Tuesday, August 1, 2023

027 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 20 tháng 8, 2022

 027 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 20 tháng 8, 2022 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "027- Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Tám tâm Đại Thiện vô tham, vô sân, đi với vô si là khi nào mình làm đại thiện Tương Ưng Trí thì có đủ 3 nhân. Nhưng nếu Đại Thiện bất Tương Ưng Trí thì chỉ có 2 nhân là Vô Tham, Vô Sân là đôi thứ 2 và đôi thứ 4

đôi thứ hai

3) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Bất Tương Ưng Trí, Vô Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

4) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Bất Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)

đôi thứ tư

7) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Bất Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

8) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Bất Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)

Thí dụ, như bé Vi và bé Diệu Tường mẹ kêu ra bỏ bát cho ông Sư thì nó nghe lời mẹ mà không biết việc làm này có phước, nó ra bỏ bát xong trở vô, nó đang làm với trạng thái; nếu như làm với trạng thái hoan hỉ vì ông Sư đó nó quen, hay ông Sư đó cười với nó thì nó sài tâm hỉ thọ, còn ông Sư không quen hay là ông Sư không cười với nó, nó ra quăng vật thực vào bát xong đi vô thì nó sài xả thọ.

Còn trạng thái tách riêng chỉ khi nào họ chuyên về phần đề mục thiền Sắc Giới mới tách ra, chẳng hạn như khi Vô tâm Từ, có 2 nhóm ý kiến từ một số nhà Chú Giải:

1) Liên Hợp Kiến, Nhất Trí Kiến (Samānavāda)

2) Nhất Hệ Kiến (Kecivāda)

Nhóm thứ nhất, Samānavāda Nhất Trí Kiến Sư là dạng Giáo Thọ bảo thủ riêng, và một số Chú Giải Sư Kecivāda Nhất Hệ Kiến. 

Nhưng có một số lớn các vị Chú Giải thì nói là không tách riêng được; Vô Tham Vô Sân luôn đi đôi với nhau tại vì nó biến hành. 

Nhưng các vị nói rằng; "có khi sài tâm từ, có khi tôi không sài tâm bi", khi đó họ nói là họ phát triển về Tứ Vô Lượng Tâm, Từ, Bi, Hỉ, Xả, thì họ làm. Còn cái này tôi không có xả thí thì họ rải tâm Từ.

Còn các  Samānavāda  Nhất Trí Kiến, có số lượng lớn các vị giáo thọ, họ nói: 

-  "Khi bạn rải tâm từ cho chúng sinh, bạn có tâm xả thí rồi, với tâm Từ ban ra rồi".

Nhưng cái này không, nó chỉ chuyên về Từ thôi nên nó không Vô Tham, có khi nó đi chung, có khi đi riêng. Nên tâm có khi là 20 tâm sở có khi là 28 tâm sở. Đó là trường hợp tranh luận ở trong phần Tứ Vô Lượng Tâm. 

Còn ở ngoài phổ thông đa phần không biết, khi thí cho người ta mình cứ nghĩ là xả thí là vô tham thôi, không có tâm từ. Đó là do mình không có tâm từ. 

Thí dụ, mình thấy người ta cần thì mình cho chứ mình không có tâm từ ái trong khi mình cho mà cũng không có từ ái với người nhận nữa, do đó nó gọi là như vậy.

Nhưng tính về chi pháp nó là biến hành không có tách rời được, khi nó có nó có một lượt 19 tâm sở này luôn một lúc, do đó, 2 cái đó vẫn còn tranh cãi nhau.

Thí dụ, khi mình xả thí có khi có từ ái, có khi không từ ái: Cách cho, và người nhận.

Xả thí có 2 là: cách cho

-  cách cho là mình cho:  Mình cho với trạng thái từ ái 

                                      Hay mình cho với trạng thái không từ ái

- Người nhận: Mình cho với trạng thái mình có từ ái với người nhận.

                      Hay mình cho với trạng thái không từ ái với người nhận.

Hai cái này vẫn còn tranh cãi.

Trong chi pháp là Vô Tham và Vô Sân, nó là biến hành tịnh hảo, thì nó luôn luôn có một lượt có cùng chung, nhưng họ vẫn tách ra mấy cái đó

Chữ xả thí với từ ái không dính nhau, họ nói vậy đó.

Gốc xả thí là Vô Tham mà có Từ Ái là Vô Sân, mà hai cái này có khi không chịu cho đi chung, họ còn quẹo qua phần hành Brahmavihāra Tứ Phạm Trú thì họ chỉ có Tâm Từ với Tâm Từ thôi chứ không có Vô Tham trong đó, họ đi trong góc độ Từ, Bi, Hỉ, Xả, thì pháp đầu tiên.

1) Từ Ái Phạm Trú. Họ nói trong Từ Ái không có Vô Tham, chỉ có Vô Sân thôi. Nhưng, Vô Sân là chủ vị là chủ yếu, trong chủ yếu này đã có Biến Hành Tịnh Hảo vô chung rồi. 

Nhưng họ không chịu, họ nói Từ Ái là Vô Sân rồi, Từ Ái đâu có Vô Tham, cái đó mình sài tâm Đại Thiện. Mình chỉ có tranh cãi biện luận là trạng thái Tương Ưng Trí hay Bất Tương Ưng Trí thôi. Chứ không thể nào nói ra Vô Tham, Vô Sân. Vậy mà cái đó thành ra một bộ tranh luận.

10.21 Trong quyển I Sư bổ túc lại có tất cả  800 trang thì phần sau có phần lợi ích cho người hành giả tu tập Vipassana Minh Sát Tuệ, Sư viết khoảng 2 tới 4 trang đầy đủ trong đó.

Trong chương II Tổng Hợp về Tâm Sở Cetasikasaṅgaha (trang 192) Sư có giải thích lại phần Tứ Vô Lượng Tâm có 2 nhóm tranh luận là Nhất Ban Kiến Sư và Tổng Hợp Kiến Sư, các vị Giáo Thọ Sư tranh luận với nhau

Có 2 nhóm là:

Nhóm Samānavāda = Ý Kiến Chung, là tổng quát, tổng hợp

Nhóm Kecivāda - Ý Kiến Riêng, nhóm Niết bàn

Nhóm của Ngài Anuruddhā các vị nhìn về chi pháp. 

Nhóm Kecivāda đi riêng, không đi chung.

Do đó có sự tranh luận cho tới ngày hôm nay họ cũng vẫn lập luận như vậy.

Không thể nào giải tỏa được kiến chấp của con người. Chẳng hạn như, khi nói tới Thọ không thể nào có riêng được, tại vì Thọ là Biến Hành, nó có trong các tâm, do đó trong các phần Thọ Niệm Xứ không thể nào giải riêng được, khi nói tới Thọ nó phải nằm trong Tâm Thức. Nhưng ngày hôm nay trên thể giới hay nói chung trên các trường thiền lớn một số vị Giáo Thọ dạy, họ không thể chỉ dẫn được con đường tu tập đi tới kết quả được, nhưng họ vẫn diễn giải về Thọ không, chỉ Niệm về Thọ. 

Thế thì cái gì Niệm được Thọ, cái gì Nhận Thức được Thọ, phải do cái tâm, mà tâm thì có mặt hết trong các Thọ, Thọ có mặt trong hết trong 121 tâm không tách rời ra được, nó đứng đầu, đồng sinh, đồng diệt, đồng căn, đồng biết một cảnh. Bây giờ họ vẫn đưa ra thuyết là Thọ Niệm Xứ thôi, không dạy cái gì khác, do đó trở ngại ghê lắm.

Lớp học của mình đây là Sư chỉ gói ghém trong nội bộ mình thôi chứ Sư không thể nào mà đưa ra phổ biến được. Trường hợp anh Tâm Nhị đưa lên Youtube, số Phật tử họ hay các vị ở ngoài nghiên cứu chuyện đó mình hoan hỉ, tuy nhiên dưới góc độ của Sư là chỉ biết nội bộ thôi, mình học với nhau có gì thắc mắc thì cùng nhau giải đáp được. Chứ còn nếu đưa ra bên ngoài thì họ có ý kiến, rồi tranh luận hơn thua sai trật, đối với Sư ngày hôm nay Sư không có một tâm huyết để mà Sư chỉ dạy. Ở bên ngoài có đủ hết các minh Sư các vị cao tăng lỗi lạc thì các vị đó nhận trách nhiệm vấn đề mà xiển dương Phật Pháp thì Anumodanà với các vị, chứ Sư thì Sư chỉ có trong khuôn khổ nhỏ bé này thôi.

