Tuesday, October 15, 2024

058 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 13 tháng 5, 2023

 058 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 13 tháng 5, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "058 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

1. Tâm động Cảnh yên ----> Thực Tính / Hữu Vi

2. Tâm động Cảnh động ---> Thực Tính Thực Tướng

3. Tâm yên Cảnh Động -----> Định An Chỉ

4. Tâm yên Cảnh yên -----> Minh Sát Trí

 Quí Phật tử ngồi thiền hay ngọa thiền, hay thiền trụ, hay thiền hành. Trong 4 oai nghi này:

- Thì lúc này Tâm đang thiền tọa mà Tâm bị động với Cảnh động, thì mình biết.

-  Hay là Tâm mình động nhưng mà Cảnh yên mình biết. 

-  Hay là Tâm mình yên Cảnh mình động mình biết.

-  Hay là Tâm mình yên Cảnh mình yên mình biết.

Trong lúc 4 oai nghi mình đang hiện bày. Thì một người có tu tập thì họ có 4 giai đoạn này.

1. Tâm động Cảnh yên ----> Thực Tính / Hữu Vi

Nhưng khi Tâm động Cảnh yên là quí Phật tử đang ở Thực Tính / Hữu Vi. Hữu Vi có nhân có quả, nó cố định.

Thì Cảnh yên là mình có Nhân và Quả nó yên rồi, không có lo. Nhưng Cảnh mà mình bắt.

Cảnh có 6 là: Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, Pháp.

- Nếu nói theo động của nó thì có: Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, Pháp.  

- Nếu mình nói theo khi nó yên, thì có nhân có quả, nhân nào quả đó.

Nhưng nói động là trạng thái nó đang bị chi phối của các pháp.

Quí Phật tử nhìn một cảnh sắc, thí dụ nhìn một con chim bay, hay nhìn một áng mây, Cảnh đó yên hay Cảnh động ?  Cảnh sắc đó động.

Nhưng nếu mình nhìn một cảnh sắc đó dưới góc độ nhân nào quả đó thì cảnh đó yên với trạng thái mình biết nhân đó quả đó.

 Khi nói tới động thì mình thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.

Khi nói tới yên thì mình nói tới Nhân Quả.

2. Tâm động Cảnh động ---> Thực Tính Thực Tướng

Khi Tâm động Thực Tính của nó là Sinh / Diệt.  Còn Cảnh Động bản chất của nó là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, cảnh nó không đứng yên. 

Do đó, khi mình có trạng thái Tâm không yên (Tâm đang động) thì  Thực Tính của  Tâm nó đang hiện hữu chứ không phải Tâm đó mình đang có, mình đang sống trong thực tính của Tâm.

Nên khi nói Tâm động là trạng thái mình đang bị phóng dật phải không ? Nhưng không phải, mình phải nghĩ Thực Tính là sự Sinh / Diệt của nó.

Còn trạng thái mà nó phóng dật là Cảnh của nó là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.

Mình nắm 2 cái đó mình mới ra được, đối với người đang có Tâm động và bắt Cảnh động thì lúc đó người đó đang ở trong Thực Tính của Tâm, hay là Thực Tính của Tâm đang ở trong con người của nó, và Cảnh của nó mang vô cho mình ở đó.

3. Tâm yên Cảnh Động -----> Định An Chỉ

 Với trạng thái Tâm yên Cảnh động. Chỉ có khi ở Định An Chỉ / và trạng thái triền cái.

4. Tâm yên Cảnh yên ----->  Minh Sát 

Tâm yên Cảnh yên là với Cảnh Minh Sát với kiết sử.

Định An Chỉ Samadhi. Với trạng thái Định An Chỉ thì trước đó phải có Niệm và Tỉnh Giác, lúc này Tâm bắt đầu yên dần, Tỉnh Giác thì bắt đầu trụ rồi mới có Định với cảnh yên. Cảnh yên này là đối tượng của Tỉnh Giác.

 Có Niệm và Tỉnh Giác với đối tượng đó thì bắt đầu đối tượng đó yên lại.

Thiền sinh hỏi:  Định An Chỉ này Cảnh sẽ yên nhưng với Vipassana  Cảnh cũng yên phải không ?

HT trả lời: Không, chút nữa Sư nói Vipassana.

Định An Chỉ khi mình đi tới Niệm và Tỉnh Giác thì triền cái phát sinh lên ở giữa đối tượng (Cảnh)

Định An Chỉ ---> Niệm và Tỉnh Giác / triền cái phát sinh lên (động) / đối tượng. Lúc đó 5 triền cái sinh lên nó che lấp đối tượng.

5 triền cái là tham dục, sân độc, trạo hối, hôn thùy, hoài nghi.

Niệm hơi thở vô ra Tỉnh Giác, đó là Định An Chỉ, mình chỉ Niệm đối tượng mà không phân tích, không quan sát chỉ Niệm hơi thở vô biết (Tỉnh Giác) , Niệm hơi thở ra biết (Tỉnh Giác). 

Thì khi Niệm vô lúc đó tham dục lên ta hoan hỉ, bắt đầu triền cái len lỏi vô. Nên các vị Thiền Sư nói; lúc đó là các pháp triền cái đang tiếp cận mình chứ không phải là đối tượng, không phải là Cảnh đang tiếp cận, nếu mình không phát hiện là bị mất liền, mình sẽ đi vô ngũ triền cái và mình không thấy hơi thở vô ra.

Do đó, khi mình muốn được Định An Chỉ thì phải bất cận với ngũ triền cái và phải bất nhượng, tức là không được để cho ngũ triền cái sinh khởi lên trong tâm thức của mình, thì lúc bấy giờ mới đi tới gần Định An Chỉ. Năm triền cái nó che lấp mình, làm mình ngồi thiền không đạt được định, mình có Niệm và Tỉnh Giác mà không có Định vì triền cái chen vô ở trước đối tượng của mình.

 Quí Phật tử chạy xe, tại sao lạc đường ? nếu đường đó mình đi rồi mà mình đi qua bị vuột mất. Là vì triền cái chen mất nên mình lạc đường. Nếu như mình có Niệm và Tỉnh Giác thì mình chạy tới luôn không có lạc. Vậy là tại sao ? Tại triền cái che mất, mình chỉ sơ hở một cái lạc đường. Trạng thái sơ hở đó là mình ở trong trạng thái trạo hối che đối tượng của mình lại. Cảnh này đang bị động, Cảnh mất rồi, không yên. Còn nếu Cảnh yên thì mình phải có Cảnh yên đó là Minh Sát mình mới thấy, chứ còn Định thì chưa chắc.

Giờ Sư nói tới phần Minh Sát Trí hay là Minh Sát Tuệ. Thì lúc bấy giờ mình thấy kiết sử: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ / Danh Sắc.

Minh Sát Trí ---> Kiết Sử / Danh Sắc.

Tuệ thứ nhất là Tuệ Phân Biệt Danh và Sắc. Nhưng mấy cô không vô được Tuệ Phân Biệt Danh Sắc này vì bị kiết sử chặn, thân kiến, cái tôi cái ta chặn, không cần Tâm động, nó vẫn rõ vẫn yên mà mình không vô được Tuệ Phân Biệt Danh Sắc.

Bây giờ mình quán sát kiết sử trên Danh Sắc.

Danh chia 2 là Tác Ý và Tâm Ý Thức

Sắc chia làm 2 là Tứ Đại và Sắc Y Sinh.

Tác Ý thuộc về Danh. Khi Niệm tuệ đầu tiên của Minh Sát, Tuệ Phân Biệt Danh và Sắc, con người gồm 2 thành phần là tinh thần và thể xác gọi là Danh và Sắc, thì đầu tiên tác ý dở chân lên, thì tâm ý thức biết dở là thuộc phần Danh. Rồi sắc hiện bày là tứ đại đang làm cho sắc y sinh hiện bày ra là 3 sắc kỳ vị hay là 3 sắc biến thể.

Minh Sát Tuệ   ---> Kiết sử                       Danh

                              Thân Kiến

                               Hoài Nghi                   Sắc

                               Giới Cấm Thủ

 Thì ở đằng trước 2 Danh Sắc này là Thân Kiến (kiết sử) đứng chắn. "Tôi đang dở chân" "Tôi đang có" mà nó không có động, nó rõ ràng như vậy, mình có đủ điều kiện để mình cãi lại chuyện người ta đang bác bỏ những cái gì mình có, tại kiết sử của mình là yên, nó là vậy đó.

Còn thí dụ như mình đang hoài nghi thì nói gì mình vẫn yên đó, tôi thắc mắc thì tôi thắc mắc, tôi không tin, tôi không hiểu, tôi nghi ngờ. Nó yên, nó rõ như vậy.

Minh Sát Tuệ, Kiết sử đứng trước Danh và Sắc. Tâm yên

Định An Chỉ, hơi thở mình Niệm vô và ra về Định An Chỉ thì triền cái đứng trước cửa. Tâm động

Minh Sát Tuệ Tâm yên. Định An Chỉ Tâm động. Rõ ràng bản chất nó là như vậy.

Đánh cho chết cho chừa cái nết, cái tập khí của nó, tính tham không chừa, đã tham thì tham hoài, lúc nào cũng tham.

Cái tác ý này là của tôi, tôi có tác ý này. Cái xác thân này là của tôi, xác thân này tôi có. Kiết sử này nằm yên trước mắt. Bước qua thân kiến mới qua được Danh và Sắc, Danh và Sắc là bản chất của pháp. Không bước qua được 5 kiết sử này thì không nắm bắt được Pháp. Tôi đang ngủ là thân kiến, già là thân kiến.

 Khi cô thấy niệm về Danh và Sắc mình đang quan sát Danh và Sắc này nó rõ như vậy đó, Danh có 2 là tác ý và tâm ý thức, mỗi một cái Danh khởi lên nó có 2 cái đó. Mỗi cái Sắc khởi lên có tứ đại và sắc y sinh lên với nó không tách rời được. Nhưng mới qua cái cửa này là gặp 3 hạ phần kiết sử rồi mới vô Danh Sắc của nó.

Tôi, Ta, Mình, là bất di bất dịch không thay đổi, 70 tuổi cũng không thay đổi, trước kia "Tôi" bây giờ cũng chữ "Tôi" không thay đổi.

Thiền sinh hỏi: lúc trước học là mình phải dùng Minh Sát để phân biệt Danh Sắc, thì từ Minh Sát Tuệ đó mình mới phá bỏ được kiết sử thân kiến, bây giờ mình học thì lại phá thủng hữu thân kiến thì mình mới thấy được Danh Sắc.

