Wednesday, January 19, 2022

Vi Diệu Pháp 14 Phần I I - Tâm Vô Nhân (tiếp theo) - TT Sán Nhiên

 Tâm Vô Nhân (tiếp theo) - Vi Diệu Pháp 14 Phần I I - TT Sán Nhiên

Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 14" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

TT Sán Nhiên: Những tâm Khai Ngũ Môn, Tâm Nhãn Thức, Tâm Tiếp Thâu, Tâm Thẩm Tấn, Tâm Đoán Định, đều là Tâm Vô Nhân làm việc theo mệnh lệnh máy móc truyền trao và không thụ lý cảnh.

Đến Tâm Đổng Lực là Tâm Hữu Nhân, mà suy tính không kỹ là tạo nghiệp.

Tâm Nhận Thức bắt cảnh sắc thì nó đưa qua Tâm Tiếp Thâu liền.

Tâm Nhĩ Thức bắt cảnh thình đưa qua Tâm Tiếp Thâu liền.

Tâm Tỷ Thức bắt cảnh khí đưa qua Tâm Tiếp Thâu liền.

Tâm Thiệt Thức bắt cảnh vị đưa qua Tâm Tiếp Thâu liền.

Tâm Thân Thức bắt cảnh xúc đưa qua Tâm Tiếp Thâu liền.

Rồi Tâm Tiếp Thâu bắt được thì nó đưa qua Tâm Thẩm Tấn.

Rồi Tâm Đoán Định là Tâm Khai Ý Môn.

Rồi tạo ra Tâm Đổng Lực thì một là bất thiện, hai là những tâm thiện.

Do những cái đó, qúi Phật tử sẽ thấy Tâm Thức mà Đức Phật Ngài nắm bắt được hết sức là chặt chẽ như vậy, Ngài mới đi vô chi tiết qúi Phật tử mới nắm bắt được từng giai đoạn diễn tiến của một tư tưởng. Mà mình không nắm bắt chặt chẽ thì tới đó thì thật sự mình rất là thất niệm. 

Khi mình nắm chặt chẽ từng tâm như vậy, mình theo rõi rõ ràng như vậy, gọi là "nhứt tâm chú niệm" vào trong sát na định ta bắt cảnh một cách chính xác là ta có chánh niệm của Minh Sát, có sự sáng suốt theo dõi của tâm. 

Giữa hai cái đó hoàn toàn khác biệt nhau, giữa người không biết từng các giai đoạn, từng sát na tâm kết chặt với nhau và trong một luồng tư tưởng hiện bày một cách quá mau lẹ, và người biết từng các giai đoạn, từng sát na tâm. Hai cái đó, chúng ta không bắt được, hay là bắt được, gọi là chánh niệm hay thất niệm.

Khi chúng ta qua giai đoạn nắm bắt được từng chi tiết như vậy thì gọi là sát na định, khi ta nắm bắt được từng chi tiết, từng một cái hiểu biết đó gọi là sát na định trong chánh niệm mà mình nhứt tâm chú niệm. Với 3 chức năng: Sát Na Định, Chánh Niệm và Nhứt Tâm Chú Niệm kết hợp lại gọi là Sát Na Định Minh Sát. Ba cái đó hợp lại thì ta có Tuệ Giác. Khi Tuệ Giác sanh lên là chúng ta cắt đi một cái kiết sử hay là một pháp hiệp thế. Tuệ giác là chúng ta giác ngộ không còn ở trong hiệp thế. Sát na định mỗi một sát na lên ta biết, ta có tâm nhận thức, ta có tâm tiếp thâu, ta có tâm thẩm tấn, ta có tâm đoán định thì ta có sát na định, từng sát na trong lúc đó ta có chánh niệm và như vậy nhức tâm chú niệm từng diễn tiến như vậy là lúc đó ta có sát na định minh sát của một tâm thức đã sanh khởi ta có tuệ giác. 

Tuệ Giác sanh lên ta cắt đi một kiết sử hay một pháp hiệp thế, tuệ giác là chúng ta giác ngộ không còn ở trong hiệp thế.

Tuệ Giác phát sanh hay còn gọi là Tuệ Quán sanh khởi.

Từ điểm đó qúi Phật tử sẽ thấy chính tại nơi đây sẽ có những xác định như vậy lúc đó qúi Phật tử phải thấy rõ. 

Tiếng Pali chữ Sát Na Định Minh Sát là Vipassanà Khanika Samàdhi.

Lúc đó mình định tâm từng mỗi sát na, mình định tâm và mình quán sát một cách chú tâm rõ ràng thì lúc bấy giờ có cái tuệ giác sanh lên một cách sáng tỏ rõ ràng.

Khi bị thất niệm là chúng ta không có sự ghi nhớ thì không thể nào có sự sáng suốt được bất cứ vấn đề nào. Khi ta có chánh niệm thì chúng ta không có trạng thái thất niệm. 

