Tâm Siêu Lý (tiếp theo) - Vi Diệu Pháp 06 (Phần 2) - TT Sán Nhiên
Minh Hạnh đã được nghe để học và, xin ghi chép lại theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "Vi Diệu Pháp 06" do TT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức. Và xin thành kính cảm tạ ơn TT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.
Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh
TT Sán Nhiên: Khi nói tới Tâm Siêu Thế:
1) Thứ nhất, chúng ta phải biết tâm này không liên quan đến những gì của Tam Giới, không còn có những Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới thì được gọi là Tâm Siêu Thế.
2) Thứ hai, khi nói tới tham sân si, chỉ là một căn ngọn thôi và nó có nhiều chi nhánh ngọn ngành. Căn bản đầu tiên người tu Phật chúng ta sẽ thấy nguồn gốc của 3 bất thiện là si, rồi dẫn tới sân, rồi dẫn tới tham, chúng ta phải biết rõ như vậy. Nếu chúng ta không si mê thì không có tham, nhiễm đắm, dính mắc, đeo níu, và bám giữ, chúng ta không có si mê thì chúng ta không có sân hận, giận dữ, nóng nảy, bực tức. Những pháp bất thiện hiển bày thô thiển hay vi tế do từ nơi si mà ra.
Khi ta nói đến tham nó bắt đầu hiện bày ra tà kiến và ngã mạn, đó là chi tiết khi học qua phần Tâm Sở chúng ta thấy rõ hơn.
Khi tâm tham đang khởi sanh lên, do thấy sai trách lầm, thí dụ, người ta nói "anh sai rồi, anh sửa tri kiến anh lại, anh sai rồi không đúng" mà mình nói "không, tôi không muốn sửa, kệ tôi" thì cái chấp đó là tham, bị dính mắc. Còn nếu như mình tham mình buông liền, thí dụ, người ta nói thấy stop sign thì ngừng lại anh không được chạy nữa nếu anh chạy nữa anh bị phạt, mình nói "không kệ tui, tui cứ chạy", thì lúc đó anh này chấp vào là do anh bị tham mà anh thấy sai, bởi vì tham dính mắc mà buông bỏ. Nên người tu mình không sợ thấy sai mà sợ mình không buông bỏ, thấy sai ta sửa sai được, nhưng không buông bỏ, là tham chấp.
Trạng thái ngã mạn là chấp giữ thân tôi, ta, hơn, bằng và, thua. Thua cũng chấp, bằng cũng chấp, hơn cũng chấp, đó là ngã mạn.
Ba chữ; hơn, bằng, thua, mình chấp vô đó, mình giữ ở đó, mình không muốn bỏ cái đó là, mình ngã mạn ngay đó. Nên không trách cái ngã mạn mà trách cái tham.
Khi tu tập đạt đến Tam Quả A-na-hàm thì tham thô và tham tế đều hết. Quả thật như vậy, khi ta tới Tứ Quả thì không có ngã mạn, tham diệt rồi thì ngã mạn đó thường vô đến Alahán sẽ có con đường cắt đứt nó được.
Do đó, ngã mạn này con đường phải diệt đầu tiên là tham, khi nào tham được diệt rồi thì tà kiến và ngã mạn sẽ được diệt, cái gốc tham diệt rồi thì không còn tà kiến và ngã mạn.
Khi sân hiện bày kéo ra tật đố là đố kỵ, kéo ra bỏn xẻn hay lận sắc, hối hận. Tật đố, lận sắc và hối hận là một nhóm với sân.
Mình tật đố, mình đố kỵ với người ta tâm mình sân, tại vì mình thua họ, mình không bằng lòng với họ, mình không hoan hỉ với họ, mình mới tật đố với họ, sân nổi lên vì mình không hoan hỉ với họ. Khi mình hoan hỉ với họ mình diệt tâm đố kỵ.
Cái thứ hai nữa, Và tật đố không bao giờ xảy ra khi mình là người trên đố kỵ với người dưới, tật đố chỉ có với những người dưới đố kỵ với người hơn mình. Ông vua không bao giờ đố kỵ với người nghèo người nông dân, chỉ có người dân mới đố kỵ với ông vua. Do đó, tật đố luôn luôn là ở dưới ngó lên trên chứ ở trên không ngó xuống dưới. Người chị vừa đẹp vừa có tài không đố kỵ với đứa em gái xấu, mà đứa em gái xấu lại đố kỵ với người chị tài sắc, mà người chị xấu hơn em gái cũng sẽ đố kỵ với em gái. Người nào cũng có tánh tật đố, tánh tật đố nằm trong tâm sân, phải đến khi đắc Tam Quả thì sân mới hết.
Bỏn xẻn là lận sắc là keo kiệt, không chia sẻ, bỏn xẻn có 5 :
1) Bỏn xẻn về tri kiến.
2) Bỏn xẻn về dòng giống.
3) Bỏn xẻn về của cải.
4) Bỏn xẻn về chỗ ở.
5) Bỏn xẻn về Phật Pháp.
