074 Paṭṭhāna
HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 9, 2023
Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng 075 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ.
Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.
Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.
Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh
Minh Hạnh
Dāna: là bố thí, là phước hữu lậu, kiếp sau mình sinh lên hay tại kiếp này mình hưởng quả (pala) của phước hữu lậu, tức là có phước vật, nhưng có phiền não, là sợ người ta cướp, sợ người ta ăn cắp, sợ người ta tới giết mình. Dāna sống trong trạng thái của hữu lậu còn phiền não.
Pariccāga: từ bỏ; từ bỏ; ban tặng; từ bỏ, hi sinh, là phước vô lậu, là phước giải thoát, mà phước vô lậu đó trổ ra trong đời sống hàng ngày là thoát khỏi những phiền não.
Trên con đường muốn giải thoát có 2 con đường mình lên làm :
1. Muốn làm Dāna bố thí để mình hưởng lợi
2. Muốn làm Pariccāga để mình ra đi giải thoát.
Tất cả các vị Bồ Tát Bodhisatta, dù là Thinh Văn, hay là Độc Giác, hay là Chánh Đẳng Giác họ đang là Bodhisatta họ theo Pariccāga hơn là Dana.
Còn Phật tử người mà không có học thì họ thích làm Dana, họ không hiểu được Pariccāga. Nói theo danh từ ngoài thì Dana là phước Hiệp Thế, Pariccāga là phước Siêu Thế.
Mình làm những việc thiện với nguyện Pariccāga buông bỏ để giải thoát không còn phiền não, nhưng phước Dana vẫn đi theo mình mà nó không làm phiền mình. Còn nếu mình làm thiện mà không có nguyện Pariccāga mà mình làm Dana thì đương nhiên Dana nó có phước nhưng nó sẽ làm phiền mình kéo theo nó, phải biết tác ý, mình không có vọng móng, nhưng nó theo ta như bóng với hình.
Các bậc Bodhisatta bậc Chánh Đẳng Giác thì Ngũ Đại Thí Pañca Pariccāga là các Ngài đi tới con đường Chánh Đẳng Giác.
Pariccāga gọi là Phóng Khí, là không để ý tới.
Dāna là Xả Thí.
Bồ Tát Sumedha là tiền thân của Đức Phật Gotama. Khi Bồ Tát Sumedha mở cửa kho chứa tài sản 7 đời của phụ thân Ngài để lại cho Ngài. Ngài đứng phát ai xin gì Ngài cho cái đó, sau đó Ngài nghĩ ta ra đi mà còn đứng đây phát thì đó là còn ràng buột, Ngài mở cửa kho ai muốn lấy gì thì lấy và Ngài bỏ đi không để ý tới nữa. Đó gọi là Pariccāga.
Dāna là bố thí có những nhỏ nhặt sẽ làm quí Phật tử phiền não, chẳng hạn như cá nhân tuyển thí chứ không tập thể thí, thí dụ như quí Phật tử ưa người đó thì cho, còn không ưa người đó thì không cho, đó là cá nhân tuyển thí , cho dù tới chùa lựa ông Sư của mình còn ông Sư khác không cúng thì đó cũng là Dāna chứ không phải là Pariccāga. Còn khi phóng khí Pariccāga là Phật tử để cúng dường ở bàn ai lấy thì lấy, chứ không có cá nhân tuyển thí.
Mỗi một pháp thiện của mình với tác ý gì, mình có niệm có kiểm soát không hay mình làm một cách máy móc theo thói quen của mình xưa nay không có chuẩn bị gì hết.
Mỗi vật thực mấy cô mang đến chùa, mỗi lễ vật mấy cô mang tới chùa hay mang tới cho người khác, làm như vậy thì mấy cô làm Dāna hay Pariccāga thì mấy cô phải có tác ý, chứ không phải làm máy móc hay làm không có trí tuệ.
Mỗi một pháp thiện công đức nó cho mình con đường mình đi, mà con đường này mình đi mà mình không biết thì cái đó coi như là mất đi một phần năng lực, rồi quả trổ sinh ra mình lại mất đi một phần nữa. Tại vì có khi mình không biết đón nhận, mình không biết nên mình không hoan hỉ đón nhận, có khi nó phản ứng ngược lại với quí Phật tử.
