076 Paṭṭhāna
HT Sán Nhiên giảng ngày 7 tháng 10, 2023
Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng 076 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ.
Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.
Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.
Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh
Minh Hạnh
TỔNG HỢP NỘI DUNG VÔ TỶ PHÁP - TẬP I
Trang 213
NHẤT THỐNG (EKAGGATĀ) HIỆN HỮU 3 HOẶC 6 ĐIỀU:
1. Lấy Tâm Sở Nhất Thống ở trong 2 Tâm Nhãn Thức an định và cho Pháp tương ưng đình trụ trong Cảnh Sắc.
2. Lấy Tâm Sở Nhất Thống ở trong 2 Tâm Nhĩ Thức an định và cho Pháp tương ưng đinh trụ trong Cảnh Thinh
3. Lấy Tâm Sở Nhất Thống ở trong 2 Tâm Tỷ Thức an định và cho Pháp tương ưng đình trụ trong Cảnh Khí.
4. Lấy Tâm Sở Nhất Thống ở trong 2 Tâm Thiệt Thức an định và cho Pháp tương ưng đình trụ trong Cảnh Vị.
5. Lấy Tâm Sở Nhất Thống ở trong 2 Tâm Thân Thức an định và cho Pháp tương ưng đình trụ trong Cảnh Xúc ( là 1. Sát Na Định (khaṇikasamādhi)
6. Lấy Tâm Sở Nhất Thống ở trong 76 Tâm Y Thức an định và cho Pháp tương ưng đinh trụ trong Cảnh Pháp (là 2. Cận Hành Định (Upacārasamādhi), 3. Định An Chỉ (Appanāsamādhi - Định Kiên Cố)
---------------------------------
Tâm Sở Nhất Thống Ekaggatā
Nhất Thống là trụ vô trong một cảnh thôi.
An Định là cho pháp tương ưng hiện hữu trong một cảnh là Nhất Thống Ekaggatā, Thắng Giải Adhimokkha là giải quyết vấn đề, còn Nhất Thống Ekaggatā là trụ vô trong một cảnh nó không giải quyết mà chỉ đặt tâm vô trong cảnh đó thôi là nó Nhất Thống nên nó không giải quyết gì hết. Còn Thắng Giải Adhimokkha như ông quan tòa giải quyết vấn đề.
-------------------------------
Trang 214
THẮNG GIẢI (ADHIMOKKHA) HIỆN HỮU 2 ĐIỀU:
1. Chánh Thắng Giải (Sammādhimokkho): Phán quyết Cảnh được nghiêm mật và chính xác.
2. Tà Thắng Giải (Micchādhimokkho): Phán quyết Cảnh được nghiêm mật, thế nhưng ngộ giải
-------------------------------------
Thắng Giải Adhimokkha giải quyết mọi vấn đề như ông quan tòa phán quyết nó tốt xấu.
Còn Nhất Thống Ekaggatā là tâm trụ vào cảnh và ở trong đó.
2 cái khác nhau.
Thí dụ : Quí Phật tử vô lớp học ngồi yên không nói gì hết thì gọi là Nhất Thống.
Khi nghe rồi có thắc mắc quí Phật tử hỏi muốn giải đáp hay là muốn lý giải vấn đề là Adhimokkha, là nghe, hiểu, thắc mắc, hỏi .
Adhimokkha là pháp rất quan trọng. Trong Biên Niên Sử, Ngài Mingun nói nếu mà không Adhimokkha mình không phân biệt được mặt thiệt mặt giả.
Mà cũng Adhimokkha mà marana là quyết định tử vong cũng là Adhimokkha này, với Bồ Tát mà sanh lên cõi trời Sắc Giới Vô Sắc Giới tuổi thọ dài quá mà không Adhimokkha để giải quyết thì coi như là triền miên luôn trong đó Balamat không giải quyết được.
Và Adhimokkha cũng là như vầy, nếu như mình thấy con đường này sai con đường này không đúng là phải Adhimokkha liền chứ không đi tiếp.
Như vậy thì quí Phật tử an trú trong Nhất Thống Ekaggatā trong Balamat cũng được nhưng không hoạt động gì hết, có nguyện, có giữ Balamat, nhưng chỉ giữ cái đó thôi giống như cũ. Còn Adhimokkha là phải hoạt động làm cho nó sanh sôi nẩy nở cho thịnh vượng.
