Monday, April 4, 2022

Vi Diệu Pháp 20 - Tâm Thiền Thiện Sắc Giới (Kusalarūpavacaracitta)- TT Sán Nhiên

 Tâm Thiền Thiện Sắc Giới (Kusalarūpavacaracitta):- Vi Diệu Pháp 20 - TT Sán Nhiên

Vì 2 videos 18 và 18 New chỉnh lại đều là của video 15 để qua, và video 19 nói về Tâm Duy Tác đã giảng trong video 15. Do đó Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 20" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Hôm nay chúng ta đi qua phần Tâm Thiện Thiền Sắc Giới. 

Thiền-na trong danh từ Pali là Jhana, âm là Thiền-na chứ không dịch. Giống như chữ Buddha mình âm là Phật chứ không phải là nghĩa. Chữ Buddha dịch là Đấng Giác Ngộ. Do đó khi ta nói Thiền-na là âm từ Pali, Jhana. 

Jhana (Thiền-na) có hai ý nghĩa là:

1) Chăm chú vào đối tượng.

2) Thiêu đốt pháp nghịch. (Pháp nghịch có 5: Tham, Sân, Trạo hối, Hôn thùy, Hoài nghi)

Vậy thì khi ta nói tới Thiền-na, một vị hành giả tiếng Pali là Yogi. Ngày hôm nay nói tới pháp môn là Yoga, tức là những hành giả Yogi tu tập định tâm, do đó ta không dùng danh từ tu tập để định tâm mà ta chỉ nói là Yogi hay Yoga là những hành giả đang tu tập mà thôi, chứ thực ra khi ta nói chữ Yogi với môn pháp Yoga họ là những hành giả đang tu tập trao dồi cho tâm họ được an trú định tâm.  Những từ ngữ này nằm trong góc độ của Thiền-na, Jhàna.

Chữ Jhana có hai ý nghĩa lớn là chăm chú vào đối tượng và cùng lúc thiêu đốt pháp nghịch, cùng một lúc chứ không cái trước cái sau. Khi ta chăm chú vào đối tượng và khắn khích với đối tượng tâm ta diệt những pháp nghịch với nó. Nếu tâm ta không chăm chú được đối tượng thì tâm ta bị pháp nghịch lôi kéo ta ra khỏi trạng thái trú tâm vào đối tượng ta đang có. 

Thí dụ như qúi Phật tử đang nhìn vô cây viết, mắt thì nhìn vô cái viết nhưng tâm qúi Phật tử đang nghĩ tới việc nhà của qúi Phật tử thì qúi Phật tử chưa có trú tâm, cái đó chỉ là tướng nhìn thôi chứ không phải tâm nhìn để mình thấy được đối tượng mình đang muốn nhìn tới.

Do đó, khi ta nói tới Thiền-na (Jhàna) không thể gọi Jhàna là Thiền-na một cách đơn giản, chúng ta phải nói là:

- Những phương pháp xưa kia Đức Phật Ngài dạy chăm chú đối tượng thiêu đốt pháp nghịch. Hôm nay chúng ta đang hành tu tập ta gọi là ta hành thiền.

Chứ thực ra không có nghĩa đó.

Tiếng Pali gọi là tu tập hành thiền là "bhàvanà", chứ không có nói ta hành thiền là Jhàna được. 

Thì khi tu tập hành thiền bhàvanà, có hai loại phương cách là Chỉ và Quán.

Chỉ là Samadhi hay là Samadha

Quán là Vipassana

Thì nói như vậy, khi ta tu tập với hai phương pháp Chỉ và Quán, ta là một hành giả Yogi hay Yoga.

Do đó, từ ngữ bhàvanà là tu tập sát cạnh hơn là từ ngữ Jhàna Thiền-na mà chúng ta đang là Yoga hay là Yogi, là chúng ta đang trao dồi con đường làm sao tâm của ta gột rửa những phiền não để tâm ta an trú lắng đọng tâm xuống để an tịnh tâm ta lại thì ta đang gọi là tu tập trao dồi hành thiền Chỉ và Quán để tâm ta được an trú an tịnh. Do đó, nghĩa đó mới có ý nghĩa được. 

Khi ta tu tập phương pháp nào trong hai phương pháp Chỉ và Quán qúi Phật tử đang gọi là trao dồi làm cho tâm ta được khắn khích đối tượng mà ta đã chọn và, chúng ta đang tiêu diệt những pháp nghịch còn bùng nổ lên quậy phá trong khi ta đang chăm chú vào đối tượng.