Do đó, tai sao có những người nói tôi làm việc thiện phước hoài mà sao tôi phiền não hoài không được an vui. Thấy người ta ít làm phước mà người ta lại được yên vui, còn mình sao bị phiền não hoài. Những cái đó là do tác ý và trí tuệ của mình nó làm ra cho mình.
Nên mấy thiện công đức là của mình mà mình không làm chủ được mình trong những việc thiện công đức thì nghiệp chủ Kammassakatā của mình trước kia do Vô Minh duyên Hành mình đã làm ra nó chụp mình.
Một đứa con mình sinh ra là cơm mới hay cơm cũ mình không biết. Rồi ngược lại mình làm con, mình đối với cha mẹ, cha mẹ là cơm mới hay là cơm cũ của mình. Đối với cha mẹ là cơm cũ của mình hay là mình đang làm cơm mới để mình hưởng, hay là mình đang đón nhận cơm cũ mà mình phải trả, mình không biết. Họ đứng vị trí làm con, mình đứng vị trí làm cha mẹ.
Mỗi người có : Cha mẹ có nghiệp cũ, con cái có nghiệp cũ, tương tác nhau mới gặp nhau. Nếu không tương tác với nhau, không kết hợp nhau thì không gặp nhau.
Vậy thì khi mình hiểu được nghiệp cũ của nó, và khi mình tự biết được nghiệp cũ của mình, thì mình tạo ra nghiệp mới mình trở lại trong nghiệp cũ và mình nhìn ra nó không nhìn nghiệp cũ mà muốn nó trong nghiệp mới, thì mình phải có tác ý.
Thí dụ, mình sinh đứa con ra, cho nó đi học, từ tiểu học cho đến đại học, nhưng mình nhìn việc học của nó thì mình biết được nghiệp cũ của nó hay nghiệp mới của nó, nó học giỏi mình biết, nó học dở mình biết, đó là của cá nhân nó học. Còn khi nó ở trong nhà với mình, nó có hiếu nó nghe lời mình, nó bướng bỉnh cứng đầu hỗn hào bất cung kỉnh với mình đó là nghiệp cũ hay là nghiệp mới của mình mình biết.
Bây giờ nếu như mình muốn tương tác thì mình còn cộng nghiệp, còn không muốn tương tác mình rút lại thì không cộng nghiệp, thì ngày mơi, kiếp sau đường ai nấy đi, nó chỉ mượn kiếp này hay mình vay kiếp này, 2 người gặp nhau trong kiếp này, kiếp sau không gặp nhau.
Con đối với cha mẹ cũng vậy. Sariputta sinh ra trong gia đình Balamon, mẹ của Ngài là người cực đoan bà không muốn Ngài đi tu theo Đức Phật, gia đình Ngài có 7 anh em, Ngài là anh cả, em út là Revata, Ngài độ đi tu hết, tất cả đều đắc Alahan. Mẹ của Ngài không có niềm tin Tam Bảo và không tin vào phước báo nghiệp báo. Tới giờ chót ngày cuối cùng trước khi Ngài viên tịch, Ngài trở về căn nhà cũ của cha mẹ và Ngài viên tịch tại đó để Ngài độ cho mẹ của Ngài lúc đó chưa đắc quả thì Ngài phải đi rồi, tại vì tới cuối rồi. Từ khi Ngài biết được Đức Phật tới ngày cuối Ngài viên tịch là Ngài liên tục trở về nhà để cho mẹ Ngài để bát cho Ngài với 500 vị Tỳ Khưu đệ tử, Ngài tạo ra để mẹ Ngài làm việc thiện này, với thửa ruộng này là phước điền nhưng Ngài cũng không làm được, cho đến ngày cuối bà mới có một đức tin thôi thì Ngài viên tịch rồi. Ngài Xá Lợi Phất kiên trì và nhẫn nại.
Nên Đức Phật nói Pháp nhẫn nại thì Sariputta là đệ nhất.
Thì một chuỗi dài của Sariputta để làm con đối với mẹ cha của mình, thì muốn làm như vậy thì Ngài bỏ nghiệp cũ của Ngài và tạo ra nghiệp mới, rồi nhìn lại nghiệp cũ của mẹ Ngài và tạo nghiệp mới cho Ngài. Ngài bỏ nghiệp cũ của Ngài Ngài tạo nghiệp mới cho chính Ngài, rồi Ngài mới nhìn nghiệp cũ của mẹ của Ngài rồi Ngài mới tạo nghiệp mới cho mẹ Ngài.