Năm bỏn xẻn này được giải thích như sau:
1) Bỏn xẻn tri kiến là cái mình biết mình không cho người khác biết, đó là bỏn xẻn tri kiến, mình ích kỷ keo kiệt dấu diếm hay gọi là dấu nghề nữa.
2) Bỏn xẻn về dòng giống là môn đăng hộ đối, ông bà mình xưa nay hay coi trọng danh gia thế phiệt, cưới hỏi môn đăng với nhau, còn nông dân thấp hèn không xứng với hoàng tộc, đó là bỏn xẻn dòng giống. dòng dõi vua không muốn gả cho thứ dân, giống như ngày nay chúng ta còn thấy bên vương quốc Anh vẫn còn bảo thủ dòng tộc của họ, họ chỉ lấy người trong dòng tộc của họ thôi chứ không lấy thứ dân, đó gọi là bỏn xẻn dòng giống. Còn hồi xưa thời kỳ Đức Phật, vua chúa thì hiện bày bòn xẻn dòng giống rất nhiều, thủ đà la không bao giờ được sánh vai với bàlamôn, thủ đà la là hạng nô lệ hạng nông thôn thấp hèn, ở hạng thứ tư là không được sánh vai với hạng thứ ba, thứ hai hay thứ nhất. Người bỏn xẻn dòng giống kiếp sau sinh ra gặp dòng giống hạ liệt, thấp hèn.
3) Bỏn xẻn về của cải là keo kiệt, bủn xỉn khư khư ôm giữ quá đáng của cải của mình, còn gọi là giữ của, luôn canh phòng, bảo vệ những của cải của mình.
5) Bỏn xẻn Phật Pháp là xấu nhất và tội lỗi nhất, bốn cái bỏn xẻn kia không đáng trách bằng. Người bỏn xẻn Phật Pháp đời sau sanh lên không gặp Phật Pháp để tu. Biết Phật Pháp mình phải chia sẻ, chỉ dẫn, vui vẻ trình bày hết những gì mình biết để cùng nhau tu học. kiếp này biết Phật Pháp mình không hoan hỉ chia sẻ mà còn che dấu, kiếp sau mình không gặp được Phật Pháp để tu tập. Phật pháp trên con đường luân hồi cầu giải thoát mình sẽ gặp hoài với Phật Pháp, chúng ta phải cẩn thận.
Hối hận hối tiếc có 2 chi:
1) Hối tiếc, việc thiện đáng làm không làm, mình để việc thiện đó trôi qua nhớ lại mình hối tiếc, không phải hối hận, nhưng việc bất thiện hay là việc ác nào đã làm rồi nhớ lại mình hối hận. Thí dụ, mình là con hỗn với người mẹ cha, mắng nhiếc cha mẹ khi nhớ lại điều đó thì hối hận. Còn người cha mẹ có điều kiện nuôi dưỡng người con hoàn hảo tốt lành nhưng người cha mẹ không làm điều đó khi nhớ lại thì hối tiếc, mình không chịu giúp con lớn lên, đáng lý mình phải khuyên nhủ nó, phải dạy bảo mà mình không làm để nó trôi qua để nó gặp khó khăn trở ngại, nhớ lại mình hối tiếc.
2) Hối hận là khi mình làm việc xấu ác việc bất thiện không đáng làm mà mình làm, khi nhớ lại mình hối hận, còn hối tiếc là việc thiện nào đáng làm mình không làm khi nhớ lại mình hối tiếc, chẳng hạn như sáng nay mình thấy một vị Sư đi khất thực ngang qua nhà đáng lý mình phải bỏ bát cúng dường vật thực cho vị Sư đó nhưng mình không làm để nhà Sư đi qua rồi mình nhìn lại bóng dáng mất hút mình hối tiếc.
Sự hối tiếc đó ở trong trạng thái bất toại nguyện, khi nào tâm qúi Phật tử có hối tiếc hối hận là khi đó tâm qúi Phật tử đang ở, trạng thái tâm sân, trạng thái tâm bất thiện.
Khi đang ngồi thiền những, tật đố, lận sắc, hối hận, hiện bày:
- Chẳng hạn như đang ngồi thiền ý tưởng người bạn ngồi thiền tốt còn mình không tốt thì đó là tật đố khởi sanh.
- Còn mình ngồi thiền tốt người ta hỏi mình không chỉ là, lận sắc phát sanh.
Thiền Sinh: Thưa Sư, về người mẹ không dạy con đúng, đứa con như nó làm những chuyện tội lỗi ngoài xã hội, tâm trạng của người mẹ đó có phải là hối hận không?
TT trả lời: Trường hợp này là hối tiếc, không phải hối hận. Hối hận là khi chính bản thân mình làm điều xấu ác rồi sau đó mình nhận ra thì mình hối hận, còn nếu mình không làm điều gì tốt sau đó mình hối tiếc.
Thiền sinh: Phải chăng sự buồn phiền, sự phiền não của người mẹ là hối hận hơn là hối tiếc.