Có chánh niệm thì có Sát Na Định Minh Sát, có Sát Na Định thì có Minh Sát Tuệ được,  thì ba cái này cộng vô lại thì sẽ có Tuệ.
- Sát Na Định
- Chánh Niệm
- Nhất Tâm Chú Niệm 
= Sát Na Định Minh Sát Tuệ = Vipassanà Khanika Samàdhi.

Khi qúi Phật tử làm được đúng 3 cái này là qúi Phật tử được một pháp giác ngộ, và cắt được một pháp hiệp thế một kiết sử luân hồi.

Bây giờ chúng ta trở lại phần Tâm Vô Nhân.

Có 3 loại Tâm Vô Nhân:

1) Thứ nhất là Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân, có 7 tâm
2) Thứ hai là Tâm Quả Thiện Vô Nhân, có 8 tâm.
3) Thứ ba là Tâm Duy Tác Vô Nhân, có 3 tâm 

Cộng chung lại có 18 Tâm Vô Nhân.

Tuần trước chúng ta đã học qua 7 Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân, bây giờ chúng ta đi vào chi tiết.

Những Tâm Nhận Thức, Tâm Nhĩ Thức, Tâm Tỷ Thức, Tâm Thiệt Thức, những tâm này có nhân sanh ra nó, nhưng khi nó làm việc mang tánh chất máy móc, do đó nó không có những nhân tương ưng để nó hưởng lấy cảnh, mà nó chỉ làm việc truyền trao cho tâm kế tiếp bên chứ nó không đón biết được cảnh, mà nó có những tác nhân sanh ra nó, khi có những tác nhân sanh ra nó chính đó nó là những tâm quả.

Qua Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân chúng ta sẽ nói rõ từng ý nghĩa. 

1) Thứ nhất là Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân, có 7 tâm. Đây là Tâm Dị Thục Quả do bởi những tâm bất thiện đã tạo ra (gọi là nhân sanh) đón bắt cảnh một cách máy móc và nó không hưởng cảnh, do đó không có nhân tương ưng kết hợp nên được gọi là Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân. 

Sư muốn nhấn mạnh một điểm cho qúi Phật tử chú ý.

Tâm Bất Thiện có 12 tâm; 8 tâm tham, 2 tâm sân, 2 tâm si. Như vậy, ta làm tâm bất thiện bao nhiêu mà quả đến với ta chỉ có 7 tâm quả thôi. Chính điều này qúi Phật tử sẽ thấy một cách đặc biệt qua lời dạy của Đức Phật rất chính xác, Đức Phật nói: "Nếu người dốc tâm muốn tu tập cầu nguyện hay cầu mong sớm được giải thoát sanh tử luân hồi, hay cầu quả báo sinh nhân mà quả báo trổ sanh, mình chỉ cần làm một việc thiện nó sẽ rượt xa bỏ bất thiện xa rất là nhiều". Tại vì qúi Phật tử thấy điểm này là một điểm khích lệ, là mình tạo ra mà mình muốn chạy qua khỏi cái nghiệp mình tạo, mình phải làm được cái gì.

Tâm Bất Thiện có 12, mà nhìn suốt 121 tâm nó chỉ có 7 tâm quả mà thôi. Một tâm thiện mà qúi Phật tử làm ra nó có 8 tâm quả Thiện Vô Nhân và nó có 8 Tâm Đại Quả thành 16 Tâm Quả.

 Một tâm thiện có 16 tâm quả, cho dù qúi Phật tử làm 12 Tâm Bất Thiện cùng một lúc quả trổ sanh có 7, mà qúi Phật tử làm một tâm thiện thôi qúi Phật tử có 16 Tâm Quả là 8 Tâm Quả Thiện Vô Nhân và 8 Tâm Đại Quả trong một việc thiện.

Qúi Phật tử bố thí, trì giới, tham thiền v.v... là qúi Phật tử xa con đường bất thiện đuổi theo ta.

 Sư trình bày qúi Phật tử thấy, một chúng sanh làm việc ác rớt xuống địa ngục, rớt vào chảo dầu sôi, chân vừa đụng vô chảo dầu nóng mặt dầu là chết liền rồi lại nổi lên lại sống lại rồi lại rớt xuống đáy chảo lại chết, cứ một lần chết sống lại là một kiếp, do đó làm sao có thì giờ hưởng quả là nó truyền qua tâm đổng lực, ở địa ngục không có tuổi thọ, không đếm được tại vì mình cứ nuôi tâm sân đó hoài, do đó những cái đó rất là hiếm có những tâm bất thiện không có thì giờ để đón nhận để hưởng mà nó truyền trao lại tâm bất thiện để tạo nghiệp nữa, con gà mà thấy con trùn là nó mổ chứ nó không kêu con trùn đi đi, nó thấy là mổ, đó là tâm bất thiện. Nên Đức Phật nói chúng sanh làm tâm bất thiện không kịp hưởng quả báo là tiếp tục tạo nghiệp bất thiện, một con ngạ qủi với 3 đời Phật tới đời Đức Phật Thích Ca là bà con thân quyến của vua Bình Sa Vương ngạ quỷ mới hiển lộ ra, 3 đời Phật trải qua cho tới đời Đức Phật Thích Ca mới hết nghiệp ngã qủi của nó.

