Wednesday, November 1, 2023

033 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 01 tháng 10, 2022

 033 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 01 tháng 10, 2022 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "033- Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, khi mình ngồi thiền quán sự sinh diệt trong thân mình thấy cái đau khởi lên rồi cái đau thay đổi như lúc nước nguội cho tới sôi, cho tới đoạn cuối khi mà cái đau nó lên tới tột độ tự nhiên lúc đó nó rã tan ra, thì lúc đó có phải là Vô Ngã không?

HT trả lời: Không phải, mình không được nói cái đó, khi nói cái đó là đi qua chế định (paññati), không phải siêu lý (Paramattha). Người đi tới đó họ chứng nghiệm bởi trí tuệ của họ, không phải xác định được đó là vô ngã, vô thường, hay khổ đau được.

Thí dụ, như Sư tới giai đoạn đó, Sư chứng tri được cái đó, Sư thấy được đó là vô ngã, nhưng một hành giả khác họ thấy được cái đó là vô thường, hay là họ thấy được sự khổ đau của một Tập Đế. Nên các quí Phật tử mình không có nói được. Đức Phật Ngài nói: 'ekàyana magga' là độc đạo, mà độc hành, mà độc chứng, tức là có hai người song hành tu, mỗi người đi một hướng, mỗi người tự chứng đắc, nhưng tự họ chứng nghiệm với thực tướng đó với trí tuệ của họ tu tập, chứ không giống nhau.

Khi nhìn thấy nồi nước sôi nó cạn vì bốc hơi hết thì người thấy vô ngã, người thấy vô thường, người thấy khổ đau, đó là một điều phải xác định, không nói thêm bớt được và không nói vô ra được. Đó là thứ nhất.

Thứ hai, khi người sống với trí tuệ nhiều, người sống không bị khổ đau. Chẳng hạn như người sống trong sự sung sướng giàu có, sống trong nhung lụa như Ngài Upatissa sinh ra trong một gia đình giàu có, mẹ Ngài có 90 triệu đồng tiền vàng, bà là người Bà la môn, không phải là người Phật Giáo, không phải là đệ tử của Đức Phật, bên Phật Giáo có bà trưởng giả giàu có là bà Visākhā, thì mẹ của Ngài Upatissa giàu hơn nữa, nhưng bà bên Bà la môn nên mình không liệt kê bà là đại thí chủ của Đức Phật được. Đại thí chủ của Đức Phật chỉ có ông Anāthapiṇṇika, bà Visākhā, Ngài Asoka, Ngài Jotika, thuở đó Ngài Jotika giàu đến nỗi vua A Xà Thế đem binh đến muốn đoạt tài sản nhưng không được, Ngài Jotika đeo vàng 10 ngón tay mà Ngài A Xà Thế tới đòi lấy, Ngài Jotika nói 'tôi không cho Ngài lấy không được đâu, tôi đưa 10 ngón tay ông vuột nó đi, vuột cái nào tôi cho cái đó', nhưng vua A Xà Thế vuột không được. Thì lúc đó vua A Xà Thế rúng động rồi, hỏi sao vậy thì Ngài Jotika nói "tôi không cho thì ông không lấy được". Ngài Jotika chỉ là một thương gia thôi, ông là đệ tử của Đức Phật, rất giàu, cái dinh thự của ông Jotika có 7 tầng cửa, mà mỗi tầng cửa là một dạ xoa canh chứng, vua A Xà Thế đi qua 7 tầng cửa là nổi da gà sởn óc, nhưng con chó nằm trên tấm thảm hơn tấm thảm long xà của ông vua ở. Thì ông Jotika đưa tay trên tấm thảm và nói tôi cho ông nè, thì những nhẫn vàng rớt xuống tấm thảm dễ dàng, trong khi hồi nãy vua A Xà Thế vuột mà không rớt ra một chiếc nhẫn nào hết. Nhưng giàu có như vậy vẫn thua mẹ của Ngài Upatissa (Ngài Sariputta Xá Lợi Phất), 

Do đó, cuộc sống của Ngài sung sướng trong sự trưởng giả giàu có của người mẹ, Lúc đó Ngài Upatissa chưa tu mà đang đi tìm đạo, Ngài tới gặp ĐĐ Assaji khi Ngài nghe  "một pháp sinh lên bởi duyên, chính duyên sinh lên hiện bày các pháp" Ngài chứng đắc trên vô ngã, Ngài không chứng đắc trên khổ đau, không chứng đắc trên vô thường.

Da số các đệ tử Đức Phật hàng Thinh Văn Giác như Ananda, Anuruddha, Ngài Maha Kassapa chứng đắc trên vô thường không trên khổ đau. Người trải qua trên sự khổ đau là họ phải đối diện với Tập Đế là đau khổ của Ái, thí dụ như mình có người thân mất, mình chứng nhận trên khổ đau của Ái Tập Đế thì mình mới liễu tri được Niết-bàn trên vô thường trên khổ đau tướng mới có, Ngài Sariputta không có, Ngài kể lại Ngài Kolita (Ngài Mục Kiền Liên) là người bạn nối khổ anh em thân nhau, tức là Ngài Upatissa (Xá Lợi Phất) và Ngài Mục Kiền Liên. Ngài Kolita cũng giàu, Ngài chỉ nghe trùng tuyên lại của người bạn Upatissa nói thì Ngài cũng đắc sơ đạo sơ quả luôn, cũng trên vô ngã, không đắc trên khổ đế.

Khi ái luyến mất hay ái luyến bể tan ra thì mình mới rớt vô chân không của khổ đế thì mới ra được Niết-bàn của Khổ Đế Vô Nguyện, chứ trên sự chứng đắc khổ đau này mà không qua cửa ái dục thì không thể nào vô Nibbāna được. Mình phải qua cửa đó, đa số Đức Phật Ngài đều nói chúng sinh trải qua con đường khổ chứ không qua con đường vô thường.

 Còn người đắc chứng qua đường vô thường, vô ngã là người đó họ phải nói họ có phước sẵn. Tại vì họ giàu có mà họ mất trạng thái đang giàu có chứ không phải họ đau khổ gì.

Nên mỗi người hành giả chứng đắc có một khía cạnh riêng mà chỉ có Sabbaññutañāṇa là Toàn Giác Trí mới nhìn được, Ngài Chánh Đẳng Giác với hàng Thinh Văn Giác của Ngài chứng đắc loại nào Ngài nhìn thấy được. Còn chính mình thì mình chỉ biết mình thôi, hàng Savaka Thinh Văn Giác chỉ biết mình thôi chứ họ không nhìn chung quanh được, nhưng bậc Toàn Giác Sabbaññuta Ngài nhìn xuống Ngài biết được ai chứng khổ đau mà đa số sát xuất coi như  90%, còn vô ngã vô thường chỉ 10% thôi, ít lắm, điều đó rất hy hữu vì họ ở trong trạng thái sung sướng  mà họ chứng đắc.

Chư Thiên ở trên cung trời Đao Lợi lúc Đức Phật lên thuyết Abhidhamma, Ngài thuyết Mātikā Mẫu Đề không thuyết chi tiết từng câu, từng câu từng chữ như trong Phát Thú quyển xanh quyển đỏ là của Ngài Sariputta giảng ra từ Mātikā Mẫu Đề Đức Phật đưa ra, chứ không phải do Đức Phật làm, Ngài chỉ nói Pháp Thiện (Kusalà   dhammà),  Pháp Bất Thiện (Akusalà   dhammà), Pháp Vô Ký (Abyàkatàdhammà) Ngài chỉ nói vậy thôi, rồi Ngài qua Mẫu Đề khác. Nhưng Ngài Sariputta giảng rộng ra (2 uẩn làm duyên cho một uẩn, 3 uẩn làm duyên cho một uẩn), do đó mình mới hiểu.

Khi Đức Phật Ngài lên cung trời Đao Lợi Ngài thuyết pháp để trả ơn cho mẹ, sau khi hoàng hậu Maya băng hà ở cõi nhân loại bà lên cung trời Tusita hưởng phước Balamat của người mẹ kiếp chót đã nuôi dưỡng sinh ra vị Bồ Tát kiếp chót, Mẹ Ngài lúc đó là thiên nam tên  Santussita. Khi Đức Phật thuyết Abidhamma các quí Ngài chứng trên vô ngã, không có gì khổ đau hết, không có gì là vô thường hết, chỉ vô ngã thôi.

