Sunday, October 27, 2024

059 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 20 tháng 5, 2023

  059 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 20 tháng 5, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "059 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp

Tập 3 - Chương VI - VII - VIII

Tổng Hợp Phân Tích Duyên Hệ Liên Quan Tương Sinh Minh Giải

VI. PHASSAPACCAYÃ VEDANÃ SAMBHAVATI

(XÚC LÀM DUYÊN THỌ KHỞI SINH)

Trang 333 - 336

Lục Thọ (Vedanä) thường hiện khởi lên do bởi nương vào Lục Phủ Xúc (Samphassa) làm Nhân. Lục Thọ sinh khởi lên bởi do Lục Phủ Xúc ấy, đó là:

1. Nhãn Phủ Xúc Thọ (Cakkhusamphassäjävedanä): Việc thụ hưởng Cảnh khởi sinh do nương vào việc tiếp xúc giữa Nhãn Thức với Cảnh Sắc, chính là Thọ trong Tâm Nhãn Thức.

2. Nhĩ Phủ Xúc Thọ (Sotasamphassäjãvedanä): Việc thụ hưởng Cảnh khởi sinh do nương vào việc tiếp xúc giữa Nhĩ Thức với Cảnh Thỉnh, chính là Thọ trong Tâm Nhĩ Thức.

3. Tỷ Phủ Xúc Thọ (Ghãnasamphassäjävedanä): Việc thụ hưởng Cảnh khởi sinh do nương vào việc tiếp xúc giữa Tỷ Thức với Cảnh Khí, chính là Thọ trong Tâm Tỷ Thức.

4. Thiệt Phủ Xúc Thọ (Jivhãsamphassãjãvedanä): Việc thụ hưởng Cảnh khởi sinh do nương việc tiếp xúc giữa Thiệt Thức với Cảnh Vị, chính là Thọ trong Tâm Thiệt Thức.

5. Thân Phủ Xúc Thọ (Kãyasamphassäjãvedanã): Việc thụ hưởng Cảnh khởi sinh do nương việc tiếp xúc giữa Thân Thức với Cảnh Xúc, chính là Thọ trong Tâm Thân Thức.

6. Ý Phủ Xúc Thọ (Manosamphassäjãvedanä): Việc thụ hưởng Cảnh khởi sinh do nương vào việc tiếp xúc giữa Ý Thức với Cảnh Pháp hoặc 6 Cảnh, chính là Thọ trong 22 Tâm Dị Thục Quả Hiệp Thế (loại trừ 10 Tâm Ngũ Song Thức).

Trình bày câu Chú Giải cả Lục Thọ: Vedayatiti = Vedanä - Pháp chủng nào thường hay thụ hưởng Cảnh, bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Thọ.

Cakkhusamphassato jãtã vedanäti = Cakkhusamphassajãvedanä - Thọ sinh khởi do nương vào Nhãn Phủ Xúc làm Nhân, bởi thế mới gọi tên Nhãn Phủ Xúc Thọ.

Sotasamphassato jãtã vedanäti = Sotasamphassajãvedanã - Thọ sinh khởi do nương vào Nhĩ Phủ Xúc làm Nhân, bởi do thế mới gọi tên Nhĩ Phủ Xúc Thọ.


------------------------------------------

Xúc làm duyên cho Thọ, Lục Thọ thường khỏi sinh do nương Lục Phủ Xúc, Nhãn Phủ Xúc, Nhĩ Phủ Xúc, Tỷ Phủ Xúc, Thiệt Phủ Xúc, Thân Phủ Xúc, Ý Phủ Xúc. Chính cái đó nó có chi Thọ chi Pháp, thì khi mình đi vô Thọ Niệm Xứ mình phải  nắm cái đó mới được chứ không phải nắm trụi tâm sở của Thọ không, không có nghĩa. Nó là từ một cái gì duyên từ cái gì nó ra cái Thọ này, mình theo mình phân dần mình mới tìm ra được nhân quả của nó. 

Cái thứ hai nữa, tính theo cái pháp chủng này làm theo thế gian

Trang 334

Ghãnasamphassato jãtã vedanäti = Ghãnasamphassajä vedanä - Thọ sinh khởi do nương vào Tỷ Phủ Xúc làm Nhân, bởi thế mới gọi tên Tỷ Phủ Xúc Thọ.

Jivhãsamphassato jãtã vedanãti = Jivhãsamphassajãvedanä - Thọ sinh khởi do nương vào Thiệt Phủ Xúc làm Nhân, bởi thế mới gọi tên Thiệt Phủ Xúc Thọ.

Kãya samphassato jãtã vedanãti = Kãyasamphassajävedanä - Thọ sinh khởi do nương vào Thân Phủ Xúc làm Nhân, bởi thế mới gọi tên Thân Phủ Xúc Thọ.

Manosamphassato jãtä vedanäti = Manosamphassajãvedanä_- Thọ sinh khởi do nương vào Ý Phủ Xúc làm Nhân, bởi thế mới gọi tên Ý Phủ Xúc Thọ.

Cả Lục Thọ này một khi phân tích bởi theo Lạc (Sukha), Khổ (Dukkha), Xã (Upekkhã) có được như vầy là: kể từ Nhãn Phủ Xúc Thọ cho đến Thiệt Phủ Xúc Thọ, cả Tứ Thọ này là việc thụ hưởng Cảnh ở thể loại Xã Thọ. Thân Phủ Xúc Thọ là việc thụ hưởng Cảnh ở cả hai thể loại: I/. Lạc Thọ, 2/. Khổ Thọ. Ý Phủ Xúc Thọ là việc thụ hưởng Cảnh ở cả ba thể loại: 1/. Lạc Thọ, 2/. Khổ Thọ, 3/. Xả Thọ.

+ Rằng khi tính theo Pháp chủng hiện hành trong Thế Gian này rồi, thì việc thụ hưởng Cảnh hiện hữu ở ba thể loại, đó là

1/. Sự cảm thụ Thân An - Tâm An trong khi tiếp xúc với Cảnh duyệt ý thì gọi đó là một thể loại Lạc Thọ.

2/. Sự cảm thụ Thân Bất An - Tâm Bất An trong khi tiếp xúc với Cảnh bất duyệt ý, thì gọi đó là một thể loại Khổ Thọ.

3/. Sự cảm thụ tĩnh lặng, thản nhiên trong khi tiếp xúc với Cảnh trung bình vừa phải, thì gọi đó là một thể loại Xã Thọ.

+ Rằng khi tính theo Dĩ Nhân Bản Nguyện thì việc thụ hưởng Cảnh thường hiện hữu hai thể loại, đó là: 1⁄. Lạc Thọ, 2/. Khổ Thọ.

- Lạc Thọ là: Lạc câu hành Thân Phủ Xúc Thọ (Sukhasahagatalkãyasamphassajã vedanä), Hỷ câu hành Ý Phủ Xúc Thọ (Somanassasahagatamanosamphassajãvedanä), Xã Thọ (Upekkhävedanä) hữu quan Thiện, Duy Tác và Dị Thục Quả Thiện.

- Khổ Thọ là Khổ câu hành Thân Phủ Xúc Thọ (Dukkhasahagatasamphassajävedanä), Ưu câu hành Ý Phủ Xúc Thọ (Domanassasahagatamanosamphassajãvedanã), “Xã Thọ hữu quan với Dị Thục Quả Bắt Thiện và Thiện.

Sự an lạc và sự khổ đau như đã vừa đề cập rồi đây, sẽ được sinh khởi lên là cũng do bởi Xúc; điều đó đích thị chính là việc tiếp xúc giữa Tâm với Cảnh làm Nhân; bởi do thế, sự an lạc hoặc sự khổ đau có nhiều hoặc ít, thì cũng phải tùy thuộc vào năng lực của Xúc. Sẽ nói rằng nếu như việc tiếp xúc giữa Tâm với Cảnh có năng lực mạnh mẽ, thì sự cảm thụ an lạc, khổ đau cũng hiện bày mạnh mẽ. Nếu như việc tiếp xúc giữa Tâm với Cảnh có năng lực yếu kém thì sự cảm thự an lạc, khổ đau cũng hiện bày yếu kém. Cũng ví như sát na thọ thực, răng có chức năng nhai nghiến vật thực, lưỡi có chức năng nhận biết vị. Nếu như răng làm đủ chức năng ở chỗ nhai nghiền một cách tối đa, thì lưỡi cảm thụ được vị một cách rõ ràng. Nếu như răng đã không làm đủ chức năng ở chỗ nhai nghiễn một cách tối đa, thế rồi lưỡi cảm thụ chỉ có được một chút ít vị. Điều này như thế nào; thì Xúc cũng được sánh tựa như răng, Thọ thì cũng được sánh tựa như lưỡi, Cảnh thì cũng được sánh tựa như vật thực, việc tiếp xúc giữa Tâm với Cảnh được sánh tựa như việc nhai nghiến vật thực, và việc tiếp xúc có năng lực mạnh hoặc yếu thì được sánh tựa như việc nhai nghiền đậm đà và hời hợt đó vậy.

'Việc tiếp xúc giữa Tâm với Cảnh chỗ gọi là Xúc như đã vừa đề cập đến đây, sẽ được thấy trong sự hiện hành sinh khởi lên với tất cả ở mọi người. Chẳng hạn như trong sát na đi xem ca kịch hoặc điện ảnh; nếu như nhìn không rõ, nghe không rõ vì chỗ ngồi quá xa hoặc ánh sáng yếu kém đi, mà điều ấy đã là theo Dĩ Pháp Bản Nguyện rồi, thế là Xúc sẽ có năng lực yếu kém vậy. Với lý do này, người xem ấy mới cố gắng xê dịch cho vào đến chỗ gần, để cho việc thấy và việc nghe được rõ ràng. Hoặc nếu nhỡ như ánh sáng yếu kém, thì cũng cố sắng tìm kiếm phương cách nào để cho có được thêm nhiều ánh sáng lên. Nếu như việc thấy hoặc việc được nghe rõ ràng tốt đẹp rồi, thì cũng có nghĩa là Xúc đã có được năng lực mạnh mẽ vậy. Khi Xúc đã có được năng lực mạnh mẽ rồi, thì Thọ là việc thụ hưởng Cảnh cũng hiện bày rõ ràng bền vững; có nghĩa là khởi lên việc được thấy hoặc việc được nghe một cách rõ ràng vậy. Một khi đã có được việc thấy, việc được nghe rõ ràng, thế rồi Chất Vị Duyệt Ý' (Iṭṭhirasa) hoặc Chất Vị Bất Duyệt Ý (Aniṭṭhirasa) hiện hữu trong những Cảnh ấy cũng ắt hẳn hiện bày rõ ràng. Tất cả sự việc như vầy, cũng bởi vì Nhãn Thức là việc trông thấy, v.v. đây, chỉ thực hiện đơn nhất một chức năng cho Sắc, Thỉnh, Khí, Vị, Xúc làm thành Cảnh mà thôi; chớ chẳng phải thực hiện cho hiện khởi lên Chất Vị Duyệt Ý hoặc Chất Vị Bất Duyệt Ý hiện hữu ở trong những Cảnh ấy được. Pháp chủng có khả năng thực hiện Chất Vị Duyệt Ý hoặc Chất Vị Bất Duyệt Ý cho được hiện khởi lên, thì đấy chính là Xúc vậy. Bởi do thế trong bất luận thời lúc nào có được tiếp thâu lấy Cảnh tốt đẹp, thì cũng có nghĩa là Xúc thực hiện chức năng thúc ép để cho Chất Vị Duyệt Ý hiện khởi lên. Và trong thời lúc nào có được tiếp thâu lấy Cảnh không tốt, thì cũng có nghĩa là Xúc thực hiện chức năng bức bách cho Chất Vị 'Bất Duyệt Ý hiện khởi lên. Một khi Chất Vị Duyệt Ý hoặc Bắt Duyệt Ý đã hiện khởi lên, thế rồi Thọ cũng nhảy vào thực hiện chức năng thụ hưởng, tức là cảm thụ an lạc hoặc bất an ở trong những Cảnh ấy. Với lý do này, sát na nào Thọ đang thụ hưởng sự an lạc ở trong Cảnh, thì Thọ ấy ắt hẳn biểu lộ cho hiện khởi đến với người ấy; tức là làm cho có diện mạo trong sáng vui tươi; và khi tính theo Tục Để thì sẽ nói với nhau rằng người ấy, người này đang có sự an vui hạnh phúc. Và trong sát na nào Thọ đang thụ hưởng sự khổ đau ở trong Cảnh, thì Thọ ấy ắt hẳn cũng biểu lộ trạng thái cho hiện khởi lên đến với người ấy tương tự như nhau, tức là làm cho có điện mạo sầu bỉ ưu não; và khi tính theo Tục Đề thì sẽ nói với nhau rằng, người ấy, người này đang có sự bắt hạnh khổ đau vậy.

Trang 336

'TRÌNH BÀY TRẠNG THÁI, PHẬN SỰ, SỰ THÀNH TỰU.

VÀ NHÂN CẢN THIẾT CỦA THỌ.

1, Cảm Thụ Trạng Thái (Anubhavanalakkhapä):Có việc thụ hưởng Cảnh, làm thành trạng thái.

2. Thụ Vị Di Lập Phận Sự (Visayarasasambhogarasã): Có việc thụ hưởng chất vị của Cảnh, làm thành phận sự.

3. Lạc Khổ Thành Tựu (Sukhadukkhapaccupaṭṭhänaṃ): Có sự an lạc và khổ đau, và làm hành trạng hiện bày trong Trí Tuệ các Bậc Hiền Trí.

4. Xúc Nhân Cận (Phassapadaṭṭhãnaṃ): Có Xúc làm Nhân cận lân.


TRÌNH BÀY VIỆC LIỆT KÊ 24 DUYÊN TRONG CÂU

XÚC LÀM DUYÊN THỌ (PHASSAPACCAYÃ VEDANÃ)


Cả Lục Xúc làm Năng Duyên giúp đỡ ủng hộ đối với cả Lục Thọ có được tám mãnh lực Duyên, đó là:

1/. Câu Sinh Duyên (Sahajätapaccaya),

2/. Hỗ Tương Duyên (Aññmaññapaccaya),

3/. Câu Sinh Y Duyên (Sahajãtanissayapaccaya),

4/. Dị Thục Quả Duyên (Vipäkapaccaya),

5/. Danh Vật Thực Duyên (Namãhãrapaccaya),

6/. Tương Ưng Duyên (Sampayuttapaccaya),

7/. Câu Sinh Hiện Hữu Duyên (Sahajãtatthipaccaya),

8/. Câu Sinh Bất Ly Duyên (Sahajãtãvigatapaccaya).