TT trả lời: Người mẹ bị hai cái; một là hối tiếc, chuyện đáng dạy mà mình không dạy, và tiếc nuối cái đó với trạng thái xót xa đau khổ là sân, hai cái nó cộng lại.
Sân, tật, lận sắc nó không đi chung một lúc;
- có khi sân đi với tật đố mà không đi với lận sắc và hối hận.
- Có khi sân đi với lận sắc mà không đi với tật đố.
- Có khi sân đi với hối hận mà không đi với tật đố với lận sắc.
Sân, tật, lận, hối là bốn cái bất định và đi riêng.
Còn tật hối và ngã mạn không bao giờ đi chung nhau, hai con sư tử không ở chung một khu rừng, tà kiến và ngã mạn, một cái nhìn ra một cái nhìn vào, cái tà kiến nhìn ra ngoài cái ngã mạn chấp vào con người mình, ngã mạn là nhìn vô mình, tà kiến nhìn ra ngoài do đó hai người này không đi chung.
Có tà kiến thì ngã mạn không có, ngã mạn có thì tà kiến không có.Tật đố có thì lận sắc không có mà nó có sân,
Sân có tật đố, lận sắc có sân, hối hận có sân, chứ không phải lúc nào cũng có luôn bốn cái; bỏn xẻn, lận sắc, tật đố, hối hận.
Còn tật đố, đố kỵ, ganh tị, nó không có cái nào đi chung hết, chính do đó khi người mẹ người cha thấy con mình hư là mình hối tiếc đã mất cơ hội dạy nó và tâm mình đang sân hận chứ không phải mình đang hối hận, hối hận là người đã tạo ra một việc xấu ác việc bất thiện, mình hối hận cả đời mình.
Khi mình thấy tà kiến mình sai, mình diệt trừ tham trước rồi mới diệt tà kiến được, mình phải buông bỏ cố chấp của mình trước rồi mới sửa tri kiến trở về đúng. Còn chưa buông bỏ mầm gốc tâm tư cố chấp của mình thì mình sửa tri kiến đó chỉ là hình thức chứ không phải là thực chất.
Ngã mạn cũng vậy, mình cống cao ngã mạn, tăng thượng mạn, tự cao tự đại, lúc đó mình muốn diệt nó mình phải diệt tham ái của mình, cái lòng thương của mình, tự ái của mình cao hơn người khác mình mới ngã mạn.
Tự ái là thương chính mình và không thương ai. Người ta nói tới đụng tới mình lòng thương mình nổi lên, mình sân, mình gây gỗ, đó là mình phải thương chính mình trước nhất, mình thương mình hơn hết, và cho rằng không ai thương mình, chỉ có mình thương mình thôi. Chính cái đó mình mới tự ái, mà tự ái chỉ con người mình tự nhận thôi, không ai thương mình hết.
Như vậy, người tu thiền luôn luôn tự ái khi họ không thành công, họ bị thất bại, họ bị thua thiệt, họ sẽ trở lên mặc cảm tự ti, tự ái sẽ bước qua một thảm trạng tâm lý khác là mặc cảm tự ti, mình cần kéo họ xuống, họ đang đào một khoản cách xa hơn nữa con người thật của họ đang có, con người mà họ đang giữ đó là cái tự ái.
Chính do đó khi các hành giả ngồi thiền không nên nghĩ tới sự tự ái mà chỉ nhìn thấy cái pháp với tâm mình sáng suốt nhìn thấy rõ nó chứ không thì tự ái tại nơi đó "tui dở quá tôi ngu quá tôi vụng về quá tôi làm không được", lúc đó là mình đào hố sâu hơn nữa trên con đường mình tu tập chứ không phải là mình thương cho mình tốt nhất. Khi mình vô nghe pháp mình không hiểu mình nói rằng "tôi học pháp mà không hiểu gì vì nó sâu sắc khó hiểu anh chị giỏi quá khi hiểu được pháp này", cái đó là tự ti mặc cảm bởi mình tự ái có sự so sánh, cái đó là vi tế.
Do đó, khi ngồi thiền mình không nên sợ thua hay sợ thất bại, mình phải đi tới để đạt được thiền, thua keo này ta bày keo khác.
Si có hai trạng thái là hoài nghi và phóng dật.
Khi tâm không sáng suốt ta có sự nghi ngờ, khi có sự nghi ngờ tức là chúng ta không rõ biết vấn đề, khi ta rõ biết hết thì không còn hoài nghi. Mình đi lạc đường biết bị lạc đường thì sẽ không bị lạc đường, chưa chắc mình đi đúng đường, nhưng biết không còn bị lạc đường nữa. Ngay sát na tâm biết đi lạc đường là mình biết ra khỏi con đường bị lạc này nhưng chưa chắc mình đến con đường đúng được. Ngay điểm đó mình cắt được sự hoài nghi, mình đi lạc đường mình nghi. Nghi này chặn con đường đang tu tập hay con đường đang đi, khi đã thông suốt là mình lạc đường rồi thì đừng sợ mình không tới mà chỉ sợ sự lạc đường này lập lại lần nữa thì quá si.
