Tuesday, January 21, 2025

066 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 15 tháng 7, 2023

 066 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 15 tháng 7, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "066 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Vị                          Tánh              Giác Chi     7 Bước

1/ Mặn                   1/ Tham                 -             1/ Địa ngục

2/ Ngọt                  2/ Sân                    -             2/ Ngã quỉ

3/ Chua                 3/ Si                       -               3/ A tu la

4/ Cay                   4/ Tầm                   -              4/ súc Sanh

5/ Đắng                5/ Giác                    -             5/ Người

6/ Chát                  6/ Tín                                   6/ Trời

----------------------------------------------------------------------------------------

0 Vị                       0 Tánh                  Xả            7/ Giải Thoát

Ngọt đi với tham. Mặn đi với sân

Mỗi một người lộ ra tánh và tập khí, còn mình thì không tánh, không vị, mới được an toàn. 

Tánh có 6 loại, trong mỗi người đều có tánh, nếu như mình cứ giữ tánh của mình thì nó sẽ trở thành kiết sử, trở thành tập khí thói quen của mình, sẽ trở thành lậu hoặc của mình. Mình tu phải loại nó ra là sống không tánh.

Trong bài kinh Con Rùa. Khi Đức Phật nói con dã can (chó sói rừng) đứng canh con rùa, 1 trong 6 bộ phận của con rùa trong cái mai của nó ló ra cái nào con dã can xé cái đó liền. Khi quí Phật tử lộ ra một cái tánh nào, có một tập khí "Vị" nào là ác ma chụp liền.

Nếu như một người thích ăn ngọt, mà thẩy vị ngọt là mình gục ngã trong dục lạc của đội quân ma, là mình chết trong kiết sử của mình tự làm ra và mình chìm trong lậu hoặc của mình ở trong cái bể không có lối thoát.

Do đó, khi mình thấy thì tới phần Giác Chi, tới phần thứ 7 phải là xả, phải buông hết, niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, khinh an giác chi, hỉ giác chi, lạc giác chi, định giác chi, xả giác chi, tới phần cuối Xả Giác Chi là thứ 7.

Bảy bước của Bồ Tát: 1. Địa ngục, 2. ngã quỉ, 3. A tu la, 4. súc sanh, 5. người, 6. trời, 7. giải thoát.

Mình mới thấy con số 7 này có ý nghĩa nhiều mà mình không tìm ra vị trí đó. 

Khi Bồ Tát vừa ra đời tại vườn Lumbini Ngài đi 7 bước, 6 bước là con đường đạo sinh tử luân hồi và bước thứ 7 là giải thoát.

  Do đó, không vị, không tánh, buông bỏ (xả), giải thoát. Chứ còn không là mình cứ quyện trong cái của mình mà mình không hay, chứ không phải của người khác.

Khi mình đưa món vật thực nào lên không thích hợp là cái của mình nó đẩy ra, và cơ thể của mình cũng vậy, món nào vô cơ thể mình không hợp thì nó cũng phản ứng đẩy ra. Thật ra đó là mình làm ra rồi mình không hay, mình không để ý lâu ngày tích lũy tới một khi nó thành tựu rồi thì nó đánh chết mình liền.

Trong pháp tu mà mình nói tiếp tuần trước về các đội ngũ ma mà mình hành Ba La Mật thì quí Phật tử phải thấy tới pháp cuối cùng là Chân Tri Trước Kiến của Thập Phúc Hành Tông, thì qua bên Ba La Mật phải là Xả Ba La Mật, mà trong Xả Ba La Mật thì 10 Minh Sát Trí là Hành Xả Ba La Mật. Hành Xả Giác Chi, Hành Xả Minh Sát Trí tuệ thứ 10 và Hành Xả Ba La Mật ăn khớp với nhau. Mà Xả đó mình mới vượt qua đội quân thứ 10 của ác ma, khen chê thích giận hờn nó nằm trong đội quân ác ma thứ 10. 

Thập Đội Quân Ác Ma              Thập Pháp Toàn Thiện (Ba La Mật)

1/ Tham dục.                                1/ Xả Thí

2/ Sự bất mãn .                             2/ Trì Giới

3/ Sự đói và khát.                         3/ Ly Dục

4/ Tham ái.                                   4/ Trí Tuệ

5/ Hôn trầm thụy miên.                  5/ Tinh Tấn

6/ Sự sợ hãi                                  6/ Nhẫn Nại

7/ Sự hoài nghi.                            7/ Chân Thật

8/ Sự phỉ báng                             8/ Chú Nguyện

9/ Sự lợi lộc                                 9/ Từ Ái

10/ Tự khen mình.                      10/ Hành Xả


Do đó, mình mới thấy con đường tu tập của mình ở giai đoạn nào mình đánh dấu vô trên danh sách Vị (mặn, ngọt, chua, cay, đắng, chát) đây chỉ là danh sách Sư đưa ra chứ không phải mặn là giai đoạn đầu và giai đoạn chát là giai đoạn cuối, chỉ là một danh sách không tuần tự và mình ở giai đoạn nào thì đánh dấu vô nó. 

Trong giai đoạn đó mình có hết được 6 Vị này trong cuộc đời này trong phần thưởng thức mình qua được không, hay là không qua được thì mình phải phát hiện ra là mình còn phải tu tập.

 Khi mình thấy là mình phải tu tập thì mới rõ được, nếu không mình ở trong đó, đưa vật thực nào vô mình cũng phê bình.

Thí dụ, cay thì nói cay quá, mặn thì nói mặn quá, đắng thì nói đắng quá. 

Thì nếu cay quá thì thêm cái không cay vô, nếu mặn quá thì thêm nước vô, chứ có gì phải nói. Mà nói cay quá tôi không ăn được thì đó cũng là do mình mà mình không thấy, mà mình muốn cho người ta thấy của mình, mình muốn đưa ra nữa thì mình muốn bảo vệ cái của mình nữa.

Do đó, giữ yên lặng là lợi hại nhất (không Vị). Vị nào cũng chết, bây giờ mình không có vị người ta không bắt được mình, ác ma không bắt được mình, con dã can không bắt được bộ phận của con rùa, tại con rùa nằm trong mai, mà nó ló bộ phận nào ra là bị con dã can chộp liền.

Cũng vậy, cái tánh nào, mình lộ ra cái nào nó bắt liền.

Tánh sân đi với tánh giác

Tánh tầm đi với tánh tin

Quí Phật tử lộ tánh ra là thua liền, tánh nào cũng chết hết, nó là bản ngã của mình. Mình phải là không tánh, mình phải thủ.

Trong 6 tánh này ai hỏi quí Phật tử có tánh nào. Thì yên lặng không trả lời mới là lợi hại.

Giác Chi đang ở Niệm 

Có bảy Yếu Tố của sự Giác Ngộ (Thất Giác Chi) là:

1. Niệm Giác Chi (sati-sambojjhanga),

2. Trạch Pháp Giác Chi (dhammavicaya-sambojjhanga)

3. Tinh Tấn Giác Chi (vìriya-sambojjhanga),

4. Phỉ Giác Chi (piti-sambojjhanga),

5. Khinh An Giác Chi (passaddhi-sambojjhanga),

6. Ðịnh Giác Chi (samàdhi-sambojjhanga)

7. Xả Giác Chi (upekkhà-sambojjhanga)

Mình đang ở Niệm Giác Chi

Mình đang có Trạch Pháp Giác Chi

Mình có Tinh Tấn Giác Chi

Còn Xả là buông ra, Pháp cũng buông, Tâm cũng buông và tri thức của mình không dính vô Pháp nào bị kẹt.

Xả Giác Chi có ý nghĩa là buông xả.

Cũng như vậy, trong 6 con đường mình đi (địa ngục, ngạ quỉ, atula, súc sinh, người, trời) lục đạo, Bồ Tát nói trong bước đi thứ 7 : "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" nghĩa là "Trên trời dưới đất chỉ có bản ngã là tối thượng" Thì Ngài đã nói chữ Attā cái bản ngã chinh phục hết tam giới dù là tiểu ngã hay là đại ngã hay là cực ngã nó cũng chi phối hết và con người chết trong cái "Tôi" mà không ai biết, mà mình không biết ai làm cho mình chết, mình cứ nghĩ người khác làm, thật ra chính mình giết chết mình, cái ngã, cái tôi. Ngài nói ngay lúc đó, bước chân của Ngài đi, Ngài nói xong thì sự bí mật này được hé lộ thì Ngài ngã xuống thì Tứ Đại Thiên Vương đỡ Ngài ẵm Ngài lên dùng 2 vòi nước nóng và lạnh rửa sạch Ngài rồi đem giao lại cho Hoàng Hậu Maya ẵm Ngài từ vườn Lumbini  trở về hoàng cung với vua cha, là xong rồi, Ngài đã tìm ra được rồi.

Nhưng lập lại tới 29 năm sau, khi Ngài đi ra 4 cửa thành Ngài thấy được 4 hiện tượng; Bệnh, lão, tử, tăng. Tăng hình ảnh cuối là Ngài buông bỏ, Ngài ra đi, sống không nhà. Thì Ngài mới thấy được cái đó trở lại trong 29 năm, nhưng trong 29 năm Ngài mới thấy được bệnh, lão, tử, tăng, Ngài chưa tìm ra được giải thoát, 6 năm vật vã với bản ngã của Ngài.

Đầu tiên Ngài dùng pháp khổ hạnh, ép xác, nhịn ăn nhịn đói, không ăn uống gì hết để gọi là diệt dục, Ngài nghĩ trong cái đói cái dục là do ăn, mình nuôi cái mạng này mà dính mắc vô đó không giải thoát được, Ngài diệt, nhưng Ngài gục ngã, qua sông phải có thuyền, không thể nào không có chiếc ghe để đi, mượn để qua sông chứ không dính mắc. Thì chữ "Xả" làm cho Ngài thức tỉnh.

Xả Giác Chi bắt đầu trở lại con đường giải thoát mà Ngài nói trước kia "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" cái bản ngã này là tuyệt đối.