Làm con cũng vậy, làm cha mẹ cũng vậy.
Như vậy thì trong đời sống hàng ngày nếu mình cứ sống trong nghiệp cũ của mình mà tương tác với gia đình mình với cha mẹ hay là con cái thì làm sao có nghiệp mới cho mình, cho con mình, cho gia đình mình ?
Không có. Quí Phật tử đang sống trong nghiệp cũ thì làm sao nói là nghiệp mới được, tập khí mình còn, thói quen mình còn, tính nết mình còn, mình không sửa đổi thì mình đi qua với con mình, nó không chịu, cha mẹ cũng không chịu. Ngài Xá Lợi Phất hoàn toàn hết rồi, Ngài là Chí Thượng Thinh Văn, là đệ nhất cao tăng của Đức Phật mà Ngài cũng làm hết sức của Ngài. Nên quí Phật tử phải thấy rất là quan trọng.
Nghiệp cũ của mình là gì ?
Nghiệp cũ có 2 loại :
1. Sống trong thói quen của phiền não
2. Sống trong thói lập đi lập lại không chịu thay đổi
Sống theo thói quen của phiền não hay là sống theo thói quen của lập đi lập lại. Thí dụ bố thí trì giới sống lập đi lập lại không có thay đổi. Đó cũng là nghiệp cũ.
Hai nữa là quí Phật tử sống trong phiền não là tham sân si giận hờn hỉ nộ ái ố, sống trong đó một chuỗi dài như vậy, đó là nghiệp cũ của mình. Nghiệp cũ của mình là mình sống trong cái phiền não của mình hay là sống trong thói quen của mình.
Như mẹ Sư sáng thức dạy là làm một ly cà phê sữa đá để lên bàn thờ Phật để cúng dường Đức Phật, xong thì lên tụng kinh 1 tiếng rưỡi, tụng kinh xong thì mẹ Sư thỉnh ly cà phe sữa đá xuống dùng, rồi bắt đầu nấu cơm cho chồng con ăn, xong thì đi xả thí. Mẹ Sư cứ sống như vậy, không có cái gì là mới hết, chứ mẹ Sư không sống trong phiền não.
Còn mình đây, có người sống trong phiền não, không có gì thay đổi mới, có người sống trong tuổi già với nghiệp cũ của mình mà họ không hay. Nếu quí Phật tử sống trong trường hợp này thì cái gì là nghiệp mới của quí Phật tử ?
Nếu sống mà không có trong Pháp thì một là cô sống trong cái làm việc thiện lập đi lập lại. Còn hơn nữa mà không có được pháp thiện lập đi lập lại hàng ngày mà mình có tạo ra do thói quen là sống trong phiền não lập đi lập lại, trong thói quen lập đi lập lại không có gì là mới, 100 năm sau gặp lại cũng vẵn như vậy không ra khỏi, và cái nghiệp đó nó lập đi lập lại cho tới kiếp sau, và cái nghiệp cũ của quá khứ nó lập đi lập lại và mình cứ hưởng cơm cũ này lập đi lập lại cho kiếp này mình sẽ đón nhận nữa, đó là may, còn không là rớt xuống nữa.
Rồi con mình sinh ra "sanh tử bất sanh tâm, sanh ngưu vô sanh giác" nghĩa là, con trâu sinh ra được cái thân chứ không sinh được cái sừng, sinh đứa con là sinh được thân của nó chứ không sinh được cái tâm của nó. Thì mình nhìn nó với một đứa con của nghiệp cũ hay đứa con mới của nghiệp mới, nếu sống mà không có trí và không có tác ý thì mình sẽ trôi lăn và nó cũng trôi lăn với kiếp sống của nó.
Nghiệp cũ của nó nếu như mình nhìn nó với nghiệp cũ của nó, khi mình vừa sinh nó ra thì mình nhìn nghiệp cũ của nó mình có biết không. Con mình sinh ra mình cùng với nó là nghiệp cũ.
Giữa 2 lằn ranh cha mẹ và con cái.
Con cái, những gì nó đang làm ra dù là cũ hay là mới, là cha mẹ mình phát nguyện không lập lại, chỉ tạo mới thôi thì mình mới có cái nghiệp mới được. Mình nhìn thấy nó là cái gương phản chiếu của cái nghiệp của mình thì mình mới tạo ra một cái nghiệp mới cho mình, chứ mình không có trách nó, thấy nó là mình giựt mình. Nếu như mình biết nó có sự tương tác với mình trong cái nghiệp lực này mới kết nhau trong một gia đình. Thì mình nhìn thấy nó những gì của nó, dù là cũ hay là mới, thì mình nói ta không lập lại cái này nữa, thì mới có cơm mới.