Hành thiền tức là chúng ta đang hành trạng thái chăm chú đối tượng và thiêu đốt pháp nghịch. Hành thiền là tu tập Chỉ hay là Quán. Chứ không thể nói hành thiền đơn giản là chúng ta chỉ nói chúng ta lợi dụng từ ngữ thiền hay là ta chưa nắm rõ được ý nghĩa chữ Thiền-na do đó chúng ta không có đi sâu vào để lấy được chất phẩm của Thiền-na hay con đường ta đang tu tập. 

Trên con đường đi đến đạo quả Niết-bàn hành giả nào hay người Phật tử nào cũng vậy, phải tu tập hai phương pháp Chỉ và Quán và dốc lòng trao dồi phương pháp đó theo cách của Thiền-na (là chăm chú vào đối tượng và cùng lúc thiêu đốt pháp nghịch) để đạt được đạo quả Niết-bàn hay là chứng đắc Thiền. 

Trên con đường tu tập với hai phương pháp Chỉ và Quán nỗ lực tiến tu trao dồi Thiền-na ta sẽ thành tựu được kết quả của nó. Thì phương pháp Chỉ và Quán, vận công tu là Thiền-na, đạt được kết quả tâm đắc định, hay là đắc đạo quả giải thoát.

Khi ta dùng phương pháp mà ta dụng công tu tập như vậy chúng ta sẽ đạt được kết quả nếu là thiền Chỉ thì đắc định, còn thiền quán thì đạt đạo quả Niết-bàn giải thoát. Ta phải nắm rõ được 2 ý nghĩa đó thì chúng ta sẽ có kết quả.

Nếu ta tu tập với hai phương pháp Chỉ và Quán nhưng ta không dụng công của Thiền-na là chăm chú vào đối tượng và thiêu đốt pháp nghịch mỗi sát na tâm lúc đang sanh khởi thì ta không đạt được kết quả đắc định hay đắc đạo đắc quả Niết-bàn giải thoát.

Đây là phương pháp, đây là công dụng mình phải rèn luyện tu tập để đạt được kết quả đắc định hay đạo quả Niết-bàn, hai hướng đi rõ ràng.

Do đó, mình phải hiểu đối tượng của mình là gì và mình đang tu phương pháp nào, hay là mình đang trao dồi phương pháp nào và kết quả mình nhắm tới là mục tiêu của nó là ở vị trí nào, chúng ta mới thực hiện được. Còn nếu như qúi Phật tử không có hướng tâm chọn một phương pháp nào mà qúi Phật tử không dụng công trong việc làm phương pháp này để mình đạt đến mục tiêu mục đích nào thì chúng ta đi miên man mãi chỉ tốn hao thời gian công sức lực của mình mà không có kết quả gì cả.

Đó là thứ nhất.

Thứ hai, trong sự tu tập nói tổng quát thì có hai hạng người, chứ không kể hết được nhiều hạng người. 

Người thứ nhất là họ tu gieo duyên cho ngày vị lai có cơ hội để họ đạt đến kết quả chứ không ngay bây giờ. 

Còn người thứ hai dốc lòng tu muốn đạo quả ngay bây giờ. 

Hạng người thứ nhất chỉ là gieo duyên chưa đắc đạo quả trong đời này hay chưa đắc định trong kiếp này, trong thời gian này phải hạ quyết tâm tu tập mỗi ngày đều phải đúng giờ, bận cái gì cũng phải gác bỏ hết, ngồi xuống tu thiền. Đó hạng người thứ nhất, đó là điều tiên quyết, và đó là điều khẳng định và không sai trật và không du di với các vị thiền sư, họ không cần du di vì lý do bệnh hoạn, phải làm như vậy mới là gieo duyên.

Hạng người thứ hai, muốn đắc đạo quả liền, phải gác bỏ hết tất cả sự việc sự tình sự thế lo tu ngày cũng như đêm không nói thời gian, dốc lòng tu rốt ráo tu, đó là hạng người thứ hai. 

Ngoài 2 hạng người đó là những thành phần dự bị khi nào có đủ điều kiện mới vô được hạng người thứ nhất hay hạng người thứ hai, chứ thực ra không đơn giản, do đó khi qúi Phật tử không tu tập đều như vậy thì kết quả mỗi ngày mà qúi Phật tử ngồi thiền không thể nào nói lên một tỷ giá để nhận định so sánh, để định kết quả được.