Nên nhìn cái này qúi Phật tử mới sợ khi ta làm nhân bất thiện chứ đừng sợ quả bất thiện nó đến rồi.

Khi qúi Phật tử khởi sân lên sẽ không có thì giờ hưởng quả, mà qúi Phật tử khởi sân nữa, khi qúi Phật tử khởi tâm tham qúi Phật tử không có thì giờ hưởng cái tham, khi qúi Phật tử khởi tâm si lên thì không có thì giờ hưởng cái si. Người mất trí như người si mê họ không có thì giờ để thưởng thức cái si mê đó, họ làm theo cái si nữa si nữa. Người làm nghiệp bất thiện không có thì giờ để thưởng thức, chỉ có làm nghiệp thiện mới có thì giờ thưởng thức, mà thưởng thức mình mới hưởng được chuyện lên làm và không nên làm. Có trí và không trí nữa, tâm bất thiện không có trí, tham không có trí, sân không có trí, si không có trí, tâm bất thiện không có trí để mà thưởng thức cái trạng thái nên làm hay không nên làm. 

Ngạ qủy gặp Đức Phật Kasyapa là vị Phật qúa khứ trước Đức Phật Thích Ca, Ngạ qủy xin Đức Phật Ca Diếp Kasyapa cứu, Đức Phật Kasyapa nói: "các ngươi chưa ra khỏi giai đoạn này, đợi tới Đức Phật Gotama ra đời mà thân bằng quyến thuộc của ngươi là vua Bình Sa Vương người đó mới giúp ngươi được, đó là thân bằng quyến thuộc của ngươi." Ngạ qủy đợi tới khi vua Bình Sa Vương ra đời và Đức Phật Gotama có mặt, nó lại lay động giường của vua Bình Sa Vương mách bảo cầu cứu, sáng vua Bình Sa Vương mới ra nói với Đức Phật chuyện hồi tối nằm mộng, thì Đức Phật nói: "Nó là thân quyến của Đại Vương cầu cứu Đại Vương cứu thoát ra khỏi cảnh khổ đó nó mới đủ để thoát ra được."

Vậy thì, khi thân bằng quyến thuộc của ta đã quá vãng không may rớt trong cảnh khổ, chỉ có 2 trường hợp mà người đó có thể được hưởng là:

1) Thứ nhất, tại thế thân bằng quyến thuộc của họ giống như mình, mình nghĩ tới người quá vãng của mình tuy đã quá vãng nhưng lúc nào cũng phải hồi hướng cho, lúc đó họ nằm trong trạng thái chờ đợi, khi nó trả nghiệp ra không kịp thì phải trả hoài trả hoài, khi mà có đến một mãnh lực tách ra được thì nó hốt một cái rồi nó ra luôn. Đó là thứ nhất ta còn sống đây phải hồi hướng hoài, không thể đợi đến ngày lễ giỗ mà mỗi sát na tâm lúc nào, điều kiện nào, việc thiện nào có, là phải làm hồi hướng liền: "phước báu này tôi đã làm ra xin hồi hướng cho cửu huyền thất tổ của tôi, ba mẹ tôi, hay là cô chú dượng dì của tôi đã quá vãng", hồi hướng liền, đó là thứ nhất.

2) Thứ hai, chúng sanh được hưởng khi trong cảnh khổ là ngạ quỷ, hạng ngã quỷ đó nó được nghe được biết việc thiện mà những hạng người ngạ quỷ này phải là hạng ngạ quỷ có chánh kiến chứ không phải là ngạ qủy tà kiến, thì lúc đó những hạng này mới nói được chữ "sadhu" lúc đó nó được đón nhận quả phước báu của thân bằng quyến thuộc hồi hướng cho nó rồi nó mới đi ra được là hạng ngạ quỷ sadhu, cho nên qúi Phật tử nên nhớ nói chữ "sadhu" đó là chủng tử thiện của qúi Phật tử.

Tâm Bất Thiện làm bao nhiêu việc nó chỉ có 7 Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân mà thôi: 

- Vừa thấy cảnh sắc xấu là tâm bất thiện khởi sanh lên là ta tạo nghiệp. 
- Vừa nghe âm thanh xấu tâm bất thiện khởi sanh lên liền là ta tạo nghiệp. 
-  Vừa ngửi mùi hôi là tâm bất thiện khởi sanh lên là ta tạo nghiệp.

 Chỉ trừ khi 3 điều là, có Sát Na Định, Chánh Niệm, Nhất Tâm Chú Niệm thì ta mới cắt được nó, theo dõi nó được, có tín nhiệm nó được và, chú tâm định nơi tâm tại đó, nhứt tâm chú niệm tại đó, mới ra khỏi được cái mãnh lực của Tâm Bất Thiện và quả Bất Thiện Vô Nhân.