Khi tổng kết mãnh lực Duyên trong việc giúp đỡ ủng hộ của Xúc đối với Thọ có được tám Duyên, tương tự như trên.

[Chú thích: Từ ngữ Vedanä (Thọ) xuất nguyên từ căn Vid (cảm thụ). Cảm thụ là một danh từ thích nghỉ hơn cả từ ngữ “Cảm giác”, để phiên địch cho Päli ngữ Vedanä. Tương tự như Xúc, Thọ là đặc tính chính yếu của tất cả các thể loại Tâm Thức. Thọ có thể là Hỷ, Ưu hoặc Xả thuộc lãnh vực tinh thần. Khỗ và Lạc thuộc về sắc thân vật chất. Tuy nhiên Khổ Thọ hoặc Lạc Thọ thuộc về sắc thân, thì không có tầm quan trọng về phương diện đạo đức. Thể theo các Ngài Chú Giải Sư thì Thọ được ví như một ông chủ thưởng thức các thực phẩm do người đầu bếp nấu ăn. Người đầu bếp cũng được ví như các Tâm Sở còn lại trong một tư tưởng. Một cách chính xác, đích thị chính là Thọ cảm thụ một đối tượng, một khi đối tượng ấy đã tiếp xúc với giác quan tương ứng. Vả lại Thọ cảm thụ những quả báo an lành hoặc xấu ác từ ở một tác hành đã thực hiện ngay trong kiếp sống hiện tại, hoặc ở trong kiếp sống đã qua. Ngoài Tâm Sở Thọ này ra thì không có một linh hồn hoặc một cá nhân nào khác cảm thụ kết quả của hành động đã tạo tác. Cũng nên hiểu biết rằng, an lạc Níp Bàn thì bất hữu quan với Thọ. An lạc Níp Bàn thì quả thật an lạc thù thắng, thế nhưng chính đó là sự an lạc của Chất Vị Giải Thoát (Vimuttirasa) ra khỏi mọi khổ đau trong biển trần Khổ Đề, xác tín chẳng là sự vui thích ở trong một đối tượng khả ái].

Kết Thúc Xúc Làm Duyên Thọ.

----------------------------------

Tiếp theo dĩ nhân bản nguyện, dĩ pháp bản nguyện, có lạc thọ, khổ thọ, lạc câu hành thân, lạc câu hành ý, khổ thọ câu hành thân, tức là hai tâm thân thích.

Lạc thọ, khổ thọ, thân thức khổ thọ, thân thức lạc thọ. Lạc thọ mà nó câu hành với tâm thân thức này nó ra chức năng. Mà khi mình nói tới thọ mà nó câu hành với cái này tức là tứ đồng mà nó có sự móc nối từ cái Xúc  trước nó mới ra, thì khi đó mình niệm mới được.

Khổ Thọ là Khổ câu hành Thân Phủ Xúc Thọ, Ưu câu hành Ý Phủ Xúc Thọ. Sự an lạc và sự khổ đau. Rồi tứ nhân sinh pháp thọ trang 335 Tứ nhân sinh pháp, trạng thái, phận sự, sự thành tựu, và nhân cần thiết của thọ.

Và Lục Xúc làm Năng Duyên  giúp đỡ ủng hộ đối với cả Lục Thọ có được tám mảnh lực Duyên.

Từ ngữ Vedanä (Thọ) xuất nguyên từ căn Vid (cảm thụ). Mình coi phần chú thích về từ ngữ  Vedanä (Thọ) ở trang 336

Nên Xúc làm duyên cho Thọ. nên khi mấy cô thấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Thân có Thọ, 

Tâm có Pháp.

Thân ----> Khổ / Lạc ------> thì nó ra Thọ.

Thì khi nói tới Thân, 2 cái Khổ / Lạc, nó thuộc về Tâm Quả Dị Thục. Nó làm cho Thân có Thọ. Thọ đang niệm đây là Thọ Niệm Xứ (Duyên Sinh). Khi nắm được chữ Duyên Sinh này thì mới ra khỏi thân kiến của mình dính mắc vô trong thọ này, chỉ là Duyên hiện bày, chứ không phải thân kiến mình hiện bày

trang 336

Tứ pháp ý nghĩa của thọ

1, Cảm Thụ Trạng Thái (Anubhavanalakkhapä):Có việc thụ hưởng Cảnh, làm thành trạng thái.

2. Thụ Vị Di Lập Phận Sự (Visayarasasambhogarasã): Có việc thụ hưởng chất vị của Cảnh, làm thành phận sự.

3. Lạc Khổ Thành Tựu (Sukhadukkhapaccupaṭṭhänaṃ): Có sự an lạc và khổ đau, và làm hành trạng hiện bày trong Trí Tuệ các Bậc Hiền Trí.

4. Xúc Nhân Cận (Phassapadaṭṭhãnaṃ): Có Xúc làm Nhân cận lân.

Trong câu 4. Xúc Nhân Cận (Phassapadaṭṭhãnaṃ): Có Xúc làm Nhân cận lân cho Thọ sinh.

Do đó, khi mình niệm Thọ này (Thọ Niệm Xứ -Duyên Sinh) là mình phải biết nhân trước là Xúc làm duyên cho Thọ này đang có Niệm Thọ này mà bởi Câu Sinh Duyên, Câu Sinh Hiện Hữu Duyên kết hợp.

Thì khi nắm được pháp đó thì ra khỏi thân kiến "Tôi" "Ta" trong cái Thọ hay trong cái Xúc hay trong sự kiện mình đang có mới giữ được tâm chứ còn không mình cứ lầm.

Do đó, các vị Thiền Sư khi họ không nắm được cái này, họ dạy mình nhấc lên đạp xuống đụng chạm khởi sinh niệm thọ dính thân kiến, không lọc ra được và mình cứ dính cái đó, mình thắc mắc luôn. Tại vì khi mình không lọc ra được cái đó thì mình thắc mắc thì khởi sinh lên thân kiến dính vô hoài nghi và mình nằm trong kiết sử của mình và mình không có một cái gì giải tỏa lý giải pháp này.

Nếu mấy cô hành Tứ Niệm Xứ phải nằm phần Thọ Niệm Xứ ở trong phần Thọ Liên Quan Tương Sinh thì mới ra được, nó có một chuỗi. Thì khi mình nắm được phần đó mình mới hành được.

Trang 212

3. XỨ (ÄYATANA)


Câu Chú Giải từ ngữ Ãyatana (Xứ) là: Äyatanti attano phaluppattiyã ussãhantä viya hontIti = Ãyatanãni - Những thể loại Pháp nào có thực tính na ná với sự nỗ lực tinh cần, nhằm để quả báo của mình cho được sinh khởi; bởi do thế những thẻ loại Pháp ấy mới gọi tên là Xứ. Có nghĩa là

1/. Cả hai Nhãn Xứ với Sắc Xứ làm thành tác nhân cho việc được trông thấy sinh khởi; bởi do thế việc trông thấy đây mới làm thành quả báo của cả hai Xứ đấy. Ở trong những Xứ khác thì cũng hiện hành tương tự như nhau, là:

2/. Nhĩ Xứ với Thỉnh Xứ thành Nhân, và việc được lắng nghe thành Quả.

3/. Tỷ Xứ với Khí Xứ thành Nhân, và việc ngửi được khí hơi thành Quả.

4/. Thiệt Xứ với Vị Xứ thành Nhân, và việc biết được mùi vị thành Quả.

5. Thân Xứ với Xúc Xứ thành Nhân, và việc biết sự xúc chạm thành Quả.

6/. Ý Xứ với Pháp Xứ thành Nhân, và việc nhận thức các sự kiện thành Quả.

Nhân với Quả mà đã vừa đề cập tại đây thì thường hiện hành theo thực tính Vô Ngã hết cả thẩy các Xứ. Những thể loại ấy thì chẳng cần phải có bất luận một sự nỗ lực nào cả; tuy nhiên cảnh trạng hiện hành của những thể loại Xứ Ấy thì lại trông na ná giống như là có việc tích cực phần đấu để cho các quả báo của mình được sinh khởi; bởi do thế mới trình bày câu Chú Giải nói rằng: Ussãhantã viya honti - Có thực tính na ná giống với sự nỗ lực tỉnh cần để cho quả báo của mình sinh khởi.

Hoặc một phần khác nữa: Äyasaṅkhāte citta cetasikadhamme etãni tanonti vitthã rentiti = Äyatanāni - Những thể loại Nhãn Thanh Triệt với Cảnh Sắc v.v. đây thường tác hành Pháp Tâm và Tâm Sở ở chỗ gọi là Xứ cho phát triển quảng khoát lên; bởi do thế những thể loại Nhãn Thanh Triệt với Cảnh Sắc v.v. đây mới gọi tên là Xứ.

Trong những cả Thập Nhị Xứ đây, khi phân tách ra thành Nội Bộ và Ngoại Bộ, thì có 6 Xứ ở Nội Bộ — chỗ gọi Ajjhattikāyatana (Nội Thân Xứ) - đó là Nhãn Xứ v.v. cho đến Ý Xứ. Và có 6 Xứ ở Ngoại Bộ - chỗ gọi Bahirāyatana (Ngoại Xứ) - đó là Sắc Xứ v.v. cho đến Pháp Xứ. Những thể loại Xứ Nội Bộ và Ngoại Bộ đây, một khi đã tiếp xúc với nhau rồi, thì các Lộ Trình Tâm như có Lộ Trình Nhãn Môn v.v. thường sinh khởi. Lộ Trình Tâm đã sinh khởi lên rồi, thì chẳng phải chỉ có duy nhất mỗi một Lộ Trình Tâm, mà thường sinh khởi rất nhiều Lộ Trình Tâm cho đến nỗi đếm không kể xiêt được. Và trong mỗi một Lộ Trình Tâm ấy thì có rất nhiều chủng loại Tâm sinh khởi với nhau; tức là Thiện cũng có, Bắt Thiện cũng có, Quả Dị Thục và Duy Tác cũng có. Chính vì việc sinh khởi của rất nhiều Lộ Trình Tâm, rất nhiều chủng loại Lộ Trình Tâm như vậy, mới được gọi là Tâm và Tâm Sở phát triển quảng khoát lên. Và trong sự việc Tâm và Tâm Sở phát triển quảng khoát lên được như thế này, cũng đích thị chính do bởi nương vào các Xứ ở cả Nội Bộ và Ngoại Bộ ấy vậy.

Lại nữa, Bất Thiện Pháp thì có Tham, Sân v.v. và Thiện Pháp thì có Tín, Niệm, Tuệ, v.v. ở những thể loại này ngay trong sát na sinh khởi đầu tiên thì có năng lực hãy còn yếu kém. Khi những chủng loại Lộ Trình Tâm Thiện và Bắt Thiện đây cứ mãi luân chuyển sinh khởi xoay tròn, thế rồi năng lực từ ở những chủng loại Thiện và Bất Thiện đây cũng từ từ mạnh dần lên, mãi cho đến làm thành tựu những Thiện Hạnh và Ác Hạnh. Tại đây cũng được gọi là Tâm và Tâm Sở có sự phát triển quảng khoát lên; và do nương vào Xứ Nội Bộ và Ngoại Bộ làm thành tác nhân cho sinh khởi tương tự như nhau. Với lý do này mới đề cập để ở trong câu chú Giải nói rằng "Những thể loại Xứ Nội Bộ và Ngoại Bộ đây, thường tác hành Pháp Tâm và Tâm Sở cho phát triển quảng khoát lên."

----------------------------------

Xứ là trú xứ là chỗ ở, có 5 ý nghĩa của từ ngữ Xứ.

Trang 213

NĂM Ý NGHĨA CỦA TỪ NGỮ XỨ (ÄYATANA)


Từ ngữ Äyatana (Xứ) đây, có năm ý nghĩa biểu thị, đó là:

1. Xuất Sinh Sản Xứ (Sañjãtidesaṭṭha): có nghĩa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thuộc Xứ Nội Bộ đây gọi là Xứ bởi vì thường luôn làm thành chỗ nương sinh tất cả Lộ Trình Tâm; tức là cho dù sẽ sinh trong chủng tộc nào, kiếp sống nào đi nữa, thì chẳng thể sinh ở nơi nào khác mà tất cả đều phải nương sinh vào những thể loại Xứ này hết cả thấy.

2. Trú Sở Xứ (Niväsaṭṭha): có nghĩa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thuộc Xứ Nội Bộ đây gọi là Xứ bởi vì làm thành chỗ nương trú của Lộ Trình Tâm. Việc trình bày như vậy là việc trình bày theo Phần Cận Lân (Upacāranaya) tức là trình bày một cách gián tiếp. Bởi vì những Lộ Trình Tâm ấy chẳng phải hiện hữu trong lỗ tai, lỗ mũi v.v. và cho đến khi hội đủ nhân duyên kết tụ vào nhau thì những thể loại Lộ Trình Tâm ấy mới sinh khởi; cũng giống như cây đàn với âm thanh cây đàn, thường thì không nói được rằng âm thanh ấy ở trong thân cây đàn hoặc ở dây đàn. Tuy nhiên nếu đã gẩy đàn lên rồi thì âm thanh ấy sẽ hiện khởi lên y như là âm thanh ấy là ở trong dây đàn vậy. Điều này như thế nào, thì Lộ Trình Tâm và những Lục Nội Thân Xứ đây, nếu nhỡ như không có hội đủ nhân duyên thì sẽ không nói được rằng Lộ Trình Tâm đây ở trong những Lục Nội Thân Xứ này. Và nếu giả như đã hội đủ nhân duyên rồi, thì sẽ hiện khởi lên tức thời, y như là Lộ Trình Tâm trong những thể loại Xứ này, như đã vừa đề cập đến rồi vậy.

3. Sản Xuất Xứ (Äkaraṭṭha): có nghĩa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thuộc Xứ Nội Bộ đây gọi là Xứ bởi vì sinh trú khắp cả Hữu Tình, chẳng phân biệt là hạng thấp hoặc bậc cao, nhỏ hoặc lớn; bất kể sẽ là Nhân Loại, Chư Thiên, hoặc Hữu Tình Bảng Sinh, tất cả cũng đều phải có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đồng với nhau hết cả thầy.

