Monday, January 10, 2022

Vi Diệu Pháp 14 - Tâm Vô Nhân (tiếp theo) - TT Sán Nhiên

 Tâm Vô Nhân (tiếp theo) - Vi Diệu Pháp 14 - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 14" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Hôm nay trước khi học tiếp Tâm Vô Nhân, chúng ta ôn bài tuần trước học về Tâm Vô Nhân có những loại tâm phát sanh lên không có nhân tương ưng là những nhân kết hợp với tâm thức để biết cảnh, là trạng thái hiểu biết tâm thức đón nhận được, như tâm tham là tâm có nhân tham kết hợp với tâm được gọi tâm tham, là những tâm hữu nhân. 

"Tâm" tiếng Pali là "Citta", ngữ căn là "Cit" là trạng thái suy nghĩ hay những trạng thái tư tưởng nghĩ suy trong đầu óc sanh khởi lên. Thì từ ngữ căn là chữ "Cit" nếu dịch ra là "cái biết". 

Thì "Tâm" là cái biết, nguyên thủy của tâm giống như một ly nước trong, là một đơn vị thuần túy, đơn vị độc nhất không bỏ thêm gì vào. Rồi từ ly nước trong chúng ta phải bỏ cái gì vô thì nước đó được đổi tên, thí dụ như ta cắt miếng chanh vắt vào ly nước trong thì gọi là nước chanh, bỏ đá vô thì gọi là nước đá chanh, thêm đường vô thì gọi là nước đá chanh đường. Thì từ nguyên thủy nước đầu tiên chúng ta bỏ những gì vô thêm thì tên nước được gọi theo những gì bỏ vào gọi tên nó.

 Thì cũng vậy, tâm khi chúng ta bỏ cái gì thêm vô thì tên nó được gọi, như bỏ tham vô thì gọi là tâm tham, khi ta bỏ tánh chất giận dữ, sân hận, oán giận vô thì gọi là tâm sân. Ta bỏ vô cái gì không hiểu biết mê mờ tối tăm thì gọi là tâm si. 

Đầu tiên của tâm chỉ là một đơn vị độc nhất giống như ly nước trong, rồi khi bỏ tham, sân si vào thì gọi là thành phần sở hữu phụ thuộc của tâm còn gọi là tâm sở, tiếng Pali gọi là Cetasika. 

Khi nói đến tâm có đối tượng nó thích thì nó đeo dính gọi là tâm tham, thì đối tượng đó phải là dính mắc. Chữ tham là chữ dính mắc.

Khi nói trạng thái muốn tàn phá hủy diệt đối tượng, thì nó kết hợp với chữ sân, là tâm sở kết hợp với tâm sân hủy diệt đối tượng, tàn phá đối tượng, không muốn đối tượng đó còn tồn tại hiện hữu, nên lúc đó nó phá hủy.

Khi những cái mà nó mê mờ tối tăm không biết đối tượng, thì lúc đó nó có tên gọi là tâm si, nó mê mờ với đối tượng, không sáng suốt với đối tượng. 

Như vậy, tham, sân, si gọi là tâm sở, là những thành phần sở hữu của tâm, phụ thuộc của tâm, gắng bó với tâm như bóng với hình không rời xa gọi là tứ đồng.

- Đồng sanh với tâm.
- Đồng diệt với tâm.
- Đồng biết một cảnh với tâm.
- Đồng nương vào thần kinh với tâm.

Những tứ đồng này luôn luôn gắng bó với tâm. Khi tâm có thì phải có những loại tâm sở kết hợp. Những loại này gọi là những tâm hữu nhân, là vì có những nhân tương ưng với nó gọi là những nhân tương ưng hay gọi là tâm hữu nhân. Nhân đây gọi là nhân tương ưng có sự kết hợp với tâm, hoà trộn với tâm, tương hợp với tâm.

 Trong những tuần trước chúng ta đã học qua là tâm vô nhân là những tâm không có những nhân tương ưng này kết hợp với nó, nên gọi là tâm vô nhân.

