động mình nữa, Tâm yên Cảnh yên bắt chính xác kiết sử liền.

Khi vô Minh Sát Trí cái đầu tiên mình đang tu Ngài Janaka nói qua tới tuệ thứ 2 của Minh Sát Trí, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, Tuệ Phân Biệt Nhân Quả Danh Sắc là đạt đến Cuna Sotāpanna Tiểu Tư Đà Hườn, là Tiểu Thất Lai.

 Là vì khi đi :

1) Tuệ thứ nhất Phân Biệt Danh Sắc (Nāmarūpapariccheda ñāṇa) nó còn nằm trong Pháp Hữu Vi .

2) Tuệ thứ hai, Tuệ Nhân Quả  Danh Sắc (Paccayapariggaha ñāṇa), là 50% Pháp hữu vi

3) Tuệ thứ ba, Phổ Thông Tướng (Sammasana ñāṇa), thì thực tướng hiện bày Vô Thường, Khổ, Vô Ngã.

4) Tuệ thứ tư, Tuệ quán chiếu trạng thái Sanh Diệt (Udayabbaya ñāṇa) --> Danh / Sắc, lúc đó --> Hữu Thân Kiến hiện bày.

qua tuệ thứ tư thì Hữu Thân Kiến hiện bày, và mình chấp Hữu Thân Kiến chứ không theo mấy pháp kia nữa, mới đánh bứt mấy cái đó ra thì mình mới tới được Đạo Quả.

Sakkāya Diṭṭhi là kiến chấp về thân này

Sakkāya Diṭṭhi = Sa + kāya + Diṭṭhi

Sa là hữu là có

 kāya là thân

Diṭṭhi là kiến, kiến chấp

Mình có kiến chấp thủ về sắc thân này Sakkāya Diṭṭhi. Chứ không phải sắc thân này nó làm cho mình chấp thủ.

Khi qua khỏi Phổ Thông Tướng rồi thì kiết sử này cái hữu thân kiến nó lộ ra, còn cái đầu là Tuệ Phân Biệt Danh Sắc thì nhìn thấy pháp hữu vi nó tác động thôi. Qua đến giai đoạn thứ tư là Tuệ Minh Sát Trí lúc bấy giờ là hữu thân kiến nó hiện bày nguyên hình của nó ra và Minh Sát Trí mình phải bắt được nó chứ không còn bắt vô cái pháp nào khác. Giai đoạn này là hết thủ rồi.

Phần giai đoạn Định An Chỉ đi qua tới Tuệ Minh Sát gọi là Pháp Hành, hay gọi là 3 Pháp Hành; Giới, Định, Tuệ, phải đi như vậy mới được.

Vậy thì, Giới người ta trong thân ngữ ý phải có Tàm Quí chứ không phải giữ giới theo giới luật giới nguyện của mình thôi. Thân, ngữ, ý phải có Tàm Quí trong mọi lúc, đó gọi là Giới.

Còn Định là mình phải đi Tâm động Cảnh động, Tâm yên Cảnh động, Tâm động Cảnh yên, theo Paṭṭhāṇa, nên kiết sử lộ ra và mình bắt kiết sử thôi, chứ không chạy nữa.

Các quí Ngài cứ nói theo Danh Sắc chứ không nói kiết sử, mà mục tiêu của ta là Đạo Quả là bắt kiết sử, chứ không phải là Đạo Quả ta bắt Danh Sắc. Hạ phần kiết sử giai đoạn này vượt qua Thân Kiến, Hoài Nghi, Giới Cấm Thủ, nhưng mình lại nói Danh Sắc là đi trật, đi lạc hướng.

Khi ta nói Định, tại sao Đức Phật nói mình phải Pháp Hành Định, Pháp Hành Tuệ, mà cái đó là phải hành, phải tu tập mới có, chứ không sẵn có. 

Thì Tâm mình động, Cảnh động. Giai đoạn nào Tâm yên Cảnh yên ? Giai đoạn qua được Định An Chỉ mà Tâm yên Cảnh yên, Minh Sát Trí mới bắt được kiết sử.

Còn Tâm động Cảnh động, Tâm yên Cảnh động, cái đó chưa.

Thiền sinh hỏi: Như vậy trong Pháp Hành, trường hợp như thế nào thì bị lọt vô Thức Thủ Uẩn ?

HT trả lời: Thức Thủ Uẩn là do trường hợp giai đoạn đầu, nó nằm ở trong phần Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, Thức Thủ Uẩn nằm trong Danh Uẩn, trong phần phân biệt danh sắc. Nhưng tới phần Thực Tướng lộ ra thì bắt đầu mình mới nhìn thấy được nó chỉ là Thân Kiến là tà kiến của mình chấp thủ trong đó, bắt đầu mình bắt vô kiết sử đó.