Tại sao chỉ là vô ngã? Tại vì, Chư Thiên ở trên cõi trời từ Tứ Thiên Vương lên tới Đao Lợi, đời sống sung sướng, không có cái gì phải lo, tuổi thọ dài đăng đẳng, không thấy cái chết. Còn tuổi thọ của mình sống nay mai chết, kiếp sống ngắn ngủi, mình thấy hoài. Còn Chư Thiên không nghe tiếng chết, và không thấy gì là khổ. Nhưng khi ngồi bó gối nghe Đức Phật Ngài thuyết  3 tháng của nhân loại chứ không phải 3 tháng của Chư thiên. 3 tháng cõi nhân loại nó trong tích tắc đối với cõi trời, một ngày một đêm ở cõi trời là 100 năm ở cõi nhân loại, mà Ngài thuyết 3 tháng chỉ là 1/4 của một năm của cõi nhân loại, mà Chư Thiên nói ngồi nghe mất đi cái làm chủ của Chư Thiên vì  còn đi chơi, nên các Chư Thiên chứng trên cái vô ngã của mình, ngồi nghe đâu còn gì để mà ta tôi với Đức Phật. Vô Đức Phật thuyết liền, bắt đầu ngồi đó nghe, nghe trong trạng thái chứng tri đắc sơ đạo trong vô ngã chứ không đắc trong vô thường, không đắc trong khổ đau. 

Còn minh đây đắc trên khổ đau, đắc trên vô thường, sinh tử biệt ly, chứ vô ngã ít khi thấy, không ai nhìn thấy bản ngã tôi ta của mình. Mình nhìn bản ngã người này người kia, anh ngã mạn quá, anh phách lối quá, mình chê bai chỉ trích người ta, phê bình người ta chứ mình không thấy mình. Như La Fontaine gánh hai cái giỏ, giỏ trước lỗi của người, giỏ sau lỗi của mình thì đâu có thấy mình. Nhưng khổ đau thì có thấy, thấy vô thường thì mình có thấy.

Do đó, mình phải hiểu, từ đó mình phải chuẩn bị con đường mình tu, phải thấy cái yếu của mình là cái nào, cái mạnh của mình là cái nào.

Cái yếu của mình là trí tuệ, là thiếu trí. Cái mạnh là cái đoán cái tưởng của mình nhiều. Cái đó mình phải hiểu.

Minh thiếu trí, mình nhiều tưởng. Do đó mình không có kết quả. Minh phải tìm, tìm trên cái nào mình dễ thấy nhất để mình không có tưởng, thì cái trí của mình mới soi xét thấy được. Cái đó là tu.

Chứ còn mình đi tìm cái khó. rồi ngồi đoán thì không có kết quả. Đoán không đúng, đoán không được. Cái đó là tưởng (Sanna) thôi, tưởng một hồi thành tưởng con voi, là tưởng tượng, thành con voi, vẽ ra con voi người ta gọi là "manh nhân mô tường" là người mù rờ voi.

 Do đó, mình phải tìm cái yếu của mình? là cái trí. Cái mạnh của mình là cái tưởng. Hai cái đó mình phải đi chung với cái tu của mình, tìm cái cảnh nào, đối tượng nào, cái pháp nào thấy rõ nhất. Thì mình không đi tìm trên cái khổ đau, tìm trên cái khổ đau là dại, tại vì nó không có hiện bày ra. 

Nhưng tìm trên ái dục hay tham muốn của mình, mình mới thấy rõ, ăn, mặc, ngủ, nghỉ, cái ái của mình nhiều, lúc đó tìm mới ra, bây giờ những cái ái đó chỉ có 2 điều thôi là "thỏa mãn" và "không thỏa mãn". 

Thí dụ như ăn, mình ăn được thỏa mãn, ngủ mình thỏa mãn, thì nó tăng cái dục mình lên, tăng cái ái mình lên, thì lúc bấy giờ mình mới thấy. Bây giờ mình tập, tu là tập, mình tập không cho nó thỏa mãn, nó không đủ thì bắt đầu nó công kích nó đánh mình, thì mình tìm ra được bằng trí của mình sự thật chứ không có tưởng nữa, ra cái sự thật rồi.

Thí dụ, bây giờ mỗi ngày mình quen ăn quen ngủ, bây giờ bữa nay không ăn, không ngủ, bắt đầu mệt, bắt đầu hoa mắt, nhức đầu, chóng mặt, ráng không gạu gọ với những người chung quanh giống người điên, bữa nay mình tu.

Do đó, mình phải đi tìm cái mạnh cái yếu của mình. Và cái cảnh, cái đối tượng của mình phải rõ nhất, chứ không dùng cái tưởng của mình, mình cứ khai thác cái tưởng của mình hoài là dại, làm cho con người tu của mình khó và không có kết quả.

Mình học phải hiểu cách tu của mình, chứ không thể nào mà mình làm đại, người ta nói 'mạnh dùng sức, yếu dùng mưu'. Sư ở với Ngài Tịnh Sự, Ngài dạy phải dùng trí không dùng tưởng, Sư bắt đầu học từ Ngài như thế. Mà muốn dùng trí phải biết sự thật, phải dùng trên sự thật cái trí của mình mới thấy, còn không trên sự thật thì mình đoán thôi chứ không phải trí. Mình phải biết; mình mạnh cái nào, mình yếu cái nào, dở cái nào mình phải biết.

Giống như ở trong rừng Phật Pháp, mình không biết hướng nào đi hết là chết, mình phải tìm. Trước tiên Abhidhamma; "dạy cái gì trong ta, cái gì ngoài ta và cái gì ta mong cầu đạt đến", chỉ có 3 cái đó thôi.

- Cái gì trong ta là những cái gì thuộc nội thân. 

- Cái gì ngoài ta là cái gì ngoại thân. 

- Cái gì ta muốn đạt tới, thì phải đặt ra, rồi ghi xuống. Cơ bản là vậy đó.

Cái gì trong ta, thì trong ta có 6 căn. 

Cái gì ngoài ta, thì có 6 trần. 

Cái gì ta muốn đạt đến, cái ta muốn đạt đến là Tam Tướng.

Trong ta là 6 căn, ngoài ta 6 trần, cái ta muốn đạt tới là Tam Tướng.

Bây giờ trong ta 6 căn này có tam tướng không, hay là phải nhìn ra ngoài 6 trần mới có tam tướng?

Sáu căn bên trong không thấy vô thường thì mình thấy 6 trần mới thấy vô thường thì mình tìm ra nó, nếu không có mình không cần tìm ra ngoài, tìm trong mình thôi.

Sáu căn là: thần kinh nhãn là tâm nhận thức.

Sáu trần là cảnh sắc. 

Hai cái đó trên cơ sở đó mình mới tìm ra Tam Tướng.

để hình 033 - 25.17



Mình vẽ và viết ra và đi tìm căn có Tam Tướng không, cảnh có Tam Tướng không

Thần kinh nhãn có tam tướng không

Tâm nhận thức có tam tướng không

Cảnh sắc có tam tướng không

Minh đi tìm. 

Bên Căn là nội thân là trong ta. 

Bên Trần là ngoại thân là ngoài ta.

Mình đi tìm cái trong ta, cái ngoài ta. Ở nơi nào thấy Tam Tướng là mình tìm cái đó. Mình tu mình đi tìm cái sự thật.

Thế thì ở trong thần kinh nhãn có tam tướng không? Nếu mà nói thần kinh nhãn không có tam tướng thì mình cho qua.

Tâm nhận thức này có tam tướng không? Nếu không có tam tướng thì mình mới đi ra ngoài ta có cái gì.

Mình coi trong ta trước rồi xét bên ngoài sau, xét nội thân trước sau xét ngoại thân. Nhìn cảnh sắc này có tam tướng không, nó có vô thường, khổ, vô ngã không. Bây giờ mình ngồi nghiệm, mình tu mà.

Thần kinh nhãn có tam tướng không? Tâm nhận thức có tam tướng không? Cảnh sắc có tam tướng không? 

Thần kinh nhãn khó thấy tam tướng, tuy nó là sắc pháp nó có tính chất hoại diệt mình không có thể nào nhìn thấy được sự hoại diệt của thần kinh nhãn này hết, trừ khi bị bệnh, mà bị bệnh thì chỉ nói theo y khoa theo bệnh lý chứ mình không thấy sự hoại diệt của sắc pháp, do đó mình phải xác định điều đó. Như về tâm nhận thức, con mắt mình nhìn thấy cảnh sắc, mình có thay đổi không, có vô thường khổ đau, vô ngã không, lúc đó mình phải tính được tâm nhận thức mình có tam tướng không, thần kinh nhãn có tam tướng không, hay cảnh sắc có tam tướng không.

Thí dụ như cảnh sắc mình nhìn thấy nó như vậy không thay đổi. Thí dụ như nhìn bức tranh hay nhìn bảng nêu, tuần trước mình nhìn thấy bản nêu này, tuần này nhìn cũng bảng nêu này, về tới nhà mình nhớ bảng nêu này, mà ngồi đây mình thấy bảng nêu này, không có gì thay đổi dù nó là cảnh sắc. Sự thật chỉ có như thế thôi.

Thế thì khi mình ở trong trạng thái Niệm và Tỉnh Giác mình có trí hay không có trí là mình chỉ niệm suông thôi thì lúc đó mình có cái tu. 