Nếu an trú trong Nhất Thống Ekaggatā mà thiếu Adhimokkha tâm hành giả bị giao động trao đảo không đứng yên thì Adhimokkha không sắc bén được, 2 cái đó phải đi đôi, tâm trụ lại sắc bén thì Thắng Giải Adhimokkha mới trụ trong đó để giải quyết vấn đề. Nhất Thống Ekaggatā xong thì Thắng Giải Adhimokkha mới được.
Thì khi hành giả an trụ Nhất Thống Ekaggatā với đối tượng thì Adhimokkha khởi lên tuệ giác, tỉnh giác Asati - sampajanna. Nếu như không có Nhất Thống Ekaggatā thì mình sống trong tập khí Adhimokkha này là Micchà Adhimokkha là tà thắng giải chứ không phải Samma Adhimokkha chánh thắng giải. Như người say rượu họ không có Nhất Thống Ekaggatā không có Thắng Giải Adhimokkha, họ cũng Thắng Giải, giải quyết nhưng trong trạng thái tâm không ổn định.
Đọc 2 chú giải này rồi mình áp dụng, thí dụ, bất cứ mỗi cảnh nào đến mình phải an trụ Nhất Thống Ekaggatā vào rồi từ đó mình Thắng Giải Adhimokkha, cái trước cái sau chứ không đi cùng một lượt, gọi là Biệt Cảnh, còn cái kia là Biến Hành, mà Biệt Cảnh này có Cảnh Thiện, Cảnh Bất Thiện, nó không đi chung nhau, còn Biến Hành đi cùng hết.
Adhimokkha này cần phải tu tập nhiều thì mới Thắng Giải chính xác được còn không thì là tà thắng giải.
Thiền sinh hỏi: Mình có thể thí dụ Nhất Thống giống như minh Định vào một đối tượng rồi từ đó Thắng Giải là Tuệ của mình phát sinh lên ?
HT trả lời : Vậy chứ cô không học pháp về Minh Sát Tuệ Vipassana có Niệm mới có Định, còn Ekaggatā này là thần Định. Thì Sư mới nói khi Định được có Ekaggatā thì tuệ lên, khi Adhimokkha làm trong Vipassanāñāṇa Tuệ Minh Sát, thì lúc bấy giờ mới minh sát được, thẩm thấu được Thực Tính, Thực Tướng.
Thiền sinh hỏi : Thưa Sư, từ Thắng Giải mình sẽ dùng Tâm Sở Tuệ ?
HT trả lời : Chưa, mình theo phần về Tâm rồi mình mới tính. Thí dụ như mình bây giờ Thắng Giải mà nó thuộc Tợ Tha mà nếu thắng giải này mình không có sài Tâm Thiện Tương Ưng Trí thì Tâm Sở Trí Tuệ kết hợp với nó.
Tạo sao mình không dùng Tâm Thiện Tương Ưng Trí ? là do tập khí của mình do thói quen của mình không dùng trí để suy nghĩ mà mọi việc mình làm theo phản ứng thì lúc đó mình Bất Tương Ưng Trí. Phải cẩn thận
Thí dụ, bây giờ cảnh đến thì mình lấy Tuệ Văn thì lúc đó Tâm Thiện Tương Ưng Trí mới đụng vô Tâm Sở Trí Tuệ này ở trong phần Tuệ Văn nó mới khai thác cái đó ở trong Tuệ Tư, rồi qua Tuệ Tu khai thác trong sự tu tập của mình.
Sư lo cho quí Phật tử khi rời chùa về nhà nói năng nghĩ suy không kiểm soát được.
Như vậy thì mình có Ekaggatā và Adhimokkha.
Adhimokkha có 2 loại :
Micchà Adhimokkha tà thắng giải và
Samma Adhimokkha chánh thắng giải, sự Thắng Giải này như một vị quan tòa quyết định được cái đúng cái sai với cái trí hay với thân kiến tư kiến của họ nên quí Phật tử phải cẩn thận, mấy cái này nó khéo lắm.
---------------------------
Trang 189
Tâm Sở Thắng Giải (Adhimokkhacetasika) phối hợp được trong 110 Tâm, là 43 Tâm Dục Giới (trừ 10 Ngũ Song Thức, 1 Tâm Tương Ưng Hoài Nghi), 27 Tâm Đáo Đại, 40 Tâm Siêu Thế, gom thành 110 Tâm. Bất phối hợp có được 11 Tâm, là 10 Tâm Ngũ Song Thức, 1 Tâm Tương Ưng Hoài Nghi, gom thành 11 Tâm.