Hoài nghi và bị si mê, ta hoài nghi là ta không bỏ được đối tượng.
Do si mê ta sanh hoài nghi với đối tượng đang có. Qúi Phật tử ngày hôm nay ngồi thiền, qúi Phật tử ngồi nói câu này thì sẽ có câu trả lời ngay tại đó liền:
- "không biết mình ngồi thiền đúng không?"
Câu trả lời là:
- Do "mình si mê" chứ không phải là bạn đang hoài nghi.
Qúi Phật tử ngồi thiền mà nói:
- "Tôi không biết tôi ngồi thiền như thế này có đúng không?"
- Thì bạn không nên ngồi thiền tại vì bạn chưa biết mà cứ ngồi thiền thì rất nguy hiểm rất tai hại.
- Còn, ta đã biết ngồi thiền rồi mà hỏi câu đó thì coi như là mình không biết gì cả, tâm mình bắt đầu phóng dật.
Hoài nghi không giải đáp được si mê, hoài nghi đưa đến phóng dật, và phóng dật hiện bày tính cách si mê, tại vì tâm mình phóng dật vì mình không sáng suốt. Một ngày nào qúi Phật tử ngồi hành thiền mà qúi Phật tử không thấy được đối tượng của mình là hơi thở hay pháp đang hiện bày là sự hoại diệt của thân là tâm mình đang phóng dật.
Thiền Sinh: Thưa Sư, nếu trong trường hợp như vậy thì mình nên chuyển qua Thiền Chỉ?
TT trả lời: Không hẳn, mình coi lại kỹ thuật của mình chứ mình đừng có đi qua đi lại là mình đang đi xa hơn nữa.
Có một anh học sinh là bạn của Sư năm thi đệ nhị cấp, tức là từ lớp 9 lên lớp 10, anh học dở sợ thi không đậu, Sư được miễn thi tại vì năm thi đệ nhất cấp học sinh nào trên điểm cuối năm 17/20 thì những học sinh đó được miễn thi, thì lúc đó điểm Sư là 19/20 nên Sư không phải thi tự động được lên lớp 10, anh này điểm là 13/20 nên phải thi, anh nhờ Sư đi thi giùm cho anh ta nhưng Sư không thể nào vô ngồi trong phòng thi với cái tên anh ta được, thì khi anh ta đi thi Sư phải theo anh ta, nhưng Sư ngồi ngoài sân trường cạnh lớp anh ta thi. Có người thầy dắt anh ta đi thi lượm được đề tài thảy ra cho Sư liền, đề thi vừa bung ra một cái Sư ngồi giải đề thi liền, Sư phải tính thời gian giải thiệt nhanh và Sư phải tính thời gian chép bài cho thiệt nhanh để anh nộp bài kịp lúc chứ không mất bài thi, do đó tốc độ Sư làm gấp hai lần anh ta. Sư giải xong đưa cho ông thầy, ông thầy đem vô đưa cho anh ta, anh ta nhìn vào tờ giấy ngó tới ngó lui rồi cầm lên hỏi ông giám thị hỏi "chữ này viết làm sao, bỏ hả?", cái ông thầy giám thị hỏi "ở đâu em có tờ giấy giải bài này".
Do đó người này khi tâm phóng dật là đang si mê, mà si mê tâm bị hoang mang phóng dật, không thấy rõ được vấn đề, không biết mình đang ở đâu và đang làm gì, tưởng đâu là đang trong lớp học bình thường.
Nên khi qúi Phật tử ngồi thiền tâm mình phóng dật tức là mình không biết đối tượng là cái gì , giống như người học trò hồi nãy đã có đề thi được giải rồi mà tâm người đó bị phóng dật anh ta không biết anh ta là ai nên anh ta mới làm chuyện đó xảy ra chuyện đó có một không hai.
Thì mình ngồi thiền cũng vậy, tâm phải tỉnh giác không để bị phóng dật dẫn dắt.
Sư đưa tay lên với một vật thể trong tay, tất cả Phật tử tập trung chú ý vào, thì cho dù có sắc hay không có sắc, tâm mình vẫn phải hiểu là mình dụng công tại nơi tay Sư, chứ không phải là có vật thể hay không có vật thể, mình phóng dật hay không phóng dật. Cái kỹ thuật để mình không phóng dật là do mình phải giữ tâm với đối tượng mình cần phải có, chứ không phải từ nơi trạng thái có vật thể hay không vật thể.
Chánh Định và Tỉnh Giác, nhân sanh định, định sanh tuệ, quán chứng tri tại đó, Niết-bàn giải thoát.
Thiền Sinh: Xin Sư giảng nghĩa chữ Chánh Niệm, khi con ngồi thiền mà đau quá tâm con biết nó đau, tâm con nhảy lộp bộp (tâm khó chịu).