Với Sư dù bận rộn gì chết sống gì cũng phải ngồi, gục lên gục xuống mệt mỏi bao nhiêu chuyện cũng phải ngồi, mà Sư chỉ là hạng người thứ nhất thôi, Sư không đắc đạo quả được trong kiếp này, tại vì Sư nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng Sư không bỏ và cái ngồi của Sư là phải quả quyết như vậy, mỗi ngày Sư phải lượm lại một chút Sư nhận định được ngày hôm qua, ngày hôm nay, ngày trước Sư phải tìm ra được. Thành ra Sư có nhiều sự nhận xét trong kinh nghiệm Sư đã có. Còn qúi Phật tử không có, tới ngày Chủ Nhật mới ngồi 1 giờ mà trình báo 1 tháng mà nói tôi thấy đủ thứ hết, đó là cái thấy của hàng dự bị. Do đó, Sư chưa nói tới hạng thứ hai. 

Thành ra cái sự mà có theo, có đi, và có để ý, mới có cái nhận xét và có tiếng nói có ý nghĩa được. Còn không theo, không có đi, không có nhận xét, thì khi một buổi sáng buổi chiều khác biệt nhau hết, muôn trùng khác biệt, nhiều muôn trùng đủ thứ trường hợp xảy ra với trạng thái chúng ta đang ngồi xuống.

Do đó, đối với một người tu tập bền bỉ kiên trì kiên cố vững chắc không lung lay bất thối chuyển mới gọi là gieo duyên mà thôi, chứ nếu như mà qúi Phật tử nói đắc đạo quả hay đắc thiền định là qúi Phật tử phải hạ quyết tâm bắt cho bằng được thì mới được chứ còn không thì qúi Phật tử mong được kết quả thế này mà một sớm một chiều là không thể nào có bảng đúc kết trình báo cho các vị thiền sư để có kết quả được, rất là khó.

Chăm chú vào đối tượng thiêu đốt pháp nghịch từng sát na mà tâm ta chưa bắt được, chúng ta khi có khi không, thì kết quả này không thể nào một sớm một chiều mà có được.

Chăm chú vào đối tượng nào?

Có hai là đối tượng ngoại và đối tượng nội. Đối tượng ngoại là đề mục, đối tượng nội là nội tâm, đối tượng chính và đối tượng phụ. Chăm chú vào đối tượng thiêu đốt pháp nghịch luôn luôn hằng có.

Pháp nghịch có 2 là pháp nghịch khách quan và pháp nghịch chủ quan:

-  Pháp nghịch khách quan là trạng thái nó đang hiện bày. 

-  Pháp nghịch chủ quan là nghiệp báo, nghiệp quả trổ sanh cho chính mình.

 Do đó, trường hợp khi một người ngồi thiền và một người nói về thiền mà không nắm được hết toàn bộ, không biết người biết ta thì khó lòng giải quyết được vấn đề ta đang có.

Phương pháp tu thiền từ thời Đức Phật Ngài nói đã được ghi trong kinh và những Thinh Văn đệ tử Đức Phật tu thiền được ghi trong kinh như Ngài Xá Lợi Phật, Ngài Mục Kiền Liên, Ngài Ca Diếp qua các bài kinh Trưởng Lão Tăng Kệ (Theragatha) và Trưởng Lão Ni Kệ (Therigatha), các vị đã đưa ra những kinh nghiệm chứng đắc, qúi Phật tử nên đọc để học kinh nghiệm của các Ngài.

Thi không thể nào nói con đường mình đang đi như thế nào với một biên kiến một tư kiến được nói theo kiến thức mình đang có. 

Chúng ta đang tìm chân lý và mong cầu đơn giản nhất, nhỏ nhất là, mình đạt được kết quả gì trong Thiền Định của mình, thật sự rất là xa vời rất là mênh mông. 

Khi qúi Phật tử hiểu được dụng công của Thiền đúng thật sự là Thiền thì qúi Phật tử thấy con đường tu tập của mình mới có giá trị. Khi qúi Phật tử không thấy cái dụng công của Thiền thì sự tu tập của qúi Phật tử coi một cách thoáng qua thì thật sự đau lòng cho chức năng của Thiền-na có trong giáo lý của Đức Phật để lại con đường đó là con đường sanh trí tuệ, không thể nói được. 

Do đó, qúi Phật tử thấy sự tu tập Chỉ và Quán để đạt được Thiền-na là con đường tất yếu đi đến Trí Tuệ, qúi Phật tử phải khai thác, phải dụng công, phải dùng mọi cách thì lúc đó sự tu tập này được kết quả đắc định, đắc đạo quả, chưa kể hai hạng người chúng ta đang nói ở đây.