Bác Phan Thanh Thu là hậu duệ của Ngài Phan Thanh Giản làm việc ở viện Phật Học Từ Quang phát thanh mỗi tối Chủ Nhật, bác hỏi Sư giải thích câu "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" nghĩa là sao ? Sư hỏi ai nói với bác câu này, bác nói có một người bên Thiên Chúa giáo gửi vô viện Phật Học Từ Quang hỏi câu đó có phải là ngã mạn không ? Sư nói không. 

Do đó một số người ở bên ngoài họ nói Bồ Tát khi mới sinh ra đã ngã mạn. Ngài đâu nói gì đến ngã mạn, Ngài chỉ nhớ 22 a tăng kỳ tu buông bỏ cái bản ngã. Do đó, nếu Ngài không buông bỏ cái bản ngã đó, Ngài không bao giờ bỏ cung thành Ca Tỳ La Vệ ra đi được, 3 tòa lâu đài, 4 hòm châu báu không đủ để giữ chân của ngài với cái bản ngã mà Ngài đã bị cột chặc trong cái lậu hoặc này thì Ngài khó mà trong đêm tối Ngài trốn đi. Thì mới ăn khớp vô bước chân thứ 7 của Bồ Tát Sĩ Đạt Đa mới ra đời bước đi 7 bước, 6 con đường đạo này không đủ để dừng chân Ngài, nhưng Ngài muốn giải thoát Ngài phải xả, mà muốn xả thì diệt tánh, mà muốn diệt tánh thì diệt Vị mà chấp níu của mình. 

 Ở đời mình chấp níu tất cả các vị, 1 trong 6 vị, vị nào mình cũng chấp, và tánh nào mình cũng muốn giữ.

Do đó, mình đi từng bước thì mới ra. Từ bàn ăn là nhỏ nhất, mình phải tập từ đó mình tu, rồi trong đời sống hàng ngày sinh hoạt cho cá nhân, sinh hoạt trong tập thể, mình phải bỏ cái tánh của mình, tánh cố chấp hay tánh đeo níu, rồi chuyện gì cũng phải buông, cũng phải xả, chứ không giữ, và mình muốn cái gì ? Chỉ có con đường tôi muốn giải thoát, tôi không muốn ở trong đời bị cột trói hay là bị giữ chặc lại 

Thiền sinh hỏi: Bồ Tát buông hết để đi xuất gia tìm đường giải thoát, thì cái đó là bỏ đi bản ngã, nhưng bản ngã đó là bản ngã nào mà khi đi tu Ngài còn bản ngã khổ hạnh chấp pháp ?

HT trả lời: Ngài bỏ cái cực ngã cái đại ngã và còn giữ tiểu ngã. Đọc quyển chương VII Duyên Sinh, về Thập Nhị Nhân Duyên, cái cực ngã mình bỏ được, cái Tôi, cái Ta mình bỏ được, nhưng cái tiểu ngã, cái nhỏ nhặc của mình, nó nhỏ xíu như lỗ cây kim mà mình bỏ không được, cái đó là pháp phiền não vi tế mà nó luôn luôn còn ẩn tàng trong pháp hiện bày của mình.

Thế thì cực ngã hay đại ngã Maha Attā, tiểu ngã Cula Attā.

Cái nào là đại ngã Maha Attā ?

Cái nào là tiểu ngã Cula Attā ?

Cái ta cái tôi mình dương ra ngoài, mình muốn chứng tỏ cái "Tôi" của mình cho thiên hạ thấy là đại ngã Maha Attā.

Cái núp trong mình, như mặc cảm, tự ti khép mình bên trong, là tiểu ngã Cula Attā.  Đụng tới "Tôi" nếu mình mạnh mình bung ra liền, nhưng nếu mình yếu mình co rút lại.

Thì khi mình nói như vậy nếu mình không nằm trong đại ngã Maha Attā hay tiểu ngã Cula Attā thì mình là không ngã thì mới được. Khi mình ý thức được điều này thì mình mới tìm ra được, tôi không đại ngã, tôi không tiểu ngã, tôi phải đi trên con đường không ngã.

Mình không ở vị trí nào, thì mình phải tinh tấn, không dễ dui, mình phải xả, phải buông bỏ và muốn giải thoát.

Khi người ta hỏi anh là đại ngã hay tiểu ngã. Trả lời "tôi không ngã".

Còn nếu mình còn ở đại ngã hay tiểu ngã thì mình vẫn còn bị áp lực hay còn bị ảnh hưởng áp lực của nó, nó chi phối và áp đảo mình.

Thì trong 6 vị (mặn, ngọt, chua, cay, đắng, chát) mình không dính mắc vào vị nào hết, mình là không vị. 

Ngài Paṇḍita nói có những món ăn con người ta không vừa lòng, người ta phải bỏ thêm gia vị cho khẩu vị của họ thích thì nó đưa ra cái bản ngã liền. Nên Ngài nói trong một khóa tu mà hành giả vô phòng ăn là hiểu vị giác của họ và hiểu họ tu như thế nào.

Sư thấy, có vị Sư VN qua bên Miến Điện vô bữa cơm trưa trong phòng trai tăng, giơ tay lên những người phục vụ chạy tới họ là những người nam được mướn vào làm việc cho chùa, hỏi Ngài cần gì, vị Sư đó trả lời "tôi cần 1 tô nước nóng", người phục vụ bưng tô nước nóng tới, ông Sư đó đổ dĩa mì sào vào tô nước nóng rồi sau đó vớt mì từ tô nước nóng ra dĩa và ăn, ông nói mì sào nhiều dầu mỡ ông không ăn. Chỉ mình ông Sư đó làm như vậy, ngoài ra những vị Sư khác ăn hết. Thì họ đáp ứng hết, không có gì là sai.

Đức Phật nói" "Tâm có trú xứ của nó và ẩn trú trong đó và không hiển lộ ra ngoài ác ma không nắm bắt được."

Khi nào có cảnh sắc thì Tâm Nhãn Thức bung ra, khi có cảnh thinh Tâm Nhĩ Thức nhảy ra, khi có mùi hơi thì Tâm Tỷ Thức nhẩy ra, khi có mùi vị thì Tâm Thiệt Thức nhảy ra, khi mà có xúc chạm thì Tâm Thân Thức nhảy ra, và pháp nó đến như thế nào thì Tâm Ý Thức chụp bắt nó thì ác ma nắm bắt được hết các vị trí đó của người có những tâm thức đó.

Con rùa có 6 bộ phận; đầu, đuôi, và 4 chân nằm trong mai rùa, ló bộ phận nào ra là con dã can xé ăn thịt. Cũng vậy; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ở trong sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp. Ló cảnh pháp nào thẩy ra thì Tâm Ý Thức mình hiện bày ra thì ác ma nắm bắt được.

 Như vậy thì 2 tầng lớp cảnh; cảnh của pháp và cảnh thực tính.

Cảnh pháp có 2

Cảnh sắc với nhãn thức tiếp thâu, nó đưa qua cảnh pháp là ý thức. Thì lúc đó ý thức này nó còn lọt ở trong tam tướng. Còn thực tính nó không lọt vô tam tướng thì mới là thực tính.

Cảnh sắc = đẹp, xấu ---> thuộc cảnh Pháp của tâm ý thức cho ra. 

Tâm ý thức duyên theo tính chất của cảnh. Cảnh sắc chỉ là một pháp thôi, khi đẹp hay xấu là nó bị nhuộm màu bởi Tâm Ý Thức bỏ vô, chứ cảnh sắc đâu có đẹp có xấu, nhưng mà vô Tâm Ý Thức của người đó sẽ cho là đẹp hay xấu, nó đâu có nói thực tính đâu, nó bung ra liền, cái này xấu quá, cái này đẹp quá, theo tôi thấy cảnh này là xấu, tôi bảo đảm là cảnh này đẹp, đó là do Tâm Ý Thức bung ra, cái đó là thuộc cảnh pháp theo riêng tư của cái Tâm Ý Thức của người đó, chứ nó không nói tính trung thực của cảnh sắc này với pháp thực tính của nó. Đó là vế thứ nhất

Cảnh thực tính

Nhưng đi vô tới cảnh thực tính, cảnh của pháp thực tính nó chỉ là sinh là diệt, chỉ là vô thường, có đó rồi mất đó.

Làm sao có 2 trường hợp đó, làm sao mình lọc được.

Thí dụ người ta đưa tới mình món ăn đó thì mình nói liền món ăn đó ngon dở, món ăn đó cay đắng, chứ không bao giờ nói vật thực này người ta dùng để nuôi mạng, hay nói vật thực này không dùng nó cũng sẽ bị hư hoại.

Bộ phận nào của con rùa bung ra trước hay cái đầu, hay cái đuôi bung ra trước. Mình nói theo bản năng mình biết là nó ló đầu ra trước rồi tới 2 chân trước ló ra, rồi 2 chân sau mới ló ra, rồi nó mới bắt đầu đi.

Vậy thì khi một cảnh sắc hiện bày thì Tâm Nhận Thức nắm bắt trước, khi mà cảnh sắc nhảy ra là Tâm Nhận Thức  nhảy ra trước. Khi cảnh thinh thẩy ra thì Tâm Nhĩ Thức mình nhảy ra trước.

Cảnh: sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp

Phải có tác ý trước. Trước khi ta muốn bắt cảnh ta có tác ý gì, tác ý trong cảnh pháp để bắt cảnh sắc này, tác ý trong thực tính để bắt cảnh sắc này để không bị giao động không bị dính mắc. Tác ý nào ? 

Tác ý của cái "Tôi", mình rớt trong kiết sử của mình mà vẫn nói là mình có niệm, chỉ có niệm thôi chứ không có trí.

Khi dở chân lên, khi hít hơi thở vô, phồng lên, xẹp xuống, có niệm, có tác ý để niệm, có tác ý để ghi nhớ, có tác ý để hiểu biết, có tỉnh giác, nhưng cũng là nằm trong kiết sử của mình, cũng Minh Sát Trí nhưng không giác ngộ.