TT trả lời: Niệm có 3 là Chánh Niệm, Tà Niệm và Thất Niệm. Chánh niệm là ghi nhớ đúng đắn, Tà Niệm là ghi nhớ một cách sai lầm lệch lạc và, Thất Niệm là không có sự ghi nhớ. Mình thấy tâm mình nhảy lộp bộp là Tà Niệm, tại vì mình nhìn cái tâm nhảy lộp bộp. Mình phải nhìn vào đối tượng đang cần theo dõi là hơi thở vào ra dài ngắn.
Trở lại, tâm mình phóng dật là do mình si mê, vì không biết nhìn đối tượng, không rõ biết chuyện gì mình đang làm, do đó mình mới phóng dật, cái mình đang có trong hiện tại này, người học sinh đang ngồi trong lớp học mà tâm bị phóng dật là người học sinh đang mất vị trí là mình đang ngồi trong lớp học. Người hành giả đang ngồi thiền mà bị phóng dật người hành giả đó mất vị trí vị thiền sinh đang ngồi tu tập về thiền và, trở thành người hoạ sĩ, nhà điêu khắc cuộc đời của họ, họ là họa sĩ bức tranh do họ đang vẽ.
-------------------------------
Sau một giờ hành thiền, thiền sinh trình pháp.
Thiền Sinh: Thưa Sư, chân con bị đau con chú tâm vào hơi thở một lúc thì con không thấy chân bị đau nữa, một lúc sau con không chú tâm vào hơi thở nữa thì tự động chân con đau lại.
TT trả lời: Tâm mình bắt hai cảnh, do đó khi mình chú tâm mạnh vào hơi thở thì lúc đó không thấy chân đau nữa. Không có pháp nào là tự nhiên hết mà nó có nguyên nhân nó có lý do hay là nó có sự việc của nó, mình chưa hiểu rõ thì mình nói là tự động. Nó có sự đến của nó, sự dẫn đến của nó khi nào tâm mình chú tâm vào vấn đề gì đó thì mình quên chuyện kia. Như mình ngồi mê coi phim quá quên đói bụng, đến khi hết phim mới thấy đói bụng. Cái đó là thường thường nó tới với ta rất máy móc đó là thói quen, cái thói quen đó được lập lại nhiều lần trở thành tập khí, chính do đó khi tâm mình đến trạng thái gì mạnh nhất, dữ dội nhất, rõ nét nhất và đầy đủ nhất, thì tâm mình thiên hướng về đó rất mau lẹ mình không còn biết gì khác hết. Thì khi mình thiên hướng về đó một cách mau lẹ mà không còn cái gì khác hơn thì tất cả những cái gì nó có nó chi phối mình và, mình mất cả sự chủ động của mình hay là mất cả sự quyết định của mình.
Người ta thường nói môi hở thì răng lạnh, hay khi người con đau thì cha mẹ ruột thắc tim gan gì mất hết, tại vì máu mủ của mình. Nhưng thật ra không phải vì mình có tâm quen như vậy, nếu như người có trí tuệ sáng suốt họ tách hai cái đó ra rõ ràng, họ không bị thiên hướng, họ không bị chi phối lôi kéo một cách mãnh liệt như vậy.
Cái đó là thói quen lập lại nhiều lần trong nghiệp quá khứ của mình trong đời trước cho tới đời nay, hay là từ hồi nhỏ cho tới lớn mình có nó giờ nó lập lại, như hồi nhỏ có gì không vừa ý mình hét mình la, giờ cái gì mạnh nó lôi mình theo, chính cái đó bây giờ mình phải sửa lại để mình khách quan, chứ không được chủ quan, cũng không bi quan và, cũng không lạc quan, thì mình mới giải quyết được một cách sáng suốt công minh rõ ràng được, còn không thì mình thiên hướng lệch lạc hết, luôn luôn là như vậy, cái đó cũng là thân kiến, để cho mình thấy thân kiến mình bị chi phối.
Cái thân kiến đầu tiên mình gỡ bỏ để vô Sơ Đạo Sơ Quả, quả Dự Lưu, cũng là thân kiến, nên khi đó mình bị nó lôi đi thì thân kiến mình lớn hơn lý trí của mình nhưng mình chế ngự được sự lôi kéo của nó thì lý trí của mình dừng lại trước ngưỡng cửa bị cám dỗ về thân kiến. Nếu mình không làm được cái đó, mình chịu thua thì mình trở lại Hiệp Thế mình tu nữa để qua Siêu Thế.
Lúc đó mình coi lại balamật của mình, balamật con đường đáo bỉ ngạn đến Niết-bàn là giác ngộ giải thoát lúc đó mình không có chí nguyện không có ly dục.
Mình ly dục là bỏ hết tất cả đòi hỏi mong muốn của mình, cái đòi hỏi mong muốn của mình là đau quá mình đòi hỏi là xả thiền, đau quá mình muốn bỏ thiền, muốn ngừng thiền không muốn ngồi thiền nữa, đó là cái dục nó lên, sự mong muốn nó nổi lên, mà mình không ly dục được, ngày nào chưa đắc đạo quả ngày đó chưa rời khỏi thiền. Ngày xưa Đức Phật Ngài chưa đắc đạo quả Ngài chưa rời khỏi cội cây, Ngài có chí nguyện và ly dục còn mình không có hai cái đó là balamật mình chưa đủ.