Quí Phật tử cố gắng trao đổi nhau những kiến thức mà Sư biết hay là Sư chia xẻ thì chúng ta cùng nhau trao đổi, còn ngoài ra Sư không có, nên từ trước đến nay cái lớp học của mình đây mang tính chất như trong nội bộ, do đó, mình cười, mình vui, giỡn hay là mình giải thích được hay là có sự tranh luận nhau một cách rất thoải mái, nhưng bên ngoài họ phê bình là không nghiêm túc hay là gì đó, thì chuyện đó là tại họ, tại vì mình đâu có truyền ra ngoài, nhưng bây giờ có truyền ra ngoài thì Sư cũng hoan hỉ thôi.

Do đó, mình chỉ cố gắng học cho trí thức mình đủ là được, còn bên ngoài trúng sai hay dở cao thấp hay cái gì đó mình cũng hoàn toàn không nên để tâm tới.

Cho tới ngày hôm nay vấn đề Xả Thí Vô Tham là tranh luận lớn, và chia làm 2 nhóm SamānavādaKecivāda chưa có thống nhất, chưa có ngã ngũ, chưa có ai đồng ý, bên Kecivāda vẫn bảo thủ là họ đúng, bên Samānavāda họ cũng bảo là họ đúng. Nhưng đứng ở góc độ của Samānavāda số lượng lớn các vị Giáo Thọ. Còn Kecivāda chỉ một vài cá nhân thôi, họ hành thiền, họ tu về pháp môn Brahmavihāra Tứ Vô Lượng Tâm, họ tranh luận, họ giải thích trong góc độ nhận thức được khi họ tu. Nhưng về kiến thức, về pháp học (Pariyatti), 2 cái đó phải phối hợp nhau để có kết quả thì họ không chịu. Có những người đi về pháp hành (Patipatti) thôi, họ không đi pháp học, một đời của họ không đụng vô pháp học, và họ không có bài bản của pháp học, họ phải học từng lớp từng lớp, qua từng pháp từng pháp, họ chỉ đi về pháp hành (Patipatti), họ thực hành ngang, rồi tu lâu năm thành trưởng lão thôi, do đó họ có những ấn chứng hay họ có những trải nghiệm thì họ giữ lấy cái đó, và khi đụng vô thì họ chưng bày ra, nhưng không có trên cơ sở nào để mình tôn trọng với nhau thì nó chỉ đưa đến "Tôi đúng, anh sai" thôi.

Do đó, ngày hôm nay thì Sư khuyên lớp học của chúng ta đứng ngoài vấn đề đó, không đứng trong vấn đề tranh luận đó, cho sự tu tập được an lạc. Sư nghĩ thời buổi bây giờ khổ quá rồi mà mình còn chuốc thêm cái khổ nữa không nên.

Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, trong Paṭṭhāṇa khi nói 7 giai đoạn của một vấn đề, khi nói tới giai đoạn Tương Ưng, khi tới hành xả trí thì mới Tương Ung được?

HT trả lời. Có khi, có trường hợp có một vấn đề có khi có người phụ giúp mình, có người tương ưng với mình, có người phối hợp với mình thì mình có giai đoạn tương ưng. Nhưng có những vấn đề chỉ một mình làm mà không ai giải quyết với mình hết, không ai phụ với mình, không ai kết hợp với mình, thì mình phải làm sao? 

Khi gặp một vấn đề gì hay làm một việc gì thì mình phải phân tích theo 7 giai đoạn của Paṭṭhāṇa :

 1) Paticcavàra – Giai đoạn Liên Quan

2) Sahajàtavàra – Giai đoạn Câu Sanh, 

3) Paccayavàra – Giai đoạn Duyên Sinh, 

4) Nissayavàra – Giai đoạn Y Chỉ, 

5) Sansatthavàra – Giai đoạn Tương Tạp, hay là hỗn hòa, 

6) Sampayuttavàra – Giai đoạn Tương Ưng, 

7) Panhàvàra – Giai đoạn Vấn Đề.  

Bẩy giai đoạn đó tiêu chuần đi như vậy, nhưng mình nhìn lại nghiệp của chúng sinh có riêng biệt, có người có phước thì có tập thể, người không có phước thì cá nhân, lúc họ làm việc thiện họ không có rủ ai hết thì họ không có Tương Ưng. Còn giai đoạn Hỗn Hòa. Rồi giai đoạn Y Chỉ nữa, Nương Đổ nhau nữa.

Như vậy 7 giai đoạn của vấn đề là tiêu chuẩn. Có người đầy đủ 7 giai đoạn từ giai đoạn 1 là giai đoạn liên quan đến cuối là giai đoạn thứ 7 là giai đoạn giải quyết dứt điểm vấn đề này thì đó là lý tưởng.

 Nhưng có khi không đủ, có khi có 5, có khi có 3, có khi có 1. Mình phải coi mình trong cái pháp đó, mỗi một giai đoạn nào, vấn đề nào của mình, mình có đủ không cái mình mới biết cái tu tập của mình và cái phước của mình, nghiệp quá khứ và hiện tại, 2 cái mình đối chiếu nhau bắt đầu mình bổ túc, đó là người trí, mình có sáng trí cho việc tu tập của mình, chứ còn không mình đọc suông qua rồi bỏ đi không áp dụng không suy nghiệm thì không có kết quả. 

Sư lúc nào cũng vậy. Thí dụ như về vấn đề dịch thuật kinh điển, Sư không có đủ 7 giai đoạn. Nếu nói về 7 giai đoạn thì Sư chỉ có về mặt tinh thần, chứ về vật chất Sư không có, tức là không có người, về mặt tinh thần Sư có đủ hết, sách vở kinh điển gì Sư có hết, nhưng về người hổ trợ không có đủ, thì Sư nghĩ mình thiếu, thì khi biết mình thiếu thì Sư nhìn người nào không đủ thì mình có trải nghiệm rồi thì mình nhắc nhở họ được. Thí dụ như mình thấy có người làm mà không đủ người, bữa nay làm giỗ mình không đủ người, tại vì mình đã có trải qua, cái đó là sự thật vậy đó, không phải là mình đoán hay là mình nghĩ mà là mình có trải qua, có khi mình cũng thiếu người, hụt trước hụt sau và mình cũng đắp vá mình phải làm cho xong, thì cái đó mình phải coi lại. Giai đoạn Tương Ưng là cái phước kết hợp nhau mới được. Còn giai đoạn Y Chỉ là cái đức mình có mình mới có Y Chỉ. Mấy cái đó không phải đơn giản, mỗi cái có phần chi tiết. 

Đọc lại bộ Paṭṭhāṇa khi mà đưa đến giai đoạn vấn đề, Đức Phật Ngài dạy giai đoạn Liên Quan, giai đoạn Y Chỉ, giai đoạn Tương Ung, giai đoạn Hỗn Hòa, những giai đoạn đó, duyên có bao nhiêu, có giai đoạn vấn đề đủ trong đó, do đó, mình phải coi cái đó. 

Trong Paṭṭhāṇa trình bày hết 7 giai đoạn, một Tam Đề nào cũng có 7 giai đoạn, phải coi rồi lượt ra Giai Đoạn Liên Quan này nó thiếu cái gì và nó đủ cái gì là của Giai Đoạn Vấn Đề, mình lấy Giai Đoạn Vấn Đề là giai đoạn hoàn mỹ, nơi đây mình phải đo lại xem Giai Đoạn Liên Quan thiếu cái gì bắt đầu mình so và ghi ra. Rồi giai đoạn Tương Ưng thiếu cái gì với giai đoạn Vấn Đề, mình ghi ra. Rồi giai đoạn Y Chỉ thiếu cái gì mình ghi ra, giữa giai đoạn này với giai đoạn này thiếu cái gì, không giống nhau cái gì, và giống nhau cái gì, mình có sự nhận xét. Rồi từ đó con đường tu tập của mình diễn tiến.

Đó là trải nghiệm một cuộc đời của mình trong mỗi sự việc xảy ra vấn đề gì mình có khi làm đủ hết 7 giai đoạn, có khi mình làm thiếu giai đoạn, và có khi mình không biết mình đã làm bao nhiêu giai đoạn trong một vấn đề, điều đó quan trọng lắm, nên Paṭṭhāṇa này là một kim chỉ nam, là một cách thức sống chỉ dạy cho con người mình biết cách sống, chứ không phải qua kinh điển, không có một kinh văn nào trình bày như vậy. 