Như trước đây ta học về 8 tâm tham, 2 tâm sân, 2 tâm si, những tâm đó gọi là tâm hữu nhân bất thiện, nó có những nhân bất thiện kết hợp với tâm để biết cảnh bất thiện hay cảnh xấu, cảnh không tốt.

Như vậy, chúng ta đã học có 2 loại tâm là Tâm Hữu Nhân và Tâm Vô Nhân. 

Những tâm hữu nhân là có những tâm sở kết hợp với tâm, nó tác động với tâm làm cho tâm tập hợp với những nhân tố đó để biết đối tượng cảnh theo tính chất của sự kết hợp với nhân tương ưng, như nhân tố tham kết hợp với tâm gọi là tâm tham, thì nhân tố này nó đến với tâm làm cho tâm dính mắc với đối tượng. 

Như nhân tố sân kết hợp với tâm ta có tâm sân làm cho tâm muốn hủy diệt đối tượng, tàn phá đối tượng, không muốn đối tượng đó. 
Và nhân tố si kết hợp với tâm gọi là tâm si hình thành ra tâm biết đối tượng là mê mờ không sáng suốt không rõ biết đối tượng.
 
Do đó những tâm này gọi là những tâm hữu nhân.

Kỳ trước đã học qua Tâm Vô Nhân, chúng ta có 18 tâm vô nhân, chia ra làm hai thể loại. 

Những tâm gọi là Tâm Vô Nhân là những tâm mang tính chất là Tâm Quả, một tâm nữa là Tâm Vô Ký hay còn gọi là Tâm Duy Tác, Vô Ký Quả, Vô Ký Duy Tác, những tâm đó ở góc độ không có nhân tương ưng.

Tuần trước chúng ta được học có 7 tâm quả bất thiện vô nhân và chúng ta có 8 tâm quả thiện và 3 tâm duy tác vô nhân cộng chung lại có 18 tâm vô nhân.

Hôm nay trước khi đi tiếp qua phần kế Sư ôn lại cho các Phật tử nắm bắt được biết tâm là một đơn vị độc nhất thuần túy chỉ có một mà thôi. Đơn vị độc nhất của nó nhưng nhiều tính chất của những tâm sở bỏ vô đó thì tên gọi của nó được theo những tính chất mà tâm sở bỏ vào. 

- Nếu ta nói đối tượng của nó là dính mắc thì tâm sở đó được bỏ vào trong trạng thái biết đối tượng đó là một đối tượng có nhân tố tham bỏ vô. 

- Như ta nói một đối tượng không hoan hỉ, ghét bỏ và muốn hủy diệt nó đi thì nhân tố đến với tâm sẽ hình thành như tính chất sân hủy diệt đối tượng, phá hủy đối tượng và, không cho đối tượng đó được tồn tại, thì lúc đó tên gọi của tâm là tâm sân biết đối tượng không hoan hỉ, tàn phá hủy diệt nó.

- Nếu như đối tượng làm cho tâm mê mờ không biết được, như qúi Phật tử thấy có vật thể nào tới mình không biết được nó là cái chi thì lúc đó qúi Phật tử đang ở trong trạng thái một tâm si mê không hiểu biết. 

Còn qúi Phật tử cầm vật thể nào mà biết liền thì tâm đó có trạng thái hiểu biết, hiểu biết góc độ nào, trạng thái có trí hay trạng thái có một kiến thức về vật thể đó nó có tính chất đó kết hợp vô, vậy thì khi những đối tượng đến thì những loại tâm sở của tâm nó đến đúng như tính chất của nó để cho tâm biết được đối tượng thích hợp vừa ý của nó.

Như một nhà sản xuất chế tạo xe, muốn chế tạo ra một chiếc xe thì những thành phần phụ tùng để  ra một chiếc xe phải phù hợp tương xứng với những tính chất của nó, phải kết hợp với nó mới ra được tính chất của chiếc xe. 