Nếu mình không nhìn ra được thì chính mình ôm cái khổ của mình trong cái sự vô minh của mình mà mình không biết gì.
Trong thời hiện tại trong Thức này là Quả Dị Thục chứ không phải là Thức Đổng Lực. Khi nhìn cái này (cha mẹ / con cái, nghiệp cũ nghiệp mới) thì là Thức Quả Dị Thục, mà khi nhìn thấy Quả Dị Thục này đang có chính mắt mình nhìn nó thì mình chỉ nhìn vô nó mà kết vô với thói quen của mình thì rớt vô trong Hiệp Thế. Mà nhìn nghiệp cũ là Quả Dị Thục của mình thì mình chỉ nhìn đây chỉ là Danh Sắc thôi, thì bắt đầu mới thoát ly được.
Thức mình nhìn vô, đây là quả Dị Thục mà chỉ là Danh Sắc thôi. Thì khi những cái gì nó đang là Danh Sắc hiện bày ra nó chỉ qua 6 cửa mắt, tai, mũi, miệng thôi. Rồi nếu nhìn ra được cái đó chỉ là lục xúc (lục Xứ) thì nó chỉ là Xúc thì mới ra Thọ, chứ không nghiệp cũ hay nghiệp mới thì mới ra được. Còn không là ôm nguyên một khối của nghiệp cũ, và ăn cơm cũ, chứ không có bữa nào là cơm mới, tại vì mình không có trí.
Xúc, Thọ, Ái, 3 cái đó là tâm sở (tứ đồng) nó là một cái khoen cột chúng sinh trong vòng thúc phược này.
Do đó, khi học qua Tứ Niệm Xứ ; Thân, Thọ Niệm Xứ mấy cô mới ra được
để hình 55.32
Liên Quan Tương Sinh Tứ Niệm Xứ
Danh / Sắc < ----- Thân Niệm Xứ
Lục Xứ <-------
Thọ Niệm Xứ
Vậy là đang hành Tứ Niệm Xứ hay đang sống trong mãnh lực của Liên Quan Tương Sinh trong lúc mình đang hành thiền Vipassana mà không biết thì mình đang trong nghiệp ăn cơm cũ không có cơm mới.
Xúc, Thọ, bắt qua, chứ nó không nằm trong Thân Niệm Xứ nữa, nó đang là Thọ của Liên Quan Tương Sinh hay là Thọ mình đang niệm chỉ là Pháp, 2 cái đó là cũ và mới.
để hình 075 - 56.38
Vòng Liên Quan Tương Sinh nó làm cho mình rớt trong vòng luân hồi sinh tử, mà cái này đang ở trong hiện tại. Thì khi Thức của mình biết được là quả dị thục, biết được ta đây chỉ là Danh và Sắc thôi, thì nếu nhìn với Thân Niệm Xứ là có niệm của cái mới, còn nếu không biết thì cái Danh Sắc mình đang niệm, đó là đang ở trong nghiệp cũ của mình đang hình thành và đang chi phối đang dẫn dắt đi.
Vậy thì khi ngồi thiền mà thấy Danh Sắc này là thấy Danh Sắc của Liên Quan Tương Sinh hay là Danh Sắc của Thân Niệm Xứ ?
Khi quí Phật tử ngồi thiền cái Thức của mình nhìn vô con người mình đang ngồi thiền là quả Dị Thục chứ chưa nói về Tâm Đổng Lực. Thì với trạng thái đang hành thiền với Thân Niệm Xứ mình chỉ nhìn vô mình ngồi thiền đây chỉ là Danh Sắc thì mình sống trong Liên Quan Tương Sinh hay chỉ là trong Thân Niệm Xứ với Danh Sắc mà mình đang niệm. Danh Sắc của Liên Quan Tương Sinh hay Danh Sắc của cái niệm của Thân Niệm Xứ ?
Khi ngồi thiền mấy cô thấy đây là Danh Sắc của Thân Niệm Xứ hay cô thấy Danh Sắc của Liên Quan Tương Sinh ?