Do đó Sư muốn đưa Paṭṭhāṇa này cho các quí Phật tử, đó là yếu tố quan trọng nhất, mà chính đó Đức Phật Ngài hoan hỉ, Ngài thanh tịnh, Ngài Nhất Thiết Chủng Trí tỏa hào quang 6 màu Ngài thuyết Paṭṭhāṇa này.

Sư cũng vậy, khi đọc hết kinh Nikaya, như ngày hôm nay Sư có đủ bộ chú giải và giáo khoa thư và giáo trình giáo án của 5 bộ Nikaya Ngài Thītasīla đưa hết cho Sư, bộ kinh của tôn giáo Miến Điện Ngài trao lại cho Sư, Sư có đủ hết bằng tiếng Anh, Sư coi rồi Sư gác để trên kệ, Sư đọc Paṭṭhāṇa tại vì trong Nikaya không có giải thích như Paṭṭhāṇa.

Cũng vậy, khi qua bộ Bộ Pháp Tụ (Dhammasangani), Bộ Phân Tích (Vibhanga), Bộ Chất Ngữ (Dhatukatha), Bộ Nhân Chế Định (Puggalapannatti), Bộ Ngữ Tông (Kathavatthu), Bộ Song Đối (Yamaka), 6 bộ trước không hoàn thiện như bộ Paṭṭhāṇa 

Do đó, 13 điều mà chúng ta giải quyết được 7 giai đoạn chúng ta cần phải nắm bắt, những cái đó trong Paṭṭhāṇa mới trình bày, 13 điều trước vừa Siêu Lý vừa Chế Định, giữa bản ngã với không bản ngã, bản nguyện qua 7 giai đoạn không có trong 6 bộ trước không có nói mà chỉ có Paṭṭhāṇa có thôi. Bộ Paṭṭhāṇa này là hoàn bảo, sung mãn đầy đủ.

Tất cả câu chuyện khi các Phật tử nêu lên Sư nghiệm về vấn đề trước rồi Sư mới đi qua 6 giai đoạn của vấn đề đó rồi Sư mới giải đáp được vấn đề. Cũng như Sư nói 7 bộ Paṭṭhāṇa thì mình thuyết pháp hay nói pháp thì phải đi tuần tự, bắt đầu vô phải đi Pháp Tụ, rồi Phân Tích, rồi Nguyên Chất Ngữ, rồi Chế Định, bắt đầu ra một bài pháp là phải qua 7 bước đi như vậy mới có, thì 7 giai đoạn này cũng vậy.

Học Paṭṭhāṇa này một học một gấp 10 học Nikaya, học một mình nắm được hết mấy bộ kia, không thể nào thiếu được. Mình coi lại mấy bộ kia với góc độ đầy đủ là giải đáp được mấy bộ kia dễ dàng.

Bộ chú giải, chánh tạng có 24 Duyên, mà qua chú giải có 47 đến 52, bắt đầu có sự kết nối hay có sự bổ túc vô. Tuy nhiên ở trong bộ Chánh Tạng phần đó có giải thích, nhưng nó giải thích trong phần hạn chế rồi qua nhà Chú Giải mới viết ra thêm, thành ra những bộ Tiền Sinh Duyên, Hậu Sinh Duyên, hay Hiện Hữu Duyên, Bất Ly Duyên, Bất Tương Ung Duyên, mấy cái đó họ có thêm. Sư có dịch ra mấy phần đó, tuy nhiên không có rõ cho bộ chú giải khi người ta nhớ bộ chú giải này mà người ta học người ta đọc lại bộ chánh tạng người ta thắc mắc.

Tại vì, Khi Đức Phật Ngài thuyết pháp Abhidhamma cho mẹ của Ngài ở trên cung trời Đao Lợi và Chư Thiên nghe, thì Ngài chỉ khẩu thuyết, đọc quyển xanh (Chánh Tạng) thì thấy rằng Đức Phật Ngài nói với Chư Thiên trên trời như vậy đó, nhưng quyển đỏ có khác một chút, bộ đó là bộ chú giải.

Thứ hai nữa khi Ngài gặp Ngài Xá Lợi Phất khi Ngài đi bát bên Bắc-cưu-lưu-châu (Uttarakurudīpa) rồi vòng qua Nam Thiện Bộ Châu - cõi người (Jambūdīpa), Ngài trùng tuyên cho Ngài Xá Lợi Phất, Ngài chỉ nói Matika  những tựa đề thôi tức là các duyên thôi, rồi Ngài Xá Lợi Phất viết ra, xong rồi các nhà Chú Giải viết lại với sự hiểu của mình cho tới ngày hôm nay. 

Thì qua 3 giai đoạn của các nhà chú giải. Hồi xưa người đầu tiên Chú Giải mấy bộ kinh Phật là Ngài Buddhaghosa người Ấn Độ, sau tới Ngài Anuruddhā bộ Abhidhammattha Sangaha là Ngài Anuruddhā viết, sau đó là Ngài Ledi Sayadaw thuộc nhóm Samānavāda, rồi sau đó có thêm các nhà Chú Giải cùng thời với Ngài Ledi Sayadaw, như Ngài Nyanaponika là những nhà Chú Giải nhỏ thuộc nhóm Kecivāda. 

Thì mình chia làm 3 giai đoạn của các nhà chú giải 

Ngài Buddhaghosa 

Ngài Anuruddhā 

Ngài Ledi Sayadaw viết toàn bộ. Số sách ngày hôm nay không đủ, cùng thời có Ngài NyamaponikaNyamatilola thuộc thiểu số viết ra những quyển sách nhỏ

Riêng bộ Paṭṭhāṇa có Ngài Nārada Sayadaw người Miến Điện,  Ngài chuyên về bộ Paṭṭhāṇa Ngài viết ra được 2 tập. Ngài  Nārada Paṭṭhāṇa Sayadaw của Miến Điện Ngài chuyên về Paṭṭhāṇa, và chính là Ngài viết bộ Paṭṭhāṇa,  Ngài  Nārada Paṭṭhāṇa Sayadaw của Miến Điện Ngài viết một số chú giải, còn Ngài Mahāthera Nārada là người Tích Lan.

Ngài Buddhaghosa chủ yếu là cuốn Visuddhimagga (Thanh Tịnh đạo) trong bộ này Ngài nói Tam Tạng chỉ có 3 thôi là Giới, Định, Tuệ. Ngài nói  Giới Thanh Tịnh Đạo là nằm trong Tạng Luật, Định nằm trong mấy bộ Nikaya. Ngài  Buddhaghosa gom Tam Tạng vào trong Thanh Tịnh Đạo, do đó, Ngài viết ra 2 quyển. Thì bộ thứ 3 Abhidhamma nói về Tuệ nói về pháp hành Vipassana.

Khi Ngài viết như vậy Ngài nói về Giới Thanh Tịnh Đạo. Ngài có viết một bộ trác tuyệt của Ngài rất nổi tiếng là bộ Aṭṭhasālinī Chú Giải Bộ Pháp Tụ này là bộ chú giải, do Ngài Buddhaghosa viết bộ chú giải đó. Nhưng thật ra nó nằm trong bộ Dhammasangani Bộ Pháp Tụ là bộ thứ nhất của Abhidhamma. Tất cả các pháp, Pháp Thiện, Pháp bất thiện, Pháp Vô Ký, Ngài Buddhaghosa viết trong bộ Aṭṭhasālinī Chú Giải Bộ Pháp Tụ.

Thì bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh đạo) ngày hôm nay trong hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia có 3 bộ được giải thích của bộ gốc của Ngài Buddhaghosa thì Sư có hết. Và bộ cuối cùng là bộ thứ tư là Vipassanājuni  là qua khỏi bộ Visuddhimagga này, bộ đó của Ngài Mahasi viết khi Ngài mất thì hàng hậu bối của Ngài viết lại, thì người viết lại là Ngài U Silananda viết tập I. Qua tới Thái Lan họ làm hoàn bị luôn 3 tập.

Ngài Anuruddhā viết hết 7 bộ Abhidhamma, 9 chương 

Ngài Ledi viết những bộ The  Manual of the Dhamma

Còn các Ngài NyanaponikaNyanatillola viết những bộ sớ giải những bộ tiểu giải nhỏ thôi.

Khi nói tới Duyên mà có những sai biệt giữa bộ Chú Giải với Kinh Tạng thời nguyên thủy Đức Phật nói với Chư Thiên, thì Ngài nói như vậy đó, nhưng ngày hôm nay các Ngài nói như vậy là không đủ, tại vì trong bộ Chánh Tạng có chẻ ra, nhưng mà chẻ ra tới mức 47 Duyên rồi tới Ngài Tịnh Sự mới ra 52 Duyên (27 + 25 = 52).