Thì những thành phần đó được gọi là những thành phần thuộc về tâm sở hữu thuộc của tâm. 

Thì chúng ta nói cái xe, ta nói những đồ phụ tùng của chiếc xe kết hợp nhau như vậy, chứ còn nếu nói ra thì chiếc xe là một thành phần tổng hợp kết hợp lại mới có, thì ta nói trạng thái biết được một đối tượng là một sự tổng hợp kết hợp lại của tâm và những thành phần tâm sở để biết được đối tượng đó một cách rõ ràng thêm theo khả năng của tâm sở nắm bắt được đối tượng đó.

vậy thì, khi ta nói một tâm sanh ra không thể nào nó có một mình nó được, mà khi nó có thì nó có những thành phần kết hợp với nó ta gọi là những tâm sở, nhưng ở đây có hai loại tâm là Hữu Nhân và Vô Nhân.

Hữu Nhân và Vô Nhân là những trạng thái tác động vô trong tâm để làm cho tâm tái tạo lại với đối tượng đó thì ta gọi là Tâm Hữu Nhân.
Còn những trạng thái chịu đựng đón nhận những gì là quả được sanh ra và chính nó không hưởng cảnh nó chỉ là một trạng thái trổ sanh ra quả. Như trái cây tự nó không hưởng được mà con người hưởng được trái cây, chứ trái cây chính nó là quả nó không hưởng được. 

Nói về tâm quả thì chính nó chỉ hiện bày ra do những hậu quả một tác nhân tạo nó ra thì nó có chính nó gọi là những trạng thái chỉ sinh ra mà nó không hưởng lấy trạng thái của nó nên gọi là Tâm Vô Nhân.

Có 4 loại nhân là: 

1) Hetu Hetu (Nhân Nhân) là những yếu tố hình thành ra tâm, làm cho tâm kết hợp được. Nhân nhân có 6 loại nhân, như vậy thì tại nơi đây nó kết hợp với nhân thì gọi là có 6 loại Nhân Tương Ưng, ta có tham, sân, si, vô tham, vô sân và vô si

2) Paccaya Hetu (Nhân Duyên) là yếu tố tứ đại là một nhân tố tạo ra sắc uẩn hay tất cả sắc pháp thì gọi là Nhân Duyên. Tứ đại là yếu tố hay là một tác nhân tạo ra tất cả sắc pháp trong đời này sắc uẩn hay là sắc pháp, sắc sinh mạng hay sắc phi sinh mạng đều là nhân duyên.

3) Uttama Hetu là Chí Thượng Nhân là nghiệp thiện và nghiệp bất thiện tạo tác ra nghiệp báo cho mọi chúng sanh trong đời này.

4) Sadhāraṇahetu là Phổ Thông Nhân là có mặt khắp mọi nơi ở đâu cũng có mặt. chính tác nhân là vô minh hiện bày ra tất cả chúng sanh có mặt trong đời.

Nhân gian VN thường hay nói "oh, chúng ta có nhân duyên gặp nhau". Chữ "nhân duyên" đó hơi lợi dụng, từ ngữ đó chúng ta chưa rõ. Chúng ta phải nói "mãnh lực nào", hay là, "tác nhân nào làm chúng ta hôm nay có mặt ở đây" chúng ta nói như thế thì rõ hơn, nhưng với những người không học những danh từ chuyên môn thuật ngữ hay họ không biết gì về Phật Pháp thì họ sẽ nói một cách đơn giản theo nhân gian nói sao cũng được. Do đó qúi Phật tử sẽ thấy chữ "nhân duyên" không đơn giản như vậy. 