Do đó qúi Phật tử sẽ thấy chữ Thiền-na có chiều sâu hết sức là thận trọng. 

Những tâm thiện mà chúng ta đang học đây là những tâm đắc được Thiền, còn qúi Phật tử đang tu là qúi Phật tử đang tu tâm Đại Thiện Dục Giới Tịnh Hảo.

 Khi qúi Phật tử đang hành thiền là qúi Phật tử sài một trong 8 tâm Đại Thiện Dục Giới Tịnh Hảo. Nhưng khi qúi Phật tử đắc được thiền thì qúi Phật tử mới có được tâm thiền này chứ không phải qúi Phật tử đang hành thiền, qúi Phật tử đang tu tập thiền mà qúi Phật tử có được tâm thiền, hai cái đó phải rõ ràng phân biệt nhau.

Trên con đường mà ta tu tập, hành giả tiến tu xử dụng 1 trong 8 tâm đại thiện Dục Giới Tịnh Hảo. Mà nếu như qúi Phật tử hành thiền mà xử dụng 1 trong 8 tâm Đại Thiện Dục Giới Tịnh Hảo thì qúi Phật tử sẽ gặt hái được  50/50.

Qúi Phật tử muốn như vậy thì qúi Phật tử sẽ xử dụng 1 trong 8 tâm Đại Thiện Dục Giới Tịnh Hảo này, nhưng mà có một số qúi vị Phật tử ở đây không chịu 50/50 , nếu qúi Phật tử muốn 50/50 này qúi Phật tử sài hết 8 tâm, nếu qúi Phật tử muốn 75% thì qúi Phật tử cắt bớt những tâm bất tương ưng trí, đừng có sài khi chúng ta đang tu thiền mà chúng ta không dùng trí tuệ mà thấy được pháp thì qúi Phật tử chỉ có 50/50 tại vì 8 tâm đại thiện này chúng ta có tương ưng trí và bất tương ưng trí, còn qúi Phật tử sài hết thì qúi Phật tử không thể nào đạt được kết quả 75%. 

Như vậy thì khi mà 50/50 là qúi Phật tử sài hết 8 tâm, khi ta nghe người ta trình pháp thì ta nói bất tương ưng trí có sẵn luôn, tương ưng trí thì ít thôi mà bất tương ưng trí rất nhiều, do đó khi trình pháp là không có trí tuệ là biết là họ có 50%, nhưng mà họ lên họ trình bày xâu sắc, nhưng mà họ chỉ là 75% tại vì họ biết lọc bất tương ưng trí, họ dùng tương ưng trí để bám theo pháp khi họ đang hành thiền thì họ có nhưng mà mình nói 75% thôi. Nếu mà tương ưng trí vô dẫn thì được 100%. Còn qúi Phật tử mới bất tương ưng trí thanh lọc tâm lấy trí tuệ xâu xét nhưng mà cứ lù đù hoài thì 75%. Do đó, qúi Phật tử thấy, có học thì mình biết góc độ của hành giả hành thiền ở cấp độ nào biết liền, mình nghe với cấp độ nào, nó có sẵn, nó có chuẩn mực rồi, nên thiền là phải có trí, mà nếu hành thiền mà không dùng trí thì không đạt được kết quả như ý muốn, nó chỉ là phân nửa thôi.

Sư dẫn chứng cho qúi Phật tử. Khi qúi Phật tử chăm chú vào đối tượng, như vậy thì khi đối tượng (hành giả đang đi thiền Chỉ) đối tượng này hành giả đang theo dõi nó, là nó hay là của mình. 

- Nếu đối tượng là của nó và mình nhìn thấy nó và không có mình ở trong đó là mình quán xét mình thấy. 

- Còn nếu như đối tượng này là của nó mà mình thấy mình có trong đó là của mình chứ không phải của nó. 

Sư nhắc lại:

- Đối tượng này là của nó mình chỉ nhìn thấy nó là của nó, mình chỉ nhìn thấy nó thôi, chăm chú nhìn là đối tượng đó là của nó.

- Còn đối tượng mà mình nói là của nó nhưng có mình ở trong đó thì đối tượng đó là của mình.

Sư đi sâu vô chút xíu, Sư đang nói cõi người, giờ Sư vô chi tiết. 

Ví dụ:

- Đối tượng là hơi thở nếu của mình thì nó theo mình, còn nó không theo mình thì mình lầm nó là của mình, mình chỉ thấy thôi, Sư nói Thiền Chỉ thôi, cái đó gọi là 8 tâm đại thiện hay là 4 tâm tương ưng trí hay là bất tương ưng trí là có cái đó.