Có tác ý, nhưng tác ý này của tập khí của thói quen của lậu hoặc.

Nếu không có tác ý của không vị, không tánh hay của xả buông bỏ, thì nó lập lại ở Tâm Ý Thức. Tâm Ý Thức là bản sao của tác ý chứ không phải của sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp.

Tác ý có Đại Thiện Tương Ưng Trí. 

Làm sao có Đại Thiện Tương Ưng Trí.

Đôi thứ nhất và đôi thứ ba Đại Thiện Tương Ưng Trí.

Cảnh sắc xấu thì Tâm Ý Thức là tâm Đổng Lực nó sẽ là tâm sân (với 2 tâm sân, 1 trong 2 tâm sân đó), nhưng nó sân vì cảnh sắc xấu này hay là vì tác ý đưa vô cho cái tâm cảnh sắc này sanh lên mình phải tìm ra được cái đó. Cảnh sắc không làm mình nổi tâm sân rồi mình đổi thừa tại cảnh sắc xấu tôi nổi sân, thật ra sắc không làm cho mình nổi sân mà do tác ý của mình không khôn khéo, không biết huấn luyện, không có tu tập, không nuôi dưỡng, mà mình cứ chạy theo kiết sử của mình, hở đâu sân đó, cái gì làm mình trái ý là mình nổi sân. Chứ không xét coi cảnh đó là cái gì.

Nếu mình nhìn cảnh đó chỉ là sanh và diệt, nó vô và ra thì chuyện đó mình không nổi sân thì không có gì xảy ra, mà do mình phân tách, thì lúc đó gọi là mình tu tập, mình gỡ kiết sử ra trước. 

Thế thì trong thời gian mà  mình lọc bỏ kiết sử này sao mình không chịu tu tập trong cái giác ngộ ở trong vị trí này. Thời gian mà mình bỏ kiết sử này là mình giác ngộ và mình đã giải thoát. Thời gian mà sửa tác ý của kiết sử là mình giác ngộ, cái này không phải của ta, ta đi, đâu có nuôi dưỡng nó để mà lọc, lọc lại chưa chắc mình đúng có khi lầm sai nữa, còn mình lọc nữa mình sửa nữa, mình ngồi sửa hoài mà sửa không được, đánh cho chết không chừa cái nết, mình chết trong trạng thái tri kiến của mình.

Giờ mình phân tích, có 2 hạng người:

A : người thứ nhất lo sửa, sai là họ sửa, và họ sai hoài và sửa hoài

B : người thứ hai là thức tỉnh, họ không làm lỗi nữa, họ đi tiếp.

Có người họ tự ti mặc cảm, họ lo sửa hoài, họ thấy họ sai họ mắc cở, xấu hổ, hối tiếc, ngồi sửa hoài, còn người thức tỉnh thì họ bỏ, họ buông bỏ và họ đi tiếp. 

Thật sự là vậy, mà họ nói đúng, tôi sai tôi sửa, họ còn nói người mà biết tàm biết quí họ thấy sai họ biết sửa, người đó là người thức tỉnh, người đó thức thời, người đó là người trí. Còn người vô tàm vô quí họ làm sai họ cứ trơ trơ cái mặt không chịu sửa, người đó mới là người vô liêm sỉ, họ vô tàm vô quí. Họ nói như vậy và họ cứ ngồi sửa, sai đâu sửa đó. Người cứ làm sai rồi sửa, thì đáng hoan hỉ chứ. 

Có một lần Sư tới giảng tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, người đón Sư ở phi trường tên Sơn chở Sư về chùa. Sư hỏi anh Sơn : 

- Anh có chiếc xe đạp ruột xe bị lủng lỗ anh vá không ? 

Anh nói : Dạ, con vá. 

- Lủng 2 lỗ anh vá không ? Dạ, con vá. 

- Nếu lủng nhiều nhiều lỗ anh vá không ?

Anh nói: Dạ con giục.

- Anh làm một lỗi sai, anh sửa không ? Sửa

- Anh làm 2 lỗi sai, anh sửa không ? Sửa

- Anh làm 100 lỗi sai, anh có sửa không ? Anh làm thinh không trả lời.

Trong 5 giới : không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Mà sai một lỗi, chẳng hạn giới thứ tư là giới nói dối, trong vui đùa mà nói, trong chơi mà nói sai không nói thật, cái mình nghe được mình thức tỉnh mình sửa hay là mình bỏ không làm nữa.

Trong 5 giới mà mình sai một giới, hay là lấy của không cho adinnādāna, tức là vật đó có chủ mà mình chưa xin mà lấy hay là chưa được cho mà lấy. Mình thấy mình phạm rồi cái mình nói tôi thức tỉnh rồi tôi không làm nữa.

Chắc chắn người đã thức tỉnh rồi thì họ không sửa, không cần phải sửa nữa tại vi họ không làm nữa, họ không tái phạm. Nhưng họ chết trong thức tỉnh này vì chưa giác ngộ.

Tôi thức tỉnh rồi tôi biết là cái này không phải của tôi, tôi không kiểm soát nó được. Còn thức tỉnh và không tái phạm là vẫn còn ở trong cái tôi. Chính chỗ đó là mình có Minh Sát Trí nhưng chưa giác ngộ.

Tôi thức tỉnh để mà  không tái phạm thì chắc chắn tôi không tái phạm thì vẫn còn giữ nguyên của mình, mình là hoàn hảo nhưng chưa giác ngộ.

Chữ "Thức Tỉnh" chưa quyết định mà chữ "Giác Ngộ" mới là yếu tố quyết định, giác ngộ là buông hết, không tái phạm không vi phạm và cũng không cần phải sửa, giác ngộ là từ đây về sau mình đi con đường không có "Tôi" "Ta" nữa để mình giải thoát.

Quí Phật tử không bao giờ thấy sự hiểu biết của mình là kẹt chỗ này, và vẫn cứ nói mình là người tốt, mình là người ngoan giỏi, tôi thấy sai tôi thức tỉnh rồi tôi không tái phạm, không làm lỗi nữa, và mình vẫn còn trong đó.

 Đội quân ma biết mình biết cái này rồi thì nó dùng chiêu khác, mình không chạy được và mình còn. Bây giờ mình nói tôi không ăn mặn, nhưng mình vẫn còn Vị thì mình còn chết, mà nó không biết mình ở Vị nào thì nó không bắt được mình.

 Minh còn tánh, không tham thì còn sân, nó biết nó bắt mình, không tánh thì nó không bắt được.

Thất Giác Chi, trạng thái nào mình cũng giác hết nhưng mình chưa xả thì nó vẫn bắt mình, mình tinh tấn mình nói không ai tinh tấn bằng tôi, không ai khinh an bằng tôi, mình so sánh tất cả mọi nơi mình là nhất, "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã tôi là khinh an nhất" Chỉ có cái Ngã mới chết mình. 

Khi Bồ Tát ra đời đã giáo giới mình rồi, nhưng mình vẫn còn nuôi dưỡng, nghe thì nghe, thức tỉnh rồi tôi không có trong đó thì thôi, nhưng thật ra trong đời sống hàng ngày mình rớt vô trạng thái mình không  giác ngộ, và mình sẽ lập lại trong cảnh huống khác và mình sẽ chết trong một trường hợp khác.

Ác ma rất tinh vi, mình thoát được phiền não ma, nhưng mình có thoát được tử thần ma không ? Rồi Ngũ Uẩn Ma, cái "Tôi" mình đâu có thoát được, Ngũ Uẩn Ma là của mình nhưng thật ra đó là Ma không phải là Ngũ Uẩn của mình, mình sống trong ngũ uẩn ma mình không hay, do Thiên Ma điều khiển hết.

Con rùa có 2 cảnh: là cảnh pháp và cảnh thực tính. Nó đứng giữa 2 cái đó nó phải giác ngộ, tôi không đi con đường cảnh pháp vì có cái "Tôi" cái "Ta" có lậu hoặc. Tôi đi con đường thực tính.

Thế thì với 2 người, người thứ nhất là người thấy sai là sửa, người đó là tinh tấn chuyên cần, họ là người biết sửa lỗi.

Bây giờ mình nói về con người thứ nhất. Nếu họ sửa hết, thấy sai là sửa, thấy sai là sửa, giới nào họ sai họ sửa, giới nào chưa hoàn hảo họ bổ túc cho hoàn hảo, thì tới lúc hết rồi thì họ có là hoàn hảo không ?

Vì không còn gì để sửa nữa, trộm cắp không có, tà dâm không có, không nói dối, không sát sinh, không uống rược hay các chất say, 5 giới hoàn hảo hoàn mỹ, thì họ có gì để sửa. Thay vì tạo tác lỗi lầm thì họ ngồi sửa và họ không làm lỗi nữa, thân ngữ ý họ giữ trọn vẹn.

 Năm giới:

- sát sanh còn không, hồi đó có bây giờ hết rồi, con ruồi con muỗi nó cắn cứ để nó cắn, thì không phạm sát sinh.

- trộm cắp, tôi không đi ăn cắp, lượm lặt gì của người.

- tà dâm, tôi không tà dâm

- không nói dối, không nói chơi nói giỡn

- chất say, chất rượu không có uống

Như vậy thì 5 giới mình giữ hoàn hảo rồi. Nhưng bản ngã vẫn còn nguyên khối. Vậy thì hạng người A họ sửa là sửa trong bản ngã của họ.

Hạng người B là người thức tỉnh, họ thức tỉnh trong bản ngã nguyên khối của họ.

Hạng người C là người giác ngộ, không Bản Ngã.

Những cái đó trong đường tu mình phải càng ngày càng tịnh hóa lên, trong sạch lên, mỗi ngày trong sạch một chút. 