HT trả lời. Hai cái đều không có gì khác biệt hết. Có người lấy pháp trước  để diệt thân kiến của mình là người đó gián tiếp. Còn người đi thuận kiết sử thấy được Danh Sắc là người đó trực tiếp, dám đối diện. Tùy theo mình, mình dám nhìn thẳng vô sự thật không thì đó là mình nhìn qua kiết sử thấy được Danh Sắc. Còn người không dám nhìn kiết sử của mình thì nhìn Danh Sắc trước rồi mới diệt kiết sử của mình, đó là cách thứ 2.

Quí Phật tử đi đường nào cũng được, nhưng phải biết là Tâm yên Cảnh yên mới thấy được. Còn nếu như Tâm yên mà Cảnh động cũng không thấy được. Mình phải làm sao Tâm mình yên, Cảnh có động đi nữa mình phải giữ được, thì cái người mà đi tới Tâm yên Cảnh yên nếu đi qua Minh Sát nó thẩm thấu Thực Tính Thực Tướng của nó mới nhìn ra Cảnh yên, chứ còn không thì Cảnh động. 

Nên người đi Định An Chỉ giữ Tâm chứ không diệt được Cảnh, nếu buông Tâm ra mà Cảnh động thì Tâm người hành giả động theo.

Người ngồi thiền là giữ Tâm thôi, xả thiền ra là Tâm lại động. Nhưng Minh Sát muốn được Tâm yên Cảnh yên là phải có trí nhìn qua con người thật của mình thì mới nắm bắt được Pháp thật của mình đang có. Minh Sát là phải nhìn thấy con người thật của mình chứ không phải là nhìn thấy đối tượng mình đang niệm hay đang Minh Sát. Nên Tâm yên Cảnh yên mình mới thấy.

Còn người hành Thiền Chỉ thì Tâm hành giả yên thôi mà Cảnh không có yên, hành giả ra khỏi Thiền Chỉ là Tâm  bị động trở lại.

Do đó, có 2 loại pháp, thì pháp này tuần vừa rồi Sư nói là mình đối diện luôn với người thiệt của mình, muốn nhìn thật vô Danh Sắc, mình nhìn thẳng vô con người thật của mình mới nhìn được Danh Sắc thật của nó. Chứ còn mình cứ né mình nhìn Danh Sắc của nó mình không nhìn thẳng vô con người thật của mình chưa chắc là mình nắm đúng mà mình nắm theo tư kiến của mình.

 Hoài nghi này là hoài nghi của kiết sử chứ không phải là hoài nghi thông thường. Nó phải là hoài nghi cố định, còn hoài nghi thông thường là hoài nghi động. Hoài nghi kiết sử là hoài nghi yên. Hoài nghi kiết sử khác với hoài nghi thông thường.  Hoài nghi thông thường là hoài nghi động, hoài nghi kiết sử nó cố định nó yên.

Hoài nghi thông thường như mình không biết ngày mai trời có mưa không, không biết bữa nay trời có mưa không, ngay mai có nắng không.

Còn hoài nghi nhân và quả, có phải cái này là quả của cái nhân, đó là hoài nghi cố định, mình thẩm thấu được nhân thì thẩm thấu được quả, nhìn được quả hiểu được nhân, nó cố định, nó bất di bất dịch, không ai bóp méo không ai sửa đổi được.

"Thiện ác đáo đầu chung hữu báo". Tức là thiện và ác cuối cùng đều có quả báo hết, nhân thiện có quả thiện, nhân ác có quả ác, nó bất di bất dịch không thay đổi. Còn trời mưa trời nắng, trời giông, trời gió, tốt xấu, ngày mai lên chùa có Sư ở chùa không, những cái đó là bất định. 

Còn nhân quả thì không thay đổi được, không một ai có quyền bóp méo nhân sửa quả được, mà nó đi theo cố định của nó. Thì hoài nghi này là hoài nghi kiết sử, Nó là cố định yên thì nói Danh này có nhân có quả của nó chứ không phải của mình tạo ra được, nếu mình tạo ra được nó thuộc cái "Tôi" cái "Ta" của mình, cái hoài nghi này mình phải diệt, mình thấy rõ ràng là hoài nghi này phải diệt và mình không giữ hoài nghi này trong đầu mình được.

Khi thấy được pháp thực tướng hay là thực tính của nó thì hoài nghi kiết sử này diệt, nên kiết sử nó đi đôi với thực tướng, thấy được thực tính diệt được kiết sử, thấy được thực tướng diệt được kiết sử, cái đó là cố định, nếu mà nó yên mình mới thấy được.

Do đó, khi nói tới Danh và Sắc, cái tuệ đầu tiên, tại sao Ngài Paṇḍita, Ngài Cundala, Ngài Janaka, luôn cả Ngài Mahasi đều nói  nếu hành giả đạt được Tuệ Phân Biệt Nhân Quả của Danh Sắc, hành giả là Culla Sotāpanna Tiểu Tư Đà Hườn, là Tiểu Thất Lai. Là vì mình thẩm qua được cái hoài nghi này, chứ không phải thân kiến không.

Thân kiến bỏ được nhưng hoài nghi mình vẫn còn giữ chưa chịu bỏ.

Kiết sử hoài nghi có 8:

1. Hoài nghi quá khứ

2. Hoài nghi hiện tại

3. Hoài nghi nhân

4. Hoài nghi về quả

5. Hoài nghi liên quan tương sinh

6. Hoài nghi tôi trong hiện tại, 

7. Hoài nghi tôi trong quá khứ, 

8. Hoài nghi tôi trong vị lai

Thì mấy cái này về Danh Sắc này là kiết sử, nó phải yên mình phải nhìn thấy rõ được nhân quả thì mình mới thấy được kiết sử của hoài nghi mà mình đang giữ.

Sở dĩ con người ta không vô được một lời dạy của Đức Phật.  Đức Phật Ngài chỉ dạy cách sống chứ không phải Ngài dạy giáo điều hay giáo lý bắt buộc mình phải tuân theo mà không có biết, Ngài dạy mình cách sống và phải có trí cho mình hiểu để mình hiểu mình hành. Chứ Ngài không đặt giáo điều mà minh tuân thủ chấp nhận mình phải thực hành theo mà mình không có hiểu. Nhưng con người mình không qua được cái hoài nghi của mình đang giữ, không qua được kiến chấp của mình đang có và mình giữ những cái gì của mình đang thủ thì mình không có thẩm thấu được lời dạy của Ngài. Ngài nói trên cái chứng nghiệm của Ngài.

Như vậy thì,  tuệ thứ nhất Phân biệt Danh Sắc. Thì cái này có thân kiến, có hoài nghi, Thủ nằm ở Danh Sắc.

Tuệ 1. Phân biệt / Danh Sắc

                           - Thân Kiến

                           - Hoài Nghi

                           - Thủ

Mà mấy cô có 3 cái này không, hay có 1 thôi.

Người nào có 3 cái này về Danh Sắc thôi, mấy cô có thân kiến về Danh Sắc không ? Mấy cô có Hoài Nghi về Danh Sắc mình không ? Mấy cô có Thủ về Danh Sắc này không ?

Ba kiết sử này, cái tập khí của mình, cái cố tật của mình, cái tánh nết của mình, mấy cô có 3 trong cái Danh Sắc trong cái sắc thân mình, tinh thần và thể xác hay là có 2 thôi, hay có 1 thôi.

Tuệ thứ nhất, Tuệ phân biệt danh sắc, người ta nói Danh Sắc, mình có thân kiến không, có tập khí, có kiết sử vô cái Danh Sắc này của mình không, có Hoài Nghi về danh sắc này không, có thủ về danh sắc này không, thì bắt đầu mình nói có mình ghi vô, cái nào không có mình bỏ ra.

 Tôi có thân kiến trong danh sắc, tôi có hoài nghi trong danh sắc, tôi có thủ trong danh sắc, là mình có 3. 

Còn thí dụ như tôi có thân kiến trong danh sắc thôi chứ tôi không có hoài nghi về danh sắc tôi, rõ ràng tôi nhìn tôi biết tôi thì không có gì hoài nghi gì về danh sắc này đâu, nhưng cái kiến chấp của tôi với danh sắc này không ai đụng tới tôi được, đụng tôi là tôi phản ứng liền, vì tôi có 1 thân kiến thôi. 

Còn hoài nghi về danh sắc thì tôi không có, tôi rõ rồi, tôi biết rồi nên tôi không có hoài nghi.

Còn thủ về danh sắc thì tôi không có thủ vì tôi thấy nó thay đổi mỗi ngày, tôi không có hoài nghi tôi không có thủ, nhưng tôi có 1 là kiến chấp thôi, đụng tới tôi là tôi phản ứng liền, kiến thôi chứ không có thủ.

Giới cấm thủ là giới theo thủ tục của người dân gian, là chấp thủ tục của dân gian, sui, hên, "hôm nay tôi bị té, sui quá" hay là "tôi sinh ra nhằm ngôi sao xấu." đó là giới cấm thủ. Ở bên Pháp, những sinh viên bạn của Ba Sư hồi đó đi du học Ba Sư cũng là sinh viên đi du học bên Pháp, Ba Sư kể thứ Sáu ngày 13 đi xe lửa vắng hoe, Tây nó không đi mình lên đó nằm ngủ luôn, họ tin dị đoan ngày thứ Sáu 13 là xui nên không đi .

Thì giới cấm thủ này cũng như cái dạng dị đoan về cái danh sắc của mình.

Thí dụ như, Mẹ Sư bắt Sư phải tới Crystal Palace ở đường Nguyễn Công Trứ Nguyễn Trung Trực có thẩm mỹ viện Phương Dung, người đó là bạn của Ba Sư , Mẹ Sư muốn Ba Sư đưa Sư đến thẩm mỹ viện Phương Dung để đốt cái mụn ruồi vì cái mụn ruồi đó té sông té biển, đi vô đốt lấy cái cùi ra luôn chứ không tội nghiệp nó té sông té biển, Ba Sư dắt Sư vô, bà nói cái mặt đẹp quá có sao đâu, Ba Sư nói má nó không cho sợ té sông té biển chết, chị làm sao lấy cái mụn ruồi ra. Cái bà lấy cái mụn ruồi ra, dán băng lại.

Đó là giới cấm thủ, sui, hên, dị đoan, những hủ tục của nhân gian đặt ra cái mình thủ cái đó, mình sợ sui, hên, tín ngưỡng một cách tà tín, đó là giới cấm thủ về danh sắc này.