Thiền sinh hỏi: khi mình hành Tứ Niệm Xứ thì về Danh Sắc này mình thấy rõ ràng là nó là cái nghiệp của quá khứ , nhờ Danh Sắc này mà khi mà mình thấy như vậy mình mới ra được con đường của Thân Niệm Xứ, tại vì nó là của nó chứ không phải là của mình.
HT trả lời : Đúng rồi, khi hành về Thân Niệm Xứ, nó qua Thọ, qua Tâm, qua Pháp, mình đang hành, mình nhìn về Danh Sắc, đó là tuệ đầu tiên, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, thì mình phân biệt tuệ Danh Sắc theo Thân Niệm Xứ của mình niệm thấy hay là mình thấy được lúc đang hành Thân Niệm Xứ thấy được Danh Sắc này của Liên Quan Tương Sinh của mình đang hiện bày của nghiệp cũ.
Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Nāmarūpapariccheda ñāṇa tuệ thứ nhất của Tứ Niệm Xứ Satipatthana thì mình phân biệt được Danh và Sắc, đây là Danh, đây là Sắc của Liên Quan Tương Sinh hay Danh và Sắc của Thân Niệm Xứ ?
Anh Tâm Nhiệt nói khi vô ngồi mình niệm Thân Niệm Xứ đến một hồi sau Danh Sắc này nó đánh mình tơi tả mình chỉ thấy một chuỗi dài Liên Quan Tương Sinh thôi, chứ không thấy Pháp nào của Danh và Sắc của Niệm Xứ của mình hết. Thì mình thấy đúng không ?
Nhưng đứng về trong Pháp Abhidhamma; Xúc, Thọ, Tưởng, thì Xúc, Thọ, Ái Dục chấp thủ, những pháp này toàn là tâm sở. Thì đứng trong Tứ Niệm Xứ niệm Thân thì có Danh Sắc, mà trong Danh Sắc này Thân mình biết có Niệm Xứ, Thọ Thân có Niệm Xứ, Thân, Thọ, Tâm, Pháp, bắt đầu mình thấy Thân có Lục Xứ là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Còn trong Lục Xứ tiếp xúc ở đâu thì mình biết có xúc ở đó, sau cái Xúc thì ra Thọ thì bắt đầu, nếu mà có cái Thọ thì cái phần đang đi tới cái Thọ thì mình để Thọ Niệm Xứ làm, Thọ Niệm Xứ sẽ làm việc đó, chứ không phải chức năng Thân Niệm Xứ làm.
Qua tới phần Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu (Sinh Hữu), có Sinh, có Lão Tử. Những giai đoạn này thuộc về Tâm Niệm Xứ.
Những giai đoạn từ Nghiệp Hữu nó qua Pháp Niệm Xứ
Ái Dục nó của Liên Quan Tương Sinh là thuộc Tâm Niệm Xứ, Tâm biết, chứ Thọ không biết.
Chấp Thủ của Liên Quan Tương Sinh, Tâm biết chứ không phải Thọ biết.
Thọ chỉ có chức năng là cảm thọ, cảm giác, ghi nhận.
Ái, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu, qua tới Pháp, ngoài chức năng của Tâm rồi, nó tạo tác ra nghiệp hữu nó ra sinh hữu, rồi Sinh Lão Tử, đó là Pháp bắt đầu nó theo Liên Quan Tương Sinh.
Lúc đó đi theo trình tự : Thân Niệm Xứ --> Thọ Niệm Xứ -->Tâm Niệm Xứ --> Pháp Niệm Xứ là quí cô hành Niệm Xứ Satipatthana (tất cả trình tự này gọi là Nghiệp Mới)
Còn trình tự : Liên Quan Tương Sinh --> Danh / Sắc --> Lục Xứ -- > Xúc --> Thọ (cũ) ---> Ái Dục ---> Chấp Thủ ---> Nghiệp Hữu (Sinh Hữu) --> Già / Lão Tử (là Nghiệp Cũ)
Như vậy thì khi biết được Danh / Sắc của Liên Quan Tương Sinh, biết được Danh / Sắc của Thân có Niệm, biết được đây chỉ là Danh Sắc trong Thân
Vậy thì khi hành Thân Niệm Xứ
Thân Niệm Xứ đi tới Thọ để biết tiếp Thọ hay là ở Thân Niệm Xứ phải thấy được Thực Tính Thực Tướng, là nó có Nghiệp Cũ và Nghiệp Mới.