Khi ta nói Hetu Paccaya ở trong thứ bảy của tạng Abhidhamma chương 1 chính xác "nhân duyên" rất quan trọng, chính tại đó Đức Phật Ngài đưa 24 duyên thì nhân duyên đầu để khai triển cho chúng ta học sẽ thấy rõ tính năng của nhân duyên là quan trọng, vậy thì khi chúng ta nói "nhân duyên nào mà hôm nay ta gặp đây" ta nói như vậy là không đúng, với những người có học thức về Phật Pháp họ ngần ngại trước lời nói đó tại vì khi nói mà không đúng là phạm vào vọng ngữ là nói dối, là nói không chân thực, do đó khi ta nói là "nhân duyên nào", đừng nói vậy mà chúng ta nên nói "tác nhân nào", thì lúc đó tác nhân mà qúi Phật tử sẽ thấy là  Hetu Hetu (Nhân Nhân) , chúng ta chưa nói "Nhân Duyên" được, "tác nhân nào mà chúng ta có mặt ở đây" làm qúi Phật tử sẽ đến đây, tác nhân đó là vô tham, vô sân, vô si, ta có mặt ở trong lớp học này, trong buổi học Phật Pháp này với 3 nhân đó thì ta nói là "Hetu Hetu (Nhân Nhân) làm cho chúng ta có mặt ở đây.

Cũng vậy, khi chúng ta sẽ nói là "nhân nào làm cho chúng ta có sắc thân này" thì qúi Phật tử sẽ nói "Duyên Nhân là tứ đại tạo ra sắc thân này" thì có ý nghĩa hơn.

Khi một hành động trộm cắp hiện bày, hay là một hành động đang trộm cắp sắp được hiện bày thì qúi Phật tử nói "nhân nào mà người đó làm trộm cắp lấy của người không cho" thì trả lời là "Chí Thượng Nhân".

Rồi trạng thái nào mà chúng ta còn bị sinh tử luân hồi mà chúng ta còn sanh sanh tử tử luân hồi mãi không chấm dứt cuộc đời chúng ta cứ lập đi lập lại một cái thói quen hay là chúng ta có trong đời này bao nhiêu cảnh khổ khiến ta nổi giận thì ta nói đó là Phổ Thông Nhân, nhân Phổ Thông ai cũng có không riêng ai khi nào ta còn là phàm, chỉ khi trở thành bậc Thánh nhân mới ra khỏi Phổ Thông Nhân được, mình có là do bởi vô minh. 

Những cái đó khi qúi Phật tử nói như vậy là chính xác là lời dạy của Đức Phật và chính xác lời nói của mình không sai trật, chính xác không phạm vô võng ngữ.

Đó cũng là yếu tố để chúng ta tạo ra nghiệp thiện, hay là con đường chúng ta đang sống cho được hoàn chỉnh không rớt vào những gì bất thiện để phải đón nhận khổ đau. 

Có những người nói "tôi đến chùa tu, tôi sống cuộc đời Phật Pháp trong chùa mà sao tôi khổ hoài", chính lúc đó họ hiểu sai trật nên họ không biết  từng việc nhỏ mà họ không nắm bắt được chính xác, do đó họ đang phạm giới, họ đang bị đứt giới, hay là họ chỉ có một pháp thiện mà lại có nhiều pháp bất thiện và những pháp đó tái tạo trở lại họ, quả báo sanh lên, thì lúc đó họ đón nhận cái khổ ở trên đời mà họ đang nói là họ làm việc thiện không hà, vì họ không nắm bắt được một căn bản nền tảng khi ta làm một cái gì trong đời sống hàng ngày qua, thân, lời và, ý, xuyên qua đó ta tạo ra cái nghiệp, chính cái nghiệp đó làm chúng ta đón nhận cái quả báo nên gọi là lý nhân quả. 
Khi nói lý nhân quả thì không thể nào nói một cách đơn giản được với những người mà chúng ta nói cái hột mít trồng xuống lên cây mít sẽ trổ hoa, thì cái đó đơn giản. 

Nhưng mà, khi ta biết nhân quả thì những lúc ta làm cái nhân nào để cho cái quả này thì ta phải thấy; "Nhân Nhân có, Chí Thượng Nhân có, Phổ Thông Nhân có, nó mới tạo ra Nhân Duyên có, hôm nay ta có mặt trên đời."