Thức Thủ Uẩn nằm trong phần Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, tôi thấy được Danh, tôi thấy được Sắc trong cái thủ của tôi thấy, chứ không phải là pháp nó đang có, Pháp không có Danh Sắc, Pháp chỉ sinh diệt hay là của hữu vi thôi.

Lúc đó đi qua phần Pháp Niệm Xứ, trong đó hành giả phải tuyển trạch, Niệm xong rồi thì tuyển trạch thì lúc bấy giờ mới phân là triền cái hay là thủ uẩn làm ra, mà trong phần đó là Danh Sắc lục nhập kết hợp nhau phần đó, đó là Pháp Niệm Xứ. 

Thì lúc đó là Danh Sắc nằm ở giai đoạn 1 phần Phân Biệt Danh và Sắc, Thức Thủ Uẩn ở trong Danh. Sắc Thủ Uẩn nằm ở trong Sắc, lúc đó mình chưa có phân biệt được kiết sử, mình mới bắt đầu phân tách thôi, mình tách nó ra làm 2 khối, trong con người mình có 2 khối là Danh thủ, Sắc thủ

Thì khi đi qua tới phần Thân Niệm Xứ, Thọ Niệm Xứ. Thọ này là paṭicca saṃuppāda một chuỗi tương sinh; Thân, Thọ, Tâm, Pháp. 

Thân có Thọ

Tâm có Pháp 

Thân có Pháp

Tâm có Thọ.

Thân có Pháp (đau)

Thân có Thọ (Ưu)

Thân có Thọ (Khổ)

Tâm có Pháp (Triền Cái - Kiết Sử)

Thân có Thọ Ưu, Thân có Thọ Khổ, là Tâm Quả Dị Thục nó là Triền Cái nó vởn vơ trước mắt Tâm của ta, hay nó là kiết sử lập đi lập lại.

Vậy thì khi đi ngồi thiền mà quí Phật tử trình pháp với các vị Thiền Sư nói ngồi đau nhức hoài không hết thì vị Thiền Sư mới tách ra, cô đang bị thọ Tâm Quả Dị Thục và cô niệm được Pháp kiết sử và triền cái chứ mấy cô không niệm được Minh Sát.

Vô ngồi là đau, đó là ở trong kiết sử chứ không phải triền cái nữa, mà cái này là quả của họ đang có chứ không phải là Tâm Đổng Lực, sống lập đi lập lại ở trong quá khứ.

Nhưng khi mình thấy thân thọ khổ Tâm mình Minh Sát thì lúc bấy giờ mình ra Tâm Đổng Lực mới.

Thân thọ khổ, Tâm có Pháp, mà Pháp này là Pháp Kiết Sử, hay Pháp Triền Cái, hay pháp này là Pháp Minh Sát Trí, nhìn thấy Pháp, nhờ sampajañña là Tỉnh Giác.

Vậy thì, sampajañña là Tỉnh Giác có hữu ích hữu lợi

Trong quyển 

Sati And The Yogi

Niệm Lực và Hành Giả

Đại Trưởng Lão Giáo Thọ Sư Paṇḍita

Trang 290 - 291

1) Hữu Dụng: hữu dụng, phú hữu thành hiệu, hữu ích.

2) Hữu Lợi: minh trí, ủng hữu trị đắc, hữu lợi, hữu ích.

Trang 292

Tỉnh Giác: tính minh xác của tâm ý thức, lý giải minh hiển. thuật ngữ này thường được gặp trong việc phối hợp với sự chú niệm (Niệm Lực).  Theo Bộ Chú Giải, tính minh xác của tâm ý thức là một trong bốn thể loại: hữu quan đến mục đích (Hữu Dụng), tính thích hợp (Hữu Lợi), (sự bao quát trong lĩnh vực thiền định) (Phóng Mục), và khái niệm bất thố ngộ, (bất khổn hoặc, bất si mê, bất thố giác) về hoạt động hữu quan (Vô Si).  Được giải thích một cách tế tiết trong Bộ Chú Giải về Kinh Niệm Xứ (Phương Thức Chú Niệm),

Tỉnh Giác: tính minh xác của tâm ý thức, lý giải minh hiển, khi Niệm Lực sinh lên thì hữu dụng hữu lợi nó phóng mục rồi bắt đầu diệt vô si.