4. Hội Hợp Xứ (Samosaraṇaṭṭha): có nghĩa Sắc Xứ v.v. cho đến Pháp Xứ thuộc Xứ Ngoại Bộ đây gọi là Xứ bởi vì làm thành chỗ tựu hội của tất cả Lộ Trình Tâm; tức là những Lộ Trình Tâm đã sinh khởi lên ấy thì thường luôn sẽ cần phải có việc tiếp thâu Cảnh. Việc tiếp thâu Cảnh của những thể loại Lộ Trình Tâm này na ná với việc vào tựu hội ở trong Cảnh, có Cảnh Sắc v.v. mà bản thân đang tiếp thâu.

5. Nhân Do Xứ (Kāraṇaṭṭha): có nghĩa những thể loại Lục Xứ Nội Bộ và Lục Xứ Ngoại Bộ đây gọi là Xứ bởi vì làm thành tác nhân cho Lộ Trình Tâm sinh khởi; tức là theo lẽ thường nhiên Lộ Trình Tâm sẽ sinh khởi lên được đó, là cần phải có tất cả những thể loại Xứ Nội Bộ và Ngoại Bộ; nếu như không có những thể loại Xứ này rồi, thì Lộ Trình Tâm không thể nào sinh khởi lên được.

(Chú thích: Từ ngữ Äyatana (Xứ) được dùng trong ý nghĩa là "nền tảng, phạm vi, căn cứ, trú xứ".  Đây là sáu của ra vào, Lục Nhập, Lục Xứ, Lục Môn, làm thành nền tảng cho các giác quan. Từ ngữ Cakkhāyatana (Nhãn Xứ) là Tịnh Sắc Căn, là phần nhạy của con mắt. Chính Sắc Pháp này cảm nhận sắc tướng của Trần Cảnh. Và những phần nhạy của bốn giác quan kia - Thinh, Khí, Vị, Xúc -- cũng nên được hiểu cùng một phương thức này. Từ ngữ Manāyatana (Ý Xứ) tại đây miêu tả không có một bộ phận riêng biệt làm nền tảng cho Tâm Thức như là các Xứ khác. Ý Xứ chỉ cho Tâm Khai Ý Môn (Manodvārāvajjanacitta), có nghĩa "sự hiểu biết của Tâm Thức" cùng với sát na Tâm Hữu Phần Dứt Dòng. (Xin xem lại Chương thứ I - Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp)]

Trang 214

4. GIỚI (DHÃTU)


Câu Chú Giải từ ngữ Dhãtu (Giới) là: Nissattanijjivaṭṭhena = Dhãtu - Nhãn Thanh Triệt v.v. gọi tên là Giới; bởi vì có nội dung chẳng phải Hữu Tình, chẳng phải Sinh Mạng; và đích thị chính là thực tính.

Lẽ thường tất cả Chúng Hữu Tình sinh trú trong thế gian này thì thường luôn có việc trông thấy, việc được lắng nghe, việc được ngửi khí hơi, việc biết mùi vị, việc tiếp xúc xúc chạm, việc nghĩ suy với nhau hết cả thẩy. Những sự việc này có được cũng bởi vì việc tựu hội vào nhau giữa Môn, Cảnh, Thức; và đó chính là Thập Bát Giới vậy. Ngoài ra việc tựu hội giữa những thể loại 18 Thập Bát Giới này đi rồi, thì sự hiểu biết với nhau rằng việc trông thấy, việc được lắng nghe, việc nghĩ suy, hoặc việc bước đi, việc đi đến, việc ăn, việc nằm, việc nói năng của Chúng Nhân Loại, hoặc Hữu Tình Bàng Sinh đây, ắt hẳn là không có. Bởi do thế thực tính sinh hoạt của cả những Thập Bát Giới này, thì mới nói với nhau là Phi Sinh Mạng (Nissatta), có nghĩa “chẳng phải là Hữu Tình, là con người.”

Sự hiểu biết rằng người này người nọ tử vong nhưng Tâm Thức thì bắt tử. Khi con người hoặc Hữu Tình đã tử vong rồi, thì Tâm Thức vuột thoát ra khỏi thân xác cũ, và nối tiếp đi ở tong thân xác mới. Sự hiểu biết như vầy thường được liệt vào Ngã Luận Thủ, tức là chấp thủ rằng tất cả Chúng Hữu Tình thì Hữu Sinh Mạng, Hữu Ngã; mà thể theo Chân Như Thực Tính thì Sinh Mạng, Bản Ngã ở chỗ bất tử đầy, là chẳng có việc chuyển di từ kiếp sống cũ đi thọ sinh ở trong kiếp sống mới. Việc sinh, Việc sống và việc tử, với những thể loại này đều hiện hành theo thực tính của Giới hết cả thây; tức là một khi đã tử vong rồi, thì Thức Giới, Pháp Giới và Nhãn Giới, v.v. thuộc Sắc Nghiệp Lực đã diệt mất. Đến khi thọ sinh, thì đích thị chính là Ý Thức Giới, Pháp Giới, và Nhãn Giới v.v. thuộc Sắc Nghiệp Lực đã sinh khởi. 'Như thế, thực tính sinh hoạt của những cả Thập Bát Giới này mới nói rằng Phi Sinh Mạng (Nijjiva) tức là “chẳng phải Sinh Mệnh, Bản Ngã.”

Trình bày câu Chú Giải từ ngữ Dhātu (Giới) là: Attano sabhävaṃ dhãretiti = Dhãtu - Pháp chủng nào lập ý thiết lập thực tính của mình, bởi do thế Pháp chủng ấy được gọi tên là Giới. Có nghĩa theo lẽ thường nhiên cả Thập Bát Giới thì thường hiện hành theo thực tính của mình, chẳng khởi lên với một ai, và cũng chẳng ở trong mãnh lực của người nào cả thầy. Thực tính của mình là cái chi thì cũng hằng luôn bảo hộ thực tính của mình đã thiết lập ở thể loại ấy, và bất biến chuyển; chẳng hạn như Nhãn Giới có thực tính Tịnh Sắc Căn thích hợp cho các sắc màu đi đến hiện bày, bởi do thế Nhãn Giới cho dù sẽ sinh trú với một ai đi nữa thì thường cũng chỉ có đơn nhất thực tính Tịnh Sắc Căn để tiếp thâu các sắc màu thôi. Tịnh Sắc Căn của Nhãn Giới không có khả năng để tiếp thâu được các âm thanh, hoặc các khí hơi, v.v. và cũng chẳng có một ai có khả năng dùng mãnh lực trong suốt của Nhãn Giới này để tiếp thâu các sự vật khác, ở phần ngoài ra các sắc màu được cả. Sắc Giới chỉ có thực tính biểu thị màu sắc cho hiện bày trong Lộ Nhãn Môn; bởi do thế Sắc Giới này mới lập ý thiết lập thực tính biểu thị màu sắc cho hiện bày chỉ riêng trong Lộ Nhãn Môn, và không có khả năng để biểu thị màu sắc cho hiện bày trong Lộ Nhĩ Môn, Lộ Tỷ Môn v.v. được. Nhãn Thức Giới lập ý thiết lập thực tính trông thấy; bởi do thế cho dù Nhãn Thức Giới sẽ sinh khởi với bất luận ai, ở chỗ nào đi nữa, thì thường duy nhất chỉ có việc trông thấy; và sẽ chỉ huy cho việc không trông thấy, hoặc chỉ huy cho chuyển đổi việc trông thấy thành việc được lắng nghe âm thanh cũng không thể có được, chẳng hạn như vầy. Bởi do thế thực tính sinh hoạt của những cả Thập Bát Giới này đây mới được nói rằng “Pháp chúng nào lập ý thiết lập thực tính của mình và không có việc biến chuyển.”

[Chú thích: Từ ngữ Dhãtu (Giới) có nghĩa là Pháp chủng mang theo đặc tính của chính bản thân. Từ ngữ Dhammadhãtu (Pháp Giới) đồng nghĩa với Dhammãyatana (Pháp Xứ), nhưng lại khác biệt với Dhammärammaṇa (Cảnh Pháp) vì không bao gồm Tâm (Cita), Sắc Thanh Triệt (Pasädarūpa)Chế Định (Paññatti). Từ ngữ Manoviññäṇadhãtu (Ý Thức Giới) bao hàm ý nghĩa về những Tâm Thức. Trong 89 cái Tâm, có 76 thể loại Tâm được xem là Ý Thức, ngoại trừ 10 Tâm Ngũ Song Thức, và 3 Ý Giới].


5. THÁNH ĐỀ (ARIYASACCA).


Câu Chú Giải từ ngữ Ariyasacca (Thánh Đế) là: Ariyānaṃ  saccānaṃ = Ariyasaccäni - Pháp làm thành Chân Lý của tất cả các Bậc Vô Sinh, được gọi tên là Thánh Đế.

Có nghĩa bốn Chân Lý mà Đức Phật đã lập ý khải thuyết rồi đấy, thì cho dù tất cả Chư Thỉnh Văn Phàm Phu sẽ được nghe thấy hoặc được lắng nghe đi nữa, tuy nhiên thực tính của Chân Lý mà Đức Phật đã lập ý khải thuyết rằng “Những thể loại Pháp này là đau khổ, thể loại Pháp này là nguyên nhân cho sinh đau khổ, thể loại Pháp này là công cụ điệt tắt đau khổ, và những thể loại Pháp này là đạo lộ cho đi đến sự diệt tắt đau khổ”; các Chư Thỉnh Văn Phàm Phu ấy thường thì cũng được nghe thấy như vậy, tuy nhiên chẳng thể nào lãnh hội được sâu sắc và vững chắc như là tắt cả các Bậc Vô Sinh. Bởi do thế, Pháp làm thành Chân Lý thể theo Đức Phật đã lập ý khải thuyết mới được gọi tên Thánh Đế.

Một phần khác nữa: Ariyāni tathãni saccāni = Ariyasaccāni - Cả Tứ Pháp Đề đã thành Chân Lý bất biến chuyền, được gọi tên là Thánh Đề.

Có nghĩa Pháp được gọi tên Khổ Để (Dukkhasacca) thì thường làm cho tất cả Chúng 'Hữu Tình phải đón nhận sự thống khổ thật xứng với việc định đặt tên gọi. Pháp được gọi tên Tập Đế (Samudayasacca) thì thường làm thành nguyên nhân cho sinh khởi biết bao sự thống khổ đến với tắt cả Chúng Hữu Tình thật xứng với việc định đặt tên gọi. Pháp được định đặt tên gọi Diệt Để (Nirodhasacca) thì thường thành công cụ làm cho diệt tắt biết bao sự thống khổ thật xứng với việc định đặt tên gọi. Pháp được gọi tên Đạo Đế (Maggasacca) thì thường thành các Chỉ Phần tu tập cho đi đến sự diệt tắt thống khổ thật xứng với việc định đặt tên gọi. Lại nữa, thể theo các vị tiền bối cỗ xưa đã định đặt tên gọi tất cả các sự vật Hữu Sinh Mạng và Phi Sinh Mạng hiện hữu trong thế gian, chẳng hạn như là nam nhân, nữ nhân, con chó, con mèo, cây cối, núi đồi, xanh, đỏ, v.v. với những sự vật này cũng vẫn là sự thật tương tự như nhau. Tuy nhiên ở thể loại sự thật này thì chỉ là sự thật theo thành ngữ của dân gian; và chẳng phải là sự thật thể theo chân thực tính; vì lẽ những cách thức gọi là nam nhân, nữ nhân, con chó, con mèo, này đây đích thị thể theo sự thật rồi đó, thì cũng chỉ là 2 chủng loại Danh và Sắc kết hợp vào nhau thôi. Và chỗ gọi những cây cối, các núi đồi v.v. này đây đích thị thể theo sự thật rồi đó, thì đơn nhất cũng chỉ có một thể loại Sắc Pháp ngần ấy thôi. Tóm lại, ngoài cả hai Danh Sắc này ra thì chẳng còn có cái chỉ khác nữa. Bởi do thế thành ngữ dân gian dùng để réo gọi với nhau với những cách thức này, thì cho dù sẽ là sự thật đi nữa, tuy nhiên cũng vẫn là sự thật thuộc thế tục, vả lại chỉ được gọi Tục Đế (Sammautisaeca), và chẳng thể nào được gọi tên Thánh Để (Ariyasaeca), vì lẽ có việc biến dịch đổi thay.

-----------------------------------------------------

Vậy thì Tứ Niệm Xứ nó nằm một trong 5 ý nghĩa của Tứ Niệm Xứ.

Trang 216

VIỆC PHÂN TÍCH TỨ THÁNH ĐỀ THEO NHÂN - QUẢ, HIỆP THÉ - SIÊU THÉ

1. Phân Tích Theo Nhân - Quả (Hetu - Phala):

+ Khổ Đề là Quả, Tập Đề là Nhân.

+ Diệt Để là Quả, Đạo Đề là Nhân.

2. Phân Tích Theo Hiệp Thế - Siêu Thế (Lokiya - Lokuttara):

+ Khỗ Đề và Tập Đế, cả hai này là Pháp Hiệp Thế (Lokiyadhamma) và Hiệp Thế Để (Lokiyasacca).

+ Diệt Đề và Đạo Đế, cả hai này là Pháp Siêu Thế (Lokuttaradhamma) và Siêu Thế Đế (Lokuttarasacca).

3. Phân Tích Theo Vòng Luân Hồi (Vaṭṭa):

+ Cả hai Danh Sắc sinh trú trong Vòng Luân Hồi này đều là đau khổ cả; bởi do thế Khổ Đế đây mới là Để có sự sinh hoạt trong Vòng Luân Hồi, được gọi tên Chuyển Khởi Đế (Pavattisacca), và là một Đế Bất Thiện.

+ Tập Đề là Đề làm thành tác nhân cho Khổ Đề sinh khởi, hiện hành trong Vòng Luân Hồi, được gọi tên Đế Tác Nhân Chuyển Khởi (Pavattihetusacca), và là một Đế Bất Thiện tương tự như nhau.

+  Diệt Đế là Đế thoái khước khỏi Vòng Luân Hồi, được gọi tên Quy Toàn Đế (Nivattisacca), và là một Đế Thiện.

+ Đạo Để là Đề làm thành tác nhân cho đi đến sự thoái khước khỏi Vòng Luân Hồi, được gọi tên là Đề Tác Nhân Quy Toàn (Nivattihetusacca), và là một Đề Thiện tương tự như nhau.