Tôi có thân kiến, tôi có hoài nghi, tôi có chấp thủ những hủ tục của nhân gian (mê tín dị đoan), đó là giới cấm thủ.

Theo khoa học họ nói con người chia làm 2 tinh thần và thể xác. Nhưng về Phật Pháp Đức Phật nói chúng sinh ở trong tam giới thì chia làm 2 là danh và sắc, rồi lên tới Sắc Giới chỉ còn sắc pháp và danh bắt đầu ít lại, rồi tới khi vô phần Vô Sắc Giới chỉ còn danh pháp thôi không còn sắc pháp.

Nếu như mấy cô đi tu về Thiền Chỉ là mấy cô phải đi lọc là còn Dục Giới là mình còn đối diện với 6 cảnh. Lên tới Sắc Giới mình bắt đầu giảm bớt dần  phần danh pháp, mình chỉ sống với sắc pháp thôi, tới phần vô sắc giới thì mình bỏ hẳn sắc pháp này mình chỉ lấy danh pháp thôi. Đó là đi theo Thiền An Chỉ.

Còn nếu đi Minh Sát Tuệ thì mình đi Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, Tuệ Phân Biệt Nhân Quả của Danh Sắc, Phổ Thông Tuệ, Sanh Diệt Tuệ, Hoại Diệt Tuệ. v.v...

Thì trước cửa đầu tiên Tuệ thứ nhất  Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc, thì mình muốn thấy được cái Danh và Sắc đúng như Minh Sát Trí của mình Vipassana, mình nhìn thấy Danh Sắc là phải bước qua kiết sử, không bị nó kéo lôi mình.

Khi mình tu thiền trong 4 oai nghi tọa, ngọa, trụ, hành (đi), thì trong 4 oai nghi đó mình chỉ thích 2 oai nghi là thiền tọa và thiền hành thôi. Còn thiền trụ (đứng) hay thiền ngọa (nằm) dễ bị phân tâm, nên mình loại bỏ. Mình tập trung vô 2 oai nghi mình thích thôi. Thì đó là mình đang ở trong kiết sử, trong tập khí của mình, cái thói quen của mình. 

Còn nếu như mình không chấp vô cái nào hết , mình phá chấp hết, mình không có tôi ta không có kiết sử nào hết thì 4 oai nghi đó mình luân chuyển đều hết, thi khi mình đi cả 4 oai nghi hết là mình đi theo pháp thôi.

Pháp thiền tọa nó có pháp của nó, pháp thiền ngọa nó có pháp của nó, pháp thiền trụ nó có pháp của nó, pháp thiền hành nó có pháp của nó, thì mình cứ luân chuyển theo pháp của nó, mà mình đi theo pháp của nó mà pháp nó hiện bày ra mình không còn giữ cái kiết sử cái thói quen tập khí của mình nữa, mình đi theo pháp hoài.

 Thí dụ, mấy cô vô ngồi học cái giờ cao điểm là ăn no xong vô học giờ đó tập khí của mình hay buồn ngủ, nhưng bây giờ khá hơn, mình nghe Pháp rồi thì bớt dần buồn ngủ.  Nhưng mình không bám được Pháp, mình không theo dõi được Pháp thì mình trở lại cái buồn ngủ của mình, mình nghĩ Pháp Sư giảng có thâu về nhà mình nghe lại, và mình không đi theo Pháp.

Nếu người nào nói tôi thích thiền tọa, tôi thích thiền hành, người đó đang đi theo tập khí của mình, người đó có thói quen, có kiết sử. Nhưng tới khi mình tu là mình sửa, thì bắt đầu mình sửa dần, cái gì mình chiều nó hoài thì nó sẽ thành cái thói quen, mình bắt đầu bớt dần. 

Thí dụ như thói quen của mình là sáng thức dạy đánh răng xúc miệng xong phải làm ly cafe rồi mới làm gì thì làm. "Trước ta tạo thói quen, sau thói quen tạo lại ta", thói quen đó trước là do ta tạo nó, sau đó thói quen tạo lại ta thành cái người ở trong thói quen này.

Đức Phật nói tuệ thứ nhất của thiền Minh Sát, mà phải thuộc Tâm yên Cảnh yên mới được  chứ Cảnh động thì không được.

Vậy thì tuệ thứ nhất là Tuệ Phân Biệt Danh và Sắc thì làm sao mà vượt qua bước ngang qua chứ không phải diệt, bước qua thôi cái sự cản hay là thói quen của mình thôi, mình bước qua thân kiến, hoài nghi, bước qua giới cấm thủ để mình nhìn thấy rõ cái Danh Sắc này như thật của nó thôi, là được rồi.

Nếu trả lời mấy cô có cả 3 (thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ), nghĩa là vô trong thiền Minh Sát Vipassana, mình quan sát, mình niệm, mình tỉnh giác với đối tượng Danh và Sắc, hay là tinh thần và thể xác của mình đây là mình luôn luôn bị 3 cái này áng đường che lấp mình, rồi mình làm theo cái tập khí, mình cũng niệm dở mà mình dở theo thân kiến dở theo chấp thủ dở theo cái hoài nghi.

Do đó, khi mấy cô đi hay ngồi, Sư nhìn ra được kiết sử mấy cô chứ Sư không nhìn ra được cái gì mấy cô đang niệm, cái kiết sử đang hiện bày ra.

Do đó, mấy cô đánh mất chữ "Phân Biệt" mà cô lo Danh Sắc nên 3 cái thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ nó bao trùm nên mấy cô có cả 3.

Mình vô Tuệ Phân Biệt thì mình ở trong phần Tuệ Phân Biệt thôi chứ không ở trong phần Danh Sắc. (Tuệ Phân Biệt / Danh Sắc)

Vậy thì khi Phúc Minh hỏi Sư trong khi Sư qua Tuệ thứ nhất Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Sư có mấy cái kiết sử  ?  Sư nói sẽ không có mà Sư đang ở trong Tuệ Phân Biệt, Tâm Sư làm việc phân biệt Pháp, cái gì hiện bày ra là Sư phân biệt Pháp cái đó, Sư không ở trong Danh Sắc. Thì mấy cô nắm mới được.

(tức là khi tu thiền Minh Sát, trong tuệ thứ nhất, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc. Thì mình quan sát và khi pháp hiện bày thì mình phân biệt pháp đó, mà không nắm Danh Sắc, vì lo Danh Sắc thì 3 cái thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ nó bao trùm lấy tâm nên có cả ba, do đó, chỉ phân biệt khi pháp hiện bày.) 

Đó là Tuệ thứ nhất.

Còn nếu cô vô nắm cái Danh Sắc thì cô không nắm được cái gì hết mà cô mất hết tất cả.

Do đó, chính mình không thấy cái thực hành của mình.

Khi vô Tuệ Phân Biệt Danh Sắc bạn có bao nhiêu kiết sử ?  Con có được cả 3, vì còn ngồi đây mà, còn nếu diệt hết thì là Tu Đà Hườn rồi, là Thất Lai rồi.  

Nhưng cái đầu tiên nhất, cái Tuệ Phân Biệt Danh Sắc các bạn không có thì làm sao đi tới Thất Lai được. Bạn không biết Phân Biệt, bạn không làm việc được Phân Biệt, bạn không Phân Biệt được Danh và Sắc này thì coi như bạn không có tuệ thứ nhất.

Do đó, vô tuệ thứ nhất là mình phân biệt liền, và phân biệt chính xác và nó không nằm trong một cái thân kiến, kiến chấp, không nằm trong một cái hoài nghi, lưỡng lự, thắc mắc, hay trong cái chấp thủ nào cả, mình phải phân biệt rõ Danh và Sắc.

Nói Danh và Sắc. 

Danh có 2 là Tác Ý và  Tâm Ý Thức

Sắc có 2 là Tứ Đại và Sắc Y Sinh.

Mỗi khi tôi dở lên tôi thấy có Danh Sắc 2 cái tôi đang phân biệt tôi thấy rõ.

Mỗi khi hít thở vô một cái tôi có phân biệt được Danh Sắc, tôi có phân biệt rõ cái nào là Danh cái nào là Sắc, tôi thấy tôi đang ở trong tuệ thứ nhất tôi đang phân biệt chứ tôi không ở trong cái kiết sử này ở trong Danh Sắc này.

Sư trong phân biệt Sư phân tách liền.

Khi cô đọc một bài kinh cô phân biệt là cô phải biết phân biệt, chứ không đưa kiết sử của cô vô trong bài kinh thì cô mới nhìn được bài kinh đó rõ như thật của nó, còn nếu cô bỏ kiết sử của cô vô thì bài kinh đó là của cô chứ không phải bài kinh của lời kinh Phật dạy.

Thiền sinh hỏi: Nếu nhìn cái phân biệt thôi, thì khi mà mình hít vô và mình thở ra thì mình chỉ biết cái đó là một cái Sắc, rồi cái Tâm mình biết cái hít vô thở ra đó chỉ là Danh thôi, thì cái đó có phải là Phân Biệt không ?

HT trả lời: Tuệ thứ nhất Đức Phật Ngài nói là  Tuệ Phân Biệt Danh Sắc chứ Ngài không nói Tuệ Phân Biệt hơi thở thì:

Hơi thở, hay tọa hành, những cái này đều nằm ở trong Danh Sắc. Vậy thì trong cái này mình coi cái hành động, diễn biến hành động, rồi ý thức của mỗi pháp. Mình chỉ coi trong hành động, diễn biến của hành động và ý thức của mỗi pháp, chứ mình không nói gì đến hơi thở hay tọa hành gì hết.

Giờ Sư hỏi mấy cô, mấy cô nói trong hơi thở, thì hơi thở đó mấy cô có trong lúc nào ? Trong 4 oai nghi, ngồi hít vô, đứng hít vô, nằm hít vô, đi hít vô.

 Thì khi ngồi cô hít vô thì phân biệt ở đâu ? Khi ngồi có danh sắc, hít vô cũng có danh sắc, vậy phân biệt chỗ nào ?

Do đó, không nói hơi thở, không nói trong oai nghi, mà khi nào Danh và Sắc phát sinh hiện bày bắt nó liền, chứ không phải nói một cái đối tượng. Tôi thấy lúc nào có Danh Sắc tôi phân biệt lúc nào có Danh Sắc, trong khi tôi ngồi tôi cũng thấy Danh Sắc, trong khi tôi hít thở lúc nào cũng thấy được Danh Sắc, thì mới được. 

Lúc bấy giờ mà cô khắn khích trên Pháp thì thân kiến kiết sử mới đứng bên ngoài được.