Sư đưa một thí dụ; căn với trần, một bên là nội thân là thần kinh nhãn, tâm nhận thức, một bên là ngoại thân là cảnh sắc, 3 yếu tố hình thành ra một cái xuất phát thì mình coi nó có Tam Tướng không, mỗi một cái mình đặt trong Tam Tướng thì mới liễu tri được  Thực Tướng này thì lúc đó mình mới ra được Thực Tướng, chứ còn ngoài ra đoán là không được, tu không cho đoán, dùng trí mới thấy, dùng trí mà liễu tri.

Thiền sinh hỏi: Bạch Sư, khi mình có Thần kinh nhãn, Tâm nhận thức, Cảnh sắc, thì có  xúc, bây giờ mình chưa đi vô mổ xẻ 3 cái này thì có một cái xúc, một cái xúc có Tam Tướng.

HT trả lời: Một cái Xúc là một cái Niệm ghi nhận nó, chưa nói Tam Tướng. Ghi nhận cái Xúc đó mình mới Tỉnh Tiác được, cái Xúc này nó như thế nào thì bắt đầu nó ra Pháp, từ Pháp đó, trí mình mới thấy Tam Tướng đó.

Xúc ----> Niệm -----> Pháp, mình Tỉnh Giác ----->Tuệ

Khi có một cái Xúc thì ra một cái Niệm. Rồi cái Niệm ra một cái Pháp, Pháp này là Tỉnh Giác thì Tuệ sinh lên. 

Mình đi như vậy mới được, chứ không có nói suông ngang.

Khi mình có một cái Xúc, 3 cái; Thần kinh nhãn, Tâm nhận thức, Cảnh sắc, hợp vô thành một cái Xúc, thì mình chỉ có một cái Niệm thôi.

Thì Niệm có 2 loại là Chế Định và Siêu Lý. 

Thì Niệm đang có sự hình thành cái Pháp ra cái Thực Tính.

Rồi Tỉnh Giác sinh ra Tuệ, rồi Tuệ nhìn thấy Thực Tướng.

Thiền sinh hỏi: khi căn tiếp xúc có thọ lên mới có 

HT trả lời: không, mới có 7 Tâm sở biến hành; Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất Thống, Mạng quyền,  Tác ý.

Qua Xúc mà qua Thọ là đi nhanh rồi. 

Như lúc ông bāhiya bị con bò húc, ông chỉ Xúc thôi không nói Thọ được, ông thấy Thực Tướng liền. Ông Xúc ra Niệm, Niệm ra Tỉnh Giác, ra Tuệ, ra Thực Tướng, ông chết mà không kịp qua tới Thọ.

Còn mình còn có thì giờ qua được cái Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất Thống, Mạng quyền, Tác ý liền. Đó là qua 7 Tâm Sở Biến Hành.

33.32 Sư muốn cho mình một cái Xúc, rồi mình ra cái Niệm, mình ra Pháp, ra Tuệ. 

Thì cái Xúc mà theo về chế định là mỗi người có ý nghĩ riêng. Danh từ chế định, mình nói: đụng, chạm, va v.v...

Nhưng khi đi vô tới Siêu Lý thì trong Tứ Đại thì cái Xúc nếu như mình thấy đau nhiều như cái Thọ. Như cái Xúc mà thấy cứng nhiều là địa nhiều. Nếu đụng vô mà thấy nóng là hỏa nhiều. Cái đó gọi là Siêu Lý.

Thí dụ, bị đụng cục đá thì nó cứng nhiều, nhưng đụng vô lửa cũng là xúc thì nóng nhiều, đụng vô tảng đá lạnh thì thấy lạnh nhiều. Nhưng mà thấy một con chó chạy ngang qua mình và mình thấy sức gió nhiều. 

Vậy thì Siêu Lý là qua phần Tứ Đại, và sẽ niệm được cái đó mới ra được cái Pháp.

Trong Tứ Đại ra Pháp liền. 

Pháp có 2 là: Thực Tính Pháp Dĩ Nguyện, Thực Tính Nhân Dĩ Nguyện. Nhân theo kiết sử. Pháp theo thực tính.

 Lúc đó khi vô Dĩ Nhân Di Bổn 

Puggalādhiṭṭhāna Dĩ Nhân Như Nguyện, hay là Dĩ Nhân Vi Bổn, theo mỗi người một ý, nó là kiết sử. Cái anh đi theo dĩ nhân này, thí dụ như họ nói nóng quá, lạnh quá, sợ quá, cứng quá, đau quá, đó là kiết sử. Nhưng khi đi qua Dĩ Pháp, lúc bấy giờ họ thấy là mình không có vô ngã, vô thường, khổ đau, bắt đầu qua được cái tuệ.

Thiền sinh hỏi: khi mà nói nóng quá, lạnh quá, cứng quá là qua cái thọ rồi?

HT trả lời: Không qua. Khi nói: Nóng, Lạnh là (hỏa), Cứng (đất), Mạnh (gió). Những cái này thuộc Tứ Đại, mình không qua thọ. 

Một tâm có 7 Tâm Sở Biến Hành; Xúc, Thọ Tưởng, Tư, Nhất Thống, Mạng quyền, Tác ý liền, đúng.

Xúc có Thọ, Thọ có Tưởng, Tưởng qua Tư.v.v... Nó đi một đường dài. Sư muốn quí Phật tử đừng đi đường đó, đó là đường sở trường của mình, mình không đi con đường đó. Mình đi con đường dĩ nhân, dĩ nguyện của mình. Xúc mình bắt vô Trí, mình tìm ra được Pháp Thực Tướng nó liền, chỉ một sát na thôi, thì ra được.

Còn nếu Xúc rồi qua Thọ, làm sao qua được  Tưởng, làm sao qua được Tư.

Nếu đi theo đường Xúc rồi tới Thọ, Thọ có Tưởng, Tư, Nhất Thống, Mạng quyền, Tác Ý liền, nó đi một loạt luôn 7 cái, nó ra cái Tác Ý là ra kết quả.

Còn mình đi Xúc với Trí Tuệ sinh lên, có Tỉnh Giác, không nói Niệm. Xúc vô thấy liền thì ra, không qua Thọ.

Trong cái email họ viết cho Sư dài nửa tiếng không hết, tại Sư đọc thì họ có dẫn chứng là Ngài Goenka nói họ hành thiền theo Ngài Goenka, là Sư biết họ đi qua Thọ, họ viết ra hết kể ra những trăn trở của họ tu, Sư biết, nhưng không nên. Quí cô biết là không có con đường nào qua được Abhidhamma của Đức Phật, Thiền Sư Goenka không đi qua Abhidhamma của Đức Phật mà qua đường thực hành Tứ Niệm Xứ thôi.

 Do đó, mình có cái phước mình học được Abhidhamma, Abhidhammattha Sangaha (Vi Diệu Pháp toát yếu) rồi Abhidhamma Pitaka là Thắng Pháp Tạng, còn gọi là Vi Diệu Pháp hay Luận Tạng, có đủ hết, thì mình biết đi con đường nào thực tế nhất.

Bây giờ Sư nói trở lại:

Khi đi qua phần Pháp (Xúc ----> Niệm -----> Pháp),  

khi đi tới Tứ Đại thấy được Pháp, Tuệ sinh lên, thì thấy được Tam Tướng (Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã). Thấy vô đường nào do chính mình.

Khi Xúc đến, con người khi sung sướng quá họ sẽ thấy tướng, trí tuệ của họ thấy, không có tưởng được, xúc vô rồi. 'Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột' đứt tay có chút xíu mà la bể làng luôn, tại giàu quá, đau khổ chút xíu là cả thế giới đều biết. Còn nhà nghèo thì nín, chịu đựng không dám la nên người ta không biết.

Bây giờ Xúc đến quí Phật tử thấy cái gì, mỗi người một cảm giác, mình có tuệ tri mình biết. Khi Xúc đến mấy cô thấy Tam Tướng nào?

Một thiền sinh trả lời: Thưa Sư, con cắt trúng ngón tay chảy máu, con thấy sự Vô Thường, rồi đau quá con thấy sự Khổ Đau, rồi con băng nó lại nhưng máu cứ phun ra hoài, con thấy sự Vô Ngã.

HT trả lời: Không phải vậy, cô đừng diễn tả như vậy. Chỉ một sát na thôi, đụng vô "bốp" một cái là thấy Tam Tướng liền.

Sư chia sẻ cho mấy cô; Tứ Đại --> Xúc

Nóng là hỏa

Lạnh là hỏa

Cứng là đất

Mạnh là sức gió

Nó vẫn thuộc về Siêu Lý, cái biết Nóng, Lạnh, Cứng, Mạnh thuộc về Chế Định. Còn cái biết Siêu Lý chỉ là Xúc thôi, nó không phân biệt.