Thân Nghiệp Xứ mà đi tới Thọ, hay là trong Thân Niệm Xứ này thấy được Thực Tính Thực Tướng không cần tới Thọ là đã thấy được liền thì Nghiệp Cũ Nghiệp Mới.
- Thân Niệm Xứ này vượt qua khỏi Thực Tính Thực Tướng của nó rồi thì xuống Thọ, thì bắt đầu là Thọ của Liên Quan Tương Sinh hay là Thọ Niệm Xứ.
- Mà Thọ này đợi qua tới Tâm Niệm Xứ thì không có Nghiệp Cũ Nghiệp Mới, mà đang ở trong cái Nghiệp Cũ Nghiệp Mới.
Cha Mẹ là Thân Niệm Xứ, hay Cha Mẹ là Liên Quan Tương Sinh.
Con cái là Liên Quan Tương Sinh hay là Tứ Niệm Xứ, mình đổi. Nếu như con cái mình với nghiệp cũ là con cái của mình, với trạng thái Niệm Xứ mình nhìn thấy nó chỉ là Danh Sắc. Với cái Nghiệp của nó hiện bày ra nó mình nhìn thấy diễn tiến của nó theo Liên Quan Tương Sinh nó đang có của nó và mình niệm cái đó mình bắt đầu làm theo cái biết của mình thì mình đang có Nghiệp Mới và có cơm mới.
Quí Phật tử không có biết dùng cái đó, không có phát hiện được cái nào là cơm cũ cái nào là cơm mới của mình rồi tự mình làm khổ mình, ngay cả khi đang tu tập cũng tự mình làm khổ mình, rồi ngán vấn đề tu tập, nói tới tu tập có nhiều người sợ. Con cái cũng vậy, ngó tới con cái chúng chỉ làm khổ mình thôi chứ không thấy cái gì an vui cho mình là tại vì mình không biết cách nhìn, tại vì mình không có trí để giải quyết cho chính mình chứ không phải cho họ.
Ở đây, Tứ Niệm Xứ, ta cứ đi tuần tự, hết Thân Niệm Xứ rồi đến Thọ Niệm Xứ, đến Tâm Niệm Xứ, rồi đến Pháp Niệm Xứ.
Vòng Liên Quan Tương Sinh nó quay tròn trong vòng luân hồi, nó là Nghiệp Luân, Phiền Não Luân, rồi ra Dị Thục Quả Luân, 3 cái Luân này nó quay. Thì khi thấy Danh Sắc này nó quay qua Lục Xứ, ta vừa biết Danh Sắc thì 6 căn ta tiếp xúc với 6 trần, bắt đầu ta biết nữa ta niệm tiếp nữa thì cái đó là Saṁsāra của vòng quay
Còn khi tiếp xúc được Danh Sắc và khi Danh Sắc bắt đầu mở cửa nào trong Danh cũng được Sắc cũng được, trong 6 căn này nó mở cửa nào mình chỉ thấy là hồi nãy có Danh Sắc bây giờ có Lục Xứ đó là trạng thái của nó, còn không thì đi nữa, tại vì mình vuột.
Mình làm cái này hoàn toàn trong Liên Quan Tương Sinh chứ không trong sự tu tập bhavana.
Bhavana tu tập là phải có Tuệ Văn, Tuệ Tư, mới có Tuệ Tu, còn nếu không sẽ không có nghĩa lý gì cái bhavana.
Vậy thì phải chính mình đây ăn nghiệp cũ ăn nghiệp mới ăn cơm cũ ăn cơm mới đang sống trong nghiệp cũ đang sống nghiệp mới mà mình không biết, một ngày 24 giờ mình không biết mình sống trong nghiệp cũ hay sống trong nghiệp mới.
Một thiền sinh nói : Mình đang học Phật Pháp là mình đang ăn cơm mới.
HT trả lời : đó là hình thức thô. Cơm mới là phải từ trong tri thức của mình, quí Phật tử ngồi nghe mà mất liền cái cũ thì đó là ăn cơm mới, nhưng ngồi nghe mà còn giữ lấy cái đó để rồi tuần sau cũng lập lại như vậy.
Sariputta là chàng thanh niên Upatisa sau khi nghe ĐĐ Assaji nói chàng thanh niên Upatisa làm mới liền, và Ngài lập lại cái câu nói của ĐĐ Assaji với người bạn Kolita Moggallàna thì người bạn này có cơm mới liền, Ngài lập lại cái của ĐĐ Assaji hay là cái biết của bậc Thánh nhân Tu Đà Hườn nói cho Kolita nghe.