----------------------------------------------

Do đó, chính cái đó mình mới tìm ra được cái nào là Hiệp Thế cái nào là Siêu Thế, cái nào là Nhân cái nào là Quả sau khi mình nắm được Xứ, Giới, và Thánh Đế nó liên quan với nhau.

Thành ra nếu nói Tứ Niệm Xứ; Thân Niệm Xứ, Thọ Niệm Xứ, Tâm Niệm Xứ, Pháp Niệm Xứ thì phải coi mấy cái này mới được.

Trang 212 

Hai câu bôi đậm ở dưới:

chỗ gọi Ajjhattikāyatana (Nội Thân Xứ) - đó là Nhãn Xứ v.v. cho đến Ý Xứ. Và có 6 Xứ ở Ngoại Bộ - chỗ gọi Bahirāyatana (Ngoại Xứ) -

Ajjhattikāyatana (Nội Thân Xứ) là xứ nằm trong người của mình.

Nhưng từ ngoại là Bahirāyatana (Ngoại Xứ), chữ này không có chữ kāya, mình không nói là ngoại thân xứ được.

Hai từ ngữ đó đã là khác biệt rồi. Nội Thân Xứ là trong người của mình, Ngoại Xứ là ngoài, không có nói "Tôi".

Chính vì việc sinh khởi của rất nhiều Lộ Trình Tâm, rất nhiều chủng loại Lộ Trình Tâm như vậy mình mới thấy nó liên hệ nhau với Lộ Trình Tâm nữa.

Năm ý nghĩa của từ ngữ Xứ trang 213

1. Xuất Sinh Sản Xứ (Sañjãtidesaṭṭha)

2. Trú Sở Xứ (Niväsaṭṭha)

3. Sản Xuất Xứ (Äkaraṭṭha)

4. Hội Hợp Xứ (Samosaraṇaṭṭha)

5. Nhân Do Xứ (Kāraṇaṭṭha)

Xứ liên quan đến Giới, rồi bắt qua Tứ Thánh Đế mới ra được con đường tu tập của mình được.

Thường thường Sư hướng dẫn mấy cô Tứ Niệm Xứ là Sư đi qua con đường Tứ Đế, Đức Phật Ngài cũng từ Tứ Đế mà Ngài đi tới Giác Ngộ.

Sila là Giới Luật

Dhãtu là Giới là tố chất (elements  nguyên tố vật chất)

Coi phần Tứ Thánh Đế, phân tích Tứ Thánh Đế theo Nhân Quả, phân tích theo vòng Luân Hồi ở trang 216.

Nên nói Tứ Niệm Xứ hay nói tới Thập Bát Giới (18 Giới- - nguyên tố vật chất) liên hệ đến Tứ Thánh Đế phải có mấu chốt này, còn không thì không được. Nếu mình hành Tứ Niệm Xứ mà mình không  nắm được Tứ Thánh Đế không có con đường giác ngộ, mình chỉ hành suông thôi, cái đó hành theo kiểu như hành Thiền Chỉ thôi để mình có Tâm mình được yên, giữ được chánh niệm, chứ không đưa tới giác ngộ, rất là quan trọng. 

Qua phần Pháp Niệm Xứ; triền cái, ngũ thủ uẩn. 

Trang 211

2. THỦ UÁN (UPÄDÃNANAKKHANDHA).


Câu Chú từ ngữ nói rằng Upãdãnanakkhandha (Thủ Uẫn) là: Upädãnãnaṃ gocarä khandhã = Upädãnakkhandhä - Uẩn làm thành Cảnh của Sự Chấp Thủ, bởi do thế mới gọi tên Thủ Uẩn.

Trong sự việc Đức Phật đã lập ý khải thuyết Thủ Uẫn được tách ra từ nơi Ngũ Uẩn, là cũng để cho làm thành lợi ích ở trong việc tiến tu Minh Sát Tuệ. Bởi vì người tiến tu Minh Sát Tuệ sẽ cần phải hạn định Ngũ Uẫn chỉ ở phần Hiệp Thế đặng làm thành Cảnh của Sự Chấp Thủ. Đề cập đến là Dục Thủ, Kiến Thủ, Giới Cấm Thủ, và Ngã Luận Thủ; với những thể loại này sinh khởi cũng chỉ do bởi nương vào Sắc Pháp, và Thọ, Tưởng, Hành, Thức ở phần Hiệp Thế làm thành tác nhân thôi. Còn đối với Thọ, Tưởng, Hành, Thức ở phần Siêu Thế thì chẳng phải làm thành Cảnh của Sự Chấp Thủ; lập ý đến cả Tứ Chấp Thủ này thường chẳng có nương vào Pháp Siêu Thế mà sinh khởi; với lý do này mới phải lập ý trình bày riêng biệt phần Thủ Uẳn thêm một lần nữa vậy.

[Chú thích: từ ngữ Upãdãnakkhandha (Thủ Uẫn) được gọi như vậy vì kết hợp thành những đối tượng của sự bám níu, hoặc chắp thủ; và chỉ hiện hữu duy nhất trong những Tâm Hiệp Thế. Tám Tâm Siêu Thế cùng với các Tâm Sở phối hợp, và mười Sắc Pháp không do Nghiệp Lực tạo thì không được xem là Thủ Uẫn; vì không thể trở thành những đối tượng của Sự Chấp Thủ].

-----------------------------

Chữ Thủ Uẩn, ở trang 209 là Uẩn thôi, 2 cái khác nhau. Uẩn rồi Thủ Uẩn. Thủ Uẩn thì nó có chữ Thủ, rồi Xứ.

Quyển Phát Thú Chánh Tạng - màu xanh quyển số 3

Phần giai đoạn vấn đề, trang 535 

Pháp Thực Tính chấp thủ làm duyên đối với Pháp Thực Tính chấp thủ theo phương thức Nhân Duyên đó là Nhân chấp thủ làm duyên đối với chấp thủ tương ưng theo phương thức Nhân Duyên (nên bổ túc Câu làm Căn Nguyên). Nhân chấp thủ làm duyên đối với Uẩn tương ưng và Sắc Tâm Xuất Sinh Xứ theo phương thức Nhân Duyên (nên bổ túc Câu làm Căn Nguyên). Nhân chấp thủ làm duyên đối với Uẩn tương ưng chấp thủ và Sắc Tâm Xuất Sinh Xứ theo phương thức Nhân Duyên (3)

Nhân chấp thủ của mình là cái gì ?

Thủ có 4 là Dục Thủ, Kiến Thủ, Giới Cấm Thủ, Ngã Luận Thủ, nó làm duyên chấp thủ với các pháp, nên nhân chấp thủ làm duyên với Uẩn tương ưng. Uẩn tương ưng tức là thuộc về Tâm Tâm sở và Sắc Tâm Xuất Sinh Xứ theo phần Uẩn tương ưng.

Sắc Tâm Xuất Sinh Xứ tức là sắc tâm nương về sắc phần Tâm tâm sở mà làm duyên thì nó theo phương thức nhân duyên.

 Qua phần Trưởng Duyên. Khi vô tới phần Thủ, có 2 loại Cảnh Trưởng và Cảnh Câu Sinh Trường.

Trang 536 

Cảnh Trưởng và Câu Sinh Trưởng.

Thì mỗi cái đó, thí dụ như phần Trưởng Duyên trang 536

Pháp Thực Tính chẳng phải chấp thủ làm duyên đới với Pháp Thực Tính chấp thủ và chẳng phải chấp thủ theo phương thức Cảnh Duyên đó là người đã xả thí, tuân thủ giới luật, thọ trì thanh tịnh nghiệp lực v.v. tư khảo lại Thiện đã từng tích lũy thiện hảo rồi v.v. xuất khỏi Thiền Định rồi tư khảo lại Thiền Định v.v. người hỷ duyệt tâm khoáng thần đi Nhãn v.v. Ý Vật và Uẩn chẳng phải chấp thủ, vì sự hỷ duyệt tâm khoáng thần di Nhãn ấy v.v. khai đầu, chấp thủ và uẩn tương ưng mới sinh khởi.

Thọ trì thanh tịnh nghiệp lực là thọ Bát Quan Trai Uposatha.

Tư khảo là suy nghĩ lại hay quán tưởng lại. Xuất khỏi Thiền Định rồi tư khảo lại Thiền Định, tức là mình ngồi thiền xong rồi mình hỷ duyệt trong đó bắt đầu mình sinh lên chấp thủ trong cái đó gọi là Cảnh Trưởng

Cảnh Trưởng đó là người đã xả thí, tuân thủ giới luật, thọ trì thanh tịnh nghiệp lực v.v. tư khảo lại Thiện đã từng tích lũy thiện hảo rồi v.v. xuất khỏi Thiền Định rồi tư khảo lại Thiền Định cho thành Cảnh một cách kiên định, hỷ duyệt tâm khoáng thần di. Bậc Thánh Nhân xuất khỏi Đạo rồi tư khảo lại Đạo cho thành Cảnh một cách kiên định v.v. làm duyên đối với Quả theo phương thức Trưởng Duyên. Người hỷ duyệt tâm khoáng thần di Nhãn v.v. Ý Vật và Uẩn chẳng phải chấp thủ cho thành Cảnh một cách kiên định, vì thực hiện sử hỷ duyệt tâm khoáng thần di Nhãn ấy v.v. cho thành Cảnh một cách kiên định, tham ái mới sinh khởi, tà kiến mới sinh khởi.

Câu Sinh Trưởng đó là Pháp Trưởng chẳng phải chấp thủ làm duyên đối với Uẩn tương ưng và Sắc Tâm Xuất Sinh Xứ theo phương thức Trưởng Duyên.

Pháp Thực Tính chẳng phải chấp thủ làm duyên đối với Pháp Thực Tính chấp thủ theo phương thức Trưởng Duyên có 2 thể loại là Cảnh Trưởng và Câu Sinh Trưởng.

Thì:

Câu Sinh Trưởng Duyên: Tứ Trưởng thuộc phần Câu Sinh Trưởng là:

Dục Trưởng (Chandādhipaṭi),  (có Thiện có Bất Thiện) 

Cần Trưởng (Viriyādhipaṭi)  (có Thiện có Bất Thiện

Tâm Trưởng (Ciṭṭādhipaṭi)  (có Thiện có Bất Thiện) 

Thẩm Trưởng (Vimaṃsādhipaṭi) (chỉ có Thiện) 

Cảnh Trưởng có 2 là:

Tư Duy Duyệt Ý

Thực Tính Duyệt Ý 

Khi 4 Câu Sinh Trưởng Duyên này (Dục Trường, Cần Trưởng, Tâm Trưởng, Thẩm Trưởng) mà vô câu phần chấp thủ thì là Thẩm Trưởng lọt ra liền.

Vậy thì: 

Kiến Thủ, Dục Thủ, Giới Cấm Thủ, Ngã Luận Thủ phối hợp với Dục Trưởng, Cần Trưởng, Tâm Trưởng nó ra Câu Sinh Trưởng làm Duyên

 Tinh tấn xả thí, tinh tấn giữ giới, tinh tấn thọ Bát Quan Trai, tinh tấn ngồi thiền, họ lấy Cẩn Trưởng làm tinh tấn. 

Kiến thủ. Còn họ chấp vô "chỉ có ta làm mới được" "ta là nhất", thì họ vô kiến thủ.

Dục thủ. "Phải cái này mới có, làm cái này kia" là dục thủ, là dính vô Cần Trưởng làm duyên.

Thế thì, người ta nói mãnh lực nào.  Khi ông Thiền Sư hỏi người hành giả "mãnh lực nào mà bạn tinh tấn ngồi thiền ?"

Dạ, do ông Thầy đó dạy mà con tinh tấn ngồi thiền.

hay

Do con đọc kinh sách con có kiến văn nên con tinh tấn ngồi thiền.

Câu trả lời đó không đúng, mà là do Cảnh Trưởng Duyên nó làm duyên cho Cần Trưởng này làm duyên cho hành giả tinh tấn ngồi thiền.

Mình lấy phần Duyên Sinh Duyên Hệ này giải đáp bức phá mấy kiết sử thân kiến của mình, nếu không biết mình cứ trả lời theo hiệp thế, theo kiến chấp của mình.

 Cảnh Trưởng, người ta đã xả thí, giữ giới, người ta thọ Bát Quan Trai, người ta ngồi thiền, rồi người ta sinh ra cái chấp thủ bởi mãnh lực Cảnh Trưởng Duyên. 

Mình mới ra được Pháp với Pháp, nên Sư thường hay nói không lấy cái "Tôi" "Ta" để mà đối trị Pháp mà lấy Pháp để trị Pháp. 

Cái Dục mình làm, cái Cần mình làm, cái Tâm mình làm, cái Trí mình làm mà trong trạng thái mình sáng suốt mình làm theo mãnh lực theo kiến văn của mình biết mà không lọt trong cái Thủ thì mấy cô an toàn, còn không mấy cô lọt vô cái thủ của kiết sử của mình, mấy cô ở trong đó mà không hay biết.

Dĩ Nhân Bản Nguyện, Dĩ Pháp Bản Nguyện. Lấy Pháp mà mình nương đi theo Pháp mình có kết quả. Còn lấy nhân của mình nương theo nó mình cứ luân hồi hoài không ra.

Con chuột bạch trong phòng thí nghiệm họ để trong trái banh nó quay hoài không ra, mình như vậy đó, mình quán tưởng, mình cũng quay tròn tròn như vậy.

Nói về đề tài Dục Trưởng Duyên, Cần Trưởng, Tâm Trưởng là có Thiện có Bất Thiện, ngoại trừ Thẩm Trưởng là có Thiện thôi, có trí rồi là không làm việc Bất Thiện

 (Thẩm trưởng là tâm sở Trí lớn mạnh vượt trội hơn cả)

 Trong Thiện và Bất Thiện, trong  Dục và  Cần trong  Tâm mà xả thí thôi mấy cô có Pháp nào ? Mà xả thí này bởi Dục Trưởng, bởi Cần Trưởng, bởi Tâm trưởng hay bởi Thẩm Trưởng.

Khi xả thí không có Thẩm Trưởng thì gạt nó qua một bên, chỉ 3 trưởng kia thôi (Dục Trưởng, Cần Trưởng, Tâm Trưởng) theo pháp kiết sử, theo pháp triền cái, theo pháp Dĩ Pháp Bản Nguyện, mình không lọc ra được. Mình nhìn người ta xả thí mình nhìn ra được pháp liền.