Thí dụ, Đề Bà Đạt Đa lăn tảng đá trúng chân Đức Phật, trong khoản khắc tảng đá đụng chân Đức Phật, Chư Tăng hỏi: "Cảm thọ gì Đức Thế Tôn, cảm thọ gì khi tảng đá đụng trúng chân Đức Thể Tôn?".

Hỏi cảm thọ gì chứ không hỏi xúc.

Hỏi cảm thọ gì Đức Thế Tôn?

Đức Phật trả lời: Khổ thọ

Ngài không nói gì khác, Chư Tăng hỏi Ngài cảm thọ gì, bạch Đức Thế Tôn?

Đức Phật nói cảm thọ khổ. Thứ hai nữa, buồi chiều Như Lai tới gặp lương y Jīvaka là thầy thuốc của Đức Phật để băng bó. 

Cái đó gọi là Thọ, nhưng khi Chư Tăng hỏi Xúc gì Đức Thế Tôn đang có, thì Ngài nói Xúc đó, Ngài sẽ nói ra.

Do đó, khi mình tập Pháp, mình hay có cái Dĩ Nhân của mình bộc lên, mình vô Xúc nóng, lạnh, mình có cái đó liền, chứ mình không nói cái pháp. Và trong các kinh Nikaya không nói tới Pháp, chỉ có Abhidhamma mới nói tới Pháp thôi. 

Nên mình phải tập Niệm và Tỉnh Giác. Niệm mình nhìn thấy Xúc, Tỉnh Giác mình nhìn thấy Pháp, với trí tuệ mình phân biệt được. Đó là rốt ráo.

Niệm là mình có Xúc, Tỉnh Giác mình có Pháp, Tuệ mình thấy Thực Tướng. Cái đó là mình phải biết như vậy, không nói khác được.

Như vậy, khi Xúc một cái thì mới thấy được Pháp hiện bày.

Người sống trong phước, Sư không nói giàu nghèo nữa, mà Sư nói người có phước hay không có phước. Người có phước là người sống trong trạng thái đầy đủ, trong sung sướng đó họ sống hưởng phước đó từ cái thiện họ đã làm ra nên ngày hôm nay họ có phước được hưởng.  Còn sống trong cái khổ là họ sống trong tình trạng không có phước, họ sống trong bất thiện.

Thì khi người ta có một cái Xúc bất toại nguyện, dù giàu hay dù nghèo, dù phước hay không phước ở trong cái bất toại nguyện đó họ cảm thọ khổ đau Pháp thực tính này.

Khổ đau ---> Pháp Quả Bất Thiện

Pháp Thực Tính là Quả Bất Thiện.

Ngay Xúc đó là quả bất thiện, không có "Tôi" "Ta". Đây là quả bất thiện đang trổ. Thực tướng vô nếu là trí 'cái này là vô ngã' Kammassakatā dị thời nghiệp (Kammassakatā là Nghiệp Lực Chủ Nhân), không qua thọ. 

Cái khổ này là quả bất thiện nó tạo ra, mà cái này ngoài sự mà ta biết Kammassakatā dị thời nghiệp nó thuộc là thực tướng của thực tính. 

Nếu mình sung sướng, bây giờ mình đón nhận nghịch cảnh, cái này là quả bất thiện, không thể là quả thiện được.

Còn ví dụ như Xúc mình đang tìm là quả bất thiện, mà quả bất thiện mất thì là quả thiện. 

Pháp quả thiện người ta không vun trồng thì mất đi.: Vô Thường ---> Pháp quả thiện, Kammassakatā.

Khi mình đón nhận khổ đau là mình thấy quả bất thiện. Như vậy thì đi ngược chiều lại, khi mình đón nhận cái Xúc mà quả bất thiện này thì cô thấy được Thực Tướng.

Khổ đau ----> Pháp quả bất thiện, 

khi đi ngược lại thì khi nhận cái xúc Pháp quả bất thiện thì thấy khổ đau (thực tướng)

 Khổ đau <------- Pháp quả bất thiện.

Như khi thấy quả thiện mất thì cô thấy được vô thường (thực tướng) 

Vô thường <------ Pháp quả thiện

Do đó, người tỉnh giác mà đụng một cái xúc mà họ chịu đựng thì họ nói đây là quả bất thiện thì họ chứng thực tướng trên cái khổ đau: "Đây là quả bất thiện nó tới ta", chứng nhận trên cái khổ đau. 

Mà quả thiện mình đang hưởng nó mất thì chứng nhận trên vô thường.

Thì cái gì mà mình xúc (chạm, va, đụng) vô cái quả thiện mà mình không vớt tới, không chụp được, không đón nhận được thì mình đang đón nhận cái Vô Thường.

Như vậy thì câu Ngài Assaji nói với Ngài Upatissa (Ngài Xá Lợi Phất)  "một Pháp lên bởi duyên, chính duyên hiện bày các Pháp", Ngài đâu thấy gì là khổ đau, Ngài đâu có gì mất, Ngài chỉ thấy hợp và tan, cái duyên nó có, Ngài chứng được Vô Ngã. Ngài chứng đắc trên pháp Vô Ký. Ngài Upatissa (Ngài Xá Lợi Phất)  chứng đắc trên pháp Vô Ký, do đó Ngài mới ra được của ngõ Vô Ngã.

Vô Ngã <---- Pháp Vô Ký

Như thế thì chỉ một cái Xúc thôi nhưng mình Niệm được, mình Tỉnh Giác được, mình thấy được thì mình ra được, không có đoán. Và người trí hay là   Samatājñāna người toàn giác trí , nhìn thấy trên cái gì đó, nhìn thấy cái gì đó, họ chứng đắc trên quả bất thiện thì họ đang chứng đắc thực tướng khổ đau. Họ chứng đắc trên quả thiện mà họ vuột mất, họ chứng đắc trên vô thường, họ thấy hợp và tan rã không đụng gì của họ thì là pháp Vô Ký, mà trong đó là Vô Ngã. 

Từ đó mình nhìn ra các hành giả khác họ tu tập không qua dĩ nhân, chỉ là dĩ pháp di bổn thôi, tính chất của pháp hiện bày ra trên người đó và họ trên cái pháp đó.

Mình phải biết quả bất thiện, quả thiện, pháp vô ký.

Bốn pháp nói về cảnh:

1. Cảnh ngũ là qua 5 cửa thì có 4 là:

         a.  Cực Kỳ  Cự Đại

         b. Cự Đại

         c. Hy Thiểu (nhỏ)

        d.  Cực Kỳ Hy Thiểu (cực nhỏ)

Thì khi nó đi vô một trong các căn: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân

2. Cảnh Ý có 4 là:

        a. Cực Kỳ Minh Hiển

        b. Minh Hiển

        c. Bất Minh Hiển

        d. Cực Kỳ Bất Minh Hiển

Cảnh Ý thì đi qua cửa Ý.

Nó có 4 đối tượng hiện bày.

Từ cảnh Hy Thiểu trở xuống cảnh Cực Kỳ Hy Thiểu, tức là cảnh nhỏ mà vô cùng nhỏ luôn. Thí dụ, người kia đứng bên kia sông, mình đứng bên này sông, họ ngoắc tay, mà mình nhin thấy được, thì cảnh đó là Minh Hiển. Còn mình không thấy được mình đoán hình sắc hay âm thanh, thí dụ người ta vừa ngoắc vừa kêu ơi ới, thì lúc bấy giờ những cảnh này chưa vô được lộ trình tâm của mình để hiện bày ra tâm thức để mình đón nhận nó thì nó rớt vô Lộ Ý. Cảnh ngũ mà không rõ, không lớn đủ để mình thấy được thì nó rớt vô Lộ Ý rồi, lúc bấy giờ ở trong cảnh nào.

Nếu cảnh ngũ mà qua ý thì nó rõ và không rõ thì bắt đầu mình qua đoán hay là tưởng, xử lý cảnh, Đổng Lực. Nếu mà không rõ thì mình qua đoán, tưởng, 2 cái này nằm trong cái tưởng của mình, nó không có ra được xử lý cảnh được, mình đoán hay là mình tưởng thôi, nó không nằm trong lộ ngũ.

Mình trở lại, khi xúc đến với mình trong cảnh Cự Đại thì mình xử lý nó được, mà không có được thì bắt đầu mình qua tưởng và đoán, nó nằm trong lộ ý của mình, mà trong lộ ý của mình mà mình không ra được thì lúc bấy giờ kiết sử của mình cái thói quen xử lý cảnh đó liền.

 Mình nói trở lại Xúc.

Xúc này đủ để cho mình hiểu thì mình xử lý nó được, mà không đủ cho mình hiểu thì mình phải đoán hay tưởng để mình xử lý cái biết của mình.

Nếu rõ thì mình xử lý cảnh được. Còn không rõ thì mình đoán hay là mình tưởng.