Khi qúi Phật tử tu tập, có hai con đường đi, một là đường tu tập mình đang đi, một là con đường kiết sử nó rượt đuổi qúi Phật tử, một lúc nó bắt cầu qua bắt kịp qúi Phật tử, nhưng qúi Phật tử vượt qua giai đoạn này là qúi Phật tử có chánh niệm, mà qúi Phật tử không vượt qua được giai đoạn này là ngay tại đây qúi Phật tử đang thất niệm. 

Qúi Phật tử đang tu tập, con đường kiết sử nó song hành với qúi Phật tử, nó rượt đuổi theo qúi Phật tử mà qúi Phật tử vượt qua được những mắc đó, kiết sử có 10 mắc:

- 1) Thân kiến (Sakkāyadiṭṭhi).  Đầu tiên là rớt vào thân kiến, qúi Phật tử tu tập vượt qua được thân kiến là qúi Phật tử có chánh niệm vượt qua thì lúc đó thân kiến kiết sử nó rớt xuống, qúi Phật tử bắt được nó, 
- 2) Hoài nghi (Vicikicchā), , Kế đến là kiết sử hoài nghi qúi Phật tử tiếp tục có chánh niệm,
- 3) Giới cấm thủ (Sīlabbataparāmāsa)   Kế đến là giới cấm thủ bắt vào rồi mình có chánh niệm mình qua khỏi giới cấm thủ. Còn nếu không qua được nó sẽ giữ chân qúi Phật tử lại, qúi Phật tử bị thất niệm vì không biết nó đang kẹp chân mình và không đi được là qúi Phật tử đang bị cột trói, kiết sử là cột trói, còn qúi Phật tử qua khỏi sự cột trói là qúi Phật tử có sự tu tập, bị cột trói là đang ở trong trạng thái không có tu tập, mà không có tu tập là thất niệm.  
 - 4) Dục ái (Kāmarāga), tham muốn ngũ dục sắc, thinh, hương, vị, xúc.
- 5) Sân hận (Paṭigha), phẫn nộ, tức giận, hiềm hận, âu lo.
- 6) Sắc ái (Rūparāga), tham luyến trong cảnh thiền hữu sắc, ái tham cõi sắc giới.
- 7) Ái vô sắc (Arūparāga), tham luyến cảnh thiền vô sắc, ái tham cõi vô sắc.
- 8) Ngã mạn (Māna), kiêu hãnh cống cao.
- 9) Phóng dật (Uddhacca), tâm lao chao tán loạn.
- 10) Vô minh (Avijjā), sự si mê, thiếu hiểu biết, không biết cái đáng biết.

Do đó, khi biết thì tháo gỡ, không biết thì bị chúng cột trói.

Vậy thì, qúi Phật tử nói qúi Phật tử đang bị cột trói mà không gỡ ra thì lúc đó là qúi Phật tử đang sống trong tâm quả, qúi Phật tử đang sống trong tâm bất thiện thì tiếp tục có quả trổ ra nữa.

 Do đó, khi  nghe người ta hỏi qúi Phật tử có biết đang bị cột trói không, thì không trả lời làm như không nghe, thì đó là tâm vô nhân vì không cho ra quả nữa, còn trả lời là còn tạo nghiệp.

Những cái đó là thiết thực trong cuộc sống của mình mà luôn luôn con người mình bị chấp ngã, mình nói đang bị cột trói chứ thực ra là mình không biết mình đang gỡ mà mình đang bị cột trói và cũng không biết thế nào là mình đang có cách xử lý trong mỗi tình huống của nó đang có là mình kẹt hết.

Thiền sinh: Thưa Sư, mình muốn tỉnh giác thì mình phải làm sao? Con thường hay rung chân nhưng con tỉnh giác thì không rung chân nữa nhưng tay con lại gãi đầu, vậy con muốn tỉnh giác thì phải làm sao?

TT trả lời: Cái thói hư tật xấu hay thói quen mình đã tạo ra tập khí, thói hư tật xấu chỉ là danh từ, thói quen tập khí cũng chỉ là danh từ, cái quan trọng nhất là hành động, và quả báo hay kết quả của hành động. Đức Phật Ngài nói chỉ có hai loại, hành động và kết quả của hành động, còn qúi Phật tử nói thói quen, hay là tập khí, hay là những gì qúi Phật tử đang làm, thì hành động của, thân, lời và ý, thì có quả từ nơi thân, quả từ nơi lời, quả từ nơi ý. Thì nếu thân, lời, ý, tốt thì là thiện, còn nếu xấu thì là bất thiện, nó ra những trường hợp đó, qúi Phật tử muốn thiện và muốn tránh xa cái bất thiện thì gọi là chánh niệm hay là thất niệm mà thôi.

Thói quen tập khí, thói hư tật xấu nằm tại đó, hành động thân, lời, và ý, phải cẩn thận và luôn luôn ghi nhớ, cái đáng làm và cái không nên làm, qúi Phật tử chỉ cần nhớ như vậy là ra. Từ hành động này thì nó ra kết quả cho hành động đó và nó tương xứng với cái đó với những trạng thái của nó đã có do mình làm ra, có sự hiểu biết, có sự ghi nhớ, không có sự ghi nhớ. 