Như vậy, khi mình nghiệm ra nó mình giật mình, đến giờ mình xả thí mình không biết mình bỏ xả thí này trong phần Trưởng nào hay không có Trưởng nào hết.

Người ta nói khi xả thí chỉ có Thẩm Trưởng thôi, tôi không có 3 Trưởng kia, thì mình nghe cái đó người này đang đi Balamat.

Khi mình nói cái pháp khi các quí Sư quí Thầy nói cái Pháp dễ, nhưng gặp những người trí lọc ra 

 Thì khi mình hành pháp thì mình mới biết được diễn tiến cái Pháp mình đang đi, mình đang đi theo Pháp chứ không phải mình đang chủ động nặn ra Pháp.

Sư không thuyết Pháp, mấy Thầy mấy Sư thuyết Pháp chứ Sư không thuyết Pháp mà Sư chia sẻ Pháp Sư đã trải nghiệm dựa trên kinh văn kinh điển. Trong phần chia sẻ đó những trải nghiệm đó sẽ bổ túc cho Pháp Học của quí Phật tử.

Do đó khi mình nói tới Pháp Niệm Xứ, Pháp Triền Cái, trong Paṭṭhāṇa có nói Triền Cái 

44 Nhị Đề Triền Cái, trang 279

Quyển Phát Thú Chánh Tạng - màu xanh quyển số 3

Triền cái này nằm trong Paṭṭhāṇa này tức là không nói tới pháp Triền Cái suông mà nói mãnh lực duyên.

Vậy thì vô Pháp Niệm Xứ, Ngũ Triền Cái, Ngũ Thủ Uẩn trong Paṭṭhāṇa giải đáp, chứ không nói suông, không có Trạo Hối Triền Cái, Hoài Nghi Triền Cái, Hôn Thùy Triền Cái, Tham Dục Triền Cái, Sân Độc Triền Cái. 

Trang 7:

 Nhị Đề Cảnh Triền Cái

Nhị Đề Tương Ưng Triền Cái

Nhị Đề Triền Cái Cảnh Triền Cái

Nhị Đề Triền Cái Tương Ưng Triền Cái.

Nhị Đề Bất Tương Ưng Triền Cái Cảnh Triền Cái.

Rồi có 

Nhị Đề Nội Bộ

Nhị Đề Y Sinh

69. Nhị Đề Chấp Thủ

70. Nhị Đề Cảnh Chấp Thủ 

71. Nhị Đề Tương Ưng Chấp Thủ

qua trang 8

75. Nhị Đề Phiền Não

76. Nhị Đề Cảnh Phiền Não

77. Nhị Đề Sầu Muộn Âm Trầm (Saṅkiliṭṭhaduka) là nó nằm sâu trong nội tâm, trang 586.

Trang 591 Cảnh Duyên, Sầu Muộn Âm Trầm 

Nhị Đề Sầu Muộn Âm Trầm (Saṅkiliṭṭhaduka)

CẢNH DUYÊN (ÃRAMMANAPACCAYA)


[52] Pháp Thực Tính phiền não làm cho sầu muộn âm trầm làm duyên đối với Pháp Thực Tính phiền não làm cho sầu muộn âm trầm theo phương thức Cảnh Duyên đó là người hỷ duyệt tâm khoáng thần di tham ái, vì sự hỷ duyệt tâm khoáng thần di tham ái ấy khai đầu, tham ái v.v. tà kiến v.v. hoài nghỉ v.v. trạo cử v.v. ưu thọ mới sinh khởi. Hỷ duyệt tà kiến v.v. [tương tự Tam Đề Thiện (Kusalatika)], vì hoài nghỉ khai đầu v.v. vì trạo cử khai đầu v.v. ưu thọ mới sinh khởi. Tà kiến v.v. hoài nghỉ v.v. trạo cử mới sinh khởi (1)

Pháp Thực Tính phiền não làm cho sầu muộn âm trầm làm duyên đối với Pháp Thực Tính phiền não không làm cho sầu muộn âm trầm theo phương thức Cảnh Duyên đó là Bậc Thánh Nhân tư khảo lại phiền não đã được đoạn tận rồi, tư khảo lại phiền não đã được ức chế rồi, tri đắc phiền não đã từng sinh khởi v.v. Kiến giải minh lượng Uẩn phiền não làm cho sầu muộn âm trầm thể theo thực tướng là Vô Thường v.v. với Tha Tâm Trí tri đắc Tâm của tha nhân có sự tể toàn với Tâm phiền não làm cho sầu muộn âm trầm, Uẩn phiền não làm cho sầu muộn âm trầm làm duyên đối với Tha Tâm Trí, Túc Mạng Tùy Niệm Trí, Tùy Nghiệp Thú Trí, Vị Lai Tiên Giác Trí và Tâm Khai Môn theo phương thức Cảnh Duyên (2)

[53] Pháp Thực Tính phiền não không làm cho sầu muộn âm trằm làm duyên đối với Pháp Thực Tính phiền não không làm cho sầu muộn âm trầm theo phương thức Cảnh Duyên đó là người đã xả thí, tuân thủ giới luật, thọ trì thanh tịnh nghiệp lực v.v. tư khảo lại Thiện đã từng tích lũy thiện hảo rồi v.v. xuất khỏi Thiền Định rồi tư khảo lại Thiền Định. Bậc Thánh Nhân xuất khỏi Đạo rồi tư khảo lại Đạo v.v. làm duyên đối với Tâm Khai Môn theo phương thức Cảnh Duyên. Người kiến giải minh lượng Nhãn v.v. Ý Vật và Uẩn phiền não không làm cho sầu muộn âm trầm thể theo thực tướng là Vô Thường v.v. khán kiến Sắc với Thiên Nhãn v.v. làm duyên đối với Vị Lai Tiên Giác Trí và Tâm Khai Môn theo phương thức Cảnh Duyên (1)

Pháp Thực Tính phiền não không làm cho sầu muộn âm trầm làm duyên đối với Pháp Thực Tính phiền não âm trầm theo phương thức Cảnh Duyên đó là người đä xả thí, tuân thủ giới luật v.v. xuất khỏi Thiền Định v.v. hỷ duyệt tâm khoáng thân di Nhãn v.v, Ý Vật và Uần phiền não không làm cho sầu muộn âm trầm, vì sự hỷ duyệt tâm khoáng thần di Nhãn ấy v.v. khai dầu, tham ái v.v. ưu thọ mới sinh khởi (2)

Đó là thuộc Cảnh Duyên, rồi Cảnh Trưởng Duyên, rồi Câu Sinh Trưởng Duyên, Vô Gián Duyên trang 593.

Qua phần trở lại Mục Lục trang số 8, 

Cảnh Phiền Não

Tương Ưng Phiền Não.

Phiền Não có 10, theo kinh khác, theo Abidhamma khác.

Trang 571.

Pháp Thực Tính phiền não (kilesadhamma) nương vào Pháp Thực Tính phiền não sinh khởi vì Nhân Duyên đó là Si (Moha), Kiến (Diṭṭhi), Hôn Trầm (Thīna), Trạo Cử (Uddhacca), Vô Tâm (Ahirika) và Vô Quý (Anottappa) nương vào Tham sinh khởi; Si, Ngã Mạn (Māna).

Đó là những pháp phiền não.

Rồi những pháp phiền não có Uẩn Tương Ưng phiền não và sống trong Xuất Sinh Xứ với phiền não nó kết hợp vô.

Trang 656

VẤN VÀ ĐÁP TRONG PHÁT THÚ

Vấn và Đáp trong Phát Thú Paṭṭhāṇa. Mà nói tới Phát Thú Paṭṭhāṇa, nếu mình không có Phát Thú Paṭṭhāṇa này làm sao mình học cái này, nếu mà học cái này mà không có Phát Thú này sao mà giải đáp được Phát Thú này, Sư làm sắn hỏi và đáp luôn thay vi mấy cô đi tìm, Sư cho câu hỏi rồi đáp luôn.

Tổng Hợp Nội Dung Vi Diệu Pháp quyển I 

Lộ Trình Ý Môn Na Tùng Lưu Hành hoặc Lộ Trình Ý Môn Tùy Liên Kết là Lộ Trình Ý Môn Đổng Lực Dục Giới sinh khởi tiếp nối một cách trực tiếp từ Lộ Trình Ngũ Môn, có 4 Lộ Trình, là:

1. Lộ Trình Thu Dung Quá Khứ

2. Lộ Trình Thu Dunh Tập Thánh

3. Lộ Trình Thu Dung Ý Nghĩa

4. Lộ Trình Thu Dung Danh Xưng

Lộ Trình Thu Dung Quá Khứ Thời Kỳ Na Cảnh

Thời Kỳ Đổng Lực.

Những cái này có chi pháp trong đây.

Thì nếu mấy cô học cái này mấy cô không có hiểu được cái từ ngữ này nó có cái gì trong đây rồi mấy cô không biết cái nào để giải thích mấy cái này các lộ trình tâm là phần ở ngoài ngũ môn thì dụ lộ trình nhãn môn là tâm nhãn thức rồi nó đưa qua lộ trình ý môn nó mới có phần này

thì những cái này là không có ai giải thích Thu Dung Quá Khứ, Thu Dung Lưu Hành, Thu Dung Ý Nghĩa không ai nói phần này

Nếu Sư có thời gian sẽ giải thích hết những lộ trình này. Từ lộ ngũ tới lộ ý nó liên kết không gián đoạn.

Thu Dung Tập Thành, khi mình kết hợp tất cả những cách nói của nó là một gói tập thành rồi xong mình mới có ý nghĩa. 

Thí dụ như bây giờ đứng đằng kia, lộ trình nhãn môn. Người ta ngoắc mình, mình đứng đằng kia bên đây người ta ngoắc, thì khi người ta ngoắc mình xong rồi thì mấy cô thu về mắt mình thu về trong ý của mình, nhãn thức mình thu rồi vô lộ ý mình nó là quá khứ rồi. 

Rồi Tập Thành là nhiều động tác.

Danh Xưng là mình đặt tên cho cái ngoắc  cái ý nghĩa ngoắc là kêu mình hay là làm cho mình chú ý, rồi tâm mình đặt tên cho cái ngoắc này là cái gì, ngoắc là gọi, là kêu là cho mình hiểu ý nghĩa.

Quá Khứ, Tập Thành, Danh Xưng.

Của nhân gian kêu gọi nói với nhau lộ trình ý môn 

Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỳ Pháp, Tập I

Trang 371 Lộ Trình Danh Xưng 

có nhiệm vụ tiếp thâu danh xưng của các sắc pháp các hành trạng của phần thinh danh chế định hiện hành theo Ngôn Từ Giả Định của dân gian kêu gọi nói với nhau, sinh khởi tiếp nối từ Lộ Trình Thu Dung Ý Nghĩa, hoặc sinh khởi tiếp nối từ Lộ Trình Thu Dung Quá Khứ, tùy theo thích hợp đối với Thinh Danh Chế Đinh là gọi tên với nhau, nói chuyện với nhau, hữu quan với các Ngũ Cảnh ấy.

Do đó, với một cái động tác mà mấy cô người ta ngoắc mình hay người ta huýt gió hay người ta ngoắc tay hay người ta gật đầu nó ra Lộ Trình Tâm, chứ không phải mấy cô nói suông.

Mấy cái này nếu như mà nó là thời kỳ Na Cảnh thời kỳ Đổng Lực. Na Cảnh là cảnh dư, thí dụ như trái bom rớt xuống thì bắt buột mình có Na Cảnh, nó có chấn động và nó có tiếng vang lại, nó còn dư âm của nó, trái bom nổ rồi nhưng tiếng âm vang âm thanh còn, đó là thời kỳ Na Cảnh.

Thời kỳ Đổng Lực, thí dụ như người ta bắn một viên đạn vô mình thì mình ngã xuống chết liền, thì đó không có Na Cảnh. Đổng lực không có cảnh dư. Na Cảnh là còn cảnh dư trạng lại.

Thí dụ Sư chia xẻ buổi học xong Sư về liền là thời kỳ Đổng Lực, hết phần Lộ Trình Tâm, còn nếu Sư còn ngồi lại nói chuyện thì là thời kỳ Na Cảnh.

 Mấy Lộ Trình Tâm này, một cái ngoắc, hay một cái kêu hay một cảnh sắc hay là cảnh thinh là nó qua quá khứ.

Thí dụ cảnh sắc qua rồi mình chạn lại là thuộc về Lộ Trình Thu Dung Quá Khứ, rồi bắt đầu mình nhớ cái quá khứ đó cái Lộ Trình Thu Dung Quá Khứ đó nó làm Lập Thành cảnh sắc đó là cảnh sắc gì tập trung lại nó ra rồi xong xuôi mình mới ra cái ý niệm với cảnh sắc đó, rồi đặt tên cảnh sắc đó.

 Thí dụ, giờ Sư nói cho nghe, đi ban đêm tối mịt, mình đang lái xe đi một mình, một cái sét chớp xuống thì màn đêm sáng rực với ánh sáng của cái sét đó rồi nó tắt mất, nhưng mình tập thành lại cái cảnh sắc đó, thu dung cái quá khứ đó lại mình Lập Thành lại cái hồi nãy Sư thấy ánh sáng nó xuống như thế này ở góc độ này, còn lúc đầu mình làm Thu Dung Ý Nghĩa rồi mình đặt cái tên cái đó là cái gì, không thể nói suông được .

 Lộ Trình Thu Dung Quá Khứ này. Khi cô dở chân lên là mấy cô đang đi qua Cảnh Nghiệp Tướng của phần lộ trình tâm Thu Dung Quá Khứ thâu lại cảnh nhấc chân, mà cô niệm suông là không phải, mới là Thu Dung thôi. Qua phần Tập Thành từng cái chân dở lên hình thành ra được một cái hành động nhấc rồi nó thành ra một cái ý nghĩa rồi mới đặt tên là Danh Xưng nhấc lên, đạp xuống.

Hành động nhấc chân lên

- Thu dung quá khứ

- Thu dung tập thành

- Thu dung ý nghĩa 

- Thu dung danh xưng

Chân nhấc lên nó thuộc quá khứ của cái ngoài cái tâm thu vô gọi là thu dung quá khứ.

Tập thành là nhiều cái nhấc gom lại.