Từ cái sửa, từ cái thức tỉnh, từ cái buông bỏ bản ngã, mỗi cái như vậy thì quí Phật tử sẽ đi được lên góc độ giải thoát hoàn hảo, hoàn toàn diệt hết, chấm dứt hết. Nhưng trong cái đó quí Phật tử phải tìm ra phương thức chứ không nói suông. Mình biết rồi, giờ Sư hỏi quí Phật tử trả lời được rồi và không có những lầm lỗi nữa, không sai lầm nữa trong tri kiến, Dassanena Pahàtabba - Kiến Giải Phóng Khí mình biết rồi, rồi tới cuối cùng quí Phật tử Pahàtabba mà diệt hetuka - hữu nhân luôn, mình diệt luôn cái nhân của nó nữa

Tuệ thứ I là phân biệt Danh / Sắc, mình biết và mình sửa rồi, không còn sai lầm "Tôi" "Ta" nữa rồi, mình đã thức tỉnh để sửa, tôi không trách tôi nữa.

Tuệ thứ II, tôi tìm được nhân của Danh / Sắc này là tôi còn sâu hơn nữa, đi tới gốc rễ luôn.

Tuệ thứ III Phổ Thông Tướng (Tam Tướng).

Trong Tuệ thứ I, II, III, mỗi cái này Nhân cũng có Danh Sắc cũng đều nằm trong Tam Tướng này.

Do đó, Phổ Thông này nó vừa diệt Pháp vừa diệt Thực Tính. Pháp này là Danh Sắc, Thực Tính này là nhân. Phổ Thông Trí nó lấy 2 pháp luôn.

Tâm Đạo là tâm ở trạng thái vừa diệt phiền não vừa chứng đắc Níp-bàn. Tâm Đạo có 2 chức năng.  

Tới tuệ thứ III chưa phải là tuệ thứ 10, mà tuệ thứ 10 cũng chưa phải là tuệ Chuyển Tộc, chưa phải là Thuận tùng, Cận Hành, Chuyển Tộc, rồi Đạo Quả, cho tới tuệ thứ 10 Hành Xả Trí đi nữa thì hành giả chưa có Giác Ngộ.

Tuệ thứ I có không ? có.

Tuệ thứ II có không ? có

Tuệ thứ III có không ? có

-----------------------------

Mười sáu tuệ Minh Sát:

1. Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc.

2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.

3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). (Phổ Thông Tướng)

4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt.

5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.

6. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ.

 7. Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành. Quá Hoạn Trí

8. Nibbidā ñāṇa: Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản. Quyết Ly Trí

9. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát. Dục Thoát Trí

10. Paṭisaṅkhā ñāṇa: Tuệ suy tư.

11. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành. Hành Xả Trí

12. Saccānulomika ñāṇa: Tuệ thuận thứ (thuận theo thực tế, tức thuận theo Tứ Diệu Ðế).

13. Gotrabhū ñāṇa: Tuệ chuyển tánh, vào lúc "chuyển thay dòng dõi" (tức từ phàm trở nên Thánh).

14. Magga ñāṇa: Ðạo tuệ.

15. Phala ñāṇa: Quả tuệ.

16. Paccavekkhaṇa ñāṇa: Tuệ ôn duyệt.

--------------------------

Bây giờ quí Phật tử nói tiếp luôn, tới tuệ thứ tư thấy Danh sinh diệt, Sắc sinh diệt, người thứ hai nói, con nói thiệt với Sư con thấy hoại diệt trí luôn, tức là con thấy Danh diệt, Sắc diệt. Họ ngồi họ thấy hết, từ hơi thở vô, từ sắc pháp có, từ danh pháp có, Tâm Ý Thức, Thọ, Tưởng, Hành, luôn cả Danh và Sắc họ thấy hết hoại diệt hết, nhưng chưa, "hành giả đi tiếp nữa".

Ngài Paṇḍita nói: có một vị Thiên tử ở trên cung trời Tam Thập Tam Thiên (33) mà Ngài là vị Thiên Chủ trong Tam Thập Tam Thiên đó, khi Ngài bước vô cổng thiên cung của Ngài thì có 1000 chư Thiên  đệ tử ra đón tiếp Ngài, Ngài sửa y áo Ngài lại, rồi Ngài nhìn xuống (hạ mục nhãn căn) rồi Ngài nhìn cái cổng, y áo chói lòa ánh sáng của 1000 chư Thiên đệ tử ra đón tiếp Ngài, họ nói: "Thưa Ngài, Ngài đang ở Thiên cung chứ không phải ở trong cốc của Ngài tu". Thì vị Thiên tử giật mình nói rằng "Ta bị mắc bẫy rồi". 

Vị Thiên tử tối đó đi đến gặp Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn, con bị mắc bẫy, Ngài hãy dạy cho con con đường thoát khổ. 

Đức Phật nói: "Đi tiếp, Thiên tử đi tiếp và phải đi thẳng, chứ không còn con đường nào khác."

Thì Đức Phật Ngài thấy cái gì mà Ngài nói "đi tiếp" ?. 

 Tại vì khi vị Thiên tử là một vị tỳ khưu Ngài tinh tấn, khi Ngài tu Ngài chú nguyện Adhiṭṭhāna đắc quả A La Hán, Ngài thu thúc hết các căn lại và luôn luôn hành tinh tấn, không ăn, không ngủ, khí hơi trong bụng Ngài nổ tung ra Ngài chết khi đang thiền hành, sinh lên cung trời Tam Thập Tam Thiên mà Ngài cũng không hay, Ngài nghĩ Ngài vẫn đang thu thúc các căn, tới khi Chư Thiên la lên Ngài đang ở cung trời Tam Thập Tam Thiên chứ không phải đang ở trong cốc, Ngài không còn là vị tỳ khưu và không còn là người, Ngài đang là Thiên tử. Thì Ngài nói ta không đi đường này.

Do đó, khi Đức Phật Ngài cho một lời nói thì vị Thiên tử đó mới thấy rằng  thức tỉnh mà muốn Giác Ngộ thì phải đi tiếp, chứ chưa dừng lại.

Vậy thì khi đi tiếp thì đi chỗ nào ? 

Đức Phật Ngài nói: "Đi thẳng". 

Thì vị Thiên tử mới bắt đầu suy nghĩ : "Đi tiếp là cái gì ?" Là không phải Thiên giới, không phải là nhân loại, không một cõi giới nào hết mà mình phải châm chích cái Sinh Diệt cái tri kiến.

Ngài lên Thiên cung Ngài cũng chấp giữ, Ngài xuống cõi người Ngài cũng chấp giữ, Ngài hoàn hảo hết, nhưng Ngài chưa giải thoát.

Bây giờ quí Phật tử đi tới con đường Minh Sát Trí, từng mỗi tuệ Minh Sát Trí Vipassana ñāṇa này quí Phật tử trải qua, từng mỗi Minh Sát Trí quí Phật tử có sự thức tỉnh, hay là mỗi một cái quí Phật tử đã Giác Ngộ.

Bậc Thất Lai là hạng Giác Ngộ thứ nhất là Tu Đà Hườn.

Thất Lai có 3 bậc :

1/ Đắc lên xuống 7 lần mới qua Nhất Lai, 

2/ Đắc lên xuống từ 1 đến 6 lần

3/ Đắc 1 lần duy nhất giải thoát luôn, không lên xuống 6 hay 7 lần.

Hạng Thất Lai thứ 1, lên xuống 7 lần mới qua Nhất Lai, rồi lên xuống mới qua Bất Lai, lên Ngũ Tịnh Cư, rồi lên 5 bậc Thiện Kiến, Thiện Hiện, Vô Phiền, Vô Nhiệt, Sắc Cứu Cánh, đi 5 bậc Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ mới tới Alahan.

Hạng Thất Lai thứ 2, lên xuống 1 trong 6 lần là đi rồi, có khi 3 lần, có khi 2 lần là đi rồi.

Hạng Thất Lai thứ 3, lên xuống chỉ 1 lần thôi, vấp ngã chỉ một lần thôi.

Mình vuột Alahan mà mình phải sinh lên Thất Lai thì ở Thất Lai đó thì mình phải giải thoát liền, không đi lên xuống nữa.

Quí Phật tử ngồi xuống thiền Tứ Niệm Xứ, thiền Minh Sát Trí, ngồi xuống tu tập về vấn đề giải thoát thì quí Phật tử chú nguyện cái nào ?

"Tôi nguyện hôm nay tôi ngồi đây tôi phải giải thoát Vô Sinh Níp-bàn".

Nhưng mà không may Ba La Mật không đủ, việc tu tập mình chưa chính xác do đó mình rớt vô hạng Thất Lai. Như vị Tỳ Khưu nguyện Alahan nhưng rớt vô làm Thiên tử, ông nói "tôi mắc bẫy rồi, tôi không có ở đây, ở đây là nơi ồn ào huyên náo không thanh tịnh", ông mới xuống gặp Đức Phật để tìm chỗ nào thanh tịnh. Đức Phật nói "đi tiếp". Đi tiếp là chỗ nào, ông chỉ còn trở về cung trời Đao Lợi mà nơi đó là nơi huyên nào ồn ào, vậy thì đi đâu.

Thì khi nguyện Alahan Vô Sinh, nhưng mình rớt vô Thất Lai, thì Thất Lai có 3 phần:

1/ bậc lên xuống 7 lần, hết kiếp người, người đắc Thất Lai mà trở lại trong 7 lần thì xuống cõi người họ có 3 điều lợi là:

1. Đức tin Tam Bảo tuyệt đối không bao giờ lay chuyển, không theo một tôn giáo nào khác hết, họ kiên cố chỉ biết Tam Bảo. 

2. Giới của họ kiên cố không bao giờ sức mẻ.

3. Con đường của họ chắc chắn là tới giải thoát

Ba điều đó là của người đắc Thất Lai, luôn luôn 3 điều đó, khi họ trở lại làm người dù ở nơi không có chánh kiến, dù ở nơi không có Tam Bảo, dù ở nơi không có chánh pháp họ vẫn giữ được 3 điều đó, cho dù họ sinh trong gia đình cha mẹ không có đức tin Tam Bảo nhưng họ vẫn không thay đổi.