Thì đó là những bộ Chú Giải.

Thí dụ mình nói Giống Vô Gián có 28: Vô Gián Duyên, Đẳng Vô Gián Duyên. Nhưng ở trong Chánh Tạng không nói Vô Gián Cận Y. Nhưng Vô Gián Cận Y chia làm 2 là Vô Gián và Cận Y. Mà trong Cận Y này thì ở trong Chánh Tạng thì nói Cảnh Cận Y và Thường Cận Y, chứ không nói Vô Gián Cận Y. Do đó, giống Vô Gián này nằm giữa hai loại giống, giống Vô Gián và giống Cận Y. Mà giống Vô Gián Cận Y này chỉ dành cho đạo quả Alahán Vô Sinh thôi.

Khi người tiến tu qua 3 trường hợp Vô Gián Duyên, Đẳng Vô Gián Duyên, Vô Gián Cận Y, thì giống Vô Gián có thêm Trùng Dụng Duyên.

Thì phần Vô Gián Cận Y này các vị Chú Giải nói, nhưng nó cũng nằm trong bộ giống Vô Gián, nằm trong phần Vô Gián Cận Y, nằm trong phần Thường Cận Y, nhưng không có đào sâu vô.

Vô Gián Duyên có Hiệp Thế và Siêu Thế 

Đẳng Vô Gián Duyên có Hiệp Thế và Siêu Thế

Vô Gián Cận Y chỉ có Siêu Thế. (Vô Gián Cận Y là được đạo quả Alahan).

Bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh đạo) là bộ Chú Giải Ngài Buddhaghosa viết rất hay, nên thời gian hồi xưa đi học Sư nghiên cứu Phật Pháp, có 2 loại Chánh Tạng - chỉ có Tam Tạng, và Tục Tạng (Chú Giải và phụ Chú Giải).

Chánh Tạng là Tam Tạng có Tạng Luật (quí Phật tử không được nói Kinh, Luật, Luận), đó là nói sai, khi người ta kết tập Tam Tạng lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, lần thứ năm, là người ta đưa Tạng Luật Vinaya Pitaka lên hàng đầu, sau đó tới Tạng Kinh Sutta Pitaka, rồi sau tới Tạng Vô Tỷ Pháp Abhidhamma Pitaka

Không có gọi là Luận Tạng. Luận Tạng thuộc về Lục Tạng gồm có Duy Thức Luận, Câu Xá Luận thuộc Luận Tạng của các Ngài Thế Thân, Ngài Vô Trước, các vị Luận Sư. 

Vô Tỷ Pháp Abhidhamma chỉ do Đức Phật Ngài thuyết.

Ở VN cứ nói Kinh, Luật, Luận, là sai với truyền thống của Tam Tạng. Từ sau 100 ngày sau khi Đức Phật Ngài viên tịch, kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ nhất trong 3 tháng Ngài U Ba Ly trùng tuyên Tạng Luật. AbhidhammaDhamma thì Ngài Ananda trùng tuyên, người vấn hỏi là Ngài Kassapa. Nhưng tới thời Ngài Mahasi Mingun một mình Ngài Mingun Ngài bao trùm luôn 3 Tạng, Ngài thuộc lòng 6,000 ngàn trang, sau này Ngài dạy Chư Tăng về Tam Tạng là học thuộc lòng chứ không dạy như Sư cắt nghỉa từng câu từng chữ đó là dạy, còn Ngài chỉ cho học thuộc lòng thôi. 

Những bộ sau như Visuddhimagga (Thanh Tịnh đạo) hay là Vipassanādīpanī, Vipassanājuni mấy bộ này là Tục Tạng.

Bộ Milindapañha Mi Tiên Vấn Đáp, vua Milinda hỏi và Ngài Nagasena, còn được gọ là Milinda Sở Vấn Kinh người đáp là Ngài Nagasena. Bộ này thuộc về Tục Tạng.

Chánh Tạng là những gì Đức Phật nói hay Ngài thuyết.

Tục Tạng là các vị Chú Giải, những nhà Sớ Giải hay những nhà Luận Sư, những nhà Giáo Thọ sau này viết ra.

Như kinh Kiết Tường là Chánh Tạng, tại vì Chư Thiên đến vấn hỏi Đức Phật, Ngài mới nói 38 điều Kiết Tường đó là nhân sinh ra phước báu, thì nằm trong Nikaya, chứ không phải là Tục Tạng.

Những bộ sau như Visuddhimagga (Thanh Tịnh đạo) hay là Vipassanādīpanī, Vipassanājuni  bộ Milindapañha Mi Tiên Vấn Đáp là sau thời Đức Phật.

Như vậy thì những Tục Tạng  là sau thời Đức Phật mà những nhà Chú Giải, Sớ Giải viết ra theo sự học hỏi hay kiến thức của họ viết ra thì những bộ đó thuộc về Tục Tạng chứ không phải là Chánh Tạng. Và có những bổ túc. 

 Ngay cả Chánh Tạng mà không có những bộ Chú Giải mình cũng không học nổi. Do đó, mình học phải cho đúng.

Thì ở đây, ở trong chùa của mình có đủ hết những bộ này. Nhưng ngày hôm nay chủ trương của Sư chủ yếu của Sư là Sư phải làm bằng mọi cách bằng mọi công lực với sức lực của Sư là phải làm cho xong bộ Abhidhamma nhất là bộ Paṭṭhāṇa. Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đến với thế gian này thì họ phải để lại, thí dụ như các Ngài còn là Bồ Tát đang tu Balamật Ngài phải để lại giáo pháp, mà giáo pháp họ thừa hưởng của các vị Phật mà họ đã trải qua. Thí dụ như Sư nguyện Chánh Đẳng Giác, Sư thừa hưởng giáo pháp của Đức Phật Gotama do đó Sư phải để lại giáo pháp, đó là cái gạch nối cho Sư tiếp tục giáo pháp cho tới khi nào Sư hoàn thành nguyện Chánh Đẳng Giác tới ngày Sư đắc chứng đạo quả, thì Sư phải để lại phần quan trọng nhất, phước báu nhiều nhất là bộ Abhidamma, rồi sau đó Sư mới ra mấy bộ Nikaya. Sư có đủ hết, bây giờ Sư có giáo án của Nikaya và luôn cả những phần Chánh Tạng, Tục Tạng, Sư phải tạm gác lại để lo cho xong bộ Abhidamma. Như trong năm nay Sư phải tiếp tục những bộ Paṭṭhāṇa cho hoàn tất, rồi mới đi qua mấy bộ kia.

Do đó, các Phật tử có yêu cầu cho họ học tiếp qua bộ Buddhavamsa Chủng Tộc Chư Phật. Buddhavamsa là Chánh Tạng nằm trong Nikaya mà thuộc Tiểu Bộ Kinh - Khuddaka Nikaya có 2 quyển Chú Giải là Mahā BuddhavamsaCula Buddhavamsa thì ở trong chùa mình có đủ 2 quyển Chú Giải này.

Bây giờ có một số Phật tử yêu cầu vì họ đọc xong bộ Buddhavamsa quyển đỏ và 3 quyển chú minh 1, 2. 3. Họ muốn đọc tiếp, Sư nói không được vì Sư chưa làm xong bộ Paṭṭhāṇa 

Có một số Phật tử yêu cầu Sư cho đọc quyển Milindapañha Ngài Giới Nghiêm có dịch 2 tập với tựa đề Na Tiên Vấn Đáp là Ngài dịch nghĩa theo tên Ngài Nagasena,  Milinda là Mi Tiên, ông vua Mi Tiên, Ngài HT Giới Nghiêm dịch 2 tập, sau Sư Giới Đức là Minh Đức Triều Tâm Ảnh ở ngoài Huế hiệu đính lại những văn tự cú pháp quyển Na Tiên Vấn Đáp của Ngài Giới Nghiêm, bây giờ ở VN có 2 quyển đó. Sư cũng có, nhưng Sư không đụng vô bộ này, tại vì chương trình của Sư là Sư phải đi song ngữ chứ không đi một Việt ngữ, những bộ Tục Tạng này Sư đi song ngữ. Chí đến VipassanājuniVipassanādīpanī Sư cũng đi song ngữ. Hiện thời có một số Phật tử yêu cầu Sư cho học Milindapañha nhưng Sư không làm vì không muốn sao lãng chương trình của Sư đang làm, các quí Phật tử nhẫn nại chờ.

Sau khi Sư làm xong bộ Abhidhamma Sư sẽ trở qua những bộ quí Phật tử yêu cầu, có thể 400 năm hay 600 năm sau Sư trở lại với bộ Milindapañha.