ĐĐ Assaji nói thanh niên Upatisa nghe xong đắc quả Thất Lai, rồi thanh niên Upatisa tới nói cho Kolita Moggallàna nghe câu của ĐĐ Assaji hay là của vị Thánh Thất Lai nói, rồi Kolita đắc quả Thất Lai là mới.
Bây giờ quí Phật tử nghe rồi về kể cho con mình nghe. Quí Phật tử không thấy được cái mới, cái mới là không phải về lập lại, đứa con nói má chỉ là cái máy nghe thôi, con không thấy cái gì mới, nên đứa con không thay đổi.
Nên mình phải bằng hành động con mình mới thấy lúc bấy giờ lời nói của mình mới có hiệu lực.
khi Upatisa tới nói với Kolita thì Kolita nhìn Upatisa không phải là người cũ mà Ngài đã thay đổi rồi thì Kolita mới lắng nghe, những cái lắng nghe đó Kolita mới nghiệm ra được cái mới của người mới chứ không phải cái cũ của người bạn cũ của mình. Upatisa và Kolita Chuyển Tộc (Gotrabhū) từ phàm qua Thánh.
Cũng vậy, khi quí Phật tử nghe Pháp này (Tứ Niệm Xứ), khi hành Pháp này và nghiệm pháp này (Liên Quan Tương Sinh) thì phải là người mới để mà biết cái này chứ không phải là lập lại cái mà mình nghe này chỉ là trạng thái nghiệp cũ trùng lại thì mới có cái mới, phải Chuyển Tộc (Gotrabhū) mới ra cái mới
Vậy thì mình mới thấy Pháp mình học, sách mình đọc, những cái nghĩa lý Pháp nghĩa mình đọc rồi mà mình không có thay đổi, rồi mình ngồi xuống kể lại trùng tuyên lại đúng trong sách chưa chắc làm thay đổi người nghe
Hai người bạn Upatisa và Kolita tới gặp Đức Phật thì 2 tuần lễ sau Kolita đắc Alahan sau đó 2 tuần tiếp Upatisa mới đắc quả Alahan, tức là Mục Kiền Liên đắc quả Alahan trước Ngài Xá Lợi Phật, mà Đức Phật nói Sariputta là đệ nhất trí tuệ còn Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông. Trí tuệ của Ngài Xá Lợi Phất chỉ dưới Đức Phật thôi.
Cùng nghe pháp Đức Phật mà Mục Kiền Liên đắc quả Alahan trước Ngài Xá Lợi Phật 2 tuần lễ sau mới đắc Alahan.
Chư Tăng đến hỏi Đức Phật tại sao Ngài Xá Lợi Phất là đệ nhất trí tuệ chí thượng thinh văn đại đệ tử của Đức Phật tại sao đắc Alahan trễ hơn DĐ Mục Kiền Liên chỉ là đệ nhất thần thông.
Thì Đức Phật Ngài trả lời : Không phải ngẫu nhiên mà là có nguyên nhân mà có pháp lý giải thích rõ ràng.
Đức Phật Ngài nói với một người đại trí tuệ với một người trí tuệ hoàn hảo người ta phải hoàn bị hết tất cả về trí tuệ của họ, họ không thể làm nhanh lẹ được, họ phải hoàn bị hết.
Họ phải hoàn bị hết, thời gian để họ hoàn bị không kéo dài theo ý mình được, khi nào chín muồi thì nó tới. Như đi thi, trả lời bài thi theo cái học của mình hay là theo trí tuệ của mình theo thói quen của mình, theo cách xử của mình học trong trường lớp mà thầy giáo dậy là nó ra cái của quí Phật tử.
Thí dụ như mỗi lần Sư đi thi mẹ Sư nói không nạp bài trước, làm xong rồi phải đọc đi đọc lại, kiểm tra lại coi có sơ xót gì không, chắc rồi mớt đem đi nạp. Người mà ra sau chót hết không phải người đó là dở mà người ta hoàn bị người ta xem xét kỹ rồi mới đi nộp, mình đi ra trước không phải là mình giỏi hay là mình xuất xắc, có khi và có khi không phải.