Chứ ta không nói đơn giản là nhân quả là hạt giống gieo thì có cây mọc lên rồi chính do đó có hoa quả có trái, không nói đơn giản như vậy. 

Nhân Nhân có, tạo ra Chí Thượng Nhân có là hành động, hành động dẫn đến trạng thái tái tạo lại trong sự luân hồi là Phổ Thông Nhân, Phổ Thông Nhân cho ta có mặt ở trên đời với sắc uẩn này là Nhân Duyên, cái đó ta mới nói là Nhân Quả. 

Còn không thì qúi Phật tử nói một cách hời hợt, nói cách đơn giản và nói một cách không chi tiết như vậy là chúng ta không nắm rõ được từng mỗi vấn đề, như vậy là chúng ta cũng có lúc ta làm lỗi trong lúc chúng ta hành động qúi Phật tử phải cẩn thận, càng biết nhiều chúng ta càng phải cẩn thận nhiều trong mỗi hành động của mình qua, thân, lời và, ý. 

Chúng ta không để bị trong trạng thái "không biết tại sao tôi bị cái này" lúc đó qúi Phật tử đang ở trong trạng thái Phổ Thông Nhân đang chụp lấy mình, qúi Phật tử nói "không biết tại sao ta ở trong cái này" đó là qúi Phật tử đang bị Phổ Thông Nhân chụp lấy qúi Phật tử mà mình nói là "không biết tại sao tôi phải chịu đựng cái này" là qúi Phật tử đang nói lời nói không trung thực ở trong cái Chí Thượng Nhân tái tạo qúi Phật tử mà qúi Phật tử muốn nói, tác ý muốn nói để cho mọi người đều biết là qúi Phật tử đang làm một cái nhân nhân của nó.

Khi ta biết nhiều qúi Phật tử càng phải dè dặn nhiều, bớt nói và, trong khi đó suy nghĩ cho chính xác để chúng ta thận trọng trong thân và lời của mình có thể xảy ra những sự sai trật vẫn có, phải hết sức cần thận.

Đầu tiên là Nhân Nhân đẩy qua Chí Thượng Nhân mà hiện bày được là Phổ Thông Nhân và con người ta có mặt trong đời này là Nhân Duyên. Lúc đầu là do mình tác ý (Nhân Nhân) rồi sanh ra hành động là (Chí Thượng Nhân) rồi hiện bày được là (Phổ Thông Nhân) rồi do Nhân Cuyên ta có mặt trên đời.

Như vậy, sau phần ôn bài, chúng ta học tiếp Tâm Vô Nhân. Nó không nằm trong góc độ của Nhân Nhân. Tâm Tham, Tâm Sân, Tâm Si thì 2 tâm bất thiện chúng ta đã học qua nó nằm trong loại Nhân Nhân, 8 tâm tham nằm trong Nhân Tham, 2 tâm sân nằm trong Nhân Sân, 2 tâm si nằm trong Nhân Si. 

Những phần tới là Tâm Thiện Dục Giới, như những Tâm Đại Thiện, Đại Quả, Đại Duy Tác, hay những Tâm Thiền Sắc Giới, Tâm Thiền Vô Sắc Giới, hay là Tâm Đạo, Tâm Quả, là những Tâm Hữu Nhân là những tâm vô tham vô sân vô si. Do đó, ta gọi những tâm đó là những tâm hữu nhân. 

 Tâm Vô Nhân là:

1 - Thứ nhất, là những tâm biết đối tượng (là cảnh) khi nó sanh ra bắt được cảnh đó nó không có nhân tương ưng kết hợp nên gọi là tâm vô nhân.

2. - Thứ hai, là những tâm thuộc về tính Vô Ký gồm có 2 là Vô Ký Quả, Vô Ký Duy Tác.

3 - Thứ ba, khi nó hiện bày mang đặc tính đón nhận hay thâu bắt đối tượng một cách máy móc, và nó không thụ hưởng đối tượng (cảnh) đó.