Ý nghĩa hành động nhấc 

Danh xưng là đặt tên cho nó là nhấc lên.

Nếu đi theo sát nó thì có niệm và tỉnh giác với lộ trình tâm này, còn không thì là mình phóng dật ./.


 ----------------------------------------------------------------------

dục-trưởng (chandādhipaṭi), = Cảnh tốt thì gọi là dục trưởng dưỡng, còn xấu là dục trần. dục trưởng dưỡng (sắc thanh hương vị xúc). Nếu các dục trưởng dưỡng chính là trói buộc, thì chỉ cần xa chúng là hết trói buộc. . (có Thiện có Bất Thiện) 

cần-trưởng (viriyādhipaṭi) = là sự cố gắng, là tâm sở cần . (có Thiện có Bất Thiện) 

tâm-trưởng (ciṭṭādhipaṭi) = Tâm trưởng chỉ cho những tâm đổng lực Nhị nhân hay Tam nhân . (có Thiện có Bất Thiện) 

thẩm-trưởng (vimaṃsādhipaṭi) (Thẩm trưởng là tâm sở Trí lớn mạnh vượt trội hơn cả)

---------------------------

dhātu: 'Nguyên tố', nghĩa là cái gì mang những dấu hiệu cá biệt của mình, là những thành phần cơ bản của một tổng thể.

(1) 4 nguyên tố đại hiển (dhātu hay Mahā-bhūta), đó là địa đại, thuỷ đại, hoả đại, phong đại., được hiểu là những đặc tính cơ bản của vật chất. Chúng được đặt tên bằng tiếng Pāḷi: paṭhavīdhātu - Địa giới, āpodhātu -Thủy giới , tejodhātu - Hỏa giới, và vāyodhātu - Phong giới. Trong Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo XI, 2 tứ đại hiển được định nghĩa như sau: “Bất cứ cái gì được đặc trưng bởi tính cứng (thaddha-lakkkhaṇa) là đất hay phần tử rắn; bằng sự kết dính (ābandhana) hay tính lỏng, là yếu tố nước; bằng cách nung nóng (paripācana), lửa hoặc yếu tố nhiệt; bằng yếu tố trương phồng (vitthambhana), yếu tố gió hoặc yếu tố chuyển động đều hiện diện trong mọi đối tượng vật chất, mặc dù ở mức độ mạnh mẽ khác nhau. Chẳng hạn, nếu yếu tố đất chiếm ưu thế thì vật chất được gọi là 'rắn', v.v. - Để phân tích 4 nguyên tố, xem dhātu-vavatthāna - đề mục phân tích.

II) 18 nguyên tố vật chất và tinh thần cấu thành những điều kiện hay nền tảng của quá trình nhận thức là:

1. Nhãn xứ (Cakkhāyatana) (mắt), là sắc thần kinh nhãn, đối chiếu cảnh sắc.

2. Nhĩ xứ (Sotāyatana), là sắc thần kinh nhĩ, đối chiếu cảnh thinh. (tai)

3. Tỷ xứ (Ghānāyatana), là sắc thần kinh tỷ, đối chiếu cảnh khí.(mũi)

4. Thiệt xứ (Jivhāyatana), (Lưỡi) là lưỡi hay thần kinh thiệt, giác quan nếm vị.

5. Thân xứ (Kāyāyatana) (thân), là thần kinh thân, đối chiếu cảnh xúc

6. Sắc xứ (Rūpāyatana), là sắc cảnh sắc, đối chiếu thần kinh nhãn.

7. Thinh xứ (Saddāyatana), là sắc cảnh thinh, đối chiếu thần kinh nhĩ.

8. Khí xứ (Gandhāyatana), là sắc cảnh khí, đối chiếu thần kinh tỷ.

9. Vị xứ (Rasāyatana), là sắc cảnh vị, đối chiếu thần kinh thiệt..

10. Xúc xứ (Phoṭṭhabbāyatana), là sắc cảnh xúc, tức ba đại hiển ngoài nước, đối chiếu thần kinh thân.

11. Nhãn thức (Cakkhuviññāṇa), tâm biết cảnh sắc, nương sanh nhãn vật.

12. Nhĩ thức (Sotaviññāṇa), tâm biết cảnh thinh, nương sanh nhĩ vật.

13. Tỷ thức (Ghānaviññāṇa), tâm biết cảnh khí, nương sanh tỷ vật.

14. Thiệt thức (Jivhāviññāṇa), tâm biết cảnh vị, nương sanh thiệt vật.

15. Thân thức (Kāyaviññāṇa), tâm biết cảnh xúc, nương sanh thân vật.

16. Ý giới (manodhātu)

17. ý xứ (manāyatana)

(mano-dhātu - Ý giới) (dhamma-dhātu - Pháp Giới, là lãnh vực Pháp)

18. ý thức giới. (mano-viññāṇa-dhātu)

(theo Buddhist Dictionary - by NYANATILOKA MAHATHERA )- 

Tuesday, October 15, 2024

058 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 13 tháng 5, 2023

 058 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 13 tháng 5, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "058 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

1. Tâm động Cảnh yên ----> Thực Tính / Hữu Vi

2. Tâm động Cảnh động ---> Thực Tính Thực Tướng

3. Tâm yên Cảnh Động -----> Định An Chỉ

4. Tâm yên Cảnh yên -----> Minh Sát Trí

 Quí Phật tử ngồi thiền hay ngọa thiền, hay thiền trụ, hay thiền hành. Trong 4 oai nghi này:

- Thì lúc này Tâm đang thiền tọa mà Tâm bị động với Cảnh động, thì mình biết.

-  Hay là Tâm mình động nhưng mà Cảnh yên mình biết. 

-  Hay là Tâm mình yên Cảnh mình động mình biết.

-  Hay là Tâm mình yên Cảnh mình yên mình biết.

Trong lúc 4 oai nghi mình đang hiện bày. Thì một người có tu tập thì họ có 4 giai đoạn này.

1. Tâm động Cảnh yên ----> Thực Tính / Hữu Vi

Nhưng khi Tâm động Cảnh yên là quí Phật tử đang ở Thực Tính / Hữu Vi. Hữu Vi có nhân có quả, nó cố định.

Thì Cảnh yên là mình có Nhân và Quả nó yên rồi, không có lo. Nhưng Cảnh mà mình bắt.

Cảnh có 6 là: Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, Pháp.

- Nếu nói theo động của nó thì có: Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, Pháp.  

- Nếu mình nói theo khi nó yên, thì có nhân có quả, nhân nào quả đó.

Nhưng nói động là trạng thái nó đang bị chi phối của các pháp.

Quí Phật tử nhìn một cảnh sắc, thí dụ nhìn một con chim bay, hay nhìn một áng mây, Cảnh đó yên hay Cảnh động ?  Cảnh sắc đó động.

Nhưng nếu mình nhìn một cảnh sắc đó dưới góc độ nhân nào quả đó thì cảnh đó yên với trạng thái mình biết nhân đó quả đó.

 Khi nói tới động thì mình thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.

Khi nói tới yên thì mình nói tới Nhân Quả.

2. Tâm động Cảnh động ---> Thực Tính Thực Tướng

Khi Tâm động Thực Tính của nó là Sinh / Diệt.  Còn Cảnh Động bản chất của nó là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, cảnh nó không đứng yên. 

Do đó, khi mình có trạng thái Tâm không yên (Tâm đang động) thì  Thực Tính của  Tâm nó đang hiện hữu chứ không phải Tâm đó mình đang có, mình đang sống trong thực tính của Tâm.

Nên khi nói Tâm động là trạng thái mình đang bị phóng dật phải không ? Nhưng không phải, mình phải nghĩ Thực Tính là sự Sinh / Diệt của nó.

Còn trạng thái mà nó phóng dật là Cảnh của nó là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.

Mình nắm 2 cái đó mình mới ra được, đối với người đang có Tâm động và bắt Cảnh động thì lúc đó người đó đang ở trong Thực Tính của Tâm, hay là Thực Tính của Tâm đang ở trong con người của nó, và Cảnh của nó mang vô cho mình ở đó.

3. Tâm yên Cảnh Động -----> Định An Chỉ

 Với trạng thái Tâm yên Cảnh động. Chỉ có khi ở Định An Chỉ / và trạng thái triền cái.

4. Tâm yên Cảnh yên ----->  Minh Sát 

Tâm yên Cảnh yên là với Cảnh Minh Sát với kiết sử.

Định An Chỉ Samadhi. Với trạng thái Định An Chỉ thì trước đó phải có Niệm và Tỉnh Giác, lúc này Tâm bắt đầu yên dần, Tỉnh Giác thì bắt đầu trụ rồi mới có Định với cảnh yên. Cảnh yên này là đối tượng của Tỉnh Giác.

 Có Niệm và Tỉnh Giác với đối tượng đó thì bắt đầu đối tượng đó yên lại.

Thiền sinh hỏi:  Định An Chỉ này Cảnh sẽ yên nhưng với Vipassana  Cảnh cũng yên phải không ?

HT trả lời: Không, chút nữa Sư nói Vipassana.

Định An Chỉ khi mình đi tới Niệm và Tỉnh Giác thì triền cái phát sinh lên ở giữa đối tượng (Cảnh)

Định An Chỉ ---> Niệm và Tỉnh Giác / triền cái phát sinh lên (động) / đối tượng. Lúc đó 5 triền cái sinh lên nó che lấp đối tượng.

5 triền cái là tham dục, sân độc, trạo hối, hôn thùy, hoài nghi.

Niệm hơi thở vô ra Tỉnh Giác, đó là Định An Chỉ, mình chỉ Niệm đối tượng mà không phân tích, không quan sát chỉ Niệm hơi thở vô biết (Tỉnh Giác) , Niệm hơi thở ra biết (Tỉnh Giác). 

Thì khi Niệm vô lúc đó tham dục lên ta hoan hỉ, bắt đầu triền cái len lỏi vô. Nên các vị Thiền Sư nói; lúc đó là các pháp triền cái đang tiếp cận mình chứ không phải là đối tượng, không phải là Cảnh đang tiếp cận, nếu mình không phát hiện là bị mất liền, mình sẽ đi vô ngũ triền cái và mình không thấy hơi thở vô ra.

Do đó, khi mình muốn được Định An Chỉ thì phải bất cận với ngũ triền cái và phải bất nhượng, tức là không được để cho ngũ triền cái sinh khởi lên trong tâm thức của mình, thì lúc bấy giờ mới đi tới gần Định An Chỉ. Năm triền cái nó che lấp mình, làm mình ngồi thiền không đạt được định, mình có Niệm và Tỉnh Giác mà không có Định vì triền cái chen vô ở trước đối tượng của mình.

 Quí Phật tử chạy xe, tại sao lạc đường ? nếu đường đó mình đi rồi mà mình đi qua bị vuột mất. Là vì triền cái chen mất nên mình lạc đường. Nếu như mình có Niệm và Tỉnh Giác thì mình chạy tới luôn không có lạc. Vậy là tại sao ? Tại triền cái che mất, mình chỉ sơ hở một cái lạc đường. Trạng thái sơ hở đó là mình ở trong trạng thái trạo hối che đối tượng của mình lại. Cảnh này đang bị động, Cảnh mất rồi, không yên. Còn nếu Cảnh yên thì mình phải có Cảnh yên đó là Minh Sát mình mới thấy, chứ còn Định thì chưa chắc.

Giờ Sư nói tới phần Minh Sát Trí hay là Minh Sát Tuệ. Thì lúc bấy giờ mình thấy kiết sử: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ / Danh Sắc.

Minh Sát Trí ---> Kiết Sử / Danh Sắc.

Tuệ thứ nhất là Tuệ Phân Biệt Danh và Sắc. Nhưng mấy cô không vô được Tuệ Phân Biệt Danh Sắc này vì bị kiết sử chặn, thân kiến, cái tôi cái ta chặn, không cần Tâm động, nó vẫn rõ vẫn yên mà mình không vô được Tuệ Phân Biệt Danh Sắc.

Bây giờ mình quán sát kiết sử trên Danh Sắc.

Danh chia 2 là Tác Ý và Tâm Ý Thức

Sắc chia làm 2 là Tứ Đại và Sắc Y Sinh.

Tác Ý thuộc về Danh. Khi Niệm tuệ đầu tiên của Minh Sát, Tuệ Phân Biệt Danh và Sắc, con người gồm 2 thành phần là tinh thần và thể xác gọi là Danh và Sắc, thì đầu tiên tác ý dở chân lên, thì tâm ý thức biết dở là thuộc phần Danh. Rồi sắc hiện bày là tứ đại đang làm cho sắc y sinh hiện bày ra là 3 sắc kỳ vị hay là 3 sắc biến thể.

Minh Sát Tuệ   ---> Kiết sử                       Danh

                              Thân Kiến

                               Hoài Nghi                   Sắc

                               Giới Cấm Thủ

 Thì ở đằng trước 2 Danh Sắc này là Thân Kiến (kiết sử) đứng chắn. "Tôi đang dở chân" "Tôi đang có" mà nó không có động, nó rõ ràng như vậy, mình có đủ điều kiện để mình cãi lại chuyện người ta đang bác bỏ những cái gì mình có, tại kiết sử của mình là yên, nó là vậy đó.

Còn thí dụ như mình đang hoài nghi thì nói gì mình vẫn yên đó, tôi thắc mắc thì tôi thắc mắc, tôi không tin, tôi không hiểu, tôi nghi ngờ. Nó yên, nó rõ như vậy.

Minh Sát Tuệ, Kiết sử đứng trước Danh và Sắc. Tâm yên

Định An Chỉ, hơi thở mình Niệm vô và ra về Định An Chỉ thì triền cái đứng trước cửa. Tâm động

Minh Sát Tuệ Tâm yên. Định An Chỉ Tâm động. Rõ ràng bản chất nó là như vậy.

Đánh cho chết cho chừa cái nết, cái tập khí của nó, tính tham không chừa, đã tham thì tham hoài, lúc nào cũng tham.

Cái tác ý này là của tôi, tôi có tác ý này. Cái xác thân này là của tôi, xác thân này tôi có. Kiết sử này nằm yên trước mắt. Bước qua thân kiến mới qua được Danh và Sắc, Danh và Sắc là bản chất của pháp. Không bước qua được 5 kiết sử này thì không nắm bắt được Pháp. Tôi đang ngủ là thân kiến, già là thân kiến.