- Hơi thở là của nó và mình chỉ nhìn nó để biết được nó chứ không phải là của mình để mình biết chủ quan là của mình như vậy là có trí, chỉ theo dõi thôi là mình có trí rồi.

Thứ hai, pháp nghịch lên - chủ quan hay pháp quan.

Pháp nghịch chẳng hạn như, hôn trầm, thụy miên, phóng dật, tham, sân, hoài nghi sanh lên, qúi Phật tử thấy cái đó là chủ quan hay là khách quan? 

- Chủ quan là ta biết nó, nó đến ta đánh nó không được, ta chịu thua nó

- Khách quan là ta không biết nó, nó đến lúc nào ta không hay. Chẳng hạn như đang chăm chú vào hơi thở mà một phút giây nào qúi Phật tử không kịp theo dõi hơi thở, tâm đang phóng ra ngoài, là qúi Phật tử bắt không kịp, nó chạy đi rồi, là khách quan với nó. Con của qúi Phật tử, qúi Phật tử theo dõi ngày đêm mà mình mới vừa lơ đễnh là nó phóng đi liền, đó là khách quan.

- Còn qúi Phật tử theo dõi nó chính xác mà nó vẫn phóng đi được là mình chủ quan quá mình mới bị nó gạt.

Như thế thì pháp nghịch qúi Phật tử chưa phân biệt được cái nào là chủ quan cái nào là khách quan. 

Khi ngồi thiền mình phải tính nắm bắt cái đó nữa mà qúi Phật tử không nắm bắt được cái đó thì 50/50 hoài. Chủ quan không biết, khách quan không biết, nó hay mình không biết nữa rồi mình ôm lấy cái đó mình ngồi cũng ngồi giống như người ta ngồi nhắm mắt.

 Pháp nghịch chủ quan và khách quan.

Đó là đối tượng có pháp nghịch và hai nữa là nghiệp báo nó đến với mình với trạng thái nó đến của nó là của pháp nghịch hai cái đó mình chưa phân biệt được. Đối tượng nó có pháp nghịch và nghiệp báo nó đến mình chưa phân biệt được nó là mình đánh không được.

Do đó, thế nào là chủ, thế nào là khách, thế nào là đối tượng có pháp nghịch và chính nó là nghiệp của mình đang trổ mình phải trả, đó là pháp nghịch, không phân biệt được.

Ví dụ, qúi Phật tử đang ngồi thiền, cơn nhức đầu nó đến, qúi Phật tử phải xả thiền đứng lên, đó là một pháp nghịch, trả lời đó là nghiệp, hay là tại vì qúi Phật tử đang chăm chú quá nhiều vào đối tượng, đối tượng nó làm qúi Phật tử nhức đầu, không có lối thoát ra làm qúi Phật tử nhức đầu. Dụng công quá nhiều làm bong đầu nhức óc, mà khi đó phải làm gì, vì họ không quân bình điều ngự Ngũ Quyền, Tín, Tấn, Niệm, Định. Tuệ, một cách khéo quân bình, họ bị sanh ra họ nói là nghiệp của tôi đang trổ, oan gia nghiệp báo nó đến đòi tôi, tôi ngồi chịu không được. Mình nói một cách khách quan chứ mình không thấy được đối tượng nó có pháp nghịch, mình không quân bình được đối tượng, pháp nghịch nó đến vì đối tượng mà chúng ta đang tu, qúi Phật tử hoang mang vấn đề cho đó là nghiệp báo.

Phải có trí tuệ, mà trí tuệ là con đường văn tư tu, qúi Phật tử luôn luôn phải có, hôm nay qúi Phật tử đang là trí tuệ văn, rồi qúi Phật tử ngồi nghiền ngẫm lại là trí tuệ tư, rồi chút nữa ta ngồi thiền là trí tuệ tu, mình lượm ra được thế nào là đối tượng, thế nào là pháp nghịch, thế nào là khách, thế nào là chủ, thế nào là nó, thế nào là mình, thế nào là nghiệp báo của nghiệp pháp nghịch hay là đối tượng ra pháp nghịch.

Qúi Phật tử sẽ thấy mình đang theo dõi đối tượng một cách trí tuệ và sẽ nhìn thấy pháp nghịch nó đến vì đối tượng hay là nghiệp báo mình đang dụng công tu tập diệt trừ nó.