Khi tâm hiện bày ra bắt đối tượng hay đón bắt cảnh nó chỉ làm máy móc, nó không hưởng cảnh đó, bắt xong nó chuyền ra cho tâm kế tiếp nên gọi là tâm vô nhân.

Như máy chụp hình qúi Phật tử điều khiển máy chụp hình thâu bắt cảnh sắc, nó thâu bắt máy móc, còn hỏi nó thích cảnh đó không thì nó không thích được tại vì nó là máy, nó không biết gì cả nó chỉ thâu với chức năng của nó mà mình điều khiển nó và nó làm theo và nó thâu bắt gì mà chúng ta muốn. 

Tâm nhận thức thâu cảnh sắc. Bốn nhân sanh Tâm Nhận Thức"

1) Thứ nhất, phải có cảnh sắc
2) Thứ hai, có thần kinh nhãn.
3) Thứ ba, phải có tác ý.
4) Thứ tư, phải có ánh sáng

Trong 4 nhân này thì nhân "Phải có tác ý" là quan trọng nhất, có cảnh sắc, có thần kinh, có ánh sáng, mà mình không có tác ý thì mình không có nhận thức, như qúi Phật tử muốn nhìn thì nhìn còn qúi Phật tử không muốn nhìn cảnh ngay trước mặt cũng không nhìn, tại vì tác ý.

Vậy thì, Tâm Nhận Thức thâu bắt được cảnh sắc đó không phải là nó hưởng, nó không thưởng thức.

 Con mắt của ta khi mổ ra có những đường gân ở tròng con mắt, có gân xanh gân đỏ chùm con mắt mình, đó là thần kinh thân chứ không phải là thần kinh nhãn. Thần kinh nhãn khi mổ con mắt ra giữa ở mới là thần kinh nhãn, thì thần kinh nhãn mới thâu được cảnh sắc. Nếu hạt bụi rơi vô mắt mình thì thần kinh thân này bị nhột nhạt khó chịu làm đỏ mắt làm chảy nước mắt để đẩy hạt bụi ra chứ không ảnh hưởng  gì thần kinh nhãn. Nhưng thần kinh nhãn nằm bên trong, Đức Phật nói nó xuyên 7 lớp, nó nằm bên trong thì lúc đó tiết ra một ánh sáng hay là sự thâu nhận được thì tới lúc mà nó tác động mà thần kinh nhãn này làm việc kếp hợp với tác ý, muốn bắt được cảnh sắc đó, cảnh sắc và ánh sáng, nhưng 2 yếu tố; tác ý và thần kinh nhãn, phải hình thành vô đó nó mới ra được cảnh sắc được đón nhận vô. Khi qúi Phật tử thấy 2 yếu tố tác ý và thân kinh nhẫn vô được như vậy thì ta đón được một cảnh sắc.

Bốn yếu tố nhân sanh ra Tâm Nhận Thức, bây giờ chúng ta nói đến bởi duyên gì chúng ta thâu được cảnh sắc. 

- Đầu tiên chúng ta thấy thần kinh nhãn mà ta có được là bởi Duyên Nhân. 

- Rồi tác ý mà chúng ta muốn có là bởi Nhân Nhân.

-  Chí Thượng Nhân mà mình làm không hiểu biết là rớt vào Phổ Thông Nhân.