Cái đó mình nhìn qua đó là những điểm nhỏ sẽ kết hợp lại thành đám mưa lớn, là vì mỗi một phút giây trong đời tu tập của mình nó như vậy cho mình rút ra một kinh nghiệm, mình nhận xét về mình là có những khi chuyện dễ mình làm được còn cái khó mình bỏ cuộc không dám làm. Cái này là cái nhỏ, cái lớn nó ghê lắm, đạo quả không phải đơn giản, mà cũng không phải đạo quả là khó, khi một người nông dân trồng cây ăn trái, không khi nào trồng cây đực, người nông dân họ biết cây đực là cây không có trái, người nông dân trồng cây xuống là chân chánh cây trổ sanh lên hoa quả để mình gặt hái trái, thì sự tu tập mình ngồi đây chân chánh mình sẽ hái được đạo quả, sẽ tới ngày đó, không khi nào bỏ.Nhưng không biết là mình đợi được không hay có đi đúng để lấy được trái này không. Có những người trồng cây xong rồi sắp sửa hái rồi vì lý do gì đó phải bán nhà dọn qua nơi khác, người khác tới mua người ta hưởng cây trái đó, có những người vừa trồng cây trong vườn xong sắp được ăn thì chính phủ phóng đường lộ họ chặt cây bỏ, đó là nghiệp báo, tất cả nó đến với mình nó sẽ cắt đứt những gì mình đang gieo trồng sắp sửa gặt hái.
Tất cả điểm đó mình ngồi mình nghiệm ra điều đó cho mình rút ra một bài học, mình phải ghi xuống chuyện khó tôi không dám làm, chuyện nhỏ chuyện dễ tôi làm được, mình phải ghi xuống để mình mới thấy mình còn cái gì cần bổ khuyết chứ đâu phải một ngày mình bỏ qua trôi qua.
Đó là sự tu tập, là sự kiên trì bền bỉ và nhẫn nại liên tục khắc phục khó khăn để mình vượt qua, không có con đường nào dễ để đi đến thành công một cách mau lẹ, tất cả đều là sự cố gắng, con đường học trò cũng vậy, đường nghề nghiệp cũng vậy, đường đạo quả cũng vậy, phải có sự kiên trì, bền bỉ, nhẫn nại liên tục. Sự nhẫn nại liên tục giữa người này với người kia không khác nhau, chỉ có nhiều và ít, đủ và thiếu, chứ không có gì khác nhau, người này có nhiều thì mau tới, người kia ít thì lâu tới, người này đủ thì họ có, mình thiếu thì mình chưa có, hai cái đó không có gì khác hết, nhẫn nại và sự bền bỉ không có ai khác hết, chỉ có đầy, đủ và thiếu, nhiều và ít thôi.
Do đó các qúi Phật tử hành giả ngồi nhắc nhở với nhau thôi, mình trồng cây sẽ có quả ăn, mà quả ở đây là do quyết định của mình lúc ban đầu và bền bỉ đi tới cuối cùng để rồi mình gặt hái, không có bỏ cuộc.
Đức Phật Ngài thuyết một bài pháp thoại Ngài nói:
"Như Lai thuyết pháp thoại sơ thiện, trung thiện và hậu thiện, hoàn hảo khúc đầu, hoàn hảo phần giữa, hoàn hảo phần cuối."
Ngài bỏ tri kiến là đầu tiên, tu tập con đường chánh kiến và, con đường đạo quả, có 3 giai đoạn, bỏ tà kiến của mình, sửa đổi tà kiến của mình trở thành chánh kiến tu tập đến đạo quả, 3 giai đoạn.
Thì mình cũng vậy, khi mình vô ngồi thiền 1 tiếng mình phải có 3 giai đoạn.
1) Giai đoạn thứ nhất là khắc phục cái khó của mình.
2) Thứ hai là hoàn chỉnh việc tu tập của mình.
3) Thứ ba là gặt hái.
Một tiếng ngồi thiền phải có 3 giai đoạn.
Còn mình không có kế hoạch như vậy thì không được, làm lính mà không biết tính thì làm lính suốt đời không lên được sĩ quan. Do đó các qúi Phật tử khổ một cái là ngồi không hà mà không có một kế hoạch, không có lên phương án. Dù một tiếng, hay 45 phút hay 30 phút hay là một buổi hay bất cứ giai đoạn nào phải làm 3 giai đoạn đó, đến giai đoạn giữa mà mình chưa xong thì đoạn cuối mình không có kết quả. Minh ngồi một tiếng, nửa tiếng mà chưa xong chuyện mình đã hoàn chỉnh thì 45 phút coi như là mất rồi thì chuẩn bị xả thiền, tại vì có 1 tiếng thôi.