------------------------------------------

Thì giai đoạn đó là giai đoạn sampajañña Tỉnh Giác chứ không còn niệm lực, nếu như mình không vượt qua được sampajañña Tỉnh Giác, mình cứ ôm giữ Niệm Lực thì: 

- Một là hành giả đang đi Định chứ không đi Minh Sát. Niệm giữ hoài một đề mục giữ Niệm vì sợ phóng dật nên mình giữ hoài thì là An Chỉ Định

- Hai là mình đang đi trong trạng thái kiết sử chứ không có Minh Sát sampajañña Tỉnh Giác.

 Mà không có sampajañña Tỉnh Giác là không có đi qua Minh Sát Trí mà đang ở trong Định An Chỉ, cái đó lộ ra kiết sử là sợ phóng dật, nó là triền cái trạo hối nhưng mình ôm thân kiến của mình trong kiết sử, mình không có Minh Sát Trí.

Sợ phóng dật  giữ chú niệm

Sợ phóng dật - trạo hối, triền cái

giữ chú  niệm - kiết sử --> thân kiến.

Tôi, Ta sợ phóng dật, tôi vô ngồi thiền tôi yếu cái này lắm, mình cứ sợ, mình giữ nó nhưng lộ nguyên kiết sử của mình lên chứ không có Minh Sát Trí.

Sợ phóng dật bao nhiêu thì thân kiến lộ bấy nhiêu, thân kiến, cái tôi, cái ta, rồi biện giải, tranh luận đủ thứ hết.

Định An Chỉ mình giữ được rồi thì lòi ra kiết sử của mình 

Thí dụ nói: Ông Sư kỳ lạ.

Ông Sư kỳ lạ là triền cái hay là kiết sử, cái nào quí Phật tử cũng chết hết, cái đó là pháp chứ không có tôi có ta trong đây, vậy mà cũng nắm bắt, nó là pháp chỉ là pháp thôi, không phân biệt, không nhận xét, không đánh giá, không phê bình, chỉ là pháp, tách ra liền. Do đó những cái đó quí Phật tử mà thò tay vô là lộ ra con người của mình. Nó chỉ là pháp thôi.

Khi mình nhìn vô pháp Cảnh động hay Cảnh yên, nó chỉ là pháp thôi, tôi chỉ lo cái Tâm của tôi có kiết sử hay có kiến chấp hay có thủ uẩn trong đó không.

Các pháp mình thấy, oh ông sư này kỳ lạ, đó là kiết sử của mình, mà ông sư ăn chung gì đâu, đó chỉ là pháp thôi, chỉ thấy pháp thôi, tâm mình động lên, kiết sử mình lòi ra.

Muốn tu được Tâm mình phải yên, mà kiết sử phải yên lộ ra mình mới thấy, còn nó động nó núp mình không thấy.

Ngài Paṇḍita nói pháp tu của con cắc kè. Con cắc kè khi ở trên cây thân mình nó màu xanh, khi nó xuống đất thì chuyển qua màu xám. Thì pháp tu của nó là nó chạy, nó đứng, nó chạy, nó đứng. Thì động, yên, động, yên là Cảnh, mà Tâm mình động, yên, động, yên theo nó thì mình lộ kiết sử ra.

Quí Phật tử sợ phóng dật không ?

Sợ phóng dật, không sợ phóng dật.

Khi nói mình sợ phóng dật, tâm mình đang động.

Không sợ phóng dật, tâm mình đang yên 

bây giờ mình ráp vô Cảnh động và Tâm động, Cảnh yên Tâm yên. Mình đừng giải thích đằng sau, giải thích là mình kẹt, mình nhìn lại Tâm mình thôi.

Như vậy thì ở trước một Pháp Hành mình đang có, hay trong đời sống hàng ngày mình đang có, giữa cái sợ và không sợ, mình coi Tâm mình có động và không động và cảnh đó có động hay không động, bắt đầu mình mới nhìn ra được Pháp, rồi bắt đầu mới phân tách ra. Đó gọi là Tuyển Trạch Giác Chi (Trạch Pháp Giác Chi).

Do đó, khi người ta hỏi mà có sợ thì tôi có Tâm động. Không sợ thì Tâm tôi đang yên.

Lúc đó Cảnh đó đang động hay Cảnh đó đang yên, ta bắt đầu phân tích nó được.

Do đó, khi người ta hỏi mình thì mình nói về Tâm của mình thôi.

Khi tôi có sợ phóng dật Tâm tôi đang có động.

Khi Tâm tôi không sợ bị phóng dật, Tâm tôi đang yên. thì lúc bấy giờ cảnh đó là cảnh gì thì mình sẽ giải quyết được nó . Chứ đừng nói là tôi không sợ là mình lòi ra cái kiết sử, lòi ra cái bản ngã của mình, lòi ra thân kiến của mình, mình chỉ coi Tâm của mình và mình nhìn ra Pháp./.


No comments:

Post a Comment