Như vậy, thần kinh nhãn là Nhân Duyên,  tác ý là 3 nhân còn lại Nhân Nhân, Phổ Thông Nhân, và Chí Thượng Nhân. Tác ý đẩy Tâm Nhận Thức ra, Thần Kinh Nhãn rung động lên bắt lấy cảnh sắc đón nhận vào, và đón nhận vào với một trạng thái một cách máy móc, với máy chụp hình thâu nhận cảnh sắc vô mà cái máy chụp hình đó không có sự rung động sở thích gì cả nó chỉ làm trạng thái thâu hình, sau khi qúi Phật tử bấm nút chụp hình xong rồi qúi Phật tử coi lại cái hình này chụp không đúng, thiếu cái chân, chụp nhanh quá chỉ có nửa người, những cái đó là mình đang thưởng thức chứ còn cái máy này nó không biết, nó đâu có la lên là nó chụp thiếu cái chân, những cái đó là trạng thái máy móc thâu hình và tác động bởi cái tác ý của con người quyết định tại nơi đó và máy thâu hình được thâu vô cảnh sắc đó đón nhận vô cho mình biết, thích hay không thích là sau đó, ta gọi là đón nhận một cách máy móc là một loại tâm vô nhân mà nó làm theo quy định mà nó làm ra, thì cái tác ý này là tác ý tạo ra nghiệp, còn nó làm cho nó có đó là quả, còn tác ý là tác nhân, Tâm Nhận Thức thâu cảnh sắc này với một trạng thái đón nhận vô mà thôi chứ không có chi cả, là quả, rồi nó thích hay không thích, nhân tương ưng nó không có tham sân si.

Tâm Nhận Thức biết cảnh sắc một cách máy móc, 

Tâm Nhĩ Thức biết cảnh thinh một cách máy móc,

 Tâm Tỷ Thức biết cảnh khí một cách máy móc.

Tâm Thiệt Thức biết cảnh vị một cách máy móc.

Tâm Thân Thức biết cảnh xúc một cách máy móc.

Không được hưởng cảnh, chính nó gọi là tâm vô nhân, không có nhân tương ưng. Sau đó là những tâm đổng lực mới thưởng thức những cảnh đó và nó niệm lấy cảnh đó theo chiều hướng tạo tác nghiệp hay là cắt đứt nghiệp, lúc đó Tâm Đổng Lực quyết định.
Tâm Nhận Thức muốn nhìn cảnh sắc là phải có tác ý, cái đó là một nhân tác động cho nó sinh ra. 

Tứ nhân sanh tâm:

1) Thứ nhất là, nghiệp quá khứ
2) Thứ hai, phải có tâm sở.
3) Thứ ba, phải có cảnh.
4) Thứ tư, phải có căn (căn gọi là thần kinh).

Đó là 4 nhân này sanh ra tâm. Tâm Vô Nhân là những nhân được sanh tất nhiên phải có tứ nhân sanh này tạo ra và nó không có được hưởng cảnh và nó chỉ làm trạng thái máy móc để mà đón nhận cảnh một cách máy móc nên nó gọi là Tâm Vô Nhân, nó không có nhân tương ưng nhưng có nhân sanh ra nó.

Con người sinh ra có mắt nhưng thần kinh nhãn bị chết thì họ không thấy cảnh sắc tại vì thần kinh nhãn của họ bị chết do đó họ mở mắt nhưng không nhìn thấy cảnh sắc, họ không hưởng được cảnh sắc đó vào, họ không thưởng thức được cảnh sắc đó nhưng có nhân sanh ra con người, phải có nhân sanh ra con người đó là mẹ là cha hay là nghiệp quá khứ tạo nó ra nên ta có mặt ở trong đời.

Thì Tâm Vô Nhân là có nhân sanh ra nó, nhưng khi nó đón bắt cảnh đó không có nhân tương ưng kết hợp với nó để nó thưởng thức cảnh nó hưởng thì đó là máy móc, nó không cho quả.

Tâm Vô Nhân là những tâm khi sanh ra có nhân sanh nhưng không có nhân tương ưng kết hợp với nó để đón bắt cảnh. 

Thiền sinh: Thưa Sư, vậy Tâm Vô Nhân không biết việc làm của nó?

TT trả lời: Tâm Vô Nhân có sự hiểu biết việc làm của nó nhưng nó không hưởng cảnh việc làm của nó.

Giống như người nấu bếp ở nhà hàng, thì người ghi nhận món ăn đem xuống bếp đưa cho người nấu bếp, người nấu bếp làm ra một thực phẩm theo lệnh của khách hàng đặt, chỉ làm món thực phẩm đó chứ họ không được ăn.