Vậy thì khi chân mình lắc thì mình coi tại sao chân mình lắc, mình coi cái nhân của nó, còn khi mình chế ngự không cho cái chân lắt, và tại sao cái tay mình muốn gãi đầu tìm ra cái nhân của nó hiểu biết tại đó là ta có chánh niệm, chánh niệm tại nơi đó, tỉnh táo tại đó, ngưng không tạo việc làm đó gọi là tỉnh giác.

Tỉnh giác có 4 loại tỉnh giác:
1) Thứ nhất là hữu lý tỉnh giác (nên làm hay không).
2) Thứ hai là thích nghi tỉnh giác (đáng làm hay không).
3) Thứ ba là thông hành tỉnh giác (thực hiện hay không).
4) Thứ tư là vô si tỉnh giác (có sự hiểu biết hay không).

Vậy thì khi một lần mà ta làm ta có chánh niệm và ta có tỉnh giác này thì chắc chắn việc làm đó ta chọn lọc được kết quả của nó. Còn khi làm mà ta không có chánh niệm là ta bị thất niệm thì chắc chắn ta không có những hành động của sự tỉnh giác.

Do đó, có những cái qúi Phật tử sẽ thấy mình tốt và có những cái mình làm không được tốt, qúi Phật tử chỉ nghe hợp lý mà thôi, nghe một câu chuyện nào đó, nghe hợp lý mà thôi, nhưng mà qúi Phật tử không có hiểu biết nên làm không nên làm, đó là không có vô si. Còn đáng thích hợp cho mình đáng làm được hay không đáng làm là thích nghi. và mình làm theo khả năng mình được hay không, là thông hành. Khi đó qúi Phật tử sẽ bị dính trong trạng thái có chánh niệm mà không có tỉnh giác. 

Người yếu đuối gặp một thùng sách nặng chúng ta không khiên lên nổi, cái đó không hợp lý mà chúng ta không thích nghi được để làm, và việc làm đó chúng ta không làm nổi và ta có sự suy nghĩ đó là ta có 4 sự tỉnh giác. Nhưng cái thùng sách quá nặng mà người mình quá yếu và mình vẫn quyết định làm thì mình không có tỉnh giác một trong 4 cái tỉnh giác. Qúi Phật tử chỉ có chánh niệm qúi Phật tử chưa có tỉnh giác, có sự ghi nhớ là cần phải khiên cái thùng này nhưng qúi Phật tử không có tỉnh giác để xử lý cái thùng này trong trạng thái hiểu biết việc làm này, do đó những cái đó phải cẩn thận. 

Thiền sinh: Thưa Sư, có nghĩa là một trong bốn cái mà hiểu rõ mình có thích nghi được hay không tức là mình có tỉnh giác rồi, tức là không cần biết mình có làm được hay không 

TT trả lời: mới có tỉnh giác thôi chưa đến hành động được là chưa có thông hành, có thể có vô si, nhưng có thể có thông hành làm một cái thích hợp và hợp lý trong việc làm này, nếu có thì phải đầy đủ 4 chi còn không thì có 2 chi thôi.

Qua phần Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân thì chúng ta thấy Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân này là tác nhân của nó tạo ra để hôm nay nó là quả nó là Tâm Bất Thiện, thì từ Tâm Bất Thiện nó làm ra và nó phải lấy kết quả đó nó hiện bày nó là một chức năng nghiệp quả.

 Do đó chúng ta đi qua chi tiết của nó qua từng phần như ta biết có 7 Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân.

1) Thứ nhất là Tâm Nhận Thức, bắt cảnh sắc.
2) Thứ hai là Tâm Nhĩ Thức, bắt cảnh thinh.
3) Thứ ba là Tâm Tỷ Thức, bắt cảnh khí.
4) Thứ tư là Tâm Thiệt Thức, bắt cảnh vị.
5) Thứ năm là Tâm Thân Thức, bắt cảnh xúc.
6) Thứ sáu là Tâm Tiếp Thâu, 5 cảnh nhãn nhĩ tỷ thiệt thân (sắc thinh khí vị xúc) nó thâu được hết
7) Thứ bảy là Tâm Thẩm Tấn 6 cảnh.

Những tâm đó đón nhận được  6 loại cảnh này, thì những cảnh này là những cảnh bất thiện, cảnh xấu không tốt. Như vậy thì Tâm Tiếp Thâu chức năng của nó thâu được 5 cảnh; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nó thâu được hết, sắc, thinh, khí, vị, xúc, nó thâu được luôn. Thì Tâm Tiếp Thâu, thâu được; sắc, thinh, khí, vị, xúc, nhưng tới Tâm Thẩm Tấn làm được, sắc, thinh, khí, vị, xúc, và pháp.