Chánh Tạng chỉ có 3 Tạng do Đức Phật Ngài thuyết bằng khẩu truyền, còn ngoài ra là Tục Tạng hết.

 Nghiệp lực chia làm 3:

1. Câu Sinh Nghiệp.

2. Dị Thời Nghiệp.

3. Dị Thời Nghiệp + Thường Cận Y. Bộ này là bộ Chú Giải. Thuộc giống Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y hai cái kết hợp nhau. 

Như vậy thì những cái gì mình đang làm đây có 2 loại:

 1) Câu Sinh Nghiệp. Cái gì mình tạo tác ngay hiện tại này là Câu Sinh Nghiệp Lực (hiện tại và vị lai). Tạo tác hôm nay có thể trổ quả hôm nay, có thể trổ quả trong vị lai, nó thuộc loại Giống là Câu Sinh Nghiệp. Tạo tác hôm nay cho quả hiện tại và có thể cho quả vị lai. Thuộc về Câu Sinh Nghiệp.

2) Dị Thời Nghiệp. Còn những cái gì mình đang thọ hưởng đây, vui, buồn, sướng, khổ, đẹp, xấu, hay giàu, nghèo, là mình hưởng của Dị Thời Nghiệp, là quá khứ và hiện tại. Dị Thời Nghiệp thuộc về Kiết Sử, Lậu Hoặc, và Triền Cái. Có những cái mà không biết tại sao lúc đó tôi làm, tôi không hiểu được tại sao tôi làm. Nó có một mãnh lực làm cho con người đó họ làm nhưng khi họ bình tỉnh lại hay là có những lời khuyên giải hay người ta giải thích họ mới giật mình, lúc làm họ không nghĩ ra, họ thừa hưởng cái quá khứ và cái thói quen của họ hay thường quen của họ hay là cái thường quen họ làm.

Do đó, Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y cộng lại làm một và có Mãnh Lực Duyên nữa. Mãnh Lực Duyên rất mạnh, nó thuộc Lậu Hoặc, thuộc Kiết Sử và Triền Cái, trong đời tu tập của mình bẻ gãy không nổi, nó chỉ thua Vô Gián Cận Y thôi.

Mình sợ Mãnh Lực Duyên của  Dị Thời Nghiệp + Thường Cận Y. Nhưng, mình phải tu Vô Gián Nghiệp Lực. Vì lý do đó, Sư không muốn đụng chạm tới Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y làm quí Phật tử lo. Mà Sư muốn thúc đẩy Vô Gián Cận Y, Vô Gián Nghiệp Lực thôi, mình phải liên tục không gián đoạn, thì mới ra được Thường Cận Y với nghiệp của mình đeo đuổi mình như bóng với hình. 

Khi nói tới Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y thì có 2 lãnh vực mình cần để ý là Sắc và Danh,  tài sản của cải vật chất thuộc về sắc, có khi có, có khi không, nhưng nó có ảnh hưởng trong Dị Thời của mình, đó là đời quá khứ mình có xả thí bây giờ mình mới có tài sản của cải vật chất. Nhưng cái Danh, nghĩ tối, nghĩ xấu, thiện, bất thiện, an vui, không an vui, đau khổ, nó đeo ta như bóng với hình.

Sắc (của cải, tài sản) có khi có có khi không, không sao.

Nhưng, Danh luôn luôn có. Do đó, phải sợ cái Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y.

Chính cái đó thì khi mình biết Dị Thời Nghiệp Duyên và Thường Cận Y Duyên kết hợp nhau thành một Mãnh Lực Duyên thì Vô Gián Nghiệp với Vô Gián Cận Y nó phải liên tục mới bẻ gãy được Danh (suy nghĩ xấu, tốt, thiện, bất thiện)

Là một Mãnh Lực Duyên đặc biệt. Đức Phật Ngài có nói nhưng mọi người nghe không lọc ra được, nên các Chú Giải mới lọc ra để nhắc nhở cho mình biết con đường tu tập mình cần phải biết. Và Mãnh Lực này phải biết dụng công tu tập.

Dị Thởi Nghiệp là nghiệp lực quá khứ gọi là nghiệp báo (báo đen, xấu) và nó đẩy cho mình thói quen (Thường Cận Y), 2 cái nó kiết sử cột lại.

Nghiệp báo này thuộc Lậu Hoặc chìm trong con người của mình bao nhiêu kiếp rồi nên cứ tiếp tục như vậy và không ngừng tạo tác, rồi mãnh lực tạo tác để lại hậu quả không ngừng trổ sinh.

Bốn A Tăng Kỳ, Đề Bà Đạt Đa đến với Đức Phật Ngài trong thời gian Ngài còn là Bồ Tát là đi theo Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y, đi theo để mà báo oán báo thù, chứ không có một cái gì là bạn hết. Học với Đức Phật từ hồi thời còn là Bồ Tát, cái gì cũng học, cái gì cũng nhờ, cái gì cũng xin hết. Đức Phật Ngài đều dạy hết, cho tới kiếp chót Bồ Tát thành Phật, Đề Bà Đạt Đa xin làm đệ tử. Nếu như Đức Phật nhìn lại 4 A Tăng Kỳ là Ngài biết ra rõ được, nhưng mà Ngài vẫn cho mà Ngài không sửa được cái nghiệp, mà vô vẫn báo oán nữa, với thói quen ông đã đeo đuổi Lậu Hoặc  hại Đức Phật nữa. Đức Phật vẫn từ bi độ, và khi kết quả chịu không nổi tới khi chín muồi rớt xuống thảm hại, rớt vô gián địa ngục.

Nên chữ Vô Gián Địa Ngục, chỗ đó Đức Phật Ngài nói phải là Vô Gián Cận Y tu tập, Vô Gián Nghiệp Lực tu tập mới vượt qua được Vô Gián Địa Ngục. 

Tính ngược trở lại trong thời quá khứ Ngài là Bồ Tát, Ngài tu 2, 3 tăng kỳ với Dị Thời Nghiệp của Ngài tích lũy Balamật và Thường Cận Y lên thấy tứ tướng - lão, bệnh, tử, tăng, là Ngài bắt đầu đi. Đó là Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y, với mãnh lực tu tập của mình mới có Vô Gián Nghiệp Lực. Do đó, mình phải cẩn thận mãnh lực này, nó là con dao 2 lưỡi.

Như vậy thì, sau khi mình nắm được phần duyên này, mình đang học pháp thiện làm duyên cho pháp vô ký, bây giờ nói tới Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y là quá sớm.

Mình ngồi coi lại nghiệp báo quá khứ mình là gì, thiện bao nhiêu, bất thiện bao nhiêu, an vui bao nhiêu, khổ đau bao nhiêu, viết ra 2 tờ giấy, mình khổ cái nào, mình an vui cái nào, mình duyệt ra, mình mới thấy rằng là cái này có phải là thói quen không  rồi mình tu sửa, nếu là nghiệp báo của mình thì mình nhờ bậc hiền trí hay bậc cao nhân chỉ dẫn.   

Như hồi nãy mấy cháu nhỏ chơi với nhau rồi nói "mày, tao", Sư nói đừng có nói chữ "mày" đừng nói chữ "nó", thì cháu trả lời: "nó nói thì con cũng nói lại". Cái đó là thói quen. Mà khi người ta nói vậy mà mình học lại đó là mình học cái sai của họ, mình không chịu thay đổi thì trở thành thói quen, mà tạo thành thói quen này với một mãnh lực của quá khứ cho tới ngày hôm nay vẫn chưa thay đổi thì là Dị Thời Nghiệp, rồi tới khi nó trổ quả chạy không kịp, tới lúc đó nói: "sao má không nói cho con biết để con sửa". Nãy nói sửa mà không chịu sửa. Mình đây mình phải tu, tu là sửa, mà không chịu sửa, "nó sao con vậy", cái đó mình là bản copy rồi.

Mình nhìn cái đó, cái đó là Dị Thời Nghiệp với Thường Cận Y. Phải cận thận. Những cái đó là bài học hay là cái gương.

Trong kinh Kiết Tường Đức Phật dạy; xa lánh người xấu ác, thân cận người hiền trí, ở nơi chỗ đáng ở, Cúng dường bậc tôn đức.

Ngài đưa 4 điềm lành (kiết tường) đó đầu tiên để dạy cho mình xa lánh người xấu ác trước, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Đó không phải là ngẫu nhiên, không phải là tự nhiên, mà có Dị Thời Nghiệp, mình có gieo trồng mới có hạt giống này, mới có liên hệ với nhau. Mình nói "nồi nào úp vung nấy".