Đối tượng nào cũng là đối tượng là nó để mình được nhìn thấy nó và hiểu được nó, chớ không phải mình hiểu được nó theo như mình biết được nó của mình có biết được.

Pháp nghịch có 5: Tham, sân, trạo hối, hôn thùy, hoài nghi.

- Tham, ta biết đối tượng làm ta tham, hay ta tham trong đối tượng. Đối tượng làm ta tham ta phải biết. Ta tham trong đối tượng ta cũng phải biết. Đối tượng làm ta tham là đối tượng là nó, mà ta tham trong đối tượng, đối tượng đó là mình, nó là pháp nghịch.

-  Sân, đối tượng làm ta sân, hay ta sân trong đối tượng, ta cũng phải biết, qúi Phật tử không biết là không được. 

Thí dụ, mình chạy xe ngay chạy đúng, người chạy xe trước mặt ta chạy ngang chạy ngược chạy ẩu, thì người đó (đối tượng) làm ta sân (là chủ quan) hay là ta sân với người đó (là nghiệp báo). Do đó, con đường tu ta phải biết được, đối tượng, pháp nghịch, nghiệp báo.

Sư sợ, không sợ vì pháp nghịch, Sư sợ, không sợ vì đối tượng, Sư sợ là oan gia nghiệp báo tái lập lại ta đi vào luân hồi uổng phí cuộc đời tu mình biết Phật Pháp, biết Phật Pháp rồi không muốn oan gia nghiệp báo nữa, đối tượng chỉ là đối tượng, pháp nghịch chỉ là mình thấy mình biết chứ không để tạo ra một oan gia nghiệp báo cho chính mình, do đó phải thiêu đốt pháp nghịch, và chỉ chăm chú đối tượng dưới đối tượng là của nó chứ không phải của mình, đó là qúi Phật tử đang sàn lọc tâm thức mình, người ta bỏ vào bao nhiêu thứ mình phải sàn lọc lại cho tâm thức mình, để mình có cái gì mình muốn có chứ không phải cái gì mình cũng ôm vô hết.

Đó mới là người tu, là thiền-na. Thiền-na không phải là ngồi trong thiền đường, không phải trong giờ ta ngồi thiền tập, mà trong đời sống hàng ngày, trong mọi phút giây ta phải có thiền-na, phải dụng công tu tập để thanh lọc tâm ta đạt được kết quả an tịnh tâm, lúc đó ta mới có phương pháp tu, chứ không phải chỉ tới thiền đường.

- Trạo hối là phóng dật, hối hận, hai pháp đó là pháp nghịch của ta. Ta phóng dật vì đối tượng, hay đối tượng làm ta phóng dật. Xe lửa chạy quá nhanh tâm ta bắt không được, ta phóng dật theo xe lửa. Quạt máy quay quá nhanh ta nhìn không được từng cánh quạt tâm ta phóng dật theo cánh quạt, người đưa tay lên xuống quá nhanh ta không bắt kịp ta phóng dật theo tay người, người ta nói nhanh quá ta không nghe kịp làm ta phóng dật trong khi đang nghe, trạng thái đó là đối tượng của ta hay là ta. Xe lửa chạy nhanh ta không muốn tâm ta phóng dật, việc làm của xe lửa là xe lửa, tâm ta vẫn an trú trong việc của mình có. Quạt máy quay tâm ta vẫn yên ta không bị quay theo nó, ta nhìn tâm ta. 

- Hôn trầm và thụy miên. Đối tượng làm ta bị hôn trầm thụy miên hay là ta hôn trầm thụy miên vì đối tượng, uể oải với đối tượng đó, không hứng thú hay hấp dẫn với đối tượng đó, mệt mỏi chán chường với đối tượng đó, tâm ta hay là đối tượng đó làm cho ta hiện bày cái đó. 

- Hoài nghi. Việc đó ta không biết hay, việc đó làm cho ta không biết ta sanh nghi. Công thức đó, bài bản đó, người ta đưa mình làm cái bánh đó, qúi Phật tử nấu cái bánh xong bánh bị khét ta nghi người chỉ không kỹ, ta khởi sanh tâm hoài nghi. Qúi Phật tử làm khét bánh là do qúi Phật tử không biết làm hay là người chỉ qúi Phật tử làm không kỹ. Do đó hoài nghi này vì ta không biết pháp ta sanh hoài nghi, ta biết pháp ta đâu có hoài nghi.