Đức tin của họ kiên cố, giới của họ kiên định, sự giải thoát chắc chắn có, họ xuống rồi họ trở lên. 

Ở trên Chư Thiên nơi đó ồn ào náo nhiệt họ vẫn trong trạng thái an trú các căn.

 Do đó, khi Đức Phật Ngài nói này vị tỳ khưu Thiên tử hãy đi tiếp là hồi lúc ông ở dưới cõi người ông thu thúc các căn thì bây giờ ông lên cung trời Đao Lợi ông không đổ thừa là huyên náo là vì ông đã đi con đường vòng rồi, ông không đi con đường thu thúc các căn nữa. Nên Ngài kêu là tiếp tục đi là đi con đường ông đang tu chứ không phải ông đổ thừa là đi lên trên Thiên cung mà không muốn ở đó muốn đi chỗ khác, vậy thì đi đâu. Ở dưới cõi người thu thúc các căn thì lên trên trời cũng thu thúc căn. Ngài nói tiếp tục đi thẳng con đường đó thì sẽ tới nơi an toàn.

 Đức Phật nói tiếp tục đi, ông nói không muốn ở cõi trời, Đức Phật nói ông bỏ cái cốc của ông rồi, ở dưới đây ông thu thúc căn giờ ông lên cõi trời ông kêu ồn ào vì ông không thu thúc căn, còn nếu ông thu thúc căn thì đâu còn huyên náo là ông đi con đường khác rồi.

 Hành giả thấy được Danh Sắc, tiếp tục đi, thấy được nhân Danh Sắc tiếp tục đi. Thấy được Phổ Thông Tướng, tiếp tục đi, chứ đâu có đứng lại, và đi là đi trong giải thoát, là đi diệt cái ngã, chứ không phải là đi chứng tri của pháp mà mình đang có của Minh Sát Trí, cái đó là chưa có đi đâu hết. Tiếp tục đi và phải đi nữa.

Thấy được Danh Sắc, tiếp tục đi.

Thấy được Nhân Danh Sắc, tiếp tục đi.

Thấy được Tuệ Phổ Thông Tướng, tiếp tục đi,

Thấy được Tuệ sanh diệt trí, tiếp tục đi.

Thấy được Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc, tiếp tục đi,

Thấy được  Tuệ kinh sợ, tiếp tục đi, không có cuốn chiều bỏ về.

Đến tuệ sợ có một số hành giả sợ hãi bỏ về, không có gì phải sợ hãi, đó chỉ là pháp thôi, cái bản ngã này còn chưa diệt là vẫn còn đi nữa, chưa có giải thoát. Cái Pháp đó là Pháp mình cần phải đi.

 Con rùa, cho dù thấy cảnh pháp, cho dù thấy cảnh thực tính đi nữa nó vẫn phải tiếp tục đi.

Khi chú nguyện của mình là giải thoát mà không thành mà trổ sinh quả Thất Lai. Thì khi vô tới Thất Lai mấy cô không nhìn 3 trường hợp lên xuống của bậc Thất Lai, mà thấy mình sai trong cái chú nguyện, sai trong cái tu tập thì phải giải thoát ngay đây, hành giả trở lại cái chú nguyện ban đầu đi giải thoát. Do đó, mình không có chờ đợi gì nữa trong 3 trường hợp lên xuống của bậc Thất Lai, mà phải giải thoát. Tôi không hạng thứ nhất, không hạng thứ hai, không hạng thứ ba.

Vô đó, khi vị Tỳ Khưu Thiên Tử đó biết mình sai, ông nguyện Alahan mà bây giờ ông tái sinh làm Thiên Tử chứ chưa được Thất Lai nữa, thì ông nói : "Ta phải đi tìm bậc Giác Ngộ chỉ cho ta con đường trở lại tu tập để giải thoát."

Thì vị Thiên tử đến gặp Đức Phật thì Đức Phật nói: "Tiếp tục đi, đi con đường chú nguyện ông đi, chứ đừng đi theo con đường Thiên tử cũng đừng đi theo con đường Thất Lai thì ông mới giải thoát. Đi con đường trú xứ đó không sợ hãi không nguy hiểm và hoàn toàn an lành".

Ở trong từ vựng mà Ngài Paṇḍita dùng là vị Thiên tử complain trong tiếng Anh nghĩa là vị Thiên tử đang trách móc "Tôi sai" chứ không than phiền, than phiền là than thở, còn đây là vị Thiên tử trách móc mình là tôi đã sai rồi.

Do đó, khi hành giả thấy sai thì mình sửa, thấy thức tỉnh mình phải thức tỉnh.

May là vị Thiên tử đến gặp Đức Phật, nếu ông không gặp Đức Phật ông rớt vô đường độc đại. Mình có cơ hội đó không "Nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục” có cơ hội đó không, một phen mất thân người, vạn kiếp cũng không thể có lại được nữa. Mình sai mình phải thức tỉnh, phải Giác Ngộ và không có lập lại cái này.

Khi mình thấy sửa thấy tỉnh thấy Giác Ngộ mà mình không có đi tiếp nữa.

Cho dù người đó thấy sai họ sửa, vẫn chưa. Cho dù người đó thấy họ sai họ thức tỉnh, vẫn chưa. Người thức tỉnh rồi và họ Giác Ngộ rồi cũng chưa chắc. 

Đức Phật ra đời có bao nhiêu người đã giải thoát, bao nhiêu người đã thức tỉnh rồi ? 

Bậc Giác Ngộ ra đời chỉ nói đến sự giải thoát, chứ đâu có nói để thức tỉnh. Cũng như quí Phật tử biết được Pháp Đức Phật, có được Pháp Đức Phật không phải để quí Phật tử thức tỉnh, quí Phật tử phải giải thoát, và phải đi tiếp tục.

Do đó, cho dù hạng A, cho dù hạng B, cho dù C, cũng phải đi tiếp. Cho dù hạng Thất Lai là Thánh Thiên, cái đó là mình sai trong chú nguyện, và mình phải tiếp tục đi con đường mình đã chọn, chứ không đi Thất Lai, và tôi không có cái nguyện này, và tôi không có tác ý này và con đường tôi đi phải đi tiếp tục và đi cho tới mức.

Giờ phút cận tử có 1 trong 3 cảnh chắc chắn nó sẽ tới với mình:

1. Thiện phước ta đã tạo trở lại

2. Hối tiếc việc đã làm không thành trở lại

3. Việc vọng cầu chưa đạt

Cho dù là phàm nhân, cho dù là phi nhân, cho dù là thánh nhân, 3 cảnh đó trở lại với người sắp chết; thiện phước, hối tiếc, vọng cầu

Thiền sinh hỏi: Có cách nào để mình khi giờ phút cận tử không nghĩ tới việc phước mà để đạt được đi lên ?

Sự chết (cuti) khởi lên do một trong bốn nguyên nhân:

- Do tuổi thọ hết (āyukhaya), 

- do nghiệp diệt (kammakkhaya), 

- do cả hai cùng diệt và 

- do bị đoạn nghiệp (upacchedakamma).

Khi quí Phật tử cận tử thì phước ào tới, cảnh tới, thiện phước tới, rồi hối tiếc mình chưa thành tựu chí nguyện, rồi mình vọng cầu mình phải giải thoát. Trong 3 cảnh đó đến với một người cận tử lâm chung cho dù người đó là phàm nhân, người đó là thiên nhân, cho dù người đó là thánh nhân Thất Lai, Nhất Lai, Bất Lai.

Ngay cả Đức Phật tại Kusinara, Ngài nói với Ananda: "Ananda xích ra để Chư Thiên đến đảnh lễ Như Lai". Đó là do phước của Ngài tới, và Chư Thiên nói đây là cơ hội cuối cùng ta đảnh lễ Đức Thế Tôn, chứ không còn cơ hội nào khác vì Ngài sẽ viên tịch. Như vậy cho thấy ngay cả Đức Phật Ngài chứng đắc vô sinh, Ngài kêu Ananda đừng cản Chư Thiên đang khó chịu vì muốn đảnh lễ ta . (Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn - Maha-parinibbàna Sutta)

Ngài Xá Lợi Phất độ mẹ của Ngài ngày cuối, tại vì ngày mai là Ngài viên tịch, Chư Thiên, Tứ Thiên Vương, Chư Thiên Đao Lợi đi xuống tới Phạm Thiên Sắc Giới xuống đảnh lễ Ngài chói sáng phòng. Mẹ Ngài nhìn thấy, bà ngạc nhiên không hiểu con bà làm gì mà Chư Thiên xuống đảnh lễ. Đó là thiện phước của Ngài đến.

Đến phút cuối quí Phật tử mà cận tử phước của quí Phật tử đầy hết thì sẽ hưởng thiện phước này. Đừng nói chi tới sự hối tiếc, không có, vì phước đến rồi thì đâu có gì mà hối tiếc, hay là mình đang vọng cầu, không có, vì mình đang hưởng phước mà.

Một thí dụ đơn giản, hồi ở bên VN sau 1975 mình bị mất hết, mình đau khổ đủ rồi mình bỏ đi, giờ mình qua đây thì mình có đầy đủ lại hết, muốn việc làm có việc làm, muốn nhà có nhà, tiền của có, thì mình còn gì hối tiếc, mình còn cái gì vọng cầu nữa, giờ thì mình an trú rồi. Cận tử mình cũng giống vậy thôi.

Một lần sai rồi, một lần lầm rồi, bây giờ thiện phước tới mà thiện phước là mật ngọt, mấy cô lại lầm nữa. 

Ba điều này - (1. Thiện phước ta đã tạo, 2. Hối tiếc việc đã làm không thành trở lại, 3. Việc vọng cầu chưa đạt) vẫn là người thức tỉnh chưa Giác Ngộ. 

Do đó tới giờ phút cận tử :  

- Thiện phước ta thấy, dừng lại, 

- Hối tiếc việc đã làm không thành, ta thấy thì dừng lại. 