 Khi cô thấy niệm về Danh và Sắc mình đang quan sát Danh và Sắc này nó rõ như vậy đó, Danh có 2 là tác ý và tâm ý thức, mỗi một cái Danh khởi lên nó có 2 cái đó. Mỗi cái Sắc khởi lên có tứ đại và sắc y sinh lên với nó không tách rời được. Nhưng mới qua cái cửa này là gặp 3 hạ phần kiết sử rồi mới vô Danh Sắc của nó.

Tôi, Ta, Mình, là bất di bất dịch không thay đổi, 70 tuổi cũng không thay đổi, trước kia "Tôi" bây giờ cũng chữ "Tôi" không thay đổi.

Thiền sinh hỏi: lúc trước học là mình phải dùng Minh Sát để phân biệt Danh Sắc, thì từ Minh Sát Tuệ đó mình mới phá bỏ được kiết sử thân kiến, bây giờ mình học thì lại phá thủng hữu thân kiến thì mình mới thấy được Danh Sắc.

HT trả lời. Hai cái đều không có gì khác biệt hết. Có người lấy pháp trước  để diệt thân kiến của mình là người đó gián tiếp. Còn người đi thuận kiết sử thấy được Danh Sắc là người đó trực tiếp, dám đối diện. Tùy theo mình, mình dám nhìn thẳng vô sự thật không thì đó là mình nhìn qua kiết sử thấy được Danh Sắc. Còn người không dám nhìn kiết sử của mình thì nhìn Danh Sắc trước rồi mới diệt kiết sử của mình, đó là cách thứ 2.

Quí Phật tử đi đường nào cũng được, nhưng phải biết là Tâm yên Cảnh yên mới thấy được. Còn nếu như Tâm yên mà Cảnh động cũng không thấy được. Mình phải làm sao Tâm mình yên, Cảnh có động đi nữa mình phải giữ được, thì cái người mà đi tới Tâm yên Cảnh yên nếu đi qua Minh Sát nó thẩm thấu Thực Tính Thực Tướng của nó mới nhìn ra Cảnh yên, chứ còn không thì Cảnh động. 

Nên người đi Định An Chỉ giữ Tâm chứ không diệt được Cảnh, nếu buông Tâm ra mà Cảnh động thì Tâm người hành giả động theo.

Người ngồi thiền là giữ Tâm thôi, xả thiền ra là Tâm lại động. Nhưng Minh Sát muốn được Tâm yên Cảnh yên là phải có trí nhìn qua con người thật của mình thì mới nắm bắt được Pháp thật của mình đang có. Minh Sát là phải nhìn thấy con người thật của mình chứ không phải là nhìn thấy đối tượng mình đang niệm hay đang Minh Sát. Nên Tâm yên Cảnh yên mình mới thấy.

Còn người hành Thiền Chỉ thì Tâm hành giả yên thôi mà Cảnh không có yên, hành giả ra khỏi Thiền Chỉ là Tâm  bị động trở lại.

Do đó, có 2 loại pháp, thì pháp này tuần vừa rồi Sư nói là mình đối diện luôn với người thiệt của mình, muốn nhìn thật vô Danh Sắc, mình nhìn thẳng vô con người thật của mình mới nhìn được Danh Sắc thật của nó. Chứ còn mình cứ né mình nhìn Danh Sắc của nó mình không nhìn thẳng vô con người thật của mình chưa chắc là mình nắm đúng mà mình nắm theo tư kiến của mình.

 Hoài nghi này là hoài nghi của kiết sử chứ không phải là hoài nghi thông thường. Nó phải là hoài nghi cố định, còn hoài nghi thông thường là hoài nghi động. Hoài nghi kiết sử là hoài nghi yên. Hoài nghi kiết sử khác với hoài nghi thông thường.  Hoài nghi thông thường là hoài nghi động, hoài nghi kiết sử nó cố định nó yên.

Hoài nghi thông thường như mình không biết ngày mai trời có mưa không, không biết bữa nay trời có mưa không, ngay mai có nắng không.

Còn hoài nghi nhân và quả, có phải cái này là quả của cái nhân, đó là hoài nghi cố định, mình thẩm thấu được nhân thì thẩm thấu được quả, nhìn được quả hiểu được nhân, nó cố định, nó bất di bất dịch, không ai bóp méo không ai sửa đổi được.

"Thiện ác đáo đầu chung hữu báo". Tức là thiện và ác cuối cùng đều có quả báo hết, nhân thiện có quả thiện, nhân ác có quả ác, nó bất di bất dịch không thay đổi. Còn trời mưa trời nắng, trời giông, trời gió, tốt xấu, ngày mai lên chùa có Sư ở chùa không, những cái đó là bất định. 

Còn nhân quả thì không thay đổi được, không một ai có quyền bóp méo nhân sửa quả được, mà nó đi theo cố định của nó. Thì hoài nghi này là hoài nghi kiết sử, Nó là cố định yên thì nói Danh này có nhân có quả của nó chứ không phải của mình tạo ra được, nếu mình tạo ra được nó thuộc cái "Tôi" cái "Ta" của mình, cái hoài nghi này mình phải diệt, mình thấy rõ ràng là hoài nghi này phải diệt và mình không giữ hoài nghi này trong đầu mình được.

Khi thấy được pháp thực tướng hay là thực tính của nó thì hoài nghi kiết sử này diệt, nên kiết sử nó đi đôi với thực tướng, thấy được thực tính diệt được kiết sử, thấy được thực tướng diệt được kiết sử, cái đó là cố định, nếu mà nó yên mình mới thấy được.

Do đó, khi nói tới Danh và Sắc, cái tuệ đầu tiên, tại sao Ngài Paṇḍita, Ngài Cundala, Ngài Janaka, luôn cả Ngài Mahasi đều nói  nếu hành giả đạt được Tuệ Phân Biệt Nhân Quả của Danh Sắc, hành giả là Culla Sotāpanna Tiểu Tư Đà Hườn, là Tiểu Thất Lai. Là vì mình thẩm qua được cái hoài nghi này, chứ không phải thân kiến không.

Thân kiến bỏ được nhưng hoài nghi mình vẫn còn giữ chưa chịu bỏ.

Kiết sử hoài nghi có 8:

1. Hoài nghi quá khứ

2. Hoài nghi hiện tại

3. Hoài nghi nhân

4. Hoài nghi về quả

5. Hoài nghi liên quan tương sinh

6. Hoài nghi tôi trong hiện tại, 

7. Hoài nghi tôi trong quá khứ, 

8. Hoài nghi tôi trong vị lai

Thì mấy cái này về Danh Sắc này là kiết sử, nó phải yên mình phải nhìn thấy rõ được nhân quả thì mình mới thấy được kiết sử của hoài nghi mà mình đang giữ.

Sở dĩ con người ta không vô được một lời dạy của Đức Phật.  Đức Phật Ngài chỉ dạy cách sống chứ không phải Ngài dạy giáo điều hay giáo lý bắt buộc mình phải tuân theo mà không có biết, Ngài dạy mình cách sống và phải có trí cho mình hiểu để mình hiểu mình hành. Chứ Ngài không đặt giáo điều mà minh tuân thủ chấp nhận mình phải thực hành theo mà mình không có hiểu. Nhưng con người mình không qua được cái hoài nghi của mình đang giữ, không qua được kiến chấp của mình đang có và mình giữ những cái gì của mình đang thủ thì mình không có thẩm thấu được lời dạy của Ngài. Ngài nói trên cái chứng nghiệm của Ngài.

Như vậy thì,  tuệ thứ nhất Phân biệt Danh Sắc. Thì cái này có thân kiến, có hoài nghi, Thủ nằm ở Danh Sắc.

Tuệ 1. Phân biệt / Danh Sắc

                           - Thân Kiến

                           - Hoài Nghi

                           - Thủ

Mà mấy cô có 3 cái này không, hay có 1 thôi.

Người nào có 3 cái này về Danh Sắc thôi, mấy cô có thân kiến về Danh Sắc không ? Mấy cô có Hoài Nghi về Danh Sắc mình không ? Mấy cô có Thủ về Danh Sắc này không ?

Ba kiết sử này, cái tập khí của mình, cái cố tật của mình, cái tánh nết của mình, mấy cô có 3 trong cái Danh Sắc trong cái sắc thân mình, tinh thần và thể xác hay là có 2 thôi, hay có 1 thôi.

Tuệ thứ nhất, Tuệ phân biệt danh sắc, người ta nói Danh Sắc, mình có thân kiến không, có tập khí, có kiết sử vô cái Danh Sắc này của mình không, có Hoài Nghi về danh sắc này không, có thủ về danh sắc này không, thì bắt đầu mình nói có mình ghi vô, cái nào không có mình bỏ ra.

 Tôi có thân kiến trong danh sắc, tôi có hoài nghi trong danh sắc, tôi có thủ trong danh sắc, là mình có 3. 

Còn thí dụ như tôi có thân kiến trong danh sắc thôi chứ tôi không có hoài nghi về danh sắc tôi, rõ ràng tôi nhìn tôi biết tôi thì không có gì hoài nghi gì về danh sắc này đâu, nhưng cái kiến chấp của tôi với danh sắc này không ai đụng tới tôi được, đụng tôi là tôi phản ứng liền, vì tôi có 1 thân kiến thôi. 

Còn hoài nghi về danh sắc thì tôi không có, tôi rõ rồi, tôi biết rồi nên tôi không có hoài nghi.

Còn thủ về danh sắc thì tôi không có thủ vì tôi thấy nó thay đổi mỗi ngày, tôi không có hoài nghi tôi không có thủ, nhưng tôi có 1 là kiến chấp thôi, đụng tới tôi là tôi phản ứng liền, kiến thôi chứ không có thủ.

Giới cấm thủ là giới theo thủ tục của người dân gian, là chấp thủ tục của dân gian, sui, hên, "hôm nay tôi bị té, sui quá" hay là "tôi sinh ra nhằm ngôi sao xấu." đó là giới cấm thủ. Ở bên Pháp, những sinh viên bạn của Ba Sư hồi đó đi du học Ba Sư cũng là sinh viên đi du học bên Pháp, Ba Sư kể thứ Sáu ngày 13 đi xe lửa vắng hoe, Tây nó không đi mình lên đó nằm ngủ luôn, họ tin dị đoan ngày thứ Sáu 13 là xui nên không đi .

Thì giới cấm thủ này cũng như cái dạng dị đoan về cái danh sắc của mình.

Thí dụ như, Mẹ Sư bắt Sư phải tới Crystal Palace ở đường Nguyễn Công Trứ Nguyễn Trung Trực có thẩm mỹ viện Phương Dung, người đó là bạn của Ba Sư , Mẹ Sư muốn Ba Sư đưa Sư đến thẩm mỹ viện Phương Dung để đốt cái mụn ruồi vì cái mụn ruồi đó té sông té biển, đi vô đốt lấy cái cùi ra luôn chứ không tội nghiệp nó té sông té biển, Ba Sư dắt Sư vô, bà nói cái mặt đẹp quá có sao đâu, Ba Sư nói má nó không cho sợ té sông té biển chết, chị làm sao lấy cái mụn ruồi ra. Cái bà lấy cái mụn ruồi ra, dán băng lại.

Đó là giới cấm thủ, sui, hên, dị đoan, những hủ tục của nhân gian đặt ra cái mình thủ cái đó, mình sợ sui, hên, tín ngưỡng một cách tà tín, đó là giới cấm thủ về danh sắc này.

Tôi có thân kiến, tôi có hoài nghi, tôi có chấp thủ những hủ tục của nhân gian (mê tín dị đoan), đó là giới cấm thủ.

Theo khoa học họ nói con người chia làm 2 tinh thần và thể xác. Nhưng về Phật Pháp Đức Phật nói chúng sinh ở trong tam giới thì chia làm 2 là danh và sắc, rồi lên tới Sắc Giới chỉ còn sắc pháp và danh bắt đầu ít lại, rồi tới khi vô phần Vô Sắc Giới chỉ còn danh pháp thôi không còn sắc pháp.

Nếu như mấy cô đi tu về Thiền Chỉ là mấy cô phải đi lọc là còn Dục Giới là mình còn đối diện với 6 cảnh. Lên tới Sắc Giới mình bắt đầu giảm bớt dần  phần danh pháp, mình chỉ sống với sắc pháp thôi, tới phần vô sắc giới thì mình bỏ hẳn sắc pháp này mình chỉ lấy danh pháp thôi. Đó là đi theo Thiền An Chỉ.

Còn nếu đi Minh Sát Tuệ thì mình đi Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, Tuệ Phân Biệt Nhân Quả của Danh Sắc, Phổ Thông Tuệ, Sanh Diệt Tuệ, Hoại Diệt Tuệ. v.v...

Thì trước cửa đầu tiên Tuệ thứ nhất  Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc, thì mình muốn thấy được cái Danh và Sắc đúng như Minh Sát Trí của mình Vipassana, mình nhìn thấy Danh Sắc là phải bước qua kiết sử, không bị nó kéo lôi mình.

Khi mình tu thiền trong 4 oai nghi tọa, ngọa, trụ, hành (đi), thì trong 4 oai nghi đó mình chỉ thích 2 oai nghi là thiền tọa và thiền hành thôi. Còn thiền trụ (đứng) hay thiền ngọa (nằm) dễ bị phân tâm, nên mình loại bỏ. Mình tập trung vô 2 oai nghi mình thích thôi. Thì đó là mình đang ở trong kiết sử, trong tập khí của mình, cái thói quen của mình. 

Còn nếu như mình không chấp vô cái nào hết , mình phá chấp hết, mình không có tôi ta không có kiết sử nào hết thì 4 oai nghi đó mình luân chuyển đều hết, thi khi mình đi cả 4 oai nghi hết là mình đi theo pháp thôi.

Pháp thiền tọa nó có pháp của nó, pháp thiền ngọa nó có pháp của nó, pháp thiền trụ nó có pháp của nó, pháp thiền hành nó có pháp của nó, thì mình cứ luân chuyển theo pháp của nó, mà mình đi theo pháp của nó mà pháp nó hiện bày ra mình không còn giữ cái kiết sử cái thói quen tập khí của mình nữa, mình đi theo pháp hoài.

 Thí dụ, mấy cô vô ngồi học cái giờ cao điểm là ăn no xong vô học giờ đó tập khí của mình hay buồn ngủ, nhưng bây giờ khá hơn, mình nghe Pháp rồi thì bớt dần buồn ngủ.  Nhưng mình không bám được Pháp, mình không theo dõi được Pháp thì mình trở lại cái buồn ngủ của mình, mình nghĩ Pháp Sư giảng có thâu về nhà mình nghe lại, và mình không đi theo Pháp.