Những pháp nghịch mà qúi Phật tử không biết đó là vì đối tượng ta chưa thông suốt hay là nghiệp che lấp ta không thấy được đối tượng, pháp nghịch đang hiện bày, qúi Phật tử phải nắm bắt cái đó. Khi việc gì Sư không biết Sư không dám làm, mà một khi Sư biết và làm thì Sư không có hoài nghi, chắc chắn Sư có niềm tin Sư mới làm được. Giữa người có niềm tin và rõ biết khác biệt với người không rõ biết và niềm tin không có là hoài nghi luôn luôn có. Vậy thì sự hoài nghi này là oan gia nghiệp báo nó rượt đuổi ta bao nhiêu lâu nay tại ta không tìm cầu con đường giải đáp hoài nghi của ta về trí tuệ, thì đó là pháp nghịch của đối tượng.

Do đó ta phải biết Thiền-na, ta chăm chú đối tượng này phải có câu hỏi để làm gì. Ta thiêu đốt pháp nghịch để làm gì? 

Từ câu hỏi đó ta mới dụng công được, ta chăm chú đối tượng để ta hiểu được đối tượng, không phải mục đích của Thiền-na, ta phải đi tới mục đích của ta. Thiêu đốt pháp nghịch để chúng ta thắng được đối tượng với pháp nghịch đang có để đi tới một cái Niết-bàn. 

Do đó có những người tu mà không đặt câu hỏi, tôi chăm chú đối tượng này để làm gì không phải để ta chinh phục đối tượng, con cóc nó búng nhanh hơn ta hay là ta quản lý nó ta rượt nó mà nhanh hơn nó búng không kịp để làm được cái gì, giữa mình với nó hơn thua để làm cái gì, ta không đặt cái đó, thì cái đó mới là Thiền-na

 Do đó biết bao nhiêu vị ngồi thiền và cả các vị thiền sư, tôi chăm chú đối tượng, tôi hành thiền, cái câu hỏi để làm gì? phải có mục tiêu.

Đây chỉ là một phương tiện đang dụng công, phải đắc định đắc đạo quả, con đường đó ta chưa đi tới, phải đi tới không được dừng lại. 

Tôi thiêu đốt pháp nghịch, tôi là người chiến thắng. Chiến thắng trên sự chiến thắng của pháp nghịch đó để mình ở lại nơi đó mình sẽ là một pháp nghịch của mình ở tại nơi đó chứ không phải là mình đã diệt các pháp nghịch trong cuộc đời mình đang tu tập. Chính cái đó qúi Phật tử không có.

Ta chưa dừng lại được, ta phải đi nữa để đạt đến mục đích của ta, đây là một phương tiện chưa đạt được cứu cánh thì ta còn phải đi, chưa dừng lại được, thì lúc đó con đường tu tập của ta còn phải dụng công Thiền-na.

Thiền sinh: Thưa Sư, trong Thiền-na mình chăm chú vào đối tượng, mà đối tượng có hai phần là nội phần và ngoại phần, thì ở ngoại phần thì dể hiểu là mình thấy nó không liên hệ gì đến mình, mình cũng không cần quan tâm đến nhiều, nhưng mà nội phần thì mình lại phân biệt nó là của ta hay không phải của ta, thì phần này con cũng còn thắc mắc, con cũng chưa rõ định được phần đó, còn thiêu đốt pháp nghịch, thì cũng vậy, nếu mà pháp nghịch đó ở ngoài thì theo chủ quan với khách quan thì con thấy rằng cái gì mà không làm cho mình lợi lộc cho tâm mình an lạc thì mình coi như là cái đó là pháp nghịch?

TT trả lời: Không phải như vậy, khi qúi Phật tử nói về đối tượng ngoại phần hay nội phần, qúi Phật tử nói nếu đối tượng ngoại phần để qúi Phật tử nói để hiểu thôi chứ quan trọng là qúi Phật tử coi đó đối tượng nội phần để điều chỉnh để cho cần thấy, cả hai điều đó là mình dễ khinh xuất, đối với người tu tập dù của nó hay của mình luôn luôn lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác, chính nó cho ta bài học, chính mình cũng cho ta bài học, chứ không phải nó không cho ta bài học chính mình mới dạy ta bài học, cả hai đều có hết. 

Qúi Phật tử sẽ thấy nếu như người mẹ mà không có tâm lý của đứa con thì khó lòng dạy được đứa con vì chính nó cho ta bài học là tại vì ta coi thường nó, bài học đầu tiên nhất mình dạy không được nó vì mình coi thường nó, chứ nếu ta thận trọng ta coi chính xác nó và ta rõ biết nó ta hiểu biết con đường ta phải làm việc với nó thì ta không thể nào bị nó cho ta bài học được, cái đó qúi Phật tử không nên nói ngoại phần là nhẹ nội phần là chính là quan trọng, không phải, mà cái nào cũng cho ta bài học, cái nào ta cũng phải lượm được hết, chứ đừng coi cái này chính cái kia nhẹ.