Chứ bây giờ cô nói hơi thở, cô đang ngồi, cô đang đi, cô đang đứng, đâu có, lúc nào cũng vậy đó Danh Sắc phân biệt chứ không phải tới hơi thở mình mới phân biệt Danh Sắc, tác ý có danh sắc, tâm ý thức có danh sắc, lúc nào cũng có Danh Sắc là phân biệt được hết.

Và từ khi cô phân biệt được Danh Sắc liên tục như vậy cô mới thấy ra khỏi được kiết sử này, kiết sử nó nằm ở trong cái biết phân biệt này nó mới tách ra, rồi danh sắc đã có rồi thì nó có nguyên nhân quả của Danh Sắc mình đi theo tiếp nó nó mới đi ra được cái cửa, mà phải Tâm yên Cảnh yên mới được, còn mà một trong hai cái động là không được.

Hơi thở cô đang nắm bắt phân biệt Danh Sắc hay cô đang ngồi cô phân biệt được Danh Sắc ? Lúc nào cũng phân biệt Danh Sắc, bắt cái đó đi hoài, vừa phân biệt được, thấy được nhân quả, thì kiết sử lọt ra ngoài nó không có cơ hội vô Tâm mình, không có tôi ta, không có hoài nghi, không có thủ trong này nữa, mình đi tiếp tiếp luôn, liên tục và không gián đoạn mới được.

Khi ta hỏi cái tuệ thứ nhất, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc bạn có bao nhiêu kiết sử, tôi không bàn, tôi bàn cái Tuệ Phân Biệt của tôi thôi, tôi có Tuệ Phân Biệt hay không thôi, chứ còn Danh Sắc này tôi biết, tôi có bao nhiêu kiết sử tôi không bàn, tôi chỉ biết tôi có Tuệ Phân Biệt là liên tục và không gián đoạn, lúc nào tôi cũng có Tuệ Phân Biệt này và không gián đoạn.

Mấy cô phải biết cái đó mới được, cái đó khi mà ông Thiền Sư hỏi, bạn ngồi thiền Minh Sát bạn có được Tuệ Phân Biệt Danh Sắc không ? Trả lời là con ngồi thiền con còn vướng kiết sử, ông nói không, tôi đâu có nói kiết sử, tôi nói anh có phân biệt được Danh Sắc không, anh có Tuệ Phân Biệt không  ?

Sư có Tuệ Phân Biệt không ? 

- Có, Sư có Tuệ Phân Biệt. 

- Sư có lúc nào ?

- Lúc nào Sư cũng có phân biệt và không có gián đoạn, và không để cho kiết sử xen vô trong lúc mình có Tuệ Phân Biệt này.

Như thế là mình thành công.

Vậy thì khi nào mình có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc ? Khi mình phân biệt được Danh Sắc thì mới có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc

Danh chia 2 là Tác Ý và Tâm Ý Thức

Sắc chia làm 2 là Tứ Đại và Sắc Y Sinh.

Bây giờ mấy cô đang ngồi đây, mấy cô đang nghe Pháp, Sư hỏi mấy cô có phân biệt được danh sắc không ? 

- mấy cô nói có, con phân biệt danh sắc, con là sắc nữ còn Sư là sắc nam. Và mấy cô không để ý tới kiết sử và kiết sử không đủ để chen vô trong Tuệ Phân Biệt Danh Sắc này. 

- Và Danh Sắc này đều có Nhân Quả của nó, chứ không có ai tạo ra nó, nhân nào quả đó, Danh có Nhân Quả, Sắc có Nhân Quả.

- Chính cái đó, cái Tuệ mà tôi biết được đó là Tuệ thứ hai, Tuệ Phân Biệt Nhân Quả của Danh Sắc,

 - mà làm sao cô có, là cô phân biệt được Danh Sắc rồi mới có tiếp tục Nhân Quả của Danh Sắc thì cô mới đi liên tục, 

- và Nhân Quả này, Danh Sắc này nó tồn tại, 

- không, nó theo Phổ Thông Kiến của nó, mình phải đi theo được cái đó mình mới thoái ra được. 

- Còn cô đứng ngoài cô cứ nhìn vô kiết sử (thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ) là hỏng. Chính cái này nó ngăn che mình rồi. 

Mấy cô đứng ở ngoài hết, nó gạt mình đó, 

Bây giờ Sư hỏi lại: Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, mấy cô có bao nhiêu kiết sử ? 

Khi người ta hỏi câu đó là người ta có gài trong đó hay là họ không biết hỏi, mình không bao giờ lọt vô cái 2 trường hợp đó.

Tuệ thứ nhất, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc bạn có bao nhiêu kiết sử ?  không trả lời, tôi có Tuệ Phân Biệt chứ tôi không có bao nhiêu kiết sử. Có khi người ta hỏi, họ biết hỏi, hay người ta trong thế gài mình. Mình không phải là người không hiểu biết, mình biết mà, mình là người trí mà, mình nhìn vô biết phân biệt liền, lúc nào cũng có Tuệ Phân Biệt.

Tuệ thứ nhất bạn có không ? tôi có, Bạn qua hết các kiết sử ? Tôi có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc. Chưa nói tới kiết sử, tôi biết phân biệt là được rồi, và tôi không sai trật nữa, tôi không sai trật trong sự phân biệt này, và tôi không đi lầm nữa, và tôi không còn cái gì thắc mắc nữa, tất cả những cái này rõ như ban ngày, đâu là Danh, đâu là Sắc tôi phân biệt được.

Trong con người mình có 2 thành phần; tinh thần và thể xác, mình phân biệt được thế nào là tinh thần, thế nào là thể xác, mình biết, không có cái phân biệt, mình biết tinh thần mình ra sao, cái sắc pháp của mình ra sao, cái đó là sau bàn tới, bây giờ phân biệt Danh (tinh thần) và Sắc (thể xác trước).

Cũng như vậy, khi Sư cho mấy cô mấy bài tập, mấy cô không biết là Sư cho mấy cô bài tập. Sư nói cô Diệu Giác xếp lại những cuốn sách, cô làm theo Pháp, chứ không làm theo kiết sử, Sư nhìn là Sư biết, tất cả Sư thực tập mấy cô hết, không bỏ cơ hội, lâu lâu Sư mở cái này, Sư mở cái kia, mấy cô làm Sư nhìn Sư biết. Cô phân biệt là cô làm phân biệt thôi chứ cô không tìm cái kiết sử này, tôi biết phân biệt Danh Sắc, tôi làm phân biệt Danh Sắc không sai không trật là được rồi./.

----------------------------------

khi nào mình có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc ? Khi mình phân biệt được Danh Sắc thì mới có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc

Danh chia 2 là Tác Ý và Tâm Ý Thức

Sắc chia làm 2 là Tứ Đại và Sắc Y Sinh (Upādāyarūpa)

1- Sắc tứ đại (mahābhūtarūpa).

2- Sắc phụ thuộc - Sắc Y Sinh (upādayarūpa).  là sắc pháp nương nhờ sắc tứ đại mà phát sanh./.


Tuesday, October 1, 2024

057 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 06 tháng 5, 2023

 057 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 06 tháng 5, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "057 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Oan trái này là thân bằng quyến thuộc thân thích của mình mới sợ, thân thích này đi qua như vợ chồng, cha con, ông bà, cha mẹ, bạn bè thân thuộc là oan trái. 

"Vô oan trái bất thành phu phụ, vô oan nghiệp bất thành phu tử".

Tức là cha con là oan nghiệp, mà vợ chồng là oan trái, quay cuồng qua lại,  một chuỗi giây là nghiệp báo mà nó là nghiệp chủ, không xa, không phải là vô cớ vô duyên hay không có nhân duyên không có tác nhân, nó đến mình không nhìn ra.

Đọc trong sử, chuyện Vua An Dương Vương, Mỵ Châu thả lông ngỗng cho giặc là Trọng Thủy tới giết cha, cái nỏ thần thì bị tráo mất. Thì đó cũng là oan trái.

Đề Bà Đạt Đa oan trái với Đức Phật, Đề Bà Đạt Đa là anh vợ của Đức Phật, Công Chúa Yasodhara là em của Đề Bà Đạt Đa, con của đức vua  Suppabuddha (Thiện Giác).

 Mình phải sợ, kẻ thù không xa, ngay trong người thân của mình là kẻ thù, mình mới thấy sợ, quí Phật tử đừng có quên, kẻ thù của mình không ở đằng xa ở ngoài chiến trường, mà ngay cả vợ chồng, cha mẹ, anh em của mình là oan trái.

Người trí nhìn thấy pháp Vô Thường, hay pháp Khổ Đau, hay Minh Sát Trí quán thấy pháp này tu tập về tâm thì nó mất, thì nó không tác động, còn không thì oan trái.

Chính chuyện đó là Ba La Mật, chính chuyện đó mới vượt thoát mới giải thoát. 

Trái soài chín mọng gọt vỏ xong đưa cho quí Phật tử ăn vô thấy ngon thì quên Vipassana (quán tưởng) là bắt đầu quí Phật tử tạo tâm tham sinh lên. Không kịp thừa hưởng là mình đã tạo nghiệp liền. Thứ 2 là tâm tham,  thứ nhất là tâm quả rồi tạo tâm tham, rồi 1, 2, 6, 7, đổng lực.

Do đó, mình mới thấy là không có niệm là quí Phật tử không bao giờ ngừng,  mình học qua phần Thân Niệm Xứ thì tại sao trong bài Tứ Niệm Xứ hay bài kinh Niệm Xứ Satipatthàna sutta, Đức Phật nói Thân, Thọ, Tâm, Pháp, mà trong khi đó mình biết Thọ chỉ là Tâm Sở thôi, nó thuộc loại tứ đồng của Tâm mà Thọ này là pháp gì mà Ngài nói đó là pháp Liên Quan Tương Sinh.

 Mình phải đọc lại Thập Nhị Nhân Duyên trong phần Xúc Duyên Thọ, Thọ Duyên Ái, Ái Duyên Thủ. Thọ đó là Thọ Niệm Xứ, chứ không phải Thọ của Tâm Sở. Thọ Thân, Thọ Tâm, mình chưa nói tới, mình nói tới Thân Niệm Xứ.

 Vị hành giả cũng như các vị Thiền Sư không có kiến văn, không có Tuệ Văn, Suta-Mayā paññā là Văn Tu Sở Tuệ, thì hành giả sẽ đi qua Tâm Sở liền và mình lạc hướng, và mình không gặt hái được kết quả.