Do đó, mình phải nguyện: "Tôi nguyện Dị Thời Nghiệp của tôi không phải là nghiệp báo đen, phải là nghiệp báo thiện hay là nghiệp báo trắng, cho  Thường Cận Y của tôi cho ra thói quen trong điều kiện tốt thì mới không có trong cảnh xấu bất thiện." Chứ còn không nó đi theo thói quen này rồi tạo tác ra nghiệp báo này rồi chồng chất mình lên.

Có một vị tỳ khưu cứ đi qua vũng nước là ông nhảy, các chư tỳ khưu đi mét với Đức Phật là vị tỳ khưu này cứ đi qua vũng nước là ông nhảy qua, ông không giữ Ưng Học Pháp, Ưng Học Pháp là phải đi từ từ, còn ông thì cứ qua vũng nước thì ông nhảy. Đức Phật nói, 500 kiếp vị tỳ khưu này là con khỉ nên gặp nước là ông nhảy, giờ tiền khiên tật thân ông còn quen chưa sửa được.

Ngài Hộ Tông, trong phần Ứng Cúng Arahan của Đức Phật, Ngài dịch "tiền khiên tật thân ngài đã diệt trừ" tức là thói quen trong quá khứ nhiều đời của Đức Phật đã diệt trừ, tức là Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y trong phần nghiệp báo đen (bất thiện), nó làm khổ mình, mình không sửa được thì mình trôi nữa, mà trôi nặng lắm, tại vì nếu có phước gặp người minh trí sửa cho mình mà mình không chịu, trôi ra một cái không gặp lại người minh trí là 2 lần (cộng với của mình + với của người minh trí = 2 lần). 

Đề Bà Đạt Đa mà trôi ra xuống vô gián địa ngục, trở lên là cái thời không có giáo pháp Đức Phật mới ra Độc Giác.

 Thời có giáo pháp Đức Phật chỉ có 2 thời thôi là Chánh Đẳng Giác và Thinh Văn Giác. Cái thời không có giáo pháp Đức Phật là thời Độc Giác. 

Bây giờ mình còn 2400 năm nữa, coi như thời này là thời Thinh Văn Giác, tại vì thời Chánh Đẳng Giác đi rồi, thời gian này là Thinh Văn Giác, mình mà không tu sửa rớt đến thời Độc Giác sẽ trôi lăn tại vì thời Phật Độc Giác không ai dạy, chỉ có thân giáo thôi, mình bắt chước theo thôi, mình noi theo thân giáo của Ngài thôi.

Như ngày hôm nay tới giai đoạn của Sư cũng không muốn dạy nữa. Bây giờ mình lo tu, mình có phước là mình có chánh pháp, mình có trú xứ, có thầy hay bạn giỏi, có môi trường tu, lo tu đi, tuổi thọ mình đã hết rồi, mình không còn kịp nữa.

 Dị Thời Nghiệp báo đen (nghiệp xấu) và Thường Cận Y thói quen xấu 2 cái cộng lại khó sửa lắm. Phải cẩn thận với mãnh lực duyên này. Sư mà kể từng câu chuyện của Đức Phật từ Kinh Nikaya áp dụng trong đời sống hàng ngày, khủng khiếp lắm. Câu truyên 500 kiếp Túc Sinh truyện (Jàkata) với mãnh lực duyên Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y giữa Đức Phật với Đề Bà Đạt Đa mình xem mình trong góc độ nào, có khi mình lọt vô góc cạnh Đề Bà Đạt Đa mình không hay, ngay cả người xuất gia cũng vậy, Đề Bà Đạt Đa là người xuất gia tu với Đức Phật, thời Đức Phật là thời có phước, thời Balamat mà còn rớt huống chi thời Thinh Văn Giác bây giờ, tới thời Độc Giác còn khổ nữa.

Phải cẩn thận với mãnh lực của Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y. Muốn ra khỏi Vô Gián Địa Ngục phải có Vô Gián Cận Y với Vô Gián Nghiệp Lực với mãnh lực của tu tập Alahan chứ 3 quả thấp cũng chưa đủ, Vô Sinh mới ra bậc lậu tận - Khināsava, 

Vô Sinh bậc Khināsava là bậc Lậu Tận là họ diệt tất cả các lậu hoặc, các thói quen và Dị Thời Nghiệp tiền khiên tật thân của họ, họ diệt hết mới là Alahan. Đọc quyển Ân Đức Phật, Ngài Hộ Tông viết "tiền khiên tật thân Ngài đã diệt trừ".

Muốn ra khỏi Vô Gián Địa Ngục thì chỉ có Vô Gián Cận Y với hạnh Balamat Vô Gián. Còn không khó qua khỏi con đường mãnh lực duyên của Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y.

Tùy Tùng Lộ Trình Parivāravithī có 2: 

1. Parikamma là Chuẩn Bị

2. Paccavekkhati là Khảo Sát, ngày xưa Ngài Tịnh Sự dịch là Phản Khán. Nhưng bây giờ Sư coi lại bộ Chú Giải và bộ Tự Điển thì dịch là Khảo Sát hay Thẩm Thị hay Thẩm Sát, quan sát, xét coi.

 Thì 2 lộ trình này nằm ở giữa là Đạo Quả, muốn tới Đạo thì có Parikamma, sau khi Đạo Quả xong rồi thì có Paccavekkhati nên nó là Lộ Trình Tùy Tùng

Sư không dịch là Tùy Tùng nữa, Sư dịch là Vi Nhiễu tức là bao xung quanh. Sư đổi chữ Tùy Tùng lại, Tùy Tùng là đi theo, còn bao xung quanh nó là có đầu có đuôi nó bao lại, gọi là Vi Nhiễu, bao tròn, Đạo Quả nằm ở giữa 

 Parivāravithī gồm có 2 lộ trình tâm là Chuẩn Bị (Parikamma) và Khảo Sát (Paccavekkhati) Muốn đi vô Đạo Quả phải có Lộ Chuẩn Bị , sau khi Đạo Quả xong phải có Lộ Khảo Sát, xem xét, coi lại, thì cái Đạo Quả được bao tròn 2 đầu trước sau nên gọi là Vi Nhiễu.

Giống như cái bánh tét bao chung quanh cái nhân. Cái Vi Nhiễu bọc đầu bọc đuôi, do đó sửa chữ Parivāravithī là có chuẩn bị và có sự Khảo Sát.

Trong cái tu của mình bất cứ cái gì cũng vậy, khi An Chỉ hay Minh Sát, khi Samadhi hay Vipassana thì mình phải có Parivāravithī mình phải có Chuẩn Bị và có Khảo Sát, mình suy tư xét soi, mình cân nhắc lo tu tập, nên phần này cũng quan trọng, chứ không thể nói Tùy Tùng được.

Chữ Tùy Tùng chỉ có một khía, là đi sau lưng mình. Chữ Vi Nhiễu là bao bọc mình ở trong.

Nên con đường tu tập của mình phải có Vi Nhiễu, có sự bao bọc mới an toàn hay là có kết quả tốt được. Nếu không có phần trước mà chỉ có phần sau thì chưa đủ.

Chữ Thuận Tùng và Chữ Tùy Tùng. Chữ Thuận Tùng là theo thứ tự, còn Tùy Tùng thì không theo thứ tự, nó cứ đi theo sau thôi. 

Còn chữ Thuận Tự là thứ tự mà theo lớp lang, còn Thứ Tự là 1, 2, 3, 4, 5. mà không theo lớp lang, có thể là lộ trình này bắt qua lộ trình kia thì chỉ là theo thứ tự thôi. Còn Thuận Tự là theo niêm luật, không có sự nhảy xổ hay nhảy rào được.

Trong phần tu tập, nhà Chú Giải nói, Lộ Trình Nhập Thiền Diệt Nirodhajhānavithī

 Nirodhajhānavithī - Nirodha là Diệt Tắt, jhāna là Thiền, vithī là Lộ Trình

Nirodhajhānavithī dịch Lộ Trình Nhập Thiền Diệt

Hồi xưa HT Minh Châu dịch là Diệt Thọ Tưởng Định

Nirodha là diệt tắt tâm và tâm sở, nó không còn sinh. Thì tâm và tâm sở không sinh nhưng sắc pháp còn để nuôi mạng mình 7 ngày và hơn nữa.

 Hồi xưa chữ Pubbakicca dịch là Tiền Sự nhập Thiền Diệt. Bây giờ Sư không dịch là Tiền Sự (những việc làm trước) bây giờ chữ  Pubbakicca dịch là Thủ Tiên Yếu Tố là những yếu tố đầu tiên chúng ta cần phải làm trước khi ta Nhập Thiền Diệt này.