-----------------------------
Tâm Sở Thắng Giải đi với 110 Tâm, trừ Ngũ Song Thức và Hoài Nghi, pháp đó là pháp chính yếu, Hoài Nghi vô thì Thắng Giải sai trật liền.
Có 3 chi pháp : Tâm Sở Thắng Giải đi với 110 Tâm trừ Ngũ Song Thức, Ngũ Song Thức là Quả Dị Thục, nó vô tư nó máy móc nên nó không Thắng Giải được, còn Hoài Nghi vô là loạn xạ liền thì làm sao còn Thắng Giải làm sao phán đoán được vì sống trong giao động lưỡng lự phân vân.
Do đó xem chi pháp là mình hiểu, nên mình phải cẩn thận
Thắng Giải mà có hoài nghi là không xét đoán được, giống như ông quan tòa mà có hoài nghi thì không phán đoán được, thì mình cũng vậy.
Thì trước trường hợp đó, hành giả đang ngồi thiền nghe một tiếng động mà không phân biệt được thì lúc bấy giờ khi nghe được tiếng động là đã có Nhất Thống Ekaggatā Định trong âm thanh đó, Định trong âm thanh đó mà hành giả không phân biệt được tiếng động đó là cái chi : chó sủa, người mở cửa, tiếng người đi, hay là tiếng tằng hắng, tiếng ho, tại vì mình đang định ở trong tiếng động đó thì lúc bấy giờ Thắng Giải của hành giả là Tuệ Minh Sát với Pháp chứ không đi qua Cảnh, hành giả chạy qua bên kia là rớt liền, Tuệ với Minh Sát, chứ không có gì hết. Khi mình không biết thì không có, cái Tuệ mình lên đó là làm việc liền thì Thắng Giải Adhimokkha hữu dụng chứ không rớt.
Mấy cái đó chỉ có sát na định, thì nếu sát na định thì có một sát na tuệ, chứ hành giả qua một luồng tư tưởng hay một giòng tâm thức một lộ trình tâm, là không đi, một sát na định, một sát na tuệ bắt cảnh đối tượng là xong, chứ không đi qua phần Thắng Giải.
-----------------------------------------------
Trang 190 . Đoạn thứ 2 :
Một trường hợp khác nữa, việc phối hợp Tâm Sở Biệt Cảnh đặc biệt chỉ các Tâm Sở Tầm, và Tâm Sở Tứ đã được trình bày đây, chủ ý lấy Tâm Siêu Thế của Bậc Thánh Nhân là Hạnh Vận Thiền Giả (Jhānalābhīpuggala) thôi. Nếu như các Bậc Thánh Nhân ấy là Lạc Quán (Sukhavipassaka) thì các Tâm Sở Tầm, Tâm Sở Tứ thường phối hợp được cả thảy. Còn Tâm Sở Hỷ thường tùy thuộc Tâm Siêu Thế sinh khởi, đề cập rằng, nếu như Tâm Siêu Thế ấy sinh khởi cùng với Hỷ Thọ thì Tâm Sở Hỷ phối hợp được, nếu như Tâm Siêu Thế ấy sinh khởi cùng với Xả Thọ thì Tâm Sở Hỷ bất phối hợp.
------------------------------
Một trường hợp khác nữa, việc phối hợp Tâm Sở Biệt Cảnh biệt với các Tâm Sở Tầm và Tâm Sở Tứ là áp dụng cho Bậc Hạnh Vận Thiền Giả, đối với Bậc Thánh Nhân Lạc Quán (tức là Thiền Khô) là họ bắt Tuệ thôi chứ không bắt Cảnh, vì không đi qua phần Cảnh. Thiền Khô là bắt đối tượng, còn Thiền Chỉ là phải đi qua chi pháp chi thiền.
Bậc Thánh Nhân là Lạc Quán giống như Ngài Upatisa nghe Đ Đ Assaji nói thì Lạc Quán liền bắt tuệ liền.
Mấy cái này là cái key mà nếu mà mấy cô đọc thoáng qua thì không dùng.