Thành ra mình mới coi qua phần Paṭiccasamuppannā Liên Quan Tương Sinh cái khâu Xúc Duyên Thọ, Thọ Duyên Ái, Ái Duyên Thủ, Thủ Duyên Hữu, Hữu Duyên Sinh, cái đó mới tìm tới.

Vậy thì khi qua Thân Niệm Xứ. Sư nói hoài mà quí Phật tử không hiểu ý Sư. 

Thân có Thọ thì Tâm có Pháp. Thân có Pháp thì Tâm có Thọ. Nó liên đới nhau, đó là Paṭiccasamuppannā Liên Quan Tương Sinh 

Nằm ở chương 7 của Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp, Sư sẽ giải thích phần đó

Nên người không có học không có Tuệ Văn đọc bài kinh Paṭiccasamuppannā Liên Quan Tương Sinh:

- Thứ nhất họ lọng cọng trong phần Thọ, 

- Thứ 2 họ lọng cọng trong phần Pháp, 

- Thứ 3, thân tâm họ có thể nói theo kiến thức chứ không nói theo Pháp.

Thọ Niệm Xứ này là Thọ của Paṭiccasamuppannā Liên Quan Tương Sinh.  Đọc trong phần Liên Quan Tương Sinh về Thọ rất rõ ràng, trong đó có Thọ Uẩn, Thọ Thủ Uẩn, Thọ Tâm, Thọ Thân, Thọ Liên Quan Tương Sinh. Khi nói tới Thọ Liên Quan Tương Sinh mình nói phần Duyên Sinh Duyên Hệ thì mới giải thích được phần Thọ Niệm Xứ của Thọ Liên Quan Tương Sinh, rất là chính xác.

Nếu mình không biết Pháp thì mình không có kết quả, mà mình biết Pháp mình hành không đúng sẽ khó có kết quả, nên những người đó sẽ có Thọ kiết sử của họ, chứ không phải là Thọ của Pháp, Thọ kiết sử của họ là tôi đau, tôi nhức, tôi buồn, tôi vui, mấy cái đó là Thọ kiết sử chứ không phải là Thọ của Pháp.

Mình hành Pháp với kiến văn của mình, Pháp mình biết như trong bàn tay thì mới vận dụng được 

Bữa cơm cuối của Đức Phật thọ với ông thợ săn Cunda, sau khi Ngài ăn không hết Ngài bảo Ananda đem chôn số thực phẩm còn dư xót lại, không được cho ai ăn, phải chôn thật sâu để các con thú không đào lên ăn. 

Trong bài kinh thứ 3 của Trung Bộ Kinh Kinh thừa tự Pháp (Dhammadàyàda sutta) Đức Phật Ngài dạy: 'Đệ tử Như Lai thừa tự Pháp chứ không thừa tự tài vật". Có 2 vị tỳ khưu từ xa tới, Đức Phật vừa xong bữa thọ thực của Ngài thì còn thực phẩm dư, Ngài có đủ điều kiện để cho 2 vị tỳ khưu từ xa tới dùng được, nhưng Ngài không cho thọ thực dư đó, và Ngài nói lên bài Pháp. 

Đức Phật cái gì Ngài cũng nói Pháp được, Ngài cho Ngài cũng nói Pháp, Ngài không cho Ngài cũng nói Pháp để Ngài dạy, tại vì Ngài theo căn cơ mà Ngài nói Pháp chứ không phải Ngài theo kiến tánh, hay là trong sở tri của Ngài mà Ngài nói. Khi Sư đọc bài kinh đó Sư giống như ở trong bối cảnh đó khi Đức Phật Ngài nói Pháp mới được.

Thì vật thực đó Ngài kêu đem chôn, nhưng nếu mình không dịch đúng là ông thợ săn Cunda này đi săn được con heo rừng về ông làm rồi cúng dường Đức Phật, thì HT Thích Minh Châu dịch là nấm chiên đàn hương, phải nói là nấm vì là ăn chay, còn nói con heo là ăn thịt. Thì nếu mình dịch chiên đàn hương là nấm thì lấy gì mà Đức Phật Ngài kêu chôn, thì nghĩa sai liền. 

Thứ hai là, khi đó Chư Thiên là cuối cùng cúng dường vật thực cho Đức Phật chứ không còn cơ hội nào cúng dường nữa, thì vật thực này là vật thực của Chư Thiên bỏ vô. Thì mình mới nghiệm ra là trong sự tu hành của mình đây, trong đời sống Đức Phật và Chư Tăng mình đây luôn luôn có sự giao thoa giữa Chư Thiên và nhân loại cùng nhau tu hành. Cho nên mình cúng ngày Rằm mà sai ngày là không được, thí dụ ngày Rằm là thứ Năm Chư Thiên về mà mình tắt đèn, đến ngày thứ Bảy hay Chủ Nhật mình mới cúng Rằm thì vì sai ngày nên Chư Thiên không về. Đó là mình ích kỷ chỉ lo sống cho thân mình thôi.

Món ăn đó không dùng được tại vì vật thực của Chư Thiên. Một ngày một đêm của Chư Thiên ở Tứ Thiên Vương bằng 50 năm của mình. Một ngày một đêm của Chư Thiên ở Đao Lợi Thiên là 100 năm của mình, một bữa ăn của Chư Thiên có thể no được một tháng, còn của mình một bữa ăn là no được 7 ngày, sắc vật thực được 7 ngày mà Chư Thiên là một tháng. Do đó khi mình ăn vật thực của Chư Thiên không tiêu hóa được, một tháng sau nó mới tiêu hóa thì mình bị bệnh cancer liền, có khối u liền, nó sơ cứng và nó phá những tế bào chung quanh. Thì lúc bấy giờ vật thực đó Đức Phật nói chúng sinh không đủ duyên để thọ, không có khả năng để thọ, mà Ngài thọ Ngài cũng bị kiết lỵ, mà bệnh kiết lỵ nó gồm 2 cơ duyên gộp lại, là trong kiếp quá khứ Ngài cho thuốc lầm bây giờ quả báo, Kammassakatā nghiệp chủ nó rượt tới cái ngày trả trong kiếp chót lúc Ngài sắp sửa viên tịch Níp-bàn phải trả cái bệnh kiết lỵ này suốt 3 tháng trời trên đường Ngài đi tới vườn Kusinara, rồi kèm theo vật thực rồi kèm tuổi già và viên tịch tại đó.

Mình mới nhìn thấy là sắc pháp của Ngài nó tiêu bóp lại , sắc nghiệp có, sắc tâm có, sắc quí tiết có, sắc vật thực có, trong buổi đó, chứ mình không có nhìn đơn thuần chỉ có một pháp thôi. Nói sắc nghiệp nào kể ra, sắc tâm nào kể ra, sắc quí tiết nào kể ra, sắc vật thực nào có ngay trong lúc đó kể ra, mới ra được, mới có ý nghĩa.

Sư hướng dẫn quí Phật tử như vậy thì mới có kiến văn quảng bác được, nếu không thì quí Phật tử nói theo tư kiến của mình, nếu mà dạy người ta sai sau này nhận quả báo, dạy nghề người ta sai thì mình hại người ta ngay trong kiếp này, mà dạy đạo người ta sai là mình hại người ta sai trong nhiều kiếp sinh lên là có tà kiến do sai lầm, khó sửa lắm. Còn mình không có đủ duyên để độ người ta để người ta lạc thì mình mang tội.

Do đó, thân bằng quyến thuộc là oan trái. Ngài biết, nên Ananda có tâm từ, ông nhìn xung quanh thấy cái gì là chạy vô xin với Đức Phật, như bà Gotami xin  với Đức Phật cho nữ giới vào tu, Đức Phật không cho, Ananda xin 3 lần với Đức Phật mới cho. Sinh ra đời cùng thời với Đức Phật có Ananda là quí lắm. Sau này các Đức Phật Chánh Đẳng Giác chưa chắc có thị giả như Ngài Ananda.

Thì Ananda mới chạy vô với Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn, sao không cứu Đề Bà Đạt Đa, Đề Bà Đạt Đa là thân bằng quyến thuộc của mình mà, là anh của bà Công Chúa Yasodhara vợ của Đức Phật. 

Đức Phật nói, Ananda, Như Lai đã cho rồi, đã cứu rồi. Nếu Như Lai không cho, nếu Như Lai không cứu là chiếc xe của Đề Bà Đạt Đa thì xe lao xuống vì không có thắng. Ngài cho Đề Bà Đạt Đa tu, hướng dẫn cho đắc thiền để hiện bày thần thông, là Ngài giảm rồi, nhưng tánh nào tật nấy. Kammassakatā là nghiệp chủ mạnh hơn cái đức cái lực của Đức Phật độ. Nên mình mới thấy lực của bậc Chánh Đẳng Giác còn thua Kammassakatā  nghiệp chủ của mình.

Đức Phật trả lời Ananda.

Ananda đừng có nói vậy, nếu Như Lai không cứu Đề Bà Đạt Đa là xe đổ giốc không thắng là tuộc giốc lâu rồi chứ không đợi ngày hôm nay đâu.

Trong một kiếp Đức Phật Ngài là Bồ Tát cứu con ngỗng bị ông Đề Bà Đạt Đa bắn, Đức Phật chỉ cứu con ngỗng đó nhưng ông Đề Bà Đạt Đa đã trở lại oan trái với Đức Phật. Oan trái này không phải là pháp mà oan trái này là do nghiệp chủ tạo ra, pháp đứng bên ngoài.

Thiền sinh hỏi: Trong Tứ Như Ý Túc: Dục, Cần, Tâm, Thầm. Tiếng Pali của Tác Dục, Tham Dục là gì  ? 

HT trả lời: Trong quyển  Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp, trang 101 và 102

6/ Chanda - Dục: Là Pháp có sự mong muốn  Cảnh.

Xuất nguyên từ ngữ căn: "Chad", mong ước, mong muốn. Đặc tính chánh yếu của Chanda là "ước muốn làm", cũng như vói tay nắm lấy một vật.

Có ba loại Chanda - Dục, là:

a. Kāmachanda - Tham Dục: là khát vọng duyên theo lục trần, một trong năm Pháp Triền Cái (Nivarama). Đây là một loại Pháp Bất Thiện.

b. Kattukamyatā - Tác Dục: là "ước muốn làm", gồm cả hai loại, bất thiện và thiện.

c. Dhammachanda - Pháp Dục: là ước muốn chân chánh.