- và cái vọng cầu,  ta dừng lại 

- và ta bắt đầu niệm tiếp tục chứng nghiệm, không bị cám dỗ làm ngã gục, cái đó là người đang thức tỉnh, người Giác Ngộ, người giải thoát. 

Nên Đức Phật Ngài kêu đi tiếp là mình đi con đường mình đi, chứ không phải là mấy con đường của Thất Lai.

Mà con đường Thất Lai có là do tu mình có, cái phước nó có thì nó có, hay là mình vọng móng hay vọng cầu hay hối tiếc, nó chỉ là một cảnh Pháp mà thôi, và Tâm Ý Thức của mình nó thêu dệt theo cảnh đó dưới cái kiết sử với tập khí của mình nó nuôi, cái lậu hoặc của mình nó nuôi dưỡng, quí Phật tử phải cảnh giác thức tỉnh ./.


-----------------------------------------------------

Thập Đội Quân Ác Ma (Mara)

1/ Tham dục, hay là những cảm giác khoái lạc xuyên qua các căn.

2/ Sự bất mãn này là một cảnh, cảnh gì, nhân gì.

3/ Sự đói và khát. Khi mình bị đói và khát, cảnh nó đến với mình, Nhân, Trưởng nó lên liền.

4/ Tham ái, lòng khát vọng

5/ Hôn trầm thụy miên

6/ Sự sợ hãi : nhút nhát + sợ sệt

7/ Sự hoài nghi

8/ Sự phỉ báng + sự tự tôn (dèm pha ngoan cố)

9/ Sự lợi lộc (tán tụng, khen ngợi, danh dự, danh thơm tiếng tốt một cách sai lầm hay tà vạy.

10/ Tự khen mình và chê hay phỉ báng người.

Đó là 10 đạo quân ác ma, 

Thập Pháp Toàn Thiện (Ba La Mật)

1/ Xả Thí Ba La Mật  (Dānapāramī)

2/ Trì Giới Ba la mật (Sīlapāramī),

3/ Ly Dục Ba la mật (Nekkhammapāramī)

4/ Trí Tuệ Ba la mật (Paññāpāramī)

5/ Tinh Tấn Ba la mật (Viriyapāramī)

6/ Nhẫn Nại Ba la mật (Khantipāramī

7/ Chân Thật Ba la mật (Saccapāramī)

8/ Chú Nguyện Ba la mật (Adhiṭṭhānapāramī),

9/ Từ Ái (Mettāpāramī)

10/ Hành Xả Ba la mật (Upekkhāpāramī),

----------------------------------------

Mười phước nghiệp sự, phúc hành tông (Puññakiriyavatthu), việc làm tạo phước báu:

1. Tạo bằng bố thí (Dānamaya).

2. Tạo bằng trì giới (Sīlamaya).

3. Tạo bằng tu tiến (Bhāvanāmaya).

4. Tạo bằng cung kính (Apacāyanamaya).

5. Tạo bằng phục vụ (Veyyāvaccamaya).

6. Tạo bằng hồi hướng (Pattidānamaya).

7. Tạo bằng tùy hỷ (Pattānumodanāmaya) .

8. Tạo bằng thính pháp (Dhammassavanamaya).

9. Tạo bằng thuyết pháp (Dhammadesanāmaya).

10. Tạo bằng việc cải chánh tri kiến (Diṭṭhujukatamaya). Chân tri chước kiến

---------------------------------------

Có bảy Yếu Tố của sự Giác Ngộ (Thất Giác Chi) là:


1. Niệm Giác Chi (sati-sambojjhanga),

2. Trạch Pháp Giác Chi (dhammavicaya-sambojjhanga)

3. Tinh Tấn Giác Chi (vìriya-sambojjhanga),

4. Phỉ Giác Chi (piti-sambojjhanga),

5. Khinh An Giác Chi (passaddhi-sambojjhanga),

6. Ðịnh Giác Chi (samàdhi-sambojjhanga)

7. Xả Giác Chi (upekkhà-sambojjhanga)

--------------------------------------

Mười giới 

1- Không sát sanh (pānātipātā).

2- Không lấy của không cho (adinnādāna).

3- Không hành dâm (abrahmacariyā).

4- Không nói dối (musāvādā).

5- Không uống rượu và chất say (surāmeraya).

6- Không dùng vật thực phi thời (vikālabhojana).

7- Không xem hay múa hát, nghe hoặc xử dụng nhạc khí (naccagīta vādita visūka dassana).

8- Không trang điểm (mālāgandha vilepana dhārana mandana vibhūsanattha).

9- Không nằm giường cao và xinh đẹp (uccāsayaṇa mahāsayana).

10- Không nhận tiền (Jātarūpa rajata patiggahana).


Tuesday, January 7, 2025

065 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 08 tháng 7, 2023

 065 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 08 tháng 7, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "065 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Trong Thập Phúc Hành Tông Puññakiriyavatthu, 10 việc thiện tạo ra phước báu, đầu tiên là dāna xả thí. 

Tuy nhiên, nếu mình đứng ở góc độ Thập Phúc Hành Tông là mình làm nghiệp sự. 

Nhưng đứng ở góc độ Ba La Mật (pháp toàn thiện) cũng có xả thí dāna .

2 Pháp này khác nhau chỗ nào ?

Thế nào là Toàn Thiện ? Thế nào là làm việc phước ? Thế nào là làm Ba La Mật ?

Trường hợp bậc trí giả hỏi mình, hay những người có nghiên cứu hay những người đọc kinh sách khác họ đặt câu hỏi mình không biết trả lời. 

Thì quí Phật tử nhớ khi mình xả thí dāna với tác ý manasikāra của mình là mình tạo việc thiện thì mình có quả phước và mình hưởng phước.

Quả phước có 3 tùy năng lực của mình :

1. Sinh trở lại làm người.

2. Sinh trở lại làm thiên.

3. Giải thoát.

Còn khi mình làm xả thí dāna với tác ý Ba La Mật là mình diệt một đội quân ma. Mình giải thoát và không còn luân hồi nữa.

 Trong người tôi có đội quân ma tôi phải làm Ba La Mật chứ tôi không có tạo nữa, tạo Xả thí dāna bên Thiện là tôi tạo ra để tôi hưởng là còn luân hồi, bây giờ tôi muốn chấm dứt.

Trong bài trước ta học 10 đội quân ác ma, thì đội quân ma đầu tiên là Tham Dục. 

Tôi nhìn vô Tham Dục của tôi, tôi hành Ba La Mật xả thí. Tức là dùng xả thí này để diệt đội quân ma tham dục ẩn núp ở trong con người của mình trong kiếp này để mình thoát ra.

Còn làm việc Thiện với tác ý để nhận quả phước thì mình đi theo hướng của nó, còn làm xả thí Ba La Mật thì mình đi theo hướng Ba La Mật. Vậy thi 2 cái đó. Tại sao gọi là Toàn Thiện ? Là không mong cầu gì trong việc làm Toàn Thiện mà là muốn xả, buông, chứ không muốn hưởng.

Từ đây về sau khi làm việc thiện nào mình phải tác ý là chủ chốt trong mọi hành động mình làm Thiện hay làm Toàn Thiện 

Mình gieo trồng phước thì làm Thiện tạo quả phước. Còn mình diệt kiết sử thì làm Toàn Thiện Ba La Mật.

Quí Phật tử làm xả thí tạo quả phước hay làm toàn thiện Ba La Mật ?

Vì diệt tham dục của tôi, diệt dục lậu ngủ ngầm trong tâm thì xả thí này tôi buông chứ không vọng móng gieo trồng để hưởng thì quí Phật tử đi theo hướng đó. Rồi từ mỗi việc làm đó biết là mình có Ba La Mật nhiều hay ít và có vun bồi con đường tu tập diệt những đội quân ma (kiết sử) hay pháp nghịch trong người của mình.

Vậy thì, bây giờ đứng góc độ này, quí Phật tử làm xả thí tạo quả phước hay làm toàn thiện Ba La Mật ?

 Thường thì người ta hay nói làm phước đi con, không bao giờ người ta nói tu tập đi con. Thậm chí người Phật tử tới chùa họ vẫn nói tới chùa để giúp chùa , tới chùa làm công quả, họ ban bố, chứ đâu phải họ tới chùa để tu, họ nghĩ họ đến chùa làm phước để có phước chứ không phải để tu tập.

Nhưng "Tiên trách kỷ hậu trách nhân.  Tại vì có những trường hợp vị Thầy, vị Sư đã làm như vậy,  Do đó, họ không làm Toàn Thiện mà họ làm phước Thiện để sau này được sinh Nhân, Thiên để hưởng phước. 

Tất cả mấy cái đó họ sai lầm hết,  "Sư tử trùng thực sư tử nhục", những người con của Đức Phật họ làm sai, nên mới có giới luật 227 giới, mỗi một giới luật đặt ra là từng mỗi một người đệ tử của Ngài làm sai, và Ngài ban bố giới luật là dạy cho đệ tử của Ngài hoàn chỉnh lại để lo tu tập.

Nếu quí Phật tử đi góc độ Thiện quả phước thì có phước Nhân Thiên, nhưng không có tu tập Ba La Mật để diệt tham dục của mình thì không có vế bên Ba La Mật, và không đủ để chống lại đội quân ma.

Càng gieo càng hưởng, mà càng hưởng thì càng bị lún, càng bị cột trói, do đó phải hiểu làm để diệt tham dục chứ không gieo không tạo để hưởng, tôi muốn chấm dứt tôi không muốn đón nhận nữa.

 Khi quí Phật tử làm Toàn Thiện (Ba La Mật) tức là có đội quân ma trong người của quí Phật tử được diệt trừ không ? 

Thì mình làm Toàn Thiện để mình diệt kiết sử.

Thí dụ mình bệnh, mình uống thuốc để diệt căn bệnh.

Nhưng chính mình không thấy mình, trong người mình có đội quân ma mà mình cứ  nhìn ra bên ngoài.