Mỗi chức năng có mỗi vị trí của nó, còn Tâm Nhận Thức thì biết cảnh sắc, Tâm Nhĩ Thức biết cảnh thinh, Tâm Tỳ Thức biết cảnh khí, Tâm Thiệt Thức biết cảnh vị, Tâm Thân Thức biết cảnh xúc và Tâm Tiếp Thâu biết 5 cảnh đó. Tâm Thẩm Tấn vừa biết 5 cảnh đó còn biết một cảnh pháp nữa, những loại này là loại cảnh quả bất thiện hiện bày tính chất xấu không tốt đẹp.

Vậy thì khi:

- Qúi Phật tử thấy cảnh sắc xấu là Tâm Nhận Thức quả bất thiện đang trổi sanh cho qúi Phật tử đón do tâm bất thiện quá khứ đang hiện bày ra. 

- Qúi Phật tử nghe một âm thanh không tốt là Tâm Nhĩ Thức đón cảnh thinh quả bất thiện do tâm bất thiện quá khứ tạo ra.

 - Qúi Phật tử ngửi một mùi không thích là quả dị thục của tâm bất thiện quá khứ tạo ra giờ qúi Phật tử đón nhận. 

- Qúi Phật tử niếm một vị mà không làm qúi Phật tử vừa lòng cay dắng chua mặn ngọt là qúi Phật tử đang đón nhận một quả đang trả quả của tâm bất thiện quá khứ để lại.

-  Qúi Phật tử nhận cái thân đau nhức thân xúc chạm với trạng thái bất thiện do bất thiện quá khứ tạo ra. Chưa nói là thích hay không thích, đồng ý hay không đồng ý, sau đó xử lý thêm cái đó nữa.

Như vậy thì từ đây về sau những cái này luôn luôn là một trạng thái nhắc nhở hay là một trạng thái ám ảnh, nó là nhắc nhở là qúi Phật tử có chánh niệm. Nếu nó là ám ảnh tạo tác thêm một nghiệp báo nữa là trạng thái thất niệm.

 Luôn luôn trong con người chúng ta có chánh niệm nó là một người bạn tốt cho ta tỉnh thức, còn thất niệm là kẻ thù nguy hiểm để nó làm chúng ta đau khổ tiếp tục nữa, không đổ thừa ai cả, không trách ai cả và cũng không nhìn ra bên ngoài nữa mà nhìn lại chính mình cho mình thức tỉnh có chánh niệm. Hay là một sự ám ảnh lo sợ đang thúc đẩy ta làm ra một nghiệp bất thiện nữa khi ta không biết dừng lại giống như trạng thái thất niệm của mình.

Như vậy thì, lúc nào qúi Phật tử cũng phải cẩn thận, phải luôn chánh niệm, và phải thu thúc các căn lại, và chế ngự tác ý trong lúc tạo tác tham, sân, si. 

Có 3 trường hợp chúng ta được học qua là: Thu, Chế, Diệt.

- Thu, đây là thu thúc các căn lại, chúng ta không dám nói là thu thúc tất cả lục căn một lúc, căn nào có chúng ta thu thúc ngay lúc đó, ta biết lúc đó, ta có chánh niệm và có tỉnh giác. Còn qúi Phật tử nói là qúi Phật tử thu thúc lục căn thì chưa chắc là có một lúc

 - Chế là chế ngự 3 cái tham, sân, si. thì 3 cái tham sân si này nó từ tác ý tạo ra nghiệp.

- Diệt là diệt trừ những lậu hoặc và kiết sử.

 Đó là là diệt trừ lậu hoặc, chế ngữ tham sân si và diệt trừ lậu hoặc các kiết sử, là ta đang cắt nghiệp quá khứ.

Tâm nhận thức hình thành bắt được cảnh sắc là do tác ý. Bởi tác ý ta mới hình thành ra Tâm Nhận Thức bắt cảnh sắc. Tác ý gì phải cẩn thận chế ngự nó. Tâm Nhận thức phan duyên cho cảnh sắc là một điều. Và phải chế ngự từ tác ý không cho Tâm Nhận Thức chạy theo cảnh sắc là điều thứ hai nữa.  Rồi qúi Phật tử phải diệt trừ những nghiệp cũ đang thúc đẩy qúi Phật tử phải tạo ra đó là sự cột trói, do đó ta luôn luôn phải có "Thu, Chế, Diệt".

Phải thu các căn lại, phải chế ngự tác ý mình lại, và coi cái nghiệp cũ đang bắt mình tạo ra nữa không, đó là mình đang ở trong pháp hành.

Thiền Sinh: Thưa Sư, để hành được 3 cái "Thu, Chế, Diệt" mình phải có Chánh Niệm trước phải không?

TT trả lời: Luôn luôn phải có Chánh Niệm và Tỉnh Giác  rồi thu thúc lục căn, chế ngự tác ý, rồi diệt trừ những lậu hoặc. Chánh Niệm và Tỉnh Giác là cửa ngõ cho thu thúc các căn lại và chế ngự các tác ý và ngăn chặn những nghiệp cũ thúc đẩy tạo lại các nghiệp báo. Chúng ta nhớ như vậy, còn không chúng ta bị rớt vào qũy đạo vòng tròn quay chúng ta quay cuồng và chúng ta bị rớt trong trạng thái không chủ động mà nó đang chủ động cho mình.