Chính ước muốn chân chánh này, đã thúc giục Thái Tử SIDDHATTHA từ bỏ mọi thú vui dục lạc của đời vương giả.  Người Phật tử luôn có Dhammachanda, với ước muốn chân chánh, để chứng ngộ Níp-bàn. Quả thật đây không là sự tham ái.

Theo chú giải nhận xét như sau: "Sự cố gắng quyết ý, hay ý chí là do Cần (Viriya). Trạng thái thích thú trong đối tượng là do Hỷ (Piti). Có ý định liên quan đến đối tượng là do Dục (Chanda).

---------------------------------

Thí dụ: Có mấy Phật tử vô chùa thấy Sư quét nhà, họ nói "Sư cho con làm", Sư đưa chổi cho họ quét, Sư đi rửa chén, họ lại nói "Sư cho con làm", Sư để họ rửa chén, Sư đi cắm bông, họ lại nói: "Sư cho con làm". Đó là Tác Dục.

Cái gì cũng muốn làm, thiện cũng muốn làm, bất thiện cũng muốn làm, đó là Tác Dục.

Thiền sinh: theo như người hỏi này có tham khảo online là Tác Dục có nghĩa là sự muốn làm của một vị Alahan đối với chúng sinh. Nhưng khi Sư giảng thì Tác Dục có nghĩa là hành động gồm cả hai, Thiện và Bất Thiện, người này xin Sư làm sáng tỏ. 

Sư nói thí dụ, rồi cái quả báo người ta sẽ làm là vua Diêm Vương ở dưới địa ngục 15 ngày, ở cõi Tứ Thiên Vương 15 ngày, cứ như vậy lưng chừng.

Mình ở trong nhà có máy lạnh hay trong chiếc xe mở máy lạnh, khi tới nơi mình tắt máy lạnh mình đi xuống, từ bãi đậu xe mình đi vô văn phòng làm việc hay nhà mình ở là khoảng không gian nắng nóng, rồi vô trong nhà mình mở máy lạnh lại, rồi mình ăn uống ngủ nghỉ xong rồi mình lại đi ra ngoài để đi làm, thì bước ra ngoài trời nóng lên xe mở máy lạnh, thì khó chịu và khổ sở mình không chịu được, thì mình là Diêm Vương liền. 

Đọc lại chương V, tích chuyện của ông Diêm Vương là trong đời quá khứ ông đã từng làm thiện làm bất thiện giờ ông mới có quả báo này, 15 ngày ông ở Tứ Thiên Vương nó mát lạnh, 15 ngày ông xuống ở dưới Diêm Vương nóng bức, ông không phán xét gì đến tội nhân, ông chỉ hỏi về 5 vị Thiên Sứ Devadutas là ngươi có thấy trẻ sơ sinh không, có thấy người già không, có thấy người bệnh không, có thấy tử thi không, có thấy người phạm nhân không, trả lời là thấy, rồi hỏi có sợ không, trả lời sợ, hỏi xong thì đi.

Do đó, quí Phật tử thấy ông không làm gì hết, mà chúng sinh đâu có ít, mà ông phải giải quyết 15 ngày như vậy. Ở dưới địa ngục không có mặt trời mặt trăng nên không có ngày và đêm.

Chỉ vì Tác Dục mình làm mình phải chịu, do đó mình mới né,  Dục, Tham Dục là xấu rồi, Tác Dục là màu xám vừa trắng vừa đen. Ông Diêm Vương không phải ông muốn cái đó nhưng cái khổ là ông đã tạo rồi bây giờ ông phải ở trong cảnh như vậy.

 Nên mình thấy mới giựt mình, mình phải chạy, không đi theo con đường đó.

Thì bằng cách nào ? Là từ đây về sau mình làm việc Thiện, không làm việc Bất Thiện, đừng làm cả 2.

Người ngồi học là Thiện, người tranh thủ để ngủ là Bất Thiện, rồi không ai nhắc, mình ngủ hoài là kiết sử, là tập khí. Khi tâm bắt một cảnh, mình tạo ra rồi thì cảnh đó có rồi thì mình không còn Ba La Mật, không cần tới Alahan

Còn pháp Dục này là ý muốn chân chánh, nhưng mình đam mê trong cái này nó sẽ rớt qua phần Tham Dục chứ không phải Pháp Dục tu hay Pháp Dục thiện. Phải nhìn với trí tuệ.

Dục chia làm 3, nó chỉ là Tâm Sở, nó không quan trọng bằng Tâm mình và Pháp mình nương.

Trong 3 Pháp Hành, Sư nói là một trong 10 bước pháp nguyện mà bậc Chánh Đẳng Giác làm thì mình noi theo để mà một Pháp Hành là Giới, Định, Tuệ, thì cái nào là Giới ?  không phải là Giới để mình làm những phần mà Ngũ Giới, Bát Giới, Thập Giới, mà Giới này là hàng rào nằm trong phần Tàm và Quí với đạo đức của mình ở trong lãnh vực bất thiện và ác, đó là sila. Chứ không phải là Giới mà mình nói tu dưỡng Ngũ Giới, Bát Giới, Thập Giới là Sila là Pháp Hành. Cái này là hàng rào của Tàm và Quí giữ đạo đức của mình ở trong phần tốt và xấu, hổ thẹn và ghê sợ điều xấu ác, là sila, mình phải có Tàm và Quí trong khi suy nghĩ, trong khi hành động, trong khi nói năng. Nó thuộc Giới ngăn ngừa, phải diệt trừ từ trong tâm ý. Tác ý là phải Tàm Quí trong đạo đức của giới hạnh của mình về thân, ngữ, ý của mình nằm trong khuôn khổ của Tàm Quí chứ không phải trạng thái giữ giới suông thì mới thành công.

 Định cũng vậy.

Tâm       ----- >    Cảnh

Động                   Động

Yên                     Yên

Tâm động hay tâm yên

Cảnh động hay cảnh đứng yên.

Đi thi người ta hỏi giữa tâm và cảnh, tâm động hay tâm yên, cảnh động hay cảnh yên, cái nào đúng cái nào sai.

Chính cái đó là một bài toán mà chính cái đó là Pháp Hành, chính cái đó nằm ở trong cái khuôn, người ta gọi là Samādhi là Định An Chỉ, mình phải tu.

Hồi nãy mình nói qua phần Sila rồi, bây giờ mình qua Định. 

Thì  điểm Samādhi là mình phải Định An Chỉ, phải trụ tâm lại. Tại sao có cái đó, là tại vì mình nhìn lên Tâm và Cảnh của mình đây là thuộc loại nào mà Đức Phật kêu mình phải Định An Chỉ. Nếu mình khai thác được Định An Chỉ, mình tu, mình hành được Định An Chỉ thì mình nhìn mới thấy được Pháp Tâm và Cảnh mới được chính xác. Mà mình nhìn được Pháp Tâm và Cảnh chính xác thì mình hành pháp này mới có kết quả được rốt ráo.

Người ta hỏi tâm anh động hay tâm anh yên. Cảnh anh đang thấy qua lục căn hay ngũ căn của anh là động hay là yên, tôi không biết, thế thì anh không có Định An Chỉ.

Tâm mình động hay tâm yên, tâm tôi động, thì mình nói tâm mình động, tâm tôi yên, thì mình nói tâm mình yên.

Ngài kêu là Pháp Hành là mình phải thực hành hay tu hành hay tu tập, phải luyện tập. Định An Chỉ là mình phải làm sao yên đừng có động, hay nó trụ đừng có chạy như tâm viên ý mã, thì mình phải hỏi lại. Đức Phật kêu mình phải Định An Chỉ, phải Hành Giới xong rồi phải Định giữ tâm mình hay là giữ cảnh mình phải tìm ra.

Như thế thì khi mình nhìn thấy 2 cái vế này thì tâm động hay là cảnh động, tâm động hay là cảnh yên, mình có 4 pháp:

1) Tâm động      Cảnh động  --- > Thực Tính thực tướng -> Pháp

2)  Tâm động      Cảnh yên ----->  Kiết sử -> triền cái

3)  Tâm yên         Cảnh động ---> Định An Chỉ -> Kiết sử

4)  Tâm yên         Cảnh yên -----> Minh Sát Trí -> kiết sử

Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. 

Tâm bất biến là tâm yên

Đời vạn biến là cảnh động

Tâm yên mà cảnh động là tâm có Định An Chỉ, và Cảnh của nó là Kiết Sử, nó lập đi lập lại, Triền Cái là một lần hai lần thôi.

Tâm Yên / Cảnh Yên là Minh Sát Trí bắt thực tướng, lúc đó là diệt kiết sử.

Tới giai đoạn Định An Chỉ, Sư chưa nói tới Minh Sát, là quí Phật tử đứng giữa giòng.

Tâm yên - Cảnh động là Định An Chỉ. Tâm phải yên để nhìn thấy Cảnh động của kiết sử của mình nó trổ ra. 

Chứ nếu Tâm động mà Cảnh yên hay Cảnh động là mình đang ở trong trạng thái bị Pháp quay tròn, thực tính thực tướng rồi kiết sử triền cái quay tròn.

Rồi tới phần Minh Sát Trí khi qua khỏi phần Phổ Thông Tướng những kiết sử bắt đầu hiện rõ lên thì Minh Sát Trí phải bắt nó.

Thế thì khi ta nói Định An Chỉ, thế nào là Định An Chỉ, là lúc đó Tâm mình phải yên mà Cảnh đang động mới thấy được, còn Tâm mình động, Cảnh động hay Cảnh yên thì mình ở trong kiết sử với triền cái hay trong thực tính thực tướng  nó đang quay Cảnh của mình trong Tâm của mình, mình không bắt gì được hết.

 Ngài Paṇḍita ghi  3 pháp 

Trong quyển 

Sati And The Yogi

Niệm Lực và Hành Giả

Đại Trưởng Lão Giáo Thọ Sư Paṇḍita

Trang 270 

1. Thực Tướng Thực Tính (Sabhāva lakkhaṇa)

2. Thực Tướng Hữu Vi. (Saṅkhata lakkhaṇa)

3. Thực Tướng Phổ Thông (Samañña lakkhaṇa)

Thực Tướng Thực Tính có nghĩa là một tiêu chí hoặc đặc tướng đặc định hoặc đặc biệt của các hiện tượng tinh thần và thể chất.  Ví dụ, sự kiên ngạch hoặc sự nhu nhuyễn (Địa Giới hoặc yếu tố khuếch đại) là tiêu chí hoặc đặc tướng đặc định hoặc đặc biệt của xương và thịt một cách tương ứng.  Tiêu chí hoặc đặc tướng này chỉ thuộc về Địa Giới và không thuộc vê bất luận yếu tố nào trong số ba yếu tố còn lại (sự kết dính, sự nhiệt độ và sự chuyển động).