Mình đi tới không quay lại phía sau, mình nhìn cái thiện không nhìn cái bất thiện và không có tạo tác. Nhưng trong khi đi như vậy tác ý là tôi diệt chứ không phải tôi vay. Nó không vi tế nhưng tại vì mình không nhìn ra và không ai nói cho mình biết để mình thức tỉnh.

Tôi làm việc thiện này, tôi làm xả thí này không để mong cầu mà tôi chỉ mong diệt.

Tác ý của Sư là chỉ dẫn quí Phật tử đi từng bước để đi cho đúng thì mới diệt được tham dục (mong được hưởng phước) của mình. Cái khó của mình đây là diệt được kiết sử và lậu hoặc của mình, mà quí Phật tử không nhìn ra được  kiết sử lậu hoặc của mình nên không bao giờ diệt mà tưởng rằng mình đã có diệt thật ra mình đang tạo.

Một hôm Ngài Mục Kiền Liên lên trời Đao Lợi gặp 2 người đệ tử của mình họ đứng đàng xa chỉ vẫy tay chào Ngài rồi đi liền. Ngài Mục Kiền Liên xuống nói với Đức Phật con lên trên cõi trời Đao Lợi con thấy 2 đệ tử, một ông thì còn chào, một ông chỉ vẫy tay cái đi liền. Đức Phật Ngài nói ở cõi trời họ hưởng dục lạc, họ không có thì giờ tu. Nhưng ý của Ngài Mục Kiền Liên không phải là họ không có thì giờ tu, ý của Ngài là con dạy ở dưới đây là họ tu để giải thoát mà tại sao họ lên trên trời, tại vì họ không nghĩ ra, họ cũng đắp y, họ cũng xuất gia, họ cũng hành sự nhưng họ chỉ tạo thiện để hưởng phước, chứ không phải là để họ diệt tham dục, cho nên bây giờ phước đầy rồi nên sanh lên trời hưởng phước. May là họ không rớt xuống 4 đường ác đạo ngã quỷ, xúc sinh, a tu la, họ sinh lên trời là được rồi. Nhưng cái gốc từ ban đầu họ không thấy đường đi của họ đúng hay sai.

Thành ra mình làm việc xả thí này thì tác ý của mình:

-  (Tư Tiền)  tôi gieo hay là tôi diệt,  

- (Tư Hiện) tịnh tín và có trí tuệ nhận xét, sau đó 

- (Tư Hậu) hoan hỉ.  Tư Hậu là quán tìm lại với  tác ý mà họ tạo ra. 

Còn Tư Tiền này họ nhận xét rằng là tác ý này ta làm với mục đích nào 

Tư Tiền  -  tác ý tu diệt

Tư Hiện - tác ý tịnh tín thực hiện

Tư Hậu - tác ý quán tìm việc đã thực hiện với mục đích nào

Tác ý Tu Tiền của mình là tác ý tu diệt, xả thí hay trì giới, mình hoan hỷ

Tác ý Tu Hiện là tác ý tịnh tín, trong sạch, và mình lặng lẽ thực hiện đúng tác ý của mình tạo ra, mình hoan hỷ.

Tư Hậu - tác ý quán tiền trở lại mình đã thực hiện đúng việc làm của mình, mình hoan hỷ.

3 thời mình đều hoan hỷ

 Bây giờ mình làm cái gì mình cũng phải cẩn thận.

Ngay cả Từ Ái Ba La Mật, Metta Ba La Mật đối diện với đội quân ma thứ 8 .

Metta : Từ Ái diệt  : Tâm sân độc và  ái luyến vị kỷ.

1. Từ ái diệt tâm sân của mình

2. Từ ái diệt ái luyến và vị kỷ riêng tư của mình (Thương con mình và thương cá nhân của mình).

Đội quân ác ma thứ 10 là tự khen mình, chê người, lúc đó mình không có tác ý xả thí là mình ngã liền vì lúc đó mình đang làm với tâm từ metta, chứ mình không tác ý diệt đội quân của mình, rồi mình ở trong vòng nuôi dưỡng nó và mình sẽ hưởng chứ không mất, và mình tiếp tục đi. Ngày mai, tuần sau, năm sau, kiếp sau mình không gặp người nhắc mình hay chỉ mình thì mình ở trong vòng đó và bị đội quân ma dắt đi.

 Bây giờ mình diệt, mình không gieo trồng thì mình bẻ gãy hay nhổ gốc thì mới an toàn trong trạng thái đã làm xong.

Vậy thì quí Phật tử làm Tâm Từ Metta để tu diệt hay để tu Thiện.

Metta thì Thiện khác, còn Metta tu diệt khác.

 Nếu như không nhìn thấy đội quân ác ma nằm sẵn trong người mình, thì mình làm việc thiện phước và việc thiện phước đó đang làm mà không được đúng như ý của mình, mình nổi sân lên liền, bất toại nguyện liền, mà mình không thấy mình đang tiêu diệt tại vì mình đang làm việc thiện và chính việc thiện đó không đem lại kết quả.

 Và bây giờ mình biết rồi thì bắt đầu nghiệm lại. Nếu thế thì một ngày quí Phật tử làm được bao nhiêu tu diệt thói hư tật xấu của mình, một ngày diệt được bao nhiêu tập khí, một ngày diệt được bao nhiêu đội quân ma, thì quí Phật tử thấy bao nhiêu việc thiện.

Mình nghiệm lại, mình thấy 2 vế mình đi. Thì vế nào quí Phật tử làm cũng có nhưng cái ý của mình đi nó đúng hay sai lúc đó mình biết kết quả.

Bữa nay bài học quí Phật tử phải hiểu, mình đừng có lầm nữa và mình đừng có tạo ra nữa và mình cứ nghĩ là mình đúng, mình đang sửa lại và từ từ mới sửa lại được. 

Buổi tối quí Phật tử rải Tâm Từ Thiện chứ Sư biết là không phải Tâm Từ Ba La Mật. Quí Phật tử phải làm lại, nếu quí Phật tử không sửa thành Tâm Từ Ba La Mật thì Sư chỉ tiếp để diệt kiết sử, diệt thói quen diệt lậu hoặc rất khó, tại vì nhìn không ra. Khi quí Phật tử nhìn ra thì bắt đầu mình học tiếp.

Mình làm việc Thiện không ai chê hay chỉ trích mà họ khen, nhưng xét cho cùng mình chưa có tu tập gì hết, còn nguyên khối, quí Phật tử phải nhìn thấy thì con đường tu của mình mới bước tiếp được.

Tại sao một số người ta tu mà sinh ngã mạn, họ kể công. Đức Phật Ngài nói Tỳ Khưu Tissa là anh họ của Ngài, là người tu sau lại thích ngồi trên cao trên tháp tòa cùng với các vị Chư Tăng khác ở xa tới đảnh lễ Đức Phật, ông nhỏ hạ, ông tu sau, Đức Phật nói trong kinh Pháp Cú: "Này chư Tỳ Khưu, việc trong việc ngoài, việc trước việc sau tôi làm hết, không ai làm bằng tôi, người đó sanh ngã mạn chứ không tu tập."

"Việc trước việc sau, việc trên việc dưới tôi làm hết, không ai làm bằng tôi", như vậy thì đâu phải là tu, mà là ngã mạn, họ không tu diệt, họ tu bồi đắp lên như phù sa đắp lên đất liền, mai mốt nó dầy lên. Nhưng không có gột rửa, còn tham, còn sân, còn si, tật đố, lận sách, cái nào cũng có đầy trong người.

Do đó, cái tu của mình nếu như mình không có thấy được để tu diệt thì mình tạo tác thiện thì sẽ ở trong ốc đảo của mình. Không ai chê trách, nhưng mình sẽ tiếc là mình không đi đúng con đường từ ban đầu với tác ý mình là tu giải thoát, không còn sinh tử, thì quí Phật tử bị kẹt trong đó.

Tới nay quí Phật tử tạo bao nhiêu việc thiện ? Quí Phật tử làm Toàn Thiện và trong Toàn Thiện có Thiện phước.

Tôi làm Toàn Thiện nhưng trong Toàn Thiện đó tôi đang có Thiện phước. Cái Toàn Thiện trùm luôn Thiện phước. Còn nếu mình ôm cái Thiện mà  không làm Toàn Thiện thì chỉ có Thiện phước thôi.

Nên người làm Ba La Mật mà họ trở lại làm người tu tiếp thì họ có vốn Ba La Mật và Thiện phước của họ được hưởng, nên : "Nay vui đời sau vui, hai đời được vui, nghĩ đến việc Thiện càng vui hơn."

Đừng bỏ cơ hội để mình diệt tập khí của mình, một lần làm như vậy là một mũi tên bắn được 2 con chim "Nhứt tiễn hạ song điểu", vừa tạo xong Ba La Mật diệt tập khí của mình và gieo việc Thiện trên con đường mình đi.

Như vậy thì khi xả thí là mình diệt tham dục. Trong Pháp nói bố thí là diệt bỏn xẻn. Thì bên Ba La Mật bố thí là diệt tham dục của mình.

Có ông bá hộ giàu có, bà vợ nuôi ông ăn uống đầy đủ mà càng ngày ông càng xanh xao ốm gầy, bà vợ nói tôi cho ông ăn đủ thứ mà sao ông ốm nhom. 

Ông nói; "tôi muốn ăn một món mà tôi không dám nói".  

Bà vợ nói : "Ông nói đi tôi làm cho ông ăn ".

Ông nói: "Tôi nói ra thì người làm họ nghe."

Bà vợ nói : "Lên lầu 7 ông nói chỉ mình tôi nghe."

Thì 2 vợ chồng lên lầu 7 và ông nói ông muốn ăn bánh đập.

Bà vợ nói để bà làm cho ông ăn cho khỏi thèm. Thì ông nói là không được nói cho con hay người làm biết, vì họ biết thì phải chia cho họ ăn, chỉ mình tôi ăn thôi.