Thế nào là nghịch, pháp nghịch nào là chủ, nào là khách. Qúi Phật tử biết cái nào là chủ, biết cái nào là khách để mà hiểu được thì qúi Phật tử đạt được 75%, hay 100%.

Khi pháp nghịch đó là tham, con người mình vốn hay tham, gặp cảnh thường hay tham, cảnh lôi cuốn hấp dẫn làm cho mình tham rồi mình khởi sanh tâm tham, từ trước giờ mình không có tánh tham mà giờ thấy cảnh lôi cuốn hấp dẫn này thì sanh tham. Thì cái đó là chủ hay khách, mình phải coi. Cái người thường tham, thấy tham không biết mình tham do đó không thấy mình tham, còn người chưa từng tham mà bây giờ bộc tham lên thấy rõ mình có tham thì xấu hổ. 

Người từng sân khi sân không biết mình sân, người thường tham khi tham không biết mình tham, những người đó thường chủ quan và không bao giờ thấy được pháp nghịch của nó đang có, mà chỉ thấy pháp nghịch của mình đang tạo ra để có pháp nghịch mà thôi. Lúc đó qúi Phật tử ở trong 2 vị trí đó. 

Thiền sinh: Thưa Sư, con thấy Sư nói Thiền-na là chăm chú vào đối tượng, khi mà đối tượng là cái bánh ú 3 mặt là thấy sự kiện nó xảy ra .

TT trả lời: Sư đang nói về thiền Chỉ thì không có thí dụ bánh ú 3 mặt là của thiền Quán. Thiền Chỉ thì chỉ theo dõi hơi thở vô ra, hơi thở vô biết hơi thở vô, hơi thở ra biết hơi thở ra mà thôi, tham khởi lên biết tham, sân khởi lên biết sân, hôn trầm khởi lên biết hôn trầm, mình thấy nó thôi.

Khi qúi Phật tử ngồi thiền-na, qúi Phật tử thấy lời Phật dạy hay là mình hiểu giá trị của Đấng Giác Ngộ, lời Phật dạy là cái giỏ bên ngoài mà hiểu giá trị Đấng Giác Ngộ là thâm thúy chiều sâu hành thiền Đức Phật đã có mình mới hiểu được ý nghĩa, qúi Phật tử phải giác ngộ chứ không phải lời Phật dạy mới ra được, chứ qúi Phật tử đứng bên ngoài thì không có ý nghĩa.

Chúng ta đi tới con đường ta đang tu. Vậy thì, khi chúng ta ngồi Thiền Chỉ là phải đạt đến mục đích của ta là đắc Định. Chăm chú đối tượng này ta phải nhắm tới, thiêu đốt pháp nghịch này cũng phải nhắm tới đó và cả hai chăm chú đối tượng và thiêu đốt phải cùng một lúc nhắm về hướng đó chứ không phải cái trước và cái sau mà, làm cùng một lúc. Giống như chiếc máy bay đang chạy trong phi đạo chuẩn bị bay lên bầu không gian, chiếc máy bay đó bắt buộc phải rời khỏi phi đạo mới cất cánh bay lên, mà nó chạy hoài chưa bay lên, khi nó muốn đi lên thì bắt buộc nó phải rời khỏi phi đạo thì nó mới đi lên được, thì cái đó cùng một lúc chứ không phải là so le. Thì qúi Phật tử chăm chú đối tượng thấy được mục đích của ta thì pháp nghịch ta phải cắt đứt liền ta mới đạt được sự chăm chú đối tượng để đạt đến mục đích của ta được.

--------------------------

Còn tiếp phần I I - Thiền Chỉ


4 comments:

  1. Em đã tải xuống, cảm ơn Chị nhiều. Chị giữ gìn sức khỏe nha.

    ReplyDelete
  2. Kính tri ân đạo hữu ghi chép. Công đức vô lượng.
    Xin được phép tải vào trang của nhóm patthana.com
    Metta

    ReplyDelete
    Replies
    1. Sadhu lành thay. Dạ, rất hoan hỉ, xin đạo hữu tùy hỉ tải về trang nhà,thật là công đức vô lượng cho việc truyền tải giáo pháp.


      Delete