"Nếu như các Bậc Thánh Nhân ấy là Lạc Quán (Sukhavipassaka) thì các Tâm Sở Tầm, Tâm Sở Tứ thường phối hợp được cả thảy. Còn Tâm Sở Hỷ thường tùy thuộc Tâm Siêu Thế sinh khởi." Đó là người ta dùng.
-----------------------------------------------
Trang 194
Tâm Sở Ngã Mạn (Mānacetasika) chỗ nói rằng phối hợp với 4 Tâm Bất Tương Ưng Kiến (Diṭṭhigatavippayuttacitta) thường phối hợp bất định, có nghĩa khi nào 4 Tâm Bất Tương Ưng Kiến sinh khởi một cách ngạo mạn, bài giá tử, đó là Ngạo Mạn (Ahaṃgāha: Bài Giá Tử) khi đó Tâm Sở Ngã Mạn phối hợp. Khi nào 4 Tâm Bất Tương Ưng Kiến sinh khởi mà không có sự ngạo mạn, là Ngạo Mạn (Ahaṃgāha: Bài Giá Tử) khi ấy Tâm Sở Ngã Mạn không có phối hợp. Vì thế, Tâm Sở Ngã Mạn này mới thành Hữu Thời Tâm Sở (Kadācicetaskia).
----------------------------------------------
Ahaṃgāha (Bài Giá Tử) = nghĩa tiếng Việt là hãnh diện, kiêu hãnh
Nhất Thống Ekaggatā là Định đi trước và Thắng Giải Adhimokkha là giải quyết vấn đề đi sau. Ekaggatā là Định Adhimokkha là Minh Sát Tuệ.
Mình biết được Nhất Thống Ekaggatā và Thắng Giải Adhimokkha là mình giỏi rồi, chứ còn không ta lấy Adhimokkha làm, ta xử lý tình huống nào cũng xử lý theo tập khí theo thói quen hàng ngày của mình. Còn Adhimokkha ta phán đoán phân tách ta suy ngẫm, nhưng với điều kiện là không có nghi vấn nào trong phán đoán, mà nếu như không quyết định được là không có phiền não gì trong khi phán đoán cảnh đó thì chỉ dùng Minh Sát Trí thôi
Chẳng hạn, khi đang ngồi thiền mà nghe tiếng động mà không Adhimokkha tiếng động đó là gì thì hành giả chỉ biết Sanh và Diệt thì đó là Tâm của hành giả nằm trong Minh Sát Trí, chứ không phân vân. Còn tập khí là mở mắt ra nhìn và còn phóng đi. Dùng Minh Sát Trí bắt tướng, nếu đó là thực tính thì bắt tướng thôi là xong chứ đừng chạy thì việc tu tập của mình có kết quả, khéo là ở chỗ đó, nên gọi là Yonisomanasikāro như lý tác ý.
Nhất Thống Ekaggatā là an định cho Pháp Tương Ưng hiện hữu duy nhất trong một cảnh, còn Thắng Giải Adhimokkha là pháp đoán cảnh, còn mình không phán đoán được là vì hoài nghi sinh lên hay là trạng thái mình không xác thực được, thì mình Minh Sát Trí. Nếu làm được như thế sẽ cắt giảm nhiều nghiệp lực, còn không cứ tạo ra thì nghiệp lực nó theo, còn mình muốn tu thì phải giải nghiệp, mà nghiệp cứ tăng lên hoài thì khó giải thoát, lo trả, giống như mình muốn giải thoát mình không vay nợ mà bây giờ quí Phật tử vay nợ thì phải trả hoài.
Đức Phật Ngài không đẩy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã mà Ngài tránh, thấy là tránh, Ngài dùng Minh Sát Trí là Ngài thấy cái này Vô Thường, lúc nãy không có bây giờ có, Ngài tránh chứ Ngài không đẩy cái lực của Ngài ra khỏi Vô Thường đẩy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã để đừng tới với Ngài.
Thành ra nếu không Nhất Thống thì không Thắng Giải, mà Nhất Thống mà không có Minh Sát Trí thì Thắng Giải không chính xác là tập khí dẫn dắt.
Ngài Mingun nói là Tà Thắng Giải khi không phân biệt được Phật thiệt Phật giả, vàng thiệt vàng giả thì coi như mình lầm bao nhiêu giòng tâm thức của mình sinh ra.