Cũng như một người học sinh đi thi người ta cho 1 giờ để giải bài, mình tính hết cái giờ của mình làm rồi mà mình không làm xong, có 15 phút để coi bài trước khi nộp bài thì coi như là môn thi đó mình hỏng, đến giờ chót rồi sắp sửa nộp bài rồi5mà còn đang ghi chép thì coi như là mình hỏng kỳ thi đó rồi.
Kế hoạch của mình phải có phương án lập ra rõ ràng. Sư có nhiều kinh nghiệm trong sự tu tập của Sư là vì Sư lập ra phương án rõ ràng. Mình không nói nghiệp quá khứ đến cắt ngang mình thì cái đó không nói, mình đốt đèn cầy lên mình không mong nó tắt nhưng mình không ngăn được ngọn gió mạnh lùa đến thổi tắt ngọn đèn cầy của mình được, nhưng mình biết ngọn đèn cầy này đốt lên sáp nhiêu đó, giây tim bao nhiêu đó, nó có bao nhiêu tuổi thọ, mình sài đèn cầy đến lúc hết là mình sài hết nguyên liệu của nó, chứ không phải mình sài đèn cầy để cho lửa cháy rụi đi sáp hết rồi mình tiếc là mình chưa làm xong gì cả, gió thổi tắt lửa không tính, đồng ý, mình mất cơ hội, nhưng sáp còn, tim còn, là mình phải làm cho bằng được, ngọn đèn cầy có bao đó thôi mà.
Mình sống có kế hoạch và có phương hướng và trong khi ngồi thiền cũng có kế hoạch có phương hướng, Thí dụ như khi Sư đến giảng bài cho qúi Phật tử Sư không soạn trước, tới lớp là Sư triển khai liền nhưng mà Sư biết đoạn đó cuối đoạn đó Sư triển khai chỗ nào sâu rộng là bài đó chút ta ngồi thiền sẽ có, Sư biết rõ như vậy là Sư đã có kế hoạch.
Thiền Sinh: Thưa Sư, khi Sư đang giảng con ngồi nghe trong khi đó chân con thấy đau nó đến, nếu như con chú vào lời giảng thì con ngồi được lâu, còn nếu con chú trọng vào cái đau thì con không ngồi được lâu bằng khi nghe pháp. Vậy thì, hồi nãy khi con ngồi thiền chân con bị đau tâm con muốn xả thiền, nhưng con nghĩ "ráng đi tới đi tới". Thì trong cái đầu của con nói "đi tới đi tới" thì con trụ vào lời nói "đi tới đi tới" đó, con thấy bình an trong đó, vậy con có nên niệm đi tới hay không?
TT trả lời: Mình không nên niệm "đi tới", mình nhìn vào cái đau đó để thấy sự hoại diệt tan rã của sắc pháp để mình quán thấy Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Còn mình niệm "đi tới, đi tới" giống như Thiền Chỉ tập trung tâm mình.
Mình phải quán sắc pháp hoại diệt bể rã ra, mình thấy luôn sắc pháp bể rã ra mới đúng thiền mình đang đi tìm.
Còn nếu mình niệm "đi tới đi tới" là để tâm mình an trú trong đó thì đó là Thiền Chỉ để làm cho mình khích lệ hơn, còn mình đi lạc thiền rồi mình thấy mình thắng mình thành công mình mừng, đó là thuốc ngủ thuốc phiện nó dụ cho mình an vui, sự tan rã này không đối diện được và mình không chứng ngộ trên sự tan rã bởi sự hoại diệt này được, mình cứ tìm phương pháp để trấn an tâm thức mình, đó không phải là Thiền Quán, mình phải đi thẳng vào vấn đề.
Thiền Sinh: Thưa Sư, khi ngồi thiền chân con đau thì con biết là đau, sau đó con quán vào hơi thở, con theo dõi hơi thở, lúc con nhìn lại tâm thì lúc nào mình phải coi hơi thở lúc nào mình phải theo dõi tâm mình?
Con thấy cái đau bắt đầu tâm con không khó chịu rồi con chuyển qua hơi thở rồi sau đó hơi thở con bình thường con mới coi lại cái tâm. Khi tâm con theo dõi thì nó biết cái đó không phải của mình rồi, con nghĩ nó là vô ngã
TT trả lời: Mình lúc nào cũng phải theo dõi Tâm, chứ không phải theo dõi hơi thở. Lúc heo dõi hơi thở chỉ là phương tiện để mình biết diễn tiến của thực tính và thực tướng Vô Thường, Khổ Vô Ngã. Còn đi sâu hơn nữa thì mình thấy rằng là cái này không có "tôi" không có "ta" của cái vô ngã của mình thì mình thấy rõ hơn nữa. Còn mình không thấy được thì mình bắt đầu coi trở lại tâm mình nằm ở đâu để mình đánh thức nó nhìn xuống lại, cái đó càng coi lại cái tâm chứ không mình cứ đi tiếp sâu vô Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã. Lúc đó mình mới thoát ra luôn.