Tại vì ở đây qúi Phật tử nhớ khi ta nói Tâm Nhận Thức gặp cảnh sắc xấu, Tâm Nhĩ Thức là âm thanh nghe xấu, Tâm Tỷ Thức mùi hơi không thích hợp, Tâm Thiệt Thức vị không thích hợp, Tâm Thân Thức xúc không thích hợp mà Tâm Tiếp Thâu nằm trong  một trong năm cảnh ngũ đó không thích hợp và Tâm Thẩm Tấn nhìn xét được 6 loại cảnh, năm cảnh này và một cảnh pháp kếp hợp đẩy nó qua Tâm Đổng Lực quyết định tại nơi đó. Khi Tâm Tiếp Thâu qua Tâm Thẩm Tấn là 6 cảnh và khi vô tới Tâm Đổng Lực  là chỉ có cảnh pháp, tại vì nó đâu còn chức năng của; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân nữa, nó chỉ còn là cảnh pháp và cảnh pháp nó quyết định theo cái tác ý của nó tạo ra nghiệp hay là bị nghiệp cũ nó tái tạo ra một nghiệp mới.

Vậy thì, khi qúi Phật tử ngồi thiền thân qúi Phật tử đau nhức, nhận thức tại nơi đó một cái cảm thọ khổ từ nơi thân thọ tâm thân thức biết tê, nhức, mỏi, đau, thì lúc đó Tâm Thân Thức báo động cho Tâm Tiếp Thâu, Tâm Tiếp Thâu đưa lên Tâm Thẩm Tấn, Tâm Thẩm Tấn báo cho Tâm Đoán Định và Tâm Đổng Lực giải quyết cái tê nhức mỏi đau của tâm thân thức.

Tâm Thân Thức nhận được cái tê nhức mỏi đau là khổ thọ thì nó đưa Tâm Đổng Lực giải quyết. Khi mà cái tê nhức mỏi đau nó đang cảm thấy cái thân thức đang bị đau thì Tâm Thân Thức đang đón nhận một cái tê nhức mỏi đau là cái khổ thọ nó đưa qua Tâm Tiếp Thâu, Tâm Thẩm Tấn, Tâm Đoán Định rồi  qua Tâm Đổng Lực giải quyết, mỗi cái Tâm Đổng Lực đó là một nghiệp báo, hiện báo nghiệp, hậu báo nghiệp, hậu hậu báo nghiệp. Mỗi một sát na tâm đổng lực là một nghiệp báo, một là nghiệp lực mới hay là hưởng một nghiệp quả tái tạo trở lại cái tâm đó đón nhận nữa, đón nhận nghiệp cũ hay là đang tạo nghiệp mới sanh lên là nghiệp cũ hay đang tạo nghiệp mới. 

Mỗi một sát na tâm đổng lực đón nhận từ tâm thân thức tê nhức mỏi đau là qúi Phật tử đang tạo nghiệp mới hay đang phải giải quyết nghiệp cũ. Vậy thì qúi Phật tử đang giải quyết một diệt trừ hay là đang chế ngự tác ý trong khi các căn đang có chánh niệm tỉnh giác báo động là có tuệ giác qúi Phật tử quyết định, hay là thói quen tập khí qúi Phật tử quyết định. 

Nghiệp báo, nghiệp quả hay nghiệp lực hay là cắt đứt nghiệp báo, nghiệp lực nghiệp quả. Tê nó đến thân thức không giải đáp mà tâm đổng lực giải đáp, mỗi sát na tâm đổng lực đang giải đáp tê đó dưới tác ý cái gì, dưới nghiệp lực gì.

Tu tập để diệt trừ nghiệp để cắt đứt nghiệp và không cho nghiệp sanh hay là tâm tu tập để mà chồng chất nghiệp và tái tạo nghiệp và nghiệp chồng chất lên nữa. Nhức, mỏi, đau là nghiệp cũ, một câu chuyện đã qua mà kể lại câu chuyện đó với tác ý gì đó là nghiệp cũ.

Hôm nay chúng ta học 5 tâm gọi là ngũ thức ta có các căn, và khi qúi Phật tử có Tâm Tiếp Thu và Tâm Thẩm Tấn là dòng tâm thức đang đưa qúi Phật tử trực chờ trước cửa nghiệp sắp sửa tạo ra, và phải nhìn coi trở lại những cái đó với những tâm đổng lực thụ lý cảnh đó với ý nghĩa gì.

Như vậy thì ta dùng 3 pháp; Sát Na Định, Chánh Niệm, Nhất Tâm Chú Niệm hồi nãy ta có Sát Na Định Minh Sát giải quyết được tại nơi đó là qúi Phật tử đang cắt bớt những pháp hiệp thế hay là những pháp kiết sử cột trói con đường luân hồi.