Nên mình phải cẩn thận. Quí Phật tử không đọc, không dùng, không suy nghĩ tường tận thì Tuệ Văn mình quen, mình không suy nghĩ mình không có Tuệ Tư, mà Tuệ Tu mình phải trải nghiệm áp dụng thì mới có mà mình chưa đọc. Khi mình vô một thai bào khác sinh ra mình mù tịt luôn.
Rồi bây giờ mình đi vô một thai bào mà người Mẹ có đức tin nơi Tam Bảo, biết nhân quả, có chánh kiến thì khi mình ra đời người Mẹ dẫn dắt mình đi.
Còn nếu như mình vô trong thai bào mà người Mẹ không có chánh kiến, không có đức tin, không biết nhân quả, thì khi mình sinh ra mình đi theo nghiệp lực của mình.
Cái đó là cái khó, mà nghiệp lực đâu ? Là ngay lúc này gieo trồng con đường mình tạo ra.
Có 2 là : một là Câu Sanh Nghiệp, 2 là Thường Cận Y. Nếu như người Mẹ có Tam Bảo thì có Câu Sanh Nghiệp, trong Câu Sanh Nghiệp có Thường Cận Y của mình đã gieo trồng thì mình mới gắn kết nhau được. Còn nếu như không có Câu Sanh Nghiệp với người Mẹ và Cha thì mình phải có Thường Cận Y của mình trong quá khứ mình có gieo trồng Phật Pháp với Chánh Kiến thì Thường Cận Y dắt mình đi. Còn nếu 2 cái không có thì mình như chiếc lá rơi xuống giòng nước trôi không có định hướng.
Hết sức là quan trọng, nên phải đọc, phải học, phải dùng thời giờ của mình hết rồi, không còn để mình trôi lăn nữa, bây giờ mình phải lo tu tập, mình có vốn chưa, mình có tư lương chưa, mình có chuẩn bị chưa, và mình có sẵn sàng chưa, trong trường hợp nào.
Đức Phật nói không đọc kinh sách làm rỉ sét kinh sách làm bụi bặm kinh sách, mình phải đọc, phải văn ôn võ luyện.
Nếu quí Phật tử không đọc kinh sách thì không biết khi thấy người làm ác mình không biết căn ngăn là mình đứt Balamat nếu có nguyện Balamat, mà Balamat đó nhớ khi mình đứt giới mình xin giới được, mà đứt Balamat thì không còn Balamat nữa.
Kinh sách không phải để đọc suông.
Đường đi của các vị tu tập. Các vị tu tập có 3 là Chánh Đẳng Giác, Độc Giác, Thinh Văn. Mà trên đường đi của :
- Bậc Thinh Văn họ có hạnh nguyện Bồ Tát của Thinh Văn.
- Độc Giác họ có hạnh nguyện của Bồ Tát của Độc Giác.
- Chánh Đẳng Giác có hạnh nguyện của Bồ Tát Chánh Đẳng Giác.
Như vậy thì phải đi qua 2 giai đoạn :
Giai đoạn của Thinh Văn, Độc Giác, Chánh Đẳng Giác.
Giai đoạn của Bồ Tát
Rồi Chứng Đắc.
Giai đoạn của người hạnh nguyện Thinh Văn, họ là Bồ Tát của Thinh Văn họ phải làm chức năng sự vụ gì khi họ làm xong nhiệm vụ Bồ Tát thì họ mới tới Chứng Đắc được.
Chẳng hạn Bồ Tát Sumedha muốn được Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký thì Ngài cũng đã được 3 Tăng Kỳ rồi thì Đức Phật mới nhìn vô thấy. Giai đoạn Bồ Tát lúc Ngài ở vị trí đó Ngài đã có bao nhiêu cái sự vụ đã làm của Balamat.
Cái đó mình không có nắm được 2 giai đoạn Bồ Tát và giai đoạn Chứng Đắc, mình không có Balamat khi mình là Bồ Tát.
Bây giờ đi vô chi tiết:
Thinh Văn thì Balamat Xả Thí thì phải làm cái gì lúc làm Bồ Tát, hay là trì giới hay ly dục hay trí tuệ hay trong 10 Balamat. Lúc này đang ở Bồ Tát, chưa Chứng Đắc.