Nhưng cảnh ngũ đến rõ ràng từ Cực Cự Đại trở lên mình xử lý nó được, kêu thì mình trả lời, ngoắc thì mình đi tới, cái đó mình xử lý cảnh được rồi. Nhưng nếu không rõ thì mình đoán "có phải kêu tôi không?" hay là "phải ngoắc tôi không?" Mình không thấy rõ thì mình đoán hay mình tưởng hay mình mơ hồ. 

Thì lúc bấy giờ Ý có 2:

 Nếu mình xử lý đúng Pháp thì mình giải được, Cái này phải dùng trí, mà muốn dùng trí mình phải tỉnh giác, chặn kiết sử lại không cho nó sinh lên trước dẫn mình đi thì trí mới xen lên mới ra được Pháp.

 Còn nếu không thì kiết xử giải đáp, cái "tôi" "ta" mình giải đáp. Thì ở trong kiết xử không cần trí, bản năng nó trình bày theo tính nó. 

Cái kiết sử này không cần tìm, bản năng nó sinh ra. Còn nếu như dùng  Pháp thì phải lấy trí chặn kiết sử lại không cho nó sinh lên thì trí mới nhìn được Pháp, mới giải quyết được vấn đề.

Do đó, giữa 2 cái đó, nếu không có Tỉnh Giác, không có sự sắc bén tu tập thì mình hay đi theo kiết sử dắt đi, theo tập khí, theo thói quen mà đi.

Sư chỉ nói giai đoạn Xúc mà dưới mấy cảnh thấy đủ để mình giải quyết vấn đề. Chưa tới mấy phần sau. Xúc vô một cái mà không biết rõ là cô đi theo kiết sử hay theo trí, đa phần là đi theo kiết sử, dùng trí rất khó, mình phải tu, phải suy nghĩ cân nhắc đắng đo.

Nói thì nói Pháp, hành thì hành kiết sử, hành kiết sử thì dễ không cần tu, bạ đâu nói đó, nghĩ đâu làm đó, hay mình làm không cần suy nghĩ, đó là người không có trí. Còn người có trí thì đắn đo suy nghĩ. Tại vì mấy cô quên đó là mỗi Pháp sinh lên đều có nhân có quả và nó để lại nghiệp báo, do đó mình sợ, mình cân nhắc, người trí cân nhắc, chặn kiết sử liền, để sống theo trí, trí nó dắt qua Pháp thì bắt đầu trí dắt đi mình đi theo, trí không tạo tác.

 Quí Phật tử phải cẩn thận. Mình không tạo tác, kiết sử tạo tác. Kiết sử có sẵn rồi nó dễ tạo tác.

Sư thí dụ. 

Ông bà của mình nói thí dụ con chó nó có 2: chó mà sủa là không cắn, và chó không sủa thì cắn.

Thí dụ như người ta nói, "ông mà đánh tôi, tôi dùng vũ khí tôi đánh ông". Thì người đó nói chỉ nói thôi. Hoặc "bước đường cùng tôi xử dụng cái này xử dụng cái kia", người đó chỉ nói thôi.

Thì con chó sủa thì không cắn, con chó không sủa thì cắn. Cơ sở nào nói như vậy? Câu nói này nói trong trí hay trong tưởng của mình?

Một thiền sinh trả lời: Tâm bắt một cảnh, con chó mà cái tâm của nó để ý sủa thì làm sao mà nó cắn được, do đó khi nó sủa thì nó không cắn.

HT trả lời: Phân tích như vậy không được, phải nói đúng theo Pháp. Pháp này dù ông bà mình có nói đi nữa vẫn không đúng. Đức Phật nói luôn luôn có 4 Pháp: Pháp thuận, pháp nghịch, pháp thuận nghịch, pháp nghịch thuận.

Sư thí dụ. Trời mưa có 4 Pháp: 

  1.  Trời gầm và Trời mưa

  2.  Không gầm và Trời mua

  3. Trời gầm và không mưa

  4. Không gầm và không mưa

Thí dụ Trời mưa chỉ cho người có tâm sân.

Cũng vậy, có 4: người Sân, nổi nóng là Sân, bực tức là Sân, có người không bực tức ngồi im ru ru vậy mà nổi sân. 

Do đó, pháp con chó sủa thì không cắn, con chó không sủa thì cắn, chưa đủ để xác định.

Và nếu không xác định được thì mình không nắm được 4 pháp này với một logic mà Đức Phật Ngài dạy thì bắt đầu mình suy tưởng, mình nghĩ tưởng ra.

Thí dụ, bây giờ nghe những tin tức người ta sẽ đánh chỗ này chỗ kia, dùng vũ khí này vũ khí kia, mình nói "nói không chứ không có, vì chó sủa chó không cắn, đừng có tin."  Nhưng mình nói như vậy là mình dùng trí hay dùng tưởng, hay dùng kiết sử. mình đoán.

Rồi bây giờ người không biết nữa nhảy vô nói: "Coi chừng thiệt đó, cái này tôi nghe tin tình báo nói." 

Do đó đừng tranh lý luận "con chó sủa thì không cắn, con chó không sủa thì cắn". Đừng sống theo lý luận này, đừng sống theo tư tưởng này, vì nó không đúng. Có khi con chó sủa nó cũng cắn chứ không phải không cắn, có khi chó không sủa cũng không cắn luôn.

Đập con chó đã chết thì có tội không? Không có tội vì nó đã chết rồi mình mới đập.

Đập con chó sống làm nó chết thì có tội, mà đập con chó đã chết rồi thì không có tội

Phải nói đúng cái trí chứ không nói theo kiết sử của mình. Có một số người hỏi Sư có dám làm không, Sư chưa dám nói, chó sủa oang oang đâu có cắn, chưa chắc, mình nhìn có một vế chứ đâu nhìn được 2 vế. Sống mình phải cẩn thận, nếu như không thấy đúng pháp thì kiết sử của mình dẫn mình đi.

Thế thì làm sao có pháp được, mình phải tu và có trí mình mới nhìn được pháp đè kiết sử mình lại không cho nó xen lên dắt mình đi, thì lúc đó mình phải đi trên con đường thấy pháp một cách chân lý được thấy một sự thật. Còn không là mình sai lầm hết.

Anurudha đắc tam quả, đắc thiên nhãn thông, Ngài nhìn thấy được các cõi trời vi diệu, nhưng không đắc được Alahan, tới hỏi Ngài Sariputta sao chưa đắc được Alahan, thì Ngài Sariputta nói; "vì ngã mạn của ngươi".

Thì cái ngã mạn của Ngài Anurudha là một kiết sử nó án che pháp của Ngài, Ngài không tới vô sinh được, không tới Alahan được.

Thì khi mình nhìn vô đó, mình lên tới tầng Thánh rồi. Phải nhớ khi tới tầng Thánh rồi mà qua tới tầng Sơ Đạo Sơ Quả bỏ kiến chấp, bỏ  tà kiến Micchādiṭṭhi, Sơ Đạo Sơ Quả là dẹp được thân kiến thì mình sống từ Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, toàn là ngã mạn, từ ngã mạn này qua ngã mạn kia.

Thế thì, người ta nói: "không, tôi không có ngã mạn". Nhưng còn ngã mạn ỷ thua. Mình cứ nghĩ rằng ngã mạn là "cống cao ngã mạn". Nhưng ngã mạn ỷ thua, mình thu thúc lại, mình khiêm tốn lại trong cái ỷ thua, đó cũng là ngã mạn. Do đó, mình nhìn góc độ ngã mạn khía cạnh của kiết sử của mình, chứ không phải nhìn thấy pháp.

Cũng như Sư muốn nhắc là các vị xuất gia thời Đức Phật cho tới ngày hôm nay, các vị xuất gia phải dừng lại, phải nghĩ lại mình không phải Thinh Văn Giác, mình đang tu, như Sư cũng đang tu, nếu như Sư là Thinh Văn Giác mà đắc đạo quả, còn đang tu là chưa đúng chưa sai, mình đang tu. Do đó, các quí thầy không thể nào phán quyết được một pháp nào nếu đang tu. 

Mình chưa là Thinh Văn Giác. Thinh Văn Giác phải là Alahan mà được bậc Chánh Đẳng Giác độ cho. Còn mình đang học tu. Mình không học hết Tam Tạng, không đọc hết Chú Giải, mà mình đi giảng đi dạy mình nói ra là tôi đúng hết. Cái đó là sai.

Cũng như vậy, khi ông bà mình nói: chó sủa  không cắn, và chó không sủa thì cắn. Mình chỉ nhìn khía cạnh này thôi, chứ không nhìn khía cạnh: Trời gầm và Trời mưa,  Không gầm và Trời mua,  Trời gầm và không mưa,  Không gầm và không mưa. Thì không ai xác định được: chó sủa  không cắn, chỉ một vài khía cạnh mà họ thấy thôi, chứ không xác định hết. Còn chó không sủa là chó cắn, cũng không phải như vậy. Do đó, mình phải cẩn thận.