Trong phần Nhập Thiền Diệt này Đức Phật Ngài không có nói nhưng các Ngài Chú Giải có nói; có 4 điều chúng ta cần phải có (Pubbakicca Thủ Tiên Yếu Tố):

Trong phần Nhập Thiền Diệt có 4 điều (Pubbakicca Thủ Tiên Yếu Tố): cần phải có là:

1. Các vật phẩm không bị tiêu hủy. Các vật phẩm là Tứ Vật Dụng, như; y áo, mùng mền, thuốc men, dày dép, mình gửi người khác giữ để cho mình không bận tâm lo lắng, mình vô định không được, gửi ở xa không phải ở trong tịnh thất của mình. 

 2. Bổn Sư Triệu Tập. Là Đức Phật Ngài Bổn Sư của mình, Ngài cần có sự minh chứng, hay là sự chứng minh của mình là một minh chứng, có người lại mét người ta thưa, mà ai là người nhân chứng câu chuyện này là đúng hay sai thì đều là mình, thì Ngài gọi một cái thì mình đang nhập Thiền Diệt mình xin xả thiền liền.

Nhập Thiền Diệt  là 2 bậc; bậc Bất Lai và Vô Sinh. Thất lai và Nhất lai không vô được. Nhập Thiền Diệt này tiêu chuẩn của người đó phải là đắc chứng tám định hay ngũ định. Bát định là người lợi căn, người độn căn là ngũ định.

Có 5 chi thiền cho người độn căn, người lợi căn thì 4 tầng thiền không cần qua phần chuẩn bị do đó họ vô liền thì họ có 4 tầng thiền thôi. Nên trong pháp thiền Samadha có Bát Định và Ngũ Định.

8 định là: 4 Sắc Giới và 4 Vô Sắc Giới. 

Nirodhajhāna có 2 tiêu chuẩn, phải là bậc Bất Lai và bậc Vô Sinh mới vô được, mà Bất Lai và Vô Sinh phải là những người có Bát Định hay Ngũ Định, Sơ Thiền Nhị Thiền không vô nổi. Nhưng khi họ Vô Bát Định Ngũ Định họ phải vô thiền cơ bản của họ cái nền gốc của họ đắc chứng định họ mới giữ tâm mình ở đó, rồi khi họ vô thiền định của Nhập Thiền Diệt này là họ phải tới Phi Tưởng Xứ, tại vì họ mới cắt đứt tâm họ không sinh lên, lúc đó tâm cắt đứt liền, cắt 7 ngày luôn, 7 ngày đó họ ngồi không sinh tâm nào, tâm họ trống chơn. Chính do đó một số các vị Thiền Sư mà họ hành thiền Samadha họ nói là "Tâm Không". 

Thứ nhất, "Tâm Không" sẽ lộn với 2 từ ngữ Tâm Không là không phải Nirodha.  

Thứ hai, Ākiñcaññā là tầng thiền thứ 3 của Vô Sắc Giới. Tầng thiền thứ nhất là Không Vô Biên Xứ (Akāsānañcāyatana), tầng thiền thứ hai là Thức Vô Biên Xứ (Vinnànancàyatana), tầng thiền thứ ba là Vô Sở Hữu Xứ (ākiñcaññāyatana) là không có tâm, họ không có một đề mục nào hết, thì gọi là Thiền Không, Natthi kiñci = không có chi, họ để tâm trống thì bị lầm với Nirodhajhāna

1. Thiền Diệt Nirodhajhāna là sau Phi Phi Tưởng Xứ là bậc Bất Lai Vô Sinh.

2. Vô Sở Hữu Ākiñcaññā, tầng thiền thứ 3 Vô Sắc Giới là tâm không bắt một đề mục nào hết, có đề mục nào khởi lên họ bỏ, họ chỉ giữ tâm yên không bắt đề mục, lúc đó là Natthi kiñci = không có chi. Khác với suññatā - rỗng không.

Thì khi muốn làm được cái đó thì phải có 8 định và 5 định. Muốn vô Thiền Diệt phải có 2 yếu tố:  Bất Lai Vô Sinh, và Bát Định hoặc Ngũ Định. 

Sắc Giới có 2 loại: 5 tầng và 4 tầng, người lợi căn tứ thiền, người độn căn 5 thiền vì có chuẩn bị trước do đó thành 9 thiền.

Mình đang nói về thiền An Chỉ.

Nirodhajhāna là Diệt Thọ Tưởng Định hay là nhập Thiền Diệt, dành cho hai bậc là Bất Lai và Vô Sinh, điều kiện là Bát Định hay Ngũ Định An Chỉ Samadha. Trước khi vô Thiền Diệt là tầng cuối cùng là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là họ đi vô tâm này, Bất Lai thì vô tâm thiện, còn Vô Sinh đi vô tâm Duy Tác Phi Phi Tưởng Xứ, còn Bất Lai thì Thiện Phi Phi Tưởng Xứ. Thì khi không vô 2 tâm đó thì phải là 4 điều kiện đầu tiên họ phải việc thiện (4 Thủ Tiên Yếu Tố).

Nhưng ngày nay còn 3 điều thôi, thì trong Bổn Sư Triệu Tập là Đức Phật cần gặp mình thì mình phải xuất thiền ra, không có chậm trễ. Mà Đức Phật ngồi ở đâu cũng vậy, Ngài nói "Sariputta, Như Lai cần." Thì Ngài Sariputta xả thiền và bay tới Ngài. Đức Phật chỉ nói ngay tại giảng đường của Ngài ở chùa Kỳ Viên. Ngài nói: Sariputta, Như Lai cần." Là xả thiền ra liền, cái đó là tiên quyết. Họ phải lập tâm kỳ nguyện.

Đó là điều thứ 2, Bổn Sư Triệu Tập.

Điều thứ 3 là 3. Tăng Chúng Kỳ Vọng: Là Chư Tăng họ cần gặp mình 

4. Viễn Trình Kỳ Hạn là không quá 7 ngày, tuổi thọ của họ dưới 7 ngày thì không vô, trên 7 ngày thì họ vô, Bất Lai, Vô Sinh cũng vậy.

Khi một vị đó là Bất Lai hay Vô Sinh, 3 điều này: (1. Vật phẩm không bị tiêu hủy, 2. Bổn Sư triệu tập, 3 Tăng chúng kỳ vọng), họ vượt qua hết, họ nguyện rằng:  nếu như Phật cần gặp ta xin cho được xuất ra, nếu Tăng cần gặp ta xin cho được xuất ra, nếu vật phẩm của ta bị hư hoại xin cho được xuất ra tới bảo vệ nó. Họ nguyện xong rồi.

Nhưng tới Viễn Trình Kỳ Hạn này là xét vô liền, họ biết, tức là tuổi thọ từ đây tới tuần sau họ còn hay không thì họ biết là họ hết rồi, họ còn 4 ngày, còn một ngày nữa, cái đó là cái năng lực Balamat của họ biết. 

Thì lúc bấy giờ thay vì họ vô nhập Thiền Diệt họ đi tiến tu Vipassana tới Đạo Quả luôn dành cho người Bất Lai. Khi họ biết họ không quá 7 ngày thì họ đi Vipassana chứ không đi Nirodhajhāna nhập Thiền Diệt.

Trường hợp người Vô Sinh mà họ biết họ không quá được 7 ngày thì họ nguyện xin cho họ ra, họ nói lời từ giả pháp hữu của họ các bạn đạo của họ xong họ ra đi, để đi Vipassana. Thì ở đây, Vipassana được nhắc đến. 

Sư nhắc quí Phật tử nhớ khi khỏe mình hành Balamat, khi  yếu  mình hành Vipassana mình thấy rõ pháp tướng hơn.

Vì thế, Vipassana phải được để ý tới khi mình có những điều kiện mà mình cần lưu ý, thí dụ như mình không khỏe, bữa nay trong người mình không an thì mình đi Vipassana.

Cái chỗ này, Vipassana khi mình yếu, mình bịnh mình đi Vipassana, lúc đó mình thấy được tam tướng (Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã) dễ, cái đó mới là thực tướng, còn khi khỏe mà đi Vipassana có khi nó không ra thực tướng mà nó ra ảo tướng, nó ảo theo tư tưởng mình nghĩ ra chứ không phải là thực. Vô thường mình không thấy được khi mình khỏe, khi mình bịnh hay mình yếu thì mình mới thấy Vô Thường, mình còn khỏe mình nghĩ là mình thấy Vô Thường thì chuyện đó không có mà là do mình nghĩ thôi.