Khi quí Phật tử nguyện Thinh Văn gặp Cảnh, gặp đối tượng mà đang ở trong hạnh nguyện Balamat của mình thì phải làm xong chức năng này, thì từ đó chỗ Bồ Tát tích tụ phước của họ, mà tích tụ phước này là phước vô lậu và phước hữu lậu chắc chắn là có sinh ra khi mình sinh lại làm người thì quả phước hữu lậu vẫn trổ sinh lên (mình không thắc mắc phước hữu lậu vì nó vẫn có) .
Nhưng tới khi tích tụ phước vô lậu gặp chuyện xả thí, gặp chuyện trì giới, thì mình phải đúng ngay chức năng của mình ở trong vị trí mình đang là Bồ Tát của Thinh Văn, đang là Bồ Tát của Độc Giác, đang là Bồ Tát của Chánh Đẳng Giác. Mình làm không xong cái đó là không thành.
Tới khi tới phần Chứng Đắc.
Đối với Thinh Văn tới phần Chứng Đắc chỉ 2 trường hợp có là: Một là sinh cùng thời với Bậc Đẳng Giác. Hai là thời Giáo Pháp còn. Họ mới thành tựu phước báu của Bồ Tát mà họ đang tu tập trong thời gian trước họ mới trổ sanh Chứng Đắc này.
Bất cứ một việc làm nào cũng vậy mình phải xong việc đó thì Balamat mới tròn, gọi là viên mãn, không được làm việc gì dang dở.
Chứng Đắc của hạng Thinh Văn chia làm 2 : Sinh ra thời có Đức Phật hay thời Giáo Pháp còn.
Thì quí Phật tử đang ở thời Giáo Pháp còn. Thì mỗi sự sống của mình đây là mình phải sống với Balamat qua Giáo Pháp chỉ dẫn chứ không đi theo tư kiến của mình.
Thí dụ xả thí :
Xả thí của Bậc Thinh Văn thông thường khác với xả thí của Bậc Đại Thinh Văn khác, Chí Thượng Thinh Văn khác. Thì khi quí Phật tử ở Bậc Thinh Văn thông thường xả thí thì phần ngoài cơ thể của mình như là tài sản, của cải mình có thể cho được thì cho. Mà mình làm cái này phải đúng theo Giáo Pháp, thì lúc bấy giờ khi mình hoàn thành tựu thì mình thành tựu ở trong chánh pháp chứ không phải thành tựu của tri kiến.
Như vậy thì khi mình làm xả thí trong Giáo Pháp chỉ dẫn cũng như có Đức Phật ngồi kế bên chỉ dẫn mình, thì xả thí này mình làm theo cái này là Thình Văn thì bắt đầu đi theo xả thí này.
Đầu tiên là Nhất Thống Ekaggatā với Giáo Pháp, Thắng Giải Adhimokkha với Giáo Pháp đó, rồi Ekaggatā với Balamat và Adhimokkha với Balamat của mình rồi hành động.
Mình làm cái gì đó mình có chặt chẽ chứ không làm theo tư kiến hay theo tập khí của mình nữa.
Xả Thí Thinh Văn : Bên ngoài sắc thân, chẳng hạn tài vật của cải, lời nói hay là văn tự hay là Kinh Sách, đó là xả thí bên ngoài. Các bậc xả thí Thinh Văn thì Giáo Pháp nói xả thí chỉ bên ngoài sắc thân thôi, không bận tâm phần bên trong cơ thể hay là sinh mạng của mình. Giáo Pháp nói vậy.
Tới phần thực hành theo Giáo Pháp hay thực hành theo Balamat
Xả thí Thinh Văn theo Giáo Pháp dạy mà có Đức Phật Ngài cũng nói người mà xả thí Bậc Thinh Văn thì chỉ thực hiện theo bên ngoài sắc thân, không bận tâm phần bên trong của sắc thân hay sinh mạng của Bậc Chánh Đẳng Giác. Thì lúc bấy giờ mình thực hiện theo lời Phật dạy Giáo Pháp chỉ hay thực hiện theo xả thí Balamat.
Mình là xả thí Thinh Văn theo Giáo Pháp dạy hay Phật chỉ bên ngoài sắc thân, thì khi mà thực hiện xả thí Balamat chứ còn Giáo Pháp thì mình để ngoài.
Khi mà xả thí Thinh Văn mà lại hành Balamat thì lúc bấy giờ muốn Chứng Đắc ngay khi đang làm xả thí Balamat này.
Có 2 loại chúng sinh :
- Mượn chúng sinh làm đối tượng.