Các quí Sư quí Thầy, Sư cũng nhắc hoài, mình chưa phải là Thinh Văn Giác, mình đang là học tu, các quí Sư là đang học tu, chưa phải là Thinh Văn Giác. Thinh Văn Giác là thời Đức Phật là Alahan, là sekha những bậc hữu học hay là asekha bậc vô học, hạng Thinh văn Đệ tử Đức Phật được bậc Chánh Đẳng Giác tế độ. 

Còn mình đang là những người tu, đang học từng Tạng, từng Pháp, rồi mình hành đúng theo Pháp, khi lọt vô kiết sử mình sử lý pháp hay kiết sử, mình đâu có phải đủ hết. Do đó, phải nhìn thấy góc độ đó.

Vậy thì, khi nhìn qua pháp cảnh Ngũ và cảnh Ý. Nếu mà cảnh nhãn, cảnh nhĩ, cảnh tỷ, cảnh thiệt, mà ở khía cạnh cực rõ, không cần phải đoán thì lúc đó xử lý nó đúng theo Pháp không?, Chưa chắc, nó có kiết sử chen vô. Thấy rõ rồi đó, nhưng có cái thiên vị vô, là kiết sử.

Chữ thiên vị, mà Đức Phật nói 4 pháp thiên vị đi địa ngục. 

Thiên vị có 4 là: 

1. Vì thương, vì thương là mình mờ hết lý trí, mình nghiêng ngã theo không còn công bằng nữa.

2. Vì ghét'

3. Vì sợ

4. Vì si

Trong 4 pháp thiên vị đó, quí Phật tử ở trong pháp nào?

Thực tế là không có biết, đừng có nói trước, bước không tới. Bây giờ đang học Pháp Đức Phật thì nói không có thiên vị vì thương vì ghét gì hết, mình công bằng, nhưng vô sự tình kiết sử lên lúc đó thiên vị mà mình không hay.

Thế thì khi đứng trước cảnh nội cảnh ngoại, đối với con là cảnh ngoại, đối với mình là cảnh nội, mình có thương không, có ghét không, có si không, với cảnh của mình chứ đừng nói cảnh ngoại của người, cái đó mới là tu. Kiết sử trong mình chứ không phải kiết sử trong người ta.

Khi mình ngồi thiền, cảnh đau đến mình phải vượt qua, không được ngừng ngồi thiền, nếu mà ngừng là vì thương, phải vượt qua cái đau. Ta lập nguyện ta phải đi tới. Nếu ngừng là vì thương, là thiên vị ta rồi.

Ta không vì sợ, ta không vì ghét, ta không vì si với người. Nhung đối với mình thì thiên vị, không có diệt nó, nó ngầm ngầm Anusaya, nó ngủ ngầm tùy miên. 

Kiết sử nằm trong ta chứ không nằm trong người, mình không có vì thương vì ghét vì sợ bên ngoại, nhưng trong mình, kiết sử nổi lên lúc đó nó dắt mình đi theo đường thiên vị, trí không đi đường trí tuệ, không sáng suốt để giải quyết.

Chính cái đó Sư muốn nói cho quí Phật tử phải tỉnh giác, vì không có Sư không ai nhắc, lúc đó đứng trước hoàn cảnh đó thân nhân không giải quyết được, pháp thiên vị của kiết sử lên bảo vệ cho mình. Bồ Tát nhiều phen đã gục ngã bỏ cuộc, nhưng trí tuệ của Ngài và các vị Chư Thiên, mẹ của Ngài đến sách tấn Ngài chứ còn không Ngài bỏ cuộc. Không phải người ta tu mà miên mật miên trường đâu, khi đứng trước một nghịch cảnh quá lớn có khi bỏ cuộc, có khi nổi sân lên vì không chịu nổi nữa. Phải cẩn thận.

Mình nói về mình, kiết sử là loại ngủ ngầm trong ta, chưa gặp hoàn cảnh, khi gặp cảnh nó đánh mình quên luôn pháp, không có trí tuệ mình nhìn thấy được nó. Phải cẩn thận.

Khi ngồi thiền hay khi đi thiền hành, loại nào mà mình thích là đang bị thiên vị, mình phải đi nghịch lại, đạo là đi nghịch lại với đời, cái nào mình thích, chặn kiết sử lại, không cho thiên vị, mình phải đi đúng pháp. Mà pháp nghịch là gì? Pháp đó mới là thực tướng.

Nên trong 7 Pháp tu tập. Đức Phật Ngài dạy 7 Pháp tu tập: Ông thầy khó là Pháp, phải gặp ông thầy khó. Cái pháp ông thầy khó không thiên vị, ông quyết định mình phải làm để vượt qua, lúc đó mình mới vượt qua được. Còn không Anusaya ngủ ngầm thùy miên thiên vị làm mình bỏ cuộc, làm mình lui sụt, Anusaya ngủ ngầm thùy miên rất tinh vi và đánh đúng tâm lý của mình mà mình rớt vô thiên vị mà không hay. 

Nó đâu có hại mình đâu, mà mình tự hại mình.

Nên 4 pháp: vì thương, vì ghét', vì sợ, vì si, mình có rõ ràng, mình còn cho chính mình chứ không cho ai hết. Sáng mình ngồi dạy không nổi, mình đang thiên vị, thức ăn ngon mình ăn nhiều, mình đang thiên vị.

Trong 4 pháp: 1. Trời gầm và Trời mưa,   2. Không gầm và Trời mua,  3. Trời gầm và không mưa,  4. Không gầm và không mưa. Thì một trong 4 pháp đều đúng, nhưng chỉ đúng một khía cạnh thôi chứ không đúng hết. Nên mình học Pháp Thú (Paṭṭhāṇa) mình mới thấy được 4 pháp, có khi là thuận cũng là pháp, nghịch cũng là pháp, thuận nghịch đi đôi cũng là pháp, mà nghịch thuận đi đôi cũng là pháp. Do đó mình không nói một chiều, một khía, mà mình nhìn không toàn diện thì mình bị khiếm khuyết. Phải cẩn thận. Khi mình nói ra mình phạm vào ngữ nghiệp, mà nghĩ thành ý nghiệp, mình phải thấy rõ.

Đức Phật Ngài ngự phòng, Ngài ngăn ngừa hết, để cho mình đừng có tạo ra.

Bây giờ cảnh ngũ mà nó là Hy Thiểu, cảnh Cực Kỳ Hy Thiểu, mình không biết bắt đầu mình đi ra đoán với tưởng, mình không có ngừng, mà mình đi qua đoán qua tưởng, mình nghĩ mà mình cho là đúng, nhưng thật ra sai.

Do đó, người ta tỉnh giác khi thấy pháp thì mình mới ra tuệ, mới ra được liễu tri, còn không mình ra pháp tưởng của mình, mà tưởng còn gây ra bao nhiêu chuyện sai lầm, rồi mình ôm cái đó mình nghĩ là mình có trí mình giải quyết  vấn đề, ai nói vô mình không nghe, cái đó hại mình. Do đó, không nói được.

Khi mình còn đang tu, mình chưa phài Thanh Văn Giác, chưa đắc quả Thánh thì mình chưa có quả quyết được, và mình không tuyên bố được.

Các quí Phật tử phải nhớ là xưa nay Sư nói quí Phật tử ráng tu, mình có cái phước là mình có Chánh Pháp mình tu được, chứ còn người ta không có Chánh Pháp họ không tu mà họ còn nói nữa là họ sai. Các quí thầy không nói được, cái quí thầy chưa đắc quả Thánh, các quí thầy đang tu mà chưa có Tam Tạng đủ mà nói khẳng định thấy cái này biết, cái đó nguy hiểm lắm.

Sư cũng vậy, Bồ Tát nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác, chứ Sư chưa phải là Chánh Đẳng Giác, Sư đang tu, từ cái nguyện trong tâm rồi nói ra lời, Sư phải tỉnh giác, phải ngăn ngừa, phải trí tuệ, phải tạo tác trong sự cân nhắc hiểu biết, chứ không có khinh suất được. 

Như vậy thì hỏi quí Phật tử còn pháp thiên vị không? Kiết sử là trong mình chứ không phải trong người, đừng nhìn qua người ta, đừng bao giờ nhìn người khác, chỉ nhìn vào mình, mình đang gột rửa, đang tu tập, đang sửa đổi, mình chưa là Thinh Văn Giác, mình còn phải tu. 

Mình nhìn người khác là sai lầm. Trong khi mình nhìn người khác là mình không có tu cho mình, và mình đi theo cảnh đó là mình đang phóng dật, tạo tác ra những điều sai sót. Do đó, phải cẩn thận.