Khi mình đang nhìn sâu vô cái hoại diệt vô thường này mà mình nói mình coi cái tâm mình ra sao là lúc đó nó trở lại cái thủ uẩn liền.
Thiền Sinh: Thưa Sư, khi con đau như vậy thì con quán niệm là cái thân này không phải của tôi, tôi với thân này không liên hệ với nhau, cái này là vô thường khổ đau vô ngã, xong con trở lại hơi thở, một thời gian sau nó đau lại, con lại quán cái thân này không phải của tôi, cái này là vô thường khổ đau vô ngã.
TT trả lởi: Không được, khi thân mình đau nhức mà mình cứ nói quán tưởng thân này không phải của tôi, cái này là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã lúc đó là thức uẩn của mình là cái tri kiến mình đang giải thích nó, mình không thấy pháp, mình chỉ thấy tôi đang giải thích. Mình bỏ cái giải thích đó đừng có nghĩ thân này không phải của tôi thân này là vô thường khổ vô ngã, tại vì đó là mình lấy tri kiến của mình giải thích chứ mình không thấy thực tính thực tướng, lúc đó mình phải im luôn.
Thí dụ mình coi cuốn phim hai bên đánh qua đánh lại hay là diễn viên đang diễn xuất mình nói chuyện phim này không thiệt, nó là giả, chứ thiệt ai mà đánh dữ vậy đánh vậy chết sao, cái đó là mình đem cái tri kiến mình bỏ vô cuốn phim và mình không thấy được nội dung hay sự diễn xuất của diễn viên đang muốn nói gì về cái đó, mình mất cơ hội coi phim.
Thiền Sinh: Thưa Sư, thí dụ bây giờ nó đau mình cứ để kệ cho nó đau.
TT trả lời: Mình nhìn vào cái đau tiếp, nhưng đừng có nói, chỉ lẳng lặng nhìn xem cái hoại diệt của nó, nhìn sâu vào cái đau, khi Sư nhìn thấy cái bắp đùi của Sư nó xé ra từng sợ chỉ, thấy nó lăn tăn từng sợi chỉ nó đứt ra, thấy rõ như vậy, Sư nhìn xuống thấy, xuất mồ hôi toàn thân và đau nhức vô cùng, Sư nhìn thấy Sư không có một phản ứng nào hết, không tỏ một tri kiến nào về sự việc xảy ra, mình không dùng tri kiến mình để giải thích, mà Sư nhìn suốt thấy nó xé ra như mình xé khô mực ra từng miếng nhỏ, mà chưa từng có chưa tưng thấy mà chưa có biết cái đó trước đây, từ 2 giờ trưa đến 8 giờ tối, nó xé ra nó nát ra, nó đi ra mỗi bên một phía rõ ràng như vậy đó không có một cái gì nhập lại, Sư không phản ứng, cứ nhìn được dịp nhìn, Sư không lấy tri kiến Abhidhamma 7 bộ hay Phát Thú, cứ nhìn tiếp nhìn tiếp, nó hết rồi thôi, khi nó hết Sư cũng ngồi yên coi nó ra sao thì nó yên nó hết rồi bắt đầu mới thấy là không còn gì nữa rồi nó ngừng Sư xả thiền ra.
Thiền Sinh: Thưa Sư, như vậy mình theo dõi cái tâm của mình?
TT trả lời: Mình theo dõi pháp và tâm mình biết mình đang làm cái gì, đó là Tỉnh Giác, theo dõi pháp là mình Chánh Niệm, và Tỉnh Giác là tâm mình đang biết.
Thiền Sinh: Lúc nãy con ngồi thì lúc đầu thì êm sau đó con hơi bị buồn ngủ cái đầu con gục xuống sau đó con tỉnh lại con ngồi tiếp thì một lúc con thấy chân con bị đau con ngồi tiếp thì thấy tâm con muốn thay đổi nhưng con cứ ngồi tiếp nữa thì thấy cái đau mạnh hơn nhưng tâm của con cứ muốn thay đổi oai nghi, thì con phải làm cái gì?
TT trả lời: Không có niệm, mình coi cái tác ý của mình, tác ý là hiện tại, mình có thu thúc được không, mình chế ngự được không, mình có diệt trừ được không. Chế ngự mọi sự cám dỗ, mọi sự chi phối đó mình có chế ngự được không, qúa khứ nó đến mình có thu thúc lại không, đừng có nghĩ tới nó nữa, cái vị lai đang kéo tới để lôi mình xả thiền, xả thiền, cái vị lai đó mình có diệt trừ được không, nếu không diệt trừ được thì mình buông.
Nếu vẫn còn thấy đau thì là thân kiến còn trong Thức Thủ Uẩn của mình, mình còn đang trong thân kiến và Thức Thủ Uẩn, còn nếu như nó đau và mình không thấy đau lúc đó là pháp, còn thấy đau là còn thức thủ uẩn dính vào thân kiến, còn nếu như mình thấy pháp đau mà không thấy thân đau thì lúc đó là thấy pháp./.
No comments:
Post a Comment