- Bản thân mình cũng là chúng sinh
Tất cả đều nằm trong Giải Cứu
Thiền sinh hỏi : Trong xả thí Balamat có Tiền, Hiện, Hậu. Thì trong Tiền khi mình làm một việc Balamat đó thì mình phải biết thí dụ như là xả thí thì mình phải biết thứ nhất là mình có khả năng để mà làm cái đó hay không tại vì cái đó là ngoài của mình thì thứ nhất là mình phải có điều kiện hay không, cái thứ 2 mình biết người nhận cái xả thí đó
HT trả lời : Giáo Pháp dạy xả thí Thinh Văn thường là bên ngoài sắc thân, nhưng trong lúc thực hành mình phải biết cái này là do mình có trải nghiệm
Trong khi hành xả thí Balamat thì muốn giải cứu bản thân mình là diệt trừ tham phóng khi Balamat thì mới giải cứu mình.
Xả thí Balamat = Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí
Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí mình nhìn vô cái Tâm mình để mình hành xả Balamat. Rồi bây giờ mình nhìn qua đối tượng.
Kinh Hầu Vương Bổn Sinh Mahakapi Jataka, Ngài cứu ông Balamon mà Ngài không phân biệt ông Ba La Môn này tốt xấu, Ngài chỉ cứu thôi, từ dưới thung lũng sâu Ngài cõng ông Ba La Môn lên đến ngọn núi, rồi Ngài mệt nên nằm nghỉ thì ông Bà La Môn lấy cục đá đập bể đầu Ngài, thì Ngài đã xong việc giải cứu bản thân và giải cứu chúng sinh rồi. Đó là xả thí Balamat của Bậc Chánh Đẳng Giác.
Mình là Giải Cứu hàng Thinh Văn thì mình làm sao ? Mình làm Đại Thiện Tương Ưng Trí cho xả thí Balamat. Đại Thiện Tương Ưng Trí soi xét chúng sinh mình đang xả thí Balamat của mình. Gặp chúng sinh đó là nghiệp chủ của mình, hay chúng sinh đó là pháp Balamat mình hành.
Mình lấy Đại Thiện Tương Ưng Trí, chúng sinh là nghiệp chủ của ta. Khi nó tớimình không biết nó là nghiệp chủ của mình hay là pháp Balamat của mình đang thực hiện nó đang đối diện cho mình thấy mình đang thực hiện, thì lúc bấy giờ giữa 2 cái mình chọn về nào mà là Tương Ưng Trí lấy trí tuệ luôn rồi, lúc đó Trí Tuệ Balamat làm việc với Xả Thí Balamat.
Khi mình phân tách ra chi tiết, mình không biết là mình có Đại Thiện Tương Ưng Trí trong Xả Thí Balamat, làm tròn xong Balamat mình giải cứu bản thân và mượn chúng sinh này làm đối tượng để thực hiện giải cứu của mình.
Rồi bắt đầu, khi mình biết được người đó không phải người tốt thì mình đi chứ không trở lại. Hầu Vương khi biết ông Balamon đập đầu mình làm máu chảy thì Hầu Vương không gần gủi nữa, Ngài bỏ xa ông Bà La Môn mà Ngài không bị đứt Balamat.
Cho dù ngay cả bậc Chánh Đẳng Giác cũng phải dùng trí.
Như vậy thì khi làm Balamat Giải Cứu ta cần có 2 cái : Ly Dục và Chú Nguyện Giải Thoát. Khi thực hành ta có Trí Tuệ trong Ly Tham và Giải Thoát.
Đức Phật khi Ngài còn là Bồ Tát, Ngài ra cổng thành Ngài thấy người già người bệnh người chết thì Ngài muốn Ly Dục, không còn ham muốn gì trong đời.
Khi quí Phật tử Giải Cứu là mình không mong cầu gì hết mà chỉ Ly Dục thôi. Hai nữa tôi muốn giải thoát khỏi cuộc đời này. Đó mới ý nghĩa là Giải Cứu Bản Thân mình, rồi lúc bấy giờ chính dùng Trí Tuệ Balamat này xả thí hành Balamat này để Giải Cứu Bản Thân mình với trạng thái này mình cũng có và dùng trí tuệ trong xả thí để Giải Cứu chúng sinh để thành tựu Balamat của mình cũng phải có.