Trong cái 4 pháp làm cho một vị tỳ khưu trong sạch, không phải chỉ có biệt biệt giải thoát giới. Một vị tỳ khưu có tứ thanh tịnh giới:

1) Biệt biệt giải thoát cảnh giới. Không có samvarasila là cảnh giới, là cảnh báo. Luôn luôn là cảnh giới, tức là đề cao cảnh giác, là ngăn ngừa và gìn giữ 

2) Căn phòng luật nghi. Căn là indriya là các căn mình cẩn phòng giới theo luật và nghi thức đầy đủ. Là Ngài không cho mình để các căn phóng dật, nhãn phóng dật theo cảnh sắc, nhĩ phóng dật theo cảnh thinh.

3) Sinh kế cảnh giới. Tức là giới nuôi mạng chân chánh, tức là mình không sống tà mạng.

4) Khảo sát tất nhu cảnh giới. Quán tưởng tứ vật dụng, tức là sau khi thọ; y áo, thuốc men, trú xứ, vật thực. Tứ vật dụng của người xuất gia. Tất là tất yếu nhu yếu phẩm.

Do đó 4 thanh tịnh giới là mình phải có. Thì 4 pháp này là Thanh Tịnh Giới của một người xuất gia cũng như người tại gia nếu các quí Phật tử sống với cái này là đang sống trong sự thanh tịnh trong sạch.

1) Người cư sĩ không có giới thứ nhất, Biệt biệt giải thoát cảnh giới, thì mình có ngũ giới, hay bát giới, hay thập giới, đó cũng là cảnh giới của người cư sĩ.

2) Thu thúc các căn cũng là pháp của người tại gia để không bị phóng dật, không để cho mắt nhìn cảnh sắc chạy theo cảnh sắc bên ngoài

3) Sinh kế của người tại gia phải có chánh mạng. Người xuất gia chánh mạng trong giới luật. Người tại gia chánh mạng trong sự kiếm sống một cách trong sạch, mình không làm điều gì sai.

Trong 3 pháp ngăn trừ phần; Sinh kế cảnh giới nuôi mạng chân chánh. Căn phòng luật nghi là thu thúc các căn. Biệt biệt giải thoát cảnh giới là ngũ giới, bát giới, thập giới, mình phải giữ cho trong sạch. Khảo sát tứ vật dụng trong dời sống của mình.

Chánh ngữ có 4: vọng ngữ, ly gián ngữ, thô ác ngữ, hồ ngôn loạn ngữ.

Chánh nghiệp có 3: 

Chánh mạng có 7: 4 + 3 = 7

Thì số 7 là có: 4 vọng ngữ, ly gián ngữ, thô ác ngữ, hồ ngôn loạn ngữ + 3 sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Cộng lại là Chánh Mạng, là nuôi mạng mình phải chân chánh.

Thí dụ, mình đang là người buôn bán là nghề nuôi mạng mình, nuôi chính mình và nuôi gia đình mình. Khi nói là 'sinh kế cảnh giới' chỉ dành cho người xuất gia, người tại gia không có, nếu người xuất gia không có 'sinh kế cảnh giới'  thì người đó đang sống trong tà mạng. Thí dụ như buôn sinh bán tử là phạm giới rồi, mà để nuôi mạng mình thì đó là tà mạng. Nuôi con gà sống đem ra chợ bán để kiếm tiền thì đó là sống trong trạng thái tà mạng. Do sát sinh để nuôi mạng mình, chỉ trừ khi làm bánh bán để kiếm tiền thì đó là nuôi mạng chân chánh.

 Do đó, Chánh Mạng là mình không phạm vào 7 pháp này: Chánh ngữ có 4: vọng ngữ, ly gián ngữ, thô ác ngữ, hồ ngôn loạn ngữ.

Chánh nghiệp có 3: 

Chánh mạng có 7: 4 + 3 = 7

Thì số 7 là có: 4 vọng ngữ, ly gián ngữ, thô ác ngữ, hồ ngôn loạn ngữ + 3 sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Cộng lại là Chánh Mạng, là nuôi mạng mình phải chân chánh.

Còn Chánh Mạng của người xuất gia là 21 pháp tà mạng, chẳng hạn như; cấm coi bói, cấm coi chỉ tay, cấm coi sao trời, cấm coi tử vi, cấm coi phong thủy .v.v... những cái đó là nuôi mạng không chân chánh của người xuất gia. Người xuất gia không được coi phong thủy.

Khi họ nói với tâm từ để sửa cuộc sống cho một người thì không phạm.

Còn người vì mưu sinh và là nghề của họ như vậy, vượt ngoài chức năng Tam Tạng và Chú Giải, họ làm nghề đó để nuôi mạng thì người đó không phạm cảnh giới.

Còn tứ nhu yếu phẩm là phải quán tưởng trước khi dùng, ngay khi dùng, sau khi dùng, để cho cuộc sống mình trong sạch.

Sư từng nói; 'chén cơm nào mà ta ăn chưa chan đủ mùi nước mắt và máu, chưa gọi chén cơm ngon'. 

Quí Phật tử nghĩ đi, chén cơm mình ăn, nó phải chan bằng nước mắt và máu của mình đang chảy ra để mà có được chén cơm này thì chén cơm đó trong sạch, còn người làm chuyện phi pháp bất nghĩa để có được chén cơm thì ăn không có ngon miệng, cái đó không có phước. Mồ hôi nước mắt mình làm ra mới có, chứ không phải mình có với trạng thái là; 'con ơi nhớ lấy câu này, một đêm ăn trộm bằng ba năm làm'.

Do đó, người xuất gia hay người tại gia mình cũng có cái này. Nhưng đúng với pháp, nếu không có giới thì vô ngồi định không nổi.

Đức Phật nói: 'Giới năng sinh định.'

Giới không có thì Định lung lay. Người ăn cắp, khi ngồi thiền nghe tiếng động là giật mình, không yên, vì sợ.

Ngay cả Ngài Mục Kiền Liên Moggallàna 3 lần tên cướp đến, lần thứ nhất Ngài trốn, lần thứ II Ngài trốn, lần thứ III Ngài ở lại. Ngài là đệ nhất thần thông, lần thứ nhất Ngài đang ngồi thiền trong tịnh thất, 500 tên cướp bao vây tình thất của Ngài, Ngài nghe tiếng động Ngài trổ nóc nhà đi trốn, bọn cướp xông vào không thấy Ngài. Lần thứ hai bọn cướp đến bao vây tịnh thất Ngài lần nữa, Ngài nghe tiếng động, Ngài chui ổ khóa Ngài đi. Lần thứ 3, Ngài tự hỏi tại sao bọn cướp đến kiếm ta hoài vậy, ta có oan trái gì với bọn họ không? Thì Ngài nhớ lại là Ngài không có đụng vô 500 tên cướp này. Nhưng, pháp quả bất thiện của Ngài xuất hiện, Ngài thấy trong một kiếp quá khứ Ngài vì thương người vợ mà Ngài đánh đập cha mẹ tử vong thì hôm nay quả nó đến, Ngài không đi nữa, bọn cướp xông vô giết Ngài và bằm Ngài tan nát.

Ngay khi Mục Kiền Liên ở trong trạng thái giới của Ngài là Alahan nhưng Ngài nhớ lại nghiệp quá khứ Ngài đã làm ra với cha mẹ Ngài, Định Ngài vô không nổi, lúc đó Ngài không vô định, lúc đó Ngài quán thấy xong Ngài mới trở vô cái định của Ngài chớ Ngài không nghĩ tới 500 tên cướp đó nữa, cảnh đó là cảnh ngoại rồi. Ngài trở vô cảnh nội của Ngài mới định được.

 Chứ còn khi mình ngồi thiền, không những là cảnh ngoại mà cảnh nội 2 cái tấn công mình  nếu như mình không có giới.

Nếu không có giới thì vừa nội tấn công và vừa ngoại nó chi phối mình không có định nếu không có 3 ngăn trừ phần; Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Lúc đó mình ngồi thiền, ở ngoài tấn công, ở trong nội tấn công, 2 bên tấn công không cách nào mình ngồi thiền mà vào định được.

Do đó, khi các quí Ngài, như Ngài Pandita, Ngài Janaka, Jatila, tất cả quí Ngài kêu là mình phải sám hối trước khi vô ngồi thiền. Để phần quá khứ mình có tạo ra, mình sám hối là ngay lúc sám hối là mình có giới, ngay mốc thời gian mà sau khi sám hối mình xin giới lại xong thì vô định thì lấy cái định, không nhìn lui vế quá khứ, thì mới qua được định mới qua tuệ. Phải cẩn thận.

Như vậy thì, khi mình đi qua tới phần với pháp mình muốn tu tập cảnh ngũ mà mình không muốn đoán không tưởng, thì mình phải có trạng thái định trong giới mới an toàn.

Như vậy thì, kiết sử này không có giới, Pháp hiện bày tới mà có kiết sử sinh lên là mình đang không có giới. Khi mà Pháp tới, thí dụ như lộ ngũ nó không có ra mà qua lộ ý kiết sử sinh lên mình không có giới. 