Ngài Mục Kiền Liên trên con đường Ngài tu, Ngài không nguyện là đệ nhất về Trí Tuệ, Ngài chỉ nguyện là đệ nhất về Thần Thông trong một thời Phật nào ra đời. Còn Ngài Xá Lợi Phất trong một kiếp Ngài nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác mà bậc trí tuệ mà không thành tựu với cái xả thí của Ngài với con mắt của Ngài do vua trời Đế Thích thử rớt xuống Ngài vẫn làm trí tuệ Chí Thượng Thinh Văn và Ngài phải hoàn bị theo năng lượng tu tập của Ngài, và tới khi nào chín muồi nó thành tựu. chứ Ngài không nóng vội so đo với người.
Còn mình thì so đo sao người ta được mình không được, đó là tập khí kiết sử của mình chứ không phải Pháp, làm sao gột rửa cái Chuyển Tộc của mình được, sao qua được cái Dũ Tịnh (vodāna) của mình được, làm sao qua được chuyển tộc (Gotrabhū) của mình được vì mình ở trong đó thì không ra được. Ngài cứ lọc rửa cho tới khi nào nó thành thì Ngài thành, chứ Ngài không vọng móng xác định ngày tháng.
Quí Phật tử trồng cây cần có thời gian để trồng mới ra được trái, nhưng thời gian của chính nó cho ra bông ra trái của nó, nhà nông chỉ biết theo tư kiến của mình.
Do đó Đức Phật Ngài trả lời Chư Tăng vì muốn hoàn bị với trí tuệ mà Ngài đã nguyện, do đó Ngài phải trau dồi cho đến khi nào thành tựu và hoàn bị chứ không có vọng móng, kỳ vọng hay là đặt một nào trước hay sau, nhanh hay chậm, mà làm cho tới khi nào thành tựu thôi.
Vậy thì, trong đời sống hàng ngày quí Phật tử muốn có một có một cơm mới và muốn tạo ra một nghiệp mới mình phải hoàn bị với pháp mới mà mình đang tu tập cho tới viên mãn chứ không phải nóng vội, mà từ từ nó ra.
Nghe một bài Pháp này về nói lại cho gia đình là không có nóng vội và phải thời cơ và đúng thời điểm thì mới có kết quả.
Trong Tạng Luật, vị Tỳ Khưu cáo tội một vị Tỳ Khưu khác, không phải là gặp đâu nói đó, mà phải đúng chỗ đúng thời, đúng điều kiện mới nói.
Và ông Sư đi sám hối với Chư Tăng để nhập chúng lại sau khi bị cấm phòng để nhập chúng lại, thì ông Sư cũng phải đi lựa ông Sư nào hiểu biết mình chứ không lựa những Sư nào chống đối mình để xin nhập chúng. Nếu ông Sư lựa người chống đối mình để xin nhập chúng thì ổng không chịu không cho vì ông là người chống đối mình là chết rồi, thì phải lựa ông Sư biết mình hiểu mình thì ông Sư đó cho mình nhập chúng, đó là theo Tạng Luật.
Do đó, người có trí họ phải biết khi mà mình hành thiền đắc hành thông là lẹ lắm, đâu có ai kiểm soát nhưng mình muốn trở thành người có trí sẽ có người kiểm soát mình vả người ta trắc nghiệm mình do đó mình phải hoàn bị thì người ta mới nhìn mình là người có trí, nếu mà sơ sót là không được.
Vậy thì mình biết cái nào là cái mới, cái nào là cái cũ, và mình sống trong cái cũ. Thứ hai nữa mình không có hoàn bị những cái gì cái mới của mình mình vội quá chưa chắc mình có cái mới hoàn bị. Phải kiên trì như Ngài Xá Lợi Phất thì mới trở thành bậc trí và có trí thật để mình xử dụng để có, chứ không phải do người ta đề cử.
Thì muốn có nghiệp mới phải làm cho hoàn mỹ và chính mình phải thay đổi của cái cũ của mình thì mình mới có cái nghiệp mới và từ đó đến làm cha đến con cái, rồi làm con cái với cha mẹ của mình phải có cái đó, chứ không thể nào nóng vội. Trong khoa học một người làm sai hai người cùng sửa 20 năm họ nuôi dưỡng trong tập khí này, mình phải có 20 năm nhẫn nại để sửa 20 năm sai lầm, chứ không phải một ngày một buổi là xong./.


No comments:
Post a Comment