Thực Tướng Thực Tính khác nữa là Hỏa Giới (yếu tố nóng bức và lạnh ngắt). Thủy Giới (yếu tố của sự kết dính và tính lưu động) và Phong Giới (yếu tố của sự chuyển động) cũng là các Thực Tướng Thực Tính.

Tiêu chí hoặc đặc tướng đặc biệt của tâm thức là tâm ý thức hoặc tài năng ý thức. Tiêu chí hoặc đặc tướng đặc biệt của Xúc là đang sắc diệu tâm thức và dẫn nhập nó đến tiếp xúc với một hiện tượng khác. Tiêu chí hoặc đặc tướng đặc biệt của Thọ là năng lực cảm thọ.

Trang 272

Từng mỗi một tiêu chí hoặc đặc tướng đặc biệt của các hiện tượng tâm sinh lý đều có giai đoạn đầu, giai doạn giữa và giai đoạn kết thúc. Trong ngôn ngữ kinh điển Pãli, những giai đoạn này đã dược định danh là Sinh, Trụ và Diệt. Sinh có nghĩa là giai đoạn đầu hoặc sự khởi sinh lên của một hiện tượng. Trụ là sự trì tục thời gian, hoặc sự trì tục, hoặc sự diễn tiến hướng đến sự phá diệt. Diệt là sự tan vỡ hoặc sự phá diệt. Ba Thực Tướng này (các tiêu chí hoặc những đặc tướng) được gọi là Thực Tướng Hữu Vi (Hữu Vi = hỗn hợp hoặc phụ hữu điều kiện).

Tiêu chí hoặc đặc tướng thứ ba của tất cả các hiện tượng tâm sinh lý được gọi là Phổ Thông (thông thường hoặc phổ thông). Sự không thường tồn, sự bất mãn ý, và sự phi bản ngã của tất cả các hiện tượng phụ hữu điều kiện cấu thành tiêu chí hoặc đặc tướng thông thường hoặc phổ thông của chúng.

------------------------------------

Lúc bấy giờ thấy được vai trò chức năng nó

Lúc trụ rồi diệt, sinh trụ diệt lúc đó Tâm bắt đầu Định An Chỉ, thực tướng hữu vi, thực tướng phổ thông, lúc đó Minh Sát Trí thấy được các pháp kiết sử của mình

Tức là hành giả qua tuệ thứ 3 Phổ Thông Tướng là thực tướng phổ thông lúc đó là Minh Sát Trí nó bắt đầu săn bắt chính xác với các pháp của nó, Minh Sát Trí nắm bắt chính xác các kiết sử chứ nó không còn bắt cảnh nữa thì lúc bấy giờ mà hành giả bắt trật, cứ nhìn vô Cảnh mà bắt bỏ kiết sử phổ thông tướng đang nằm trong đó thì không có kết quả của tiền Minh Sát Tuệ. Chức năng lúc này là sampajañña làm việc nó qua chức năng của sati rồi, sampajañña là Tỉnh Giác. 

Nên người hành giả mà nắm bắt bài kinh Tứ Niệm Xứ Satipatthàna sutta và không nắm bắt được chức năng sampajañña là Tỉnh Giác thì người hành giả quời quạng khó bắt được pháp hành của mình. 

Nên 3 pháp hành Giới, Định, Tuệ, người ta đặt câu hỏi thế nào là Định An Chỉ là Tâm động hay Cảnh động, Tâm yên hay Tâm động, Tâm động Cảnh yên, mình phải biết ở trong giai đoạn đó.

Như vậy thì khi ngồi thiền, Sư ngồi Sư coi Sư nhìn thấy, ngay khi quí Phật tử ngủ gục thì quí Phật tử ưu tư lo lắng rổi cảm thấy mình có lỗi có tội, mình hành thiền mà để bị hôn trầm hay mình ngủ gục hay mình không có kết quả trong pháp hành thì mấy cô đọc lại quyền của Ngài Paṇḍita quyển In This Very Life.

Một hôm Mục Kiền Liên ngồi thiền bị ngủ gục, Đức Phật Ngài nói: "Này Thích tử (Ngài kêu Mục Kiền Liên là con của Ngài) ngươi ngồi thiền có ngủ gục phải không ? Mục Kiền Liên trả lời là có, Mục Kiền Liên đệ nhất thần thông, Trí Thượng Thinh Văn cánh tay trái của Đức Phật mà ngủ gục, thì Đức Phật nói là, ngay khi đang thiền mà ngủ gục thì Định của hành giả rõ ràng có nhưng không có tuệ thôi, chứ không phải điều đó xấu, hành giả đã vô định rồi, có Định nhưng không có Tuệ. 

Vì Ngũ Quyền của mình không có quân bình, mạnh quá nên vào Định luôn. Có Định An Chỉ nhưng chưa có Minh Sát

Tâm yên Cảnh đang động. Cảnh nào ? Không phải Cảnh hơi thở, không phải đối tượng mà Cảnh này là kiết sử nó đang đánh mình, là pháp hữu vi nó đến đánh mình liền, pháp hữu vi là có nhân tạo ra.

Nhưng mình vượt qua được, Tâm yên Cảnh yên là lúc đó là giai đoạn ghê lắm, mình phải có Minh Sát Trí để nhìn thấy rõ kiết sử để mà bám chặt, lúc Tâm yên mà mình để cho Cảnh động kiết sử chi phối mình thì mình mới gục, nhưng khi Tâm yên mà giữ được Cảnh ở trong kiết sử nó hình thành rõ ra thì mới bắt được Minh Sát Trí.

Nên quí Phật tử an tâm vô ngồi học có Định An Chỉ mà có ngủ gục thì không có gì là tội lỗi cả.

Do đó, mình không biết pháp mình giống như đi trong rừng vậy đó.

 Mình ở trong giai đoạn nào mình biết thì mình mới bắt đầu biết pháp đang tới với mình nó thuộc loại nào.

Ngồi thiền Tâm mình động mà Cảnh yên.

Ngồi thiền Tâm mình yên mà Cảnh yên.

Mình phải thấy rõ, còn nếu không thấy thì coi như không có kết quả.

Do đó, qui Phật tử phải ghi nhớ 4 Pháp này. 

1) Tâm động      Cảnh động  --- > Thực Tính thực tướng -> Pháp

2)  Tâm động      Cảnh yên ----->  Kiết sử -> triền cái

3)  Tâm yên         Cảnh động ---> Định An Chỉ -> Kiết sử

4)  Tâm yên         Cảnh yên -----> Minh Sát Trí -> kiết sử

Pháp hữu vi nó tấn công mình mà mình không biết.

Do đó, coi lại đi trang 270

Khi Thực Tính Thực Tướng ở Tâm động Cảnh động.

Rồi tới Thực Tướng Hữu Vi

                               Danh Sắc : 1) Tuệ Phân Biệt Danh Sắc 

                                                 2) Tuệ Phân Biệt Nhân Quả Danh Sắc

nó nằm trong pháp hữu vi.

Qua tuệ thứ 3 là Tuệ Phồ Thông Tướng, Thực Tướng Phổ Thông.

Qua tuệ thứ 4 Minh Sát Trí lúc đó không còn bị giao động, không còn bị pháp hữu vi tác động mình nữa, Tâm yên Cảnh yên bắt chính xác kiết sử liền.

Khi vô Minh Sát Trí cái đầu tiên mình đang tu Ngài Janaka nói qua tới tuệ thứ 2 của Minh Sát Trí, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, Tuệ Phân Biệt Nhân Quả Danh Sắc là đạt đến Cuna Sotāpanna Tiểu Tư Đà Hườn, là Tiểu Thất Lai.

 Là vì khi đi :

1) Tuệ thứ nhất Phân Biệt Danh Sắc (Nāmarūpapariccheda ñāṇa) nó còn nằm trong Pháp Hữu Vi .

2) Tuệ thứ hai, Tuệ Nhân Quả  Danh Sắc (Paccayapariggaha ñāṇa), là 50% Pháp hữu vi

3) Tuệ thứ ba, Phổ Thông Tướng (Sammasana ñāṇa), thì thực tướng hiện bày Vô Thường, Khổ, Vô Ngã.

4) Tuệ thứ tư, Tuệ quán chiếu trạng thái Sanh Diệt (Udayabbaya ñāṇa) --> Danh / Sắc, lúc đó --> Hữu Thân Kiến hiện bày.

qua tuệ thứ tư thì Hữu Thân Kiến hiện bày, và mình chấp Hữu Thân Kiến chứ không theo mấy pháp kia nữa, mới đánh bứt mấy cái đó ra thì mình mới tới được Đạo Quả.

Sakkāya Diṭṭhi là kiến chấp về thân này

Sakkāya Diṭṭhi = Sa + kāya + Diṭṭhi

Sa là hữu là có

 kāya là thân

Diṭṭhi là kiến, kiến chấp

Mình có kiến chấp thủ về sắc thân này Sakkāya Diṭṭhi. Chứ không phải sắc thân này nó làm cho mình chấp thủ.

Khi qua khỏi Phổ Thông Tướng rồi thì kiết sử này cái hữu thân kiến nó lộ ra, còn cái đầu là Tuệ Phân Biệt Danh Sắc thì nhìn thấy pháp hữu vi nó tác động thôi. Qua đến giai đoạn thứ tư là Tuệ Minh Sát Trí lúc bấy giờ là hữu thân kiến nó hiện bày nguyên hình của nó ra và Minh Sát Trí mình phải bắt được nó chứ không còn bắt vô cái pháp nào khác. Giai đoạn này là hết thủ rồi.

Phần giai đoạn Định An Chỉ đi qua tới Tuệ Minh Sát gọi là Pháp Hành, hay gọi là 3 Pháp Hành; Giới, Định, Tuệ, phải đi như vậy mới được.

Vậy thì, Giới người ta trong thân ngữ ý phải có Tàm Quí chứ không phải giữ giới theo giới luật giới nguyện của mình thôi. Thân, ngữ, ý phải có Tàm Quí trong mọi lúc, đó gọi là Giới.

Còn Định là mình phải đi Tâm động Cảnh động, Tâm yên Cảnh động, Tâm động Cảnh yên, theo Paṭṭhāṇa, nên kiết sử lộ ra và mình bắt kiết sử thôi, chứ không chạy nữa.