Ở đây  có 7 tâm, từ 1 đến bảy không có tạo ra nghiệp:

 1) Tâm Nhận Thức, bắt cảnh sắc.
2) Tâm Nhĩ Thức, bắt cảnh thinh.
3) Tâm Tỷ Thức, bắt cảnh khí.
4) Tâm Thiệt Thức, bắt cảnh vị.
5) Tâm Thân Thức, bắt cảnh xúc.
6) Tâm Tiếp Thâu, 5 cảnh nhãn nhĩ tỷ thiệt thân (sắc thinh khí vị xúc) nó thâu được hết
7) Tâm Thẩm Tấn 6 cảnh
7 Tâm trên không tạo ra nghiệp vì là Tâm Quả Dị Thục. Qúi Phật tử thấy từ Tâm Nhận Thức cho tới Tâm Thẩm Tấn không có tâm nào tạo ra nghiệp, thì đó là Tâm Quả Dị Thục. 

Thế thì, tại sao qúi Phật tử vui và buồn, thích và không thích với ngũ thức đón lấy ngũ căn ngũ cảnh đem vô trong người qúi Phật tử, tại vì qúi Phật tử không thu thúc căn.

Ngọc bất trác bất thành khí,
 Nhân bất học bất tri lý.

Ngọc không dũa không sáng,
Người không học không hiểu biết.

Giờ ta có hiểu biết ta nhận xét: Nnhững tâm nhận thức này không tạo nghiệp được vì là quả, Tâm Nhĩ Thức này không tạo nghiệp được vì nó là quả, những Tâm Tỷ Thức này không tạo nghiệp được vì nó là quả, thế thì tại sao khi ta thấy sắc, khi ta thấy thinh, thấy khí, thấy vị, thấy xúc mà ta vui buồn lẫn lộn?

-  Như vậy thì qúi Phật tử không phải lo Tâm Nhận Thức, không lo Tâm Nhãn Thức, không lo Tâm Tỷ Thức, không lo Tâm Thiệt Thức, không lo Tâm Thân Thức, mà qúi Phật tử phải lo Tâm với Tác Ý của mình không có chánh niệm để kiểm soát nó được.

Vậy thì, khi qúi Phật tử ngồi thiền, tê, nhức, mỏi, đau, qúi Phật tử giải quyết nó được không? Khi qúi Phật tử ra về từ đây về tới nhà qui Phật tử có giải quyết được tất cả các cảnh đến với qúi Phật tử không? Các cảnh nó đến với ta liên tục, qúi Phật tử phải cẩn thận, rồi vô tới nhà các cảnh trong nhà hiện bày ra qúi Phật tử giải quyết được không? phải cẩn thận. Qúi Phật tử phải nhắc liên tục như vậy mới được, còn không thì bổn cũ soạn lại tu tập bao nhiêu coi như là bỏ hết thời gian đó hay là công lực mình đã tạo ra bao nhiêu đó bỏ hết, uổng lắm phải cẩn thận.

Giữa ba cái; Thu, Chế, Diệt, thì sợ cái nào? không sợ thu chế diệt mà sợ mình thất niệm hay không có chánh niệm mà thôi. Qúi Phật tử phải biết cái nào yếu cái nào mạnh chứ không qúi Phật tử đánh ra là đánh trật. 

Căn nào có cảnh đó, chánh niệm tại nơi đó ta thu thúc các căn ta tại đó, ta chế ngự tác ý ta tại đó, ta diệt trừ nghiệp của ta được tại đó. Vậy chúng ta làm nhanh hay chúng ta làm chậm lại, chúng ta phải cẩn thận. Nhanh mà không cẩn thận thà ta làm chậm lại mà ta kiểm soát được nó tốt hơn. Qúi Phật tử phải cẩn thận tại vì sao ta không muốn nó trở lại, nó đã xấu rồi qúi Phật tử không sửa nó được, nó đã không tốt rồi qúi Phật tử không sửa nó được nữa, tại vì nó là quả nó đã đến rồi, vì tại đó qúi Phật tử không thể nào tạo nghiệp vì nó là quả mà qúi Phật tử tạo nghiệp là tại qúi Phật tử thiếu Chánh Niệm.

Sư mở cái cửa cho Tâm Khai Ngũ Môn trong lộ trình tâm mà chúng ta nghe qua, Sư mở một chút xíu đó nó là Tâm Duy Tác.

1) Tâm Khai Ngũ Môn: Là tâm làm việc mở cửa 1 trong 5 tâm thức của giác quan nhận thức.
Cũng vậy, nó là một tính chất Duy Tác: 
- Duy là duy nhất
- Tác là hành động

Vậy thì tâm Duy Tác là tâm chỉ có hành động và không chịu lãnh lấy quả của hành động nên ta gọi là Tâm Duy Tác. Vậy tâm chỉ có hành động và không chịu lấy quả của hành động gọi là tâm Duy Tác. 
Khai Ngũ Môn là tâm làm việc mở cửa một trong 5 tâm thức thuộc giác quan hay là của giác quan nhận thức từ nơi cảnh. 
-----------------------------
Còn tiếp: Ý Giới và Ý Thức Giới 

No comments:

Post a Comment