Nếu người nào nói tôi thích thiền tọa, tôi thích thiền hành, người đó đang đi theo tập khí của mình, người đó có thói quen, có kiết sử. Nhưng tới khi mình tu là mình sửa, thì bắt đầu mình sửa dần, cái gì mình chiều nó hoài thì nó sẽ thành cái thói quen, mình bắt đầu bớt dần. 

Thí dụ như thói quen của mình là sáng thức dạy đánh răng xúc miệng xong phải làm ly cafe rồi mới làm gì thì làm. "Trước ta tạo thói quen, sau thói quen tạo lại ta", thói quen đó trước là do ta tạo nó, sau đó thói quen tạo lại ta thành cái người ở trong thói quen này.

Đức Phật nói tuệ thứ nhất của thiền Minh Sát, mà phải thuộc Tâm yên Cảnh yên mới được  chứ Cảnh động thì không được.

Vậy thì tuệ thứ nhất là Tuệ Phân Biệt Danh và Sắc thì làm sao mà vượt qua bước ngang qua chứ không phải diệt, bước qua thôi cái sự cản hay là thói quen của mình thôi, mình bước qua thân kiến, hoài nghi, bước qua giới cấm thủ để mình nhìn thấy rõ cái Danh Sắc này như thật của nó thôi, là được rồi.

Nếu trả lời mấy cô có cả 3 (thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ), nghĩa là vô trong thiền Minh Sát Vipassana, mình quan sát, mình niệm, mình tỉnh giác với đối tượng Danh và Sắc, hay là tinh thần và thể xác của mình đây là mình luôn luôn bị 3 cái này áng đường che lấp mình, rồi mình làm theo cái tập khí, mình cũng niệm dở mà mình dở theo thân kiến dở theo chấp thủ dở theo cái hoài nghi.

Do đó, khi mấy cô đi hay ngồi, Sư nhìn ra được kiết sử mấy cô chứ Sư không nhìn ra được cái gì mấy cô đang niệm, cái kiết sử đang hiện bày ra.

Do đó, mấy cô đánh mất chữ "Phân Biệt" mà cô lo Danh Sắc nên 3 cái thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ nó bao trùm nên mấy cô có cả 3.

Mình vô Tuệ Phân Biệt thì mình ở trong phần Tuệ Phân Biệt thôi chứ không ở trong phần Danh Sắc. (Tuệ Phân Biệt / Danh Sắc)

Vậy thì khi Phúc Minh hỏi Sư trong khi Sư qua Tuệ thứ nhất Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Sư có mấy cái kiết sử  ?  Sư nói sẽ không có mà Sư đang ở trong Tuệ Phân Biệt, Tâm Sư làm việc phân biệt Pháp, cái gì hiện bày ra là Sư phân biệt Pháp cái đó, Sư không ở trong Danh Sắc. Thì mấy cô nắm mới được.

(tức là khi tu thiền Minh Sát, trong tuệ thứ nhất, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc. Thì mình quan sát và khi pháp hiện bày thì mình phân biệt pháp đó, mà không nắm Danh Sắc, vì lo Danh Sắc thì 3 cái thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ nó bao trùm lấy tâm nên có cả ba, do đó, chỉ phân biệt khi pháp hiện bày.) 

Đó là Tuệ thứ nhất.

Còn nếu cô vô nắm cái Danh Sắc thì cô không nắm được cái gì hết mà cô mất hết tất cả.

Do đó, chính mình không thấy cái thực hành của mình.

Khi vô Tuệ Phân Biệt Danh Sắc bạn có bao nhiêu kiết sử ?  Con có được cả 3, vì còn ngồi đây mà, còn nếu diệt hết thì là Tu Đà Hườn rồi, là Thất Lai rồi.  

Nhưng cái đầu tiên nhất, cái Tuệ Phân Biệt Danh Sắc các bạn không có thì làm sao đi tới Thất Lai được. Bạn không biết Phân Biệt, bạn không làm việc được Phân Biệt, bạn không Phân Biệt được Danh và Sắc này thì coi như bạn không có tuệ thứ nhất.

Do đó, vô tuệ thứ nhất là mình phân biệt liền, và phân biệt chính xác và nó không nằm trong một cái thân kiến, kiến chấp, không nằm trong một cái hoài nghi, lưỡng lự, thắc mắc, hay trong cái chấp thủ nào cả, mình phải phân biệt rõ Danh và Sắc.

Nói Danh và Sắc. 

Danh có 2 là Tác Ý và  Tâm Ý Thức

Sắc có 2 là Tứ Đại và Sắc Y Sinh.

Mỗi khi tôi dở lên tôi thấy có Danh Sắc 2 cái tôi đang phân biệt tôi thấy rõ.

Mỗi khi hít thở vô một cái tôi có phân biệt được Danh Sắc, tôi có phân biệt rõ cái nào là Danh cái nào là Sắc, tôi thấy tôi đang ở trong tuệ thứ nhất tôi đang phân biệt chứ tôi không ở trong cái kiết sử này ở trong Danh Sắc này.

Sư trong phân biệt Sư phân tách liền.

Khi cô đọc một bài kinh cô phân biệt là cô phải biết phân biệt, chứ không đưa kiết sử của cô vô trong bài kinh thì cô mới nhìn được bài kinh đó rõ như thật của nó, còn nếu cô bỏ kiết sử của cô vô thì bài kinh đó là của cô chứ không phải bài kinh của lời kinh Phật dạy.

Thiền sinh hỏi: Nếu nhìn cái phân biệt thôi, thì khi mà mình hít vô và mình thở ra thì mình chỉ biết cái đó là một cái Sắc, rồi cái Tâm mình biết cái hít vô thở ra đó chỉ là Danh thôi, thì cái đó có phải là Phân Biệt không ?

HT trả lời: Tuệ thứ nhất Đức Phật Ngài nói là  Tuệ Phân Biệt Danh Sắc chứ Ngài không nói Tuệ Phân Biệt hơi thở thì:

Hơi thở, hay tọa hành, những cái này đều nằm ở trong Danh Sắc. Vậy thì trong cái này mình coi cái hành động, diễn biến hành động, rồi ý thức của mỗi pháp. Mình chỉ coi trong hành động, diễn biến của hành động và ý thức của mỗi pháp, chứ mình không nói gì đến hơi thở hay tọa hành gì hết.

Giờ Sư hỏi mấy cô, mấy cô nói trong hơi thở, thì hơi thở đó mấy cô có trong lúc nào ? Trong 4 oai nghi, ngồi hít vô, đứng hít vô, nằm hít vô, đi hít vô.

 Thì khi ngồi cô hít vô thì phân biệt ở đâu ? Khi ngồi có danh sắc, hít vô cũng có danh sắc, vậy phân biệt chỗ nào ?

Do đó, không nói hơi thở, không nói trong oai nghi, mà khi nào Danh và Sắc phát sinh hiện bày bắt nó liền, chứ không phải nói một cái đối tượng. Tôi thấy lúc nào có Danh Sắc tôi phân biệt lúc nào có Danh Sắc, trong khi tôi ngồi tôi cũng thấy Danh Sắc, trong khi tôi hít thở lúc nào cũng thấy được Danh Sắc, thì mới được. 

Lúc bấy giờ mà cô khắn khích trên Pháp thì thân kiến kiết sử mới đứng bên ngoài được.

Chứ bây giờ cô nói hơi thở, cô đang ngồi, cô đang đi, cô đang đứng, đâu có, lúc nào cũng vậy đó Danh Sắc phân biệt chứ không phải tới hơi thở mình mới phân biệt Danh Sắc, tác ý có danh sắc, tâm ý thức có danh sắc, lúc nào cũng có Danh Sắc là phân biệt được hết.

Và từ khi cô phân biệt được Danh Sắc liên tục như vậy cô mới thấy ra khỏi được kiết sử này, kiết sử nó nằm ở trong cái biết phân biệt này nó mới tách ra, rồi danh sắc đã có rồi thì nó có nguyên nhân quả của Danh Sắc mình đi theo tiếp nó nó mới đi ra được cái cửa, mà phải Tâm yên Cảnh yên mới được, còn mà một trong hai cái động là không được.

Hơi thở cô đang nắm bắt phân biệt Danh Sắc hay cô đang ngồi cô phân biệt được Danh Sắc ? Lúc nào cũng phân biệt Danh Sắc, bắt cái đó đi hoài, vừa phân biệt được, thấy được nhân quả, thì kiết sử lọt ra ngoài nó không có cơ hội vô Tâm mình, không có tôi ta, không có hoài nghi, không có thủ trong này nữa, mình đi tiếp tiếp luôn, liên tục và không gián đoạn mới được.

Khi ta hỏi cái tuệ thứ nhất, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc bạn có bao nhiêu kiết sử, tôi không bàn, tôi bàn cái Tuệ Phân Biệt của tôi thôi, tôi có Tuệ Phân Biệt hay không thôi, chứ còn Danh Sắc này tôi biết, tôi có bao nhiêu kiết sử tôi không bàn, tôi chỉ biết tôi có Tuệ Phân Biệt là liên tục và không gián đoạn, lúc nào tôi cũng có Tuệ Phân Biệt này và không gián đoạn.

Mấy cô phải biết cái đó mới được, cái đó khi mà ông Thiền Sư hỏi, bạn ngồi thiền Minh Sát bạn có được Tuệ Phân Biệt Danh Sắc không ? Trả lời là con ngồi thiền con còn vướng kiết sử, ông nói không, tôi đâu có nói kiết sử, tôi nói anh có phân biệt được Danh Sắc không, anh có Tuệ Phân Biệt không  ?

Sư có Tuệ Phân Biệt không ? 

- Có, Sư có Tuệ Phân Biệt. 

- Sư có lúc nào ?

- Lúc nào Sư cũng có phân biệt và không có gián đoạn, và không để cho kiết sử xen vô trong lúc mình có Tuệ Phân Biệt này.

Như thế là mình thành công.

Vậy thì khi nào mình có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc ? Khi mình phân biệt được Danh Sắc thì mới có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc

Danh chia 2 là Tác Ý và Tâm Ý Thức

Sắc chia làm 2 là Tứ Đại và Sắc Y Sinh.

Bây giờ mấy cô đang ngồi đây, mấy cô đang nghe Pháp, Sư hỏi mấy cô có phân biệt được danh sắc không ? 

- mấy cô nói có, con phân biệt danh sắc, con là sắc nữ còn Sư là sắc nam. Và mấy cô không để ý tới kiết sử và kiết sử không đủ để chen vô trong Tuệ Phân Biệt Danh Sắc này. 

- Và Danh Sắc này đều có Nhân Quả của nó, chứ không có ai tạo ra nó, nhân nào quả đó, Danh có Nhân Quả, Sắc có Nhân Quả.

- Chính cái đó, cái Tuệ mà tôi biết được đó là Tuệ thứ hai, Tuệ Phân Biệt Nhân Quả của Danh Sắc,

 - mà làm sao cô có, là cô phân biệt được Danh Sắc rồi mới có tiếp tục Nhân Quả của Danh Sắc thì cô mới đi liên tục, 

- và Nhân Quả này, Danh Sắc này nó tồn tại, 

- không, nó theo Phổ Thông Kiến của nó, mình phải đi theo được cái đó mình mới thoái ra được. 

- Còn cô đứng ngoài cô cứ nhìn vô kiết sử (thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ) là hỏng. Chính cái này nó ngăn che mình rồi. 

Mấy cô đứng ở ngoài hết, nó gạt mình đó, 

Bây giờ Sư hỏi lại: Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, mấy cô có bao nhiêu kiết sử ? 

Khi người ta hỏi câu đó là người ta có gài trong đó hay là họ không biết hỏi, mình không bao giờ lọt vô cái 2 trường hợp đó.

Tuệ thứ nhất, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc bạn có bao nhiêu kiết sử ?  không trả lời, tôi có Tuệ Phân Biệt chứ tôi không có bao nhiêu kiết sử. Có khi người ta hỏi, họ biết hỏi, hay người ta trong thế gài mình. Mình không phải là người không hiểu biết, mình biết mà, mình là người trí mà, mình nhìn vô biết phân biệt liền, lúc nào cũng có Tuệ Phân Biệt.

Tuệ thứ nhất bạn có không ? tôi có, Bạn qua hết các kiết sử ? Tôi có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc. Chưa nói tới kiết sử, tôi biết phân biệt là được rồi, và tôi không sai trật nữa, tôi không sai trật trong sự phân biệt này, và tôi không đi lầm nữa, và tôi không còn cái gì thắc mắc nữa, tất cả những cái này rõ như ban ngày, đâu là Danh, đâu là Sắc tôi phân biệt được.

Trong con người mình có 2 thành phần; tinh thần và thể xác, mình phân biệt được thế nào là tinh thần, thế nào là thể xác, mình biết, không có cái phân biệt, mình biết tinh thần mình ra sao, cái sắc pháp của mình ra sao, cái đó là sau bàn tới, bây giờ phân biệt Danh (tinh thần) và Sắc (thể xác trước).

Cũng như vậy, khi Sư cho mấy cô mấy bài tập, mấy cô không biết là Sư cho mấy cô bài tập. Sư nói cô Diệu Giác xếp lại những cuốn sách, cô làm theo Pháp, chứ không làm theo kiết sử, Sư nhìn là Sư biết, tất cả Sư thực tập mấy cô hết, không bỏ cơ hội, lâu lâu Sư mở cái này, Sư mở cái kia, mấy cô làm Sư nhìn Sư biết. Cô phân biệt là cô làm phân biệt thôi chứ cô không tìm cái kiết sử này, tôi biết phân biệt Danh Sắc, tôi làm phân biệt Danh Sắc không sai không trật là được rồi./.

----------------------------------

khi nào mình có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc ? Khi mình phân biệt được Danh Sắc thì mới có Tuệ Phân Biệt Danh Sắc

Danh chia 2 là Tác Ý và Tâm Ý Thức

Sắc chia làm 2 là Tứ Đại và Sắc Y Sinh (Upādāyarūpa)

1- Sắc tứ đại (mahābhūtarūpa).

2- Sắc phụ thuộc - Sắc Y Sinh (upādayarūpa).  là sắc pháp nương nhờ sắc tứ đại mà phát sanh./.