Viễn Trình Kỳ Hạn là có lời khuyên của các nhà Chú Giải là khi mà không đủ tuổi thọ 7 ngày cho lộ trình nhập Thiền Diệt thì nên đi Vipassana tốt hơn là đi Thiền Diệt.

Như vậy mình đúc kết:

Khi mình đến tuổi thọ của mình gần thì mình đi Vipassana, như khi nào bị bệnh hay đang bị nằm trong nhà thương hay trong trạng thái khổ đau mình đi thiền Chỉ không được thì mình đi thiền Vipassana liền, đi Minh Sát Tuệ mình bắt Tam Tướng dễ, nhất là tướng Khổ dễ hơn hay là tướng Vô Ngã thấy dễ hơn trong thiền Chỉ tâm mình không an không trụ được.

Trong đời sống hàng ngày khi khỏe thì hành Balamat, trong cái hành Balamật thì mình xen kẽ Vipassana được. Bổ túc Balamật trong Vipassana.

Trong các khóa tu, sáng trưa đi Balamật, tới chiều đi Vipassana đi Minh Sát Tuệ rốt ráo cho Balamật của mình, cái đó xen kẽ nó đan vô mới có kết quả.

Vậy thì cũng vậy, buổi tối sau khi đi làm về mệt mỏi thì thiền Vipassana.

Vị Bất Lai hay vị Vô Sinh, trước khi vô Thiền Diệt  kéo dài 7 ngày, sau khi họ biết 4 điều Thủ Tiên Yếu tố thì họ biết họ không có đủ 7 ngày để vô trong Thiền Diệt thì không vô Thiền Diệt mà đi Vipassana. Họ phải biết trước 4 Thủ Tiên Yếu Tố (1 là Vật Phẩm không tiêu hủy, 2 là Bổn Sư triệu tập, 3 là Tăng chúng kỳ vọng, 4 là Viễn Trình Kỳ Hạn) họ phải biết trước, trong thời gian họ nguyện họ phải biết. Hai điều họ phải biết trước là Viễn Trình Kỳ Hạn là thứ nhất, thứ hai là Vật Thực Không Tiêu Hủy, cái đó là cá nhân của họ, còn 2 điều Bổn Sư Triệu Tập và Tăng Chúng Kỳ Vòng là yếu tố khách quan.

Sư nói lại. Bậc Bất Lai khi họ quán sát 4 điều Thủ Tiên Yếu Tố trước, 4 điều đầu tiên để họ thực hiện phải đi qua 4 bước này để đi tới, thì tới bước thứ 4 Viễn Trình Kỳ Hạn họ xét lại họ không đủ 7 ngày thì họ không đi vô Thiền Diệt mà họ đi qua Vipassana. Họ không đi vô Thiền Diệt vì không có kết quả.

Trong Lộ Trình Tâm Viên Tịch Niết-bàn mà là đạo quả đặc biệt. Có nhiều yếu tố chúng ta cần lưu ý. Thì yếu tố Đắc Đạo Tuyệt Mệnh, tức là những người đắc đạo xong thì họ chết Ngài Tịnh Sự dịch là Đắc Đạo tột Mạng, chữ tột nghĩa là tột cùng thi không đúng với chữ tuyệt mệnh.

Đắc Đạo Tuyệt Mệnh có 3 yếu tố căn bản, hay là 3 trường hợp xảy ra: 

1. Có người hãm hại mình, tha nhân hãm hại mình.

2. Tự mình hủy diệt mình.

3. Tử vong thông thường

Ông Bàhiya ông muốn đi xuất gia, tới Đức Phật Ngài độ xong rồi Đức Phật nói đi lấy y bát rồi trở lại Như Lai cho xuất gia, trên đường đi bị bò húc ngã xuống chết, đó là bị hãm hại nhưng ông đắc Đạo Quả Alahan ngay khi bị bò húc và ông giải thoát luôn.

Thứ hai là tự hủy diệt tức là họ muốn giải thoát. Trong thời khủng hoảng thì có một số Chư Tăng thời Đức Phật sau khi được nghe thế gian này là vô ngã, thì họ không nghĩ bản ngã này nữa, họ tự sát, họ nhờ người khác sát hại họ, người bạn dùng con dao cạo tóc cắt đứt mạng sống giùm người bạn mình. Đó là trường hợp thứ hai tự hủy diệt.

 Nhưng quí Phật tử nhớ là tự hủy diệt là phạm giới sát sinh, khó mà đắc đạo quả vì phạm giới, có khi còn bị đọa sau khi chết. 

Thứ ba là tử vong thông thường là hết tuổi thọ, vừa hết tuổi thọ họ đắc đạo quả luôn, có trường hợp như vậy. Tức là người hành giả này họ giữ niệm sát sao liên tục cho tới ngày họ nhắm mắt, tới hơi thở cuối cùng họ bắt được quả vô sinh họ tuyệt mệnh luôn. Đó là tử vong thông thường.

Những trường hợp này, Đắc Đạo Tuyệt Mệnh này có 3 yếu tố căn bản hay là 3 trường hợp xảy ra thường có. Thứ nhất là bị người ta hãm hại hay bị chúng sinh hãm hại mình, họ đắc đạo quả ngay khi lúc đó. Trong khi đó họ phải nhìn Tam Tướng; Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã. Và mình không có quyền được nói rằng một tướng nào hết, họ biết chứ mình không nói được. 

Nhìn góc độ họ bị bò húc thì mình nói họ bị chính cái khổ đau họ đắc đạo quả, không có, có khi họ nói Vô Ngã, có khi họ thấy Vô Thường.

Do đó, con đường Đạo Quả này mình không đoán được.

Thứ hai nữa là họ đắc Đạo Quả họ tuyệt mệnh luôn, họ đâu có kể cho mình biết là họ đắc được Vô Ngã rồi họ mới đi.

Câu hỏi: Tự Hủy Diệt thì làm sao đắc đạo được?

Tâm họ mạnh lắm, họ tự hủy diệt này mình trên góc độ nhìn thấy họ diệt mạng sống, nhưng thật ra họ đang tự hủy diệt ái dục của họ, họ dùng cái tâm để diệt ái dục hết mạng sống họ đi.

Mình phải nhớ công thức đi tục sinh vì Ái Dục, mầm móng đi tục sinh gọi là Tập Đế sinh ra Khổ Đế là bởi Ái Dục. 

"Chúng sinh già chết khổ sầu bởi do pháp dục dẫn đầu vô minh."

Do Ái Dục dẫn đi, do đó khi tự hủy diệt trên góc độ mà nhìn họ diệt Ái Dục chứ không phải họ diệt mạng sống.

Thí dụ, họ nghĩ khi ta ăn là ta cần nuôi dưỡng mạng sống này, nhưng ta ăn ta cần tăng trưởng cái Ái Dục của ta lên, khi ta ăn cái Ái Dục càng đòi hỏi thêm, do đó họ nhịn ăn, họ không giết, họ không đụng tới xác thân họ, nhưng họ không cho thực phẩm vô nữa, giống như cái xe mình không có đổ xăng nữa, cái xe tự ngưng. Do đó, góc độ tự hủy diệt này là họ diệt Ái Dục để ngưng mầm sống hay là mầm sinh, cái đó vẫn có trường hợp đó, vẫn đắc đạo tuyệt mệnh. Chứ không phải mình nói rằng tự hủy diệt mình là phạm giới sát sinh thì không đắc đạo quả được trong trường hợp này. Mình tìm cái lý về chi pháp thì mình ra được cái pháp đúng. Thời Đức Phật họ diệt Ái Dục dữ. Ái Dục là yếu tố dẫn đi tục sinh, họ nhắm vô cái đó nhiều chứ họ không nhắm vô cái vô thường.

Nên khi mình nói Đắc Đạo Tuyệt Mệnh có 3 yếu tố này thì phải nhớ chữ có người ta hãm hại mình, đó là Dị Thời Nghiệp. 

Rồi cái Tự Hủy Diệt là Thường Cận Y. 

Cái Tử Vong Thông Thường là Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y.

 Thiền sinh hỏi: Tự hủy diệt có khi nào là họ diệt cái bản ngã không?

HT trả lời. Không, diệt bản ngã là họ kẹt, họ dính vô cái ngã của họ 

Vật Phẩm Tiêu Hủy là những tư cụ là những vật cá nhân, những vật riêng tư của mình như y áo, bình bát, dép, mùng hay là những dụng cụ lọc nước mình phải gửi người khác mình không có mang theo./. 


No comments:

Post a Comment