Thứ 2 nữa khi Bồ Tát khi nguyện chỉ một lần thôi chứ không nguyện đi nguyện lại. Chẳng hạn nguyện Bồ Tát Thinh Văn thì nguyện một lần thôi, không lập đi lập lại. Và không phải mỗi lần làm lại nguyện.
Từ khi hiểu được ý nghĩa chữ Giải Thoát, mình bắt đầu nguyện trong tâm hay nguyện ra lời, hay nguyện trước bàn thờ Phật thì quí Phật tử nguyện Thinh Văn Giác một lần thôi. Rồi từ đó làm cho tròn lời nguyện đó. Và khi mình xong được Balamat đó rồi thì mình không có lập lại nữa, chứ đừng nói là chỉ lời nguyện không lập lại.
Trong quyển Minh Sát Biên Niên Sử của Ngài Mingun, Ngài nói Bậc Bồ Tát thành tựu nhở Tứ Chánh Cần, nhờ Tinh Tấn.
"striving the striving" là tận tâm nỗ lực phấn đấu, không chờ đợi gì hết.
Vậy thì khi mình đang hành Balamat, ngay khi đang hành Balamat có đối tượng là bản thân của mình hay có đối tượng là chúng sanh thì mình đang sống với pháp này "striving the striving" là tận tâm và nỗ lực phấn đấu thì mới thành tựu.
Trong lời nguyện đó có chú nguyện, lập quyết tâm.
Hành Thiền Minh Sát Tuệ hay Hành Thiền Balamat ? Bất kỳ ngồi xuống, hay đang thiền hành, thiền tọa, thiền trụ, thiền ngọa, quí Phật tử đang hành thiền Minh Sát Tuệ hay đang hành thiền Balamat.
Thế thì khi quí Phật tử đang hành thiền Minh Sát Tuệ và theo dõi Thân, Thọ, Tâm Pháp của Thiền Tứ Niệm Xứ thì quí Phật tử đang hành đó cho chứng đắc của Thiền Minh Sát Tuệ hay đang dùng Thiền Minh Sát Tuệ này Giải Cứu bản thân mình để thành tựu Balamat cho con đường Giải Thoát. Hai cái đó khác nhau ./.
----------------------------------------------------------
Chú Thích
Ahaṃgāha (Bài Giá Tử) = nghĩa tiếng Việt là hãnh diện, kiêu hãnh
sukkhavipassaka: 'Can quán giả (Sukkhavipassaka) bậc thánh chứng ngộ khô khan, nghĩa là bậc đắc quả A-la-hán không có thiền, chỉ nhờ thuần thục tuệ minh sát.', là thuật ngữ chú giải dành cho người chưa đạt được bất kỳ trạng thái thiền định nào (jhāna, q.v.), chỉ chứng ngộ được nhờ sự hỗ trợ của tuệ giác (vipassanā, q.v.) một hoặc một số tầng thiền của những con đường siêu thế gian (s. ariyapuggala). Trong Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo XVIII, người này được gọi là Hành giả theo cỗ xe Thuần Quán - suddha-vipassanā-yānika, được phân biệt với người theo Chỉ Thừa Hành Giả' (samathayānika, q.v.). Mặc dù ý nghĩa chính của sukkha như dự định ở đây đã được nêu ở trên, các chú giải phụ (ví dụ D. Tīkā) cũng sử dụng nghĩa đen của sukkha, tức là 'khô': "Trí tuệ của ngài khô khan, thô ráp, không bị thấm ướt bởi hơi ẩm của thiền định tĩnh lặng. " Điều này biện minh cho việc thường xuyên diễn đạt thuật ngữ này bằng cách “có tầm nhìn khô khan” hoặc “có tuệ giác khô khan”, tuy nhiên, điều này không dẫn đến những quan niệm sai lầm về bản chất của thiền minh sát là “khô khan” hay “chỉ thuần túy trí tuệ”, trong khi trên thực tế sự phát triển tuệ giác sẽ tạo ra hỷ lạc (pīti) và cảm giác khẩn trương (saṃvega - lo âu) nơi hành giả. - (phần phụ lục.).
(Trích trong Tự Điển Phật Học - Buddhist Dictionary - Manual of Buddhist Terms and Doctrines, by NYANATILOKA MAHATHERA) Nguyễn Văn Hòa và Minh Hạnh dịch thuật
No comments:
Post a Comment