Do đó, trường hợp thí dụ Tâm Vô Nhân là nó ra lệnh ra để làm việc nhưng nó không thưởng thức được cái việc làm của nó vì nó chỉ là tánh chất máy móc. Thí dụ như ở trên có người sai khiến người làm bếp phải làm ra món ăn nhưng người đó không được ăn mà phải giao lại cho người tiếp khách để đem thức ăn đó ra cho khách, người làm bếp chỉ làm một cách máy móc mà thôi chứ không được ăn. Thì những tâm Vô Nhân này là những tâm như người làm món ăn theo lệnh của người đặt hàng làm món ăn đó mà người đó không được ăn, họ cũng thấy món ăn đó vì họ làm nhưng họ không được ăn. 

Tất cả những cái đó là Sư nói thí dụ để qúi Phật tử hình dung ra được tâm Vô Nhân như vậy.

Thiền sinh: Thưa Sư, trường hợp Tâm Vô Nhân thí dụ như chụp tấm hình, nghĩa là khi mình có tác ý muốn chụp tấm hình thì mới bấm nút, rồi khi thấy tấm hình đó có tư tưởng khác như là người này đáng ghét hay là tạo ra ý tưởng khác?

TT trả lời: Do đó, khi qúi Phật tử học tới lộ trình tâm thì mới thấy được vị trí của anh này ở đâu, như Sư trình bày tuần trước những tâm nối nhau mới thấy được nó ở vị trí nào có hưởng cảnh không.

Một cảnh sắc đến, thì tâm đầu tiên là Tâm Khai Ngũ Môn là tâm có năng lực mở cửa.

 Hình lô trình tâm.

Tâm đầu tiên là Tâm Nhãn Thức, kế đến là Tâm Tiếp Thâu rồi truyền trao lại cho Tâm Thẩm Tấn, kế đến là Tâm Đoán Định, rồi sau đó là 7 Tâm Đổng Lực là thọ hưởng cảnh. Lúc bấy giờ 7 Tâm Đổng Lực mới thụ hưởng cảnh và sau tâm đó nếu như cảnh không có gì hơn thì nó trở lại Tâm Ngũ Phần là  tâm không có cảnh đến. Như vậy thì qúi Phật tử thấy Tâm Nhận Thức nằm ở ngay đầu bìa không đón nhận được gì chỉ có 7 Tâm Đổng Lực mới thọ hưởng cảnh, thì tâm nhận thức đón cảnh sắc đến, kế đến tâm tiếp thâu, rồi trao lại cho tâm thẩm tấn, rồi trao lại cho tâm đoán định, rồi đoán định mới đưa vô tâm đổng lực để hưởng.

Trước đây Sư có cho một thí dụ là người đứng gác cửa ở một phòng khám bệnh của một bác sĩ, người gác cửa đó có thưởng thức bệnh nhân không, không, thấy người ta tới không biết là người bịnh hay là người đưa thơ hay là người tới cung cấp hàng hóa cho văn phòng bác sĩ đó, nhưng người tới thì mở cửa, thì người mở cửa là Khai Ngũ Môn, rồi đưa vào cô thơ ký hỏi bệnh gì là Tâm Tiếp Thâu, thì lúc đó đưa qua anh Thẩm Tấn sau khi làm hồ sơ bệnh lý xong đưa qua Tâm Đoán Định, Tâm Đoán Định sau khi biết bệnh thì đưa vô ông bác sĩ khám bệnh, thì những người đứng bên ngoài làm sổ sách giấy tờ họ không khám bệnh được, chỉ có bác sĩ mới là người khám bệnh mà thôi là Tâm Đổng Lực còn mấy anh kia làm một cách máy móc. Lịnh giao xuống anh cứ việc làm, tới khi bệnh nhân tới tay bác sĩ thì lúc đó bác sĩ là người hưởng cảnh.
--------------------------------
Còn tiếp phần I I

No comments:

Post a Comment