Khi ngồi không vô định được, thì mình phải xét lại, nhân sinh định là giới, giới năng sinh định mà giờ không có thì coi lại giới. Giới của mình coi từng bước, ngũ giới, bát giới, thập giới có an toàn không. Giới này là giới nguyện, giới ngăn ngừa, thân, ngữ, ý.

Mình đang nguyện giới mà không biết có an toàn không, thì phải coi lại thân, ngữ, ý của mình có ngăn ngừa không, hay là mình chỉ nguyện suông thôi, "con xin vâng giữ điều học là tránh xa sự sát sinh, con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa trộm cắp", mình chỉ nguyện suông thôi. Nhưng trong cái nguyện đó mình chỉ nguyện thân ngữ ý mình có ngăn ngừa không.

Rồi mình bắt đầu sát trừ tiền khiên tật thân, hay kiết sử, mình có sát trừ nó không. Đó mới là giữ giới an toàn.

Trong Chánh Ngữ, ngoài giờ ngồi thiền, ngoài giờ thiền hành, ngoài giờ thiền tọa, ngoài giờ thiền ngọa, ngoài giờ thiền trụ, 4 oai nghi đó, ở trong thiền đường. Rời khỏi 4 oai nghi đó, rời khỏi thiền đường đó, mình trở về trú xứ phòng của mình, mình có giữ được giới về Chánh Ngữ không? Hay là mình đã buông, mình chỉ thu thúc ở trong khuôn khổ của thiền đường thôi, rời khỏi thiền đường ra bước ra khỏi hành lang thôi thì Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh Nghiệp là bắt đầu chạy.

Do đó, những giới nguyện phải luôn luôn có Niệm và Tỉnh Giác thì mới có định được. Muốn giới được an toàn thì Niệm và Tỉnh Giác mình phải giữ cẩn thận miên mật, thì mới có định được. Tại các thiền đường họ cẩn thận, các vị thiền sư cho các vị giám thị canh gác mình từ ở trong ra ngoài, về tới phòng các vị giám thị theo dõi mình, nhắc mình để cho mình ở trong Niệm và Tỉnh Giác để đừng phóng dật, giữ mình trong Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng. 

Mình không có cẩn thận thì khó có định, định của mình giống như bánh xe có nhiều lỗ muội làm bánh xe bị xì hơi, thì lúc bấy giờ mình khó có tuệ. 

Như vậy thì giữa cảnh Ngũ (qua 5 cửa: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân) và cảnh Ý, cảnh nào cần tu? 

- Nhãn bắt cảnh sắc cần tu. 

- Nhĩ bắt cảnh thinh cần tu. 

- Tỷ bắt cảnh khí cần tu.

- Thiệt bắt cảnh vị cần tu.

- Thân bắt cảnh xúc cần tu.

Hay là Ý bắt cảnh pháp cần tu, Nhãn thu thúc khi nhìn cảnh sắc,  Nhĩ thu thúc khi bắt cảnh thinh, hay là Ý không bắt cảnh pháp?

Nhãn cứ nhìn cảnh sắc, nhưng Ý không bắt cảnh pháp.

Nhĩ cứ bắt cảnh thinh, nhưng Ý không bắt cảnh pháp

Tỷ cứ bắt cảnh khí, nhưng Ý không bắt cảnh pháp

Bây giờ giữa cảnh Ngũ và cảnh Ý. Trong đời sống hàng ngày, mình sống nhiều trong cảnh Ngũ hay là sống nhiều trong cảnh Ý. Trong đời sống tu tập mình sống nhiều trong cảnh Ý nhiều hơn cảnh Ngũ. Mình phải tìm ra mình sống với cảnh nào nhiều nhất.

Quí Phật tử phải hiểu khi người ta hỏi câu đó mình phải suy nghĩ giữa cảnh Ngũ và cảnh Ý mình tu cái nào. 

Quí Phật tử phải nhớ, tất cả các con đường nào đến Ngũ có đều phài do Ý. Do đó, mình phải tu Ý.

Nhãn muốn bắt cảnh sắc phải do Ý dẫn dắt, nó làm chủ. Mình phóng dật từ Ý mắt bắt cảnh sắc liền.

Bây giờ Thinh tới mà mình không có Ý thì Nhĩ bắt thinh liền, rất nhanh, không chậm trễ, vừa thấy là bắt, Ý mình không làm chủ được, nó chạy theo cảnh.

Trong 2 cảnh Ngũ (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân) mà chỉ có một Ý, Ý làm chủ, Ý dẫn đầu các Pháp. Bây giờ có người hỏi cảnh Ý mình phải tu cái nào, mình phải tu cảnh Ý, chứ không tu cảnh Ngũ. 

Ngay khi Ý mà xúc một cái là mình thấy tướng nó không để mình chạy qua Nhãn để bắt cảnh sắc. Ý có cái xúc thì bắt đầu nó thấy rồi, nó bắt liền, chứ đừng để cho tới Nhĩ, Nhãn, Tỷ, Thiệt, Thân.

Upatissa vừa nghe thì Ý ông xúc vô một cái là ông bắt được tướng của pháp chứ không cần phải qua Nhĩ, cảnh thình, rồi qua Ý giải đáp được cái đó.

Do đó, cái Ý mà xúc vô một cái là bắt đầu qua tỉnh giác lấy thực tướng liền chứ đừng có chạy nữa. Đừng chạy, đừng có chỉ, đừng điều khiển, mình phải tỉnh giác, mình thu thúc nó lại. 

Do đó, đầu buổi vô Sư nói là khi Ý vừa vô xúc một cái là bắt đầu lấy Tỉnh Giác lấy Trí lấy được Thực Tướng ra, chứ đừng để chạy vô nữa.

Giữa cảnh Ngũ và cảnh Ý có cảnh ngoại và cảnh nội, thì khi ngoại tấn công vô, Ý mình xúc vô một cái là lấy thực tướng liền, chứ đừng có chạy ra ngoài để lấy cảnh ở ngoài nữa, thì mới có tu, còn nếu chạy nữa không kiểm soát được kiết sử dẫn dắt, lúc đó  rớt luôn con đường trí tuệ.

Như vậy thì, khi cảnh ngoại tới Ý biết thì Xúc vô bắt lấy thực tướng chứ nó không giải đáp cảnh ngoại, cắt kiết sử ngay trong đó, kiết sử nằm trong mình chứ không ở bên ngoài. Mà nếu mình dắt đi thì kiết sử dắt đi chứ không phải pháp dắt đi, không có trí.

Vậy thì khi cảnh Ngũ với cảnh Ý tới thì mình lo tu cảnh Ý.

Do đó, mình không có đi ra ngoài, Nhãn tới, Nhĩ tới, Tỷ tới, Thiệt tới, Thân tới, Ý vừa xúc là Ý biết là mình tu, tu tại Ý, chứ không có đi ra ngoài, không có giải đáp.

Ví dụ. Người ta nói xấu mình, thì cái Ý của mình là Tu hay Ý mình là giải đáp? 

- Nếu mình giải đáp thì mình ra ngoài.

- Nếu mình tu thì mình cắt kiết sử của mình. Cắt liền ngay Ý và mình diệt liền đừng cho nó khởi sinh lên. Đó mới là tu.

Như vậy thì các quí thầy đụng chuyện vô là xử lý, mấy thầy không tu, mấy thầy phán quyết phải như vầy như vầy, bắt các Phật tử phài nghe, không phải như vậy, mấy thầy phải tu trước.

Mình phải tu trước, rồi mình mới nói cái gì sau, thì mới ra được, chứ mình cứ đoán hay mình tưởng, mình sống không có thật, sống không có trí, mình sống thiên vị cho mình thôi, và mình sống không có giới, thì mình không có định, không có trí, không có tuệ.

Sư hỏi thêm. Giữa cảnh Ngũ và cảnh Ý với lộ Ngũ và lộ Ý, tu lộ nào?

Thì Ý xúc vô là mình tu chứ không kể Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân. Quí Phật tử mà ra Nhãn, Tỷ, Thiệt, Thân, là tài lắm.

Không tu kiểu thu thúc lục căn, mà chỉ tu cái Ý thôi, chỉ giữ cái Ý, tôi không có thì giờ lo các căn, các căn có phận sự của nó, Ý của tôi giữ không xong thì làm sao tôi giải quyết được kiết sử của các căn, lo tu Ý thôi. Không có đụng ai hết, mà không đối ngoại, mình không có xử lý gì hết, lo tu cái Ý của mình với cái Pháp với kiết sử của mình ở trong nội thân của mình là an toàn. 

An toàn trong cái giới trong cảnh giới mình đang phòng hộ, chứ không khinh xuất. 

Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, là mình đang tiếp xúc bên ngoài là mình đang phóng dật.

Làm sao biết cảnh sắc đó nó không có hiện bày kiết sử của nó. Cái Ý mình cũng chưa nắm được cái pháp của mình vì Ý chưa có, chưa tu xong thì làm sao giải quyết được 5 căn kia./.


No comments:

Post a Comment