Các quí Ngài cứ nói theo Danh Sắc chứ không nói kiết sử, mà mục tiêu của ta là Đạo Quả là bắt kiết sử, chứ không phải là Đạo Quả ta bắt Danh Sắc. Hạ phần kiết sử giai đoạn này vượt qua Thân Kiến, Hoài Nghi, Giới Cấm Thủ, nhưng mình lại nói Danh Sắc là đi trật, đi lạc hướng.

Khi ta nói Định, tại sao Đức Phật nói mình phải Pháp Hành Định, Pháp Hành Tuệ, mà cái đó là phải hành, phải tu tập mới có, chứ không sẵn có. 

Thì Tâm mình động, Cảnh động. Giai đoạn nào Tâm yên Cảnh yên ? Giai đoạn qua được Định An Chỉ mà Tâm yên Cảnh yên, Minh Sát Trí mới bắt được kiết sử.

Còn Tâm động Cảnh động, Tâm yên Cảnh động, cái đó chưa.

Thiền sinh hỏi: Như vậy trong Pháp Hành, trường hợp như thế nào thì bị lọt vô Thức Thủ Uẩn ?

HT trả lời: Thức Thủ Uẩn là do trường hợp giai đoạn đầu, nó nằm ở trong phần Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, Thức Thủ Uẩn nằm trong Danh Uẩn, trong phần phân biệt danh sắc. Nhưng tới phần Thực Tướng lộ ra thì bắt đầu mình mới nhìn thấy được nó chỉ là Thân Kiến là tà kiến của mình chấp thủ trong đó, bắt đầu mình bắt vô kiết sử đó.

Thức Thủ Uẩn nằm trong phần Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, tôi thấy được Danh, tôi thấy được Sắc trong cái thủ của tôi thấy, chứ không phải là pháp nó đang có, Pháp không có Danh Sắc, Pháp chỉ sinh diệt hay là của hữu vi thôi.

Lúc đó đi qua phần Pháp Niệm Xứ, trong đó hành giả phải tuyển trạch, Niệm xong rồi thì tuyển trạch thì lúc bấy giờ mới phân là triền cái hay là thủ uẩn làm ra, mà trong phần đó là Danh Sắc lục nhập kết hợp nhau phần đó, đó là Pháp Niệm Xứ. 

Thì lúc đó là Danh Sắc nằm ở giai đoạn 1 phần Phân Biệt Danh và Sắc, Thức Thủ Uẩn ở trong Danh. Sắc Thủ Uẩn nằm ở trong Sắc, lúc đó mình chưa có phân biệt được kiết sử, mình mới bắt đầu phân tách thôi, mình tách nó ra làm 2 khối, trong con người mình có 2 khối là Danh thủ, Sắc thủ

Thì khi đi qua tới phần Thân Niệm Xứ, Thọ Niệm Xứ. Thọ này là paṭicca saṃuppāda một chuỗi tương sinh; Thân, Thọ, Tâm, Pháp. 

Thân có Thọ

Tâm có Pháp 

Thân có Pháp

Tâm có Thọ.

Thân có Pháp (đau)

Thân có Thọ (Ưu)

Thân có Thọ (Khổ)

Tâm có Pháp (Triền Cái - Kiết Sử)

Thân có Thọ Ưu, Thân có Thọ Khổ, là Tâm Quả Dị Thục nó là Triền Cái nó vởn vơ trước mắt Tâm của ta, hay nó là kiết sử lập đi lập lại.

Vậy thì khi đi ngồi thiền mà quí Phật tử trình pháp với các vị Thiền Sư nói ngồi đau nhức hoài không hết thì vị Thiền Sư mới tách ra, cô đang bị thọ Tâm Quả Dị Thục và cô niệm được Pháp kiết sử và triền cái chứ mấy cô không niệm được Minh Sát.

Vô ngồi là đau, đó là ở trong kiết sử chứ không phải triền cái nữa, mà cái này là quả của họ đang có chứ không phải là Tâm Đổng Lực, sống lập đi lập lại ở trong quá khứ.

Nhưng khi mình thấy thân thọ khổ Tâm mình Minh Sát thì lúc bấy giờ mình ra Tâm Đổng Lực mới.

Thân thọ khổ, Tâm có Pháp, mà Pháp này là Pháp Kiết Sử, hay Pháp Triền Cái, hay pháp này là Pháp Minh Sát Trí, nhìn thấy Pháp, nhờ sampajañña là Tỉnh Giác.

Vậy thì, sampajañña là Tỉnh Giác có hữu ích hữu lợi

Trong quyển 

Sati And The Yogi

Niệm Lực và Hành Giả

Đại Trưởng Lão Giáo Thọ Sư Paṇḍita

Trang 290 - 291

1) Hữu Dụng: hữu dụng, phú hữu thành hiệu, hữu ích.

2) Hữu Lợi: minh trí, ủng hữu trị đắc, hữu lợi, hữu ích.

Trang 292

Tỉnh Giác: tính minh xác của tâm ý thức, lý giải minh hiển. thuật ngữ này thường được gặp trong việc phối hợp với sự chú niệm (Niệm Lực).  Theo Bộ Chú Giải, tính minh xác của tâm ý thức là một trong bốn thể loại: hữu quan đến mục đích (Hữu Dụng), tính thích hợp (Hữu Lợi), (sự bao quát trong lĩnh vực thiền định) (Phóng Mục), và khái niệm bất thố ngộ, (bất khổn hoặc, bất si mê, bất thố giác) về hoạt động hữu quan (Vô Si).  Được giải thích một cách tế tiết trong Bộ Chú Giải về Kinh Niệm Xứ (Phương Thức Chú Niệm),

Tỉnh Giác: tính minh xác của tâm ý thức, lý giải minh hiển, khi Niệm Lực sinh lên thì hữu dụng hữu lợi nó phóng mục rồi bắt đầu diệt vô si.

------------------------------------------

Thì giai đoạn đó là giai đoạn sampajañña Tỉnh Giác chứ không còn niệm lực, nếu như mình không vượt qua được sampajañña Tỉnh Giác, mình cứ ôm giữ Niệm Lực thì: 

- Một là hành giả đang đi Định chứ không đi Minh Sát. Niệm giữ hoài một đề mục giữ Niệm vì sợ phóng dật nên mình giữ hoài thì là An Chỉ Định

- Hai là mình đang đi trong trạng thái kiết sử chứ không có Minh Sát sampajañña Tỉnh Giác.

 Mà không có sampajañña Tỉnh Giác là không có đi qua Minh Sát Trí mà đang ở trong Định An Chỉ, cái đó lộ ra kiết sử là sợ phóng dật, nó là triền cái trạo hối nhưng mình ôm thân kiến của mình trong kiết sử, mình không có Minh Sát Trí.

Sợ phóng dật  giữ chú niệm

Sợ phóng dật - trạo hối, triền cái

giữ chú  niệm - kiết sử --> thân kiến.

Tôi, Ta sợ phóng dật, tôi vô ngồi thiền tôi yếu cái này lắm, mình cứ sợ, mình giữ nó nhưng lộ nguyên kiết sử của mình lên chứ không có Minh Sát Trí.

Sợ phóng dật bao nhiêu thì thân kiến lộ bấy nhiêu, thân kiến, cái tôi, cái ta, rồi biện giải, tranh luận đủ thứ hết.

Định An Chỉ mình giữ được rồi thì lòi ra kiết sử của mình 

Thí dụ nói: Ông Sư kỳ lạ.

Ông Sư kỳ lạ là triền cái hay là kiết sử, cái nào quí Phật tử cũng chết hết, cái đó là pháp chứ không có tôi có ta trong đây, vậy mà cũng nắm bắt, nó là pháp chỉ là pháp thôi, không phân biệt, không nhận xét, không đánh giá, không phê bình, chỉ là pháp, tách ra liền. Do đó những cái đó quí Phật tử mà thò tay vô là lộ ra con người của mình. Nó chỉ là pháp thôi.

Khi mình nhìn vô pháp Cảnh động hay Cảnh yên, nó chỉ là pháp thôi, tôi chỉ lo cái Tâm của tôi có kiết sử hay có kiến chấp hay có thủ uẩn trong đó không.

Các pháp mình thấy, oh ông sư này kỳ lạ, đó là kiết sử của mình, mà ông sư ăn chung gì đâu, đó chỉ là pháp thôi, chỉ thấy pháp thôi, tâm mình động lên, kiết sử mình lòi ra.

Muốn tu được Tâm mình phải yên, mà kiết sử phải yên lộ ra mình mới thấy, còn nó động nó núp mình không thấy.

Ngài Paṇḍita nói pháp tu của con cắc kè. Con cắc kè khi ở trên cây thân mình nó màu xanh, khi nó xuống đất thì chuyển qua màu xám. Thì pháp tu của nó là nó chạy, nó đứng, nó chạy, nó đứng. Thì động, yên, động, yên là Cảnh, mà Tâm mình động, yên, động, yên theo nó thì mình lộ kiết sử ra.

Quí Phật tử sợ phóng dật không ?

Sợ phóng dật, không sợ phóng dật.

Khi nói mình sợ phóng dật, tâm mình đang động.

Không sợ phóng dật, tâm mình đang yên 

bây giờ mình ráp vô Cảnh động và Tâm động, Cảnh yên Tâm yên. Mình đừng giải thích đằng sau, giải thích là mình kẹt, mình nhìn lại Tâm mình thôi.

Như vậy thì ở trước một Pháp Hành mình đang có, hay trong đời sống hàng ngày mình đang có, giữa cái sợ và không sợ, mình coi Tâm mình có động và không động và cảnh đó có động hay không động, bắt đầu mình mới nhìn ra được Pháp, rồi bắt đầu mới phân tách ra. Đó gọi là Tuyển Trạch Giác Chi (Trạch Pháp Giác Chi).

Do đó, khi người ta hỏi mà có sợ thì tôi có Tâm động. Không sợ thì Tâm tôi đang yên.

Lúc đó Cảnh đó đang động hay Cảnh đó đang yên, ta bắt đầu phân tích nó được.

Do đó, khi người ta hỏi mình thì mình nói về Tâm của mình thôi.

Khi tôi có sợ phóng dật Tâm tôi đang có động.

Khi Tâm tôi không sợ bị phóng dật, Tâm tôi đang yên. thì lúc bấy giờ cảnh đó là cảnh gì thì mình sẽ giải quyết được nó . Chứ đừng nói là tôi không sợ là mình lòi ra cái kiết sử, lòi ra cái bản ngã của mình, lòi ra thân kiến của mình, mình chỉ coi Tâm của mình và mình nhìn ra Pháp./.