Đức Phật Ngài ở trong chùa Kỳ Viên, buổi sáng hôm sau Đức Phật nói : "Này Chư Tỳ Khưu, sáng nay có ai để bát trong chùa cho Đức Thế Tôn và Chư Tăng không ?"

Chư Tăng trả lời : "Bạch Đức Thế Tôn, bữa nay không có thí chủ nào để bát cho Chư Tăng".

Đức Phật gọi Ngài Mục Kiền Liên tới nhà ông bá hộ lấy bánh vể cho Chư Tăng dùng.

Ngài Mục Kiền Liên đảnh lễ Đức Phật rồi đi đến nhà ông bá hộ, nhìn vô nhà không thấy gia chủ, hỏi mấy đứa con và người làm họ nói ông bá hộ ở trên lầu 7. Ngài Mục Kiền Liên vận thần thông lên lầu 7. Ông bá hộ nhìn thấy Ngài Mục Kiền Liên đứng giữa trời ôm bình bát, bà vợ kêu ông bá hộ tìm miếng bánh nhỏ nhất đem đến để vào bát Ngài Mục Kiền Liên, khi ông cầm miếng bánh nhỏ nhất để vào bát Ngài Mục Kiền Liên thì mấy miếng bánh dính với nhau một chùm không rời. Vì Ngài Mục Kiền Liên vận thần thông nên mấy miếng bánh dính vào nhau, Ngài nghe lời Đức Phật đem bánh về cho Chư Tăng ăn, mà ông bá hộ cho miếng bánh nhỏ xíu thì sao đủ cho Chư Tăng dùng. Hai ông bà bá hộ nắm chặt chùm bánh không bỏ tay ra, Ngài Mục Kiền Liên đem bánh và cả 2 ông bà về chùa Kỳ Viên đến trước mặt Đức Phật. Đức Phật nói Chư Tăng hoan hỉ phước báu bữa nay 2 vị thí chủ cho bánh. Hai ông bà đảnh lễ Đức Phật và xin cúng dường bánh cho Chư Tăng.

Hai ông bà bá hộ không có xả thí nhưng Đức Phật độ 2 ông bà diệt được tham dục.

Thiền sinh hỏi: Khi mình xả thí là mình bỏ thói hư tật xấu bỏn xẻn của mình rồi ?

HT trả lời: Mình xả thí rồi mình buông bỏ là mình bỏ thói hư tật xấu của mình, nhưng mấy cô đón nhận cái phước rồi mà không đi Toàn Thiện thì sẽ trở lại Thiện phước để hưởng phước.

Cô nói đúng là xả thí rồi là tôi bỏ rồi, tôi không còn keo kiệt rồi, tôi đã xả thí rồi, tôi không còn dính mắc là đúng rồi, mấy cô hưởng cái đó, nhưng tham dục mà đội quân ma nó còn ở trong Thiện phước, mấy cô sẽ hưởng một tòa thiên cung đầy đủ thiên vật thiên tài sản của cải nhưng mấy cô không có giải thoát.

Tới khi con đường tu của mình không phải xuông xẻ như các quí Ngài như Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên tu không bị thử thách, quí Ngài đắc đạo quả liền. ĐĐ Mục Kiền Liên đắc đạo quả trước ĐĐ Xá Lợi Phất 2 tuần, câu chuyện đó làm cho Chư Tăng thắc mắc, Đức Phật nghe được Ngài gọi Chư Tăng tới hỏi các Chư Tăng thắc mắc gì. Chư Tăng thưa là: "Bạch Đức Thể Tôn, chúng con thắc mắc là  Ngài Mục Kiền Liên là đệ nhất về thần thông, Ngài Xá Lợi Phất đệ nhất về trí tuệ, mà tại sao ĐĐ Mục Kiền Liên đắc đạo trước Ngài Xá Lợi Phất".

Đức Phật nói : "Hoàn hảo, toàn thiện, hoàn bích thì phải chậm hơn, không làm nhanh được".

Đắc thần thông Thắng Trí abhinñnña, Ngài Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông, mà đi con đường thần thông là Sammādhi. Làm 1 bước

Còn đệ nhất về Trí Tuệ Paññā (Insight / wisdom) phải làm 2 bước 

Tuệ Giác (Vipassanāñāṇa) Minh Sát Trí.

I/  Tuệ phân biệt danh-sắc

Có người hỏi thế nào là Insight ? Thế nào là wisdom ? Thế nào là ñāṇa ? Thế nào là paññā ?

 Tuệ thứ nhất quí Phật tử có phân biệt được cái nào là danh cái nào là sắc của người mình chưa ? Trong con người mình cái gì là thể xác, cái gì là tinh thần ?

Tôi biết phân biệt 2 thành phần trong con người của tôi. Khoa học cũng nói con người có 2 thành phần là tinh thần và thể xác. Bên Phật Pháp thì nói danh và sắc, hay là về tâm linh vể sắc thân này.

Thì quí Phật tử có Tuệ Giác thứ nhất là Tuệ thân biệt danh sắc, vậy quí Phật tử có giác ngộ không ?

 Có phân biệt được danh và sắc vậy giác ngộ được chưa ? Cho tới tuệ thứ tư 

1. Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc.

2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.

3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). (Phổ Thông Tướng)

4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt.

Tôi cũng vậy, tôi làm việc Ba La Mật, trong Ba La Mật tôi có Toàn Thiện thì quí Phật tử đã được Ba La Mật chưa, mình ngồi nghiệm lại, Cái kiết sử cái lậu hoặc nó khó và nó vi tế và nó nhạy cảm không khéo là mích lòng, đụng vô là cái "Ta" cái "Tôi" nó đánh bậc ngược lại chóc gốc ông Thầy luôn không dám gặp mặt, nhưng Sư muốn dắt đi từng bước 

Mình có trí tuệ, mình có Minh Sát Trí, mình có tuệ phân biệt danh sắc, mình giác ngộ rồi.

Thế thì, mình có tu thiện hay tu diệt. Nếu mình có tuệ này, tuệ kia là mình chỉ tu thiện thôi chứ mình chưa tu diệt. Mỗi một ngày, mỗi một giờ, mỗi một lần thiền, mỗi lần qua được tuệ này đều diệt hết bản ngã của mình, diệt hết lậu hoặc của mình, diệt hết kiết sử của mình, diệt hết tập khí của mình, thì mình có giác ngộ. Còn tu thiện phước là mình lượm vô.

Nên các quí Ngài nói nếu người nào đắc tuệ thứ 2 nếu chưa giải thoát sanh trở lại họ không mất mà còn được tiểu Tư Đà Hườn, Ngài Paṇḍita nói tiểu Tư Đà Hườn, Ngài Janika nói tuệ thứ tư mới là tiểu Tư Đà Hườn. Thì tiểu Tư Đà Hườn là có phần giác ngộ rồi. Culla Sotàpanno là có phần giác ngộ rồi. Nhưng mình coi lại mình có giác ngộ không, tức là mình có diệt kiết sử của mình không.

Một lần mà mình thấy được tuệ danh và sắc mình diệt một lần kiết sử của mình, diệt một lậu hoặc của mình, chứ mình không có nuôi dưỡng thiện này để mình hưởng. Đắc tới đâu diệt kiết sử tới đó thì mới là giác ngộ.

Mình tu Tứ Niệm Xứ hay mình tu diệt kiết sử diệt lậu hoặc.

Trong mấy bài trước mình tu Tứ Niệm Xứ, chưa tu diệt kiết sử diệt lậu hoặc, bữa nay mình học.

Đức Phật nói: Có minh sát trí nhưng chưa có tuệ.

Đức Phật gặp Poṭṭhila, ông có 18 đội Chư Tăng, mà 1 tăng đoàn của ông là một ngàn vị, 18 tăng đoàn nằm trong tay của Poṭṭhila, nhưng gặp Đức Phật Ngài nói: "Này Poṭṭhila rỗng tuếch, năng thuyết bất năng hành". Ông thuyết hay nhưng ông không có hành, nên Đức Phật nói ông là rỗng tuếch, ông rung động tại vì Đức Phật nói một chân ngôn chứ không phải là mỹ ngữ, một lời nói chân thật.

 Ông về hỏi tăng đoàn của ông là: Ta có 18 tăng đoàn, tại sao Đức Phật nói ta rỗng tuếch không có gì hết ? Tại vì ông không đắc đạo quả. Đi hỏi các vị tỳ khưu khác người nào cũng từ chối, cuối cùng gặp vị sadi Alahan 7 tuổi.

Ông sadi hỏi : Ngài muốn học không ? 

- Ta thật lòng muốn học.

Ông sadi kêu Poṭṭhila lội xuống hồ sen toàn là bùn sình, Poṭṭhila nghe lời lội xuống hồ sen từ từ bùn và sình lên tới ngực, ông không có tác ý gì mà chỉ làm theo thôi, ông vừa lội vừa hỏi đủ chưa đủ chưa.

Giống như quí Phật tử tu Tứ Niệm Xứ; thân này, thọ này, tâm này, pháp này, rồi hỏi đủ chưa, nhưng mà quí Phật tử chưa gì hết.

Nên ông Sadi nói chưa, đi nữa, đi nữa, tới lúc bùn sình qua khỏi đầu Poṭṭhila thì lúc đó ông biết và đắc quả Alahan.

Tại vì ông xuống bùn lội bùn thôi chứ ông không diệt cái ngã của ông, nhưng tới khi ngập hết người dưới bùn rồi ông không còn gì nữa, lúc đó ông mất hết tất cả rồi thì ông giác ngộ và đắc Alahan. Ông lên lại bờ và không nói gì hết mà lặng lẽ đi về.

Vậy thì quí Phật tử có danh sắc nhưng chưa diệt ngã, chưa có giác ngộ.

Không cần phải ngôn từ, không cần lời nói, mà cần hành động và thực hiện và mình sẽ trải nghiệm.

Do đó, bữa nay mình ngồi nghiệm lại. Ta tu ta có Tuệ Danh Sắc mà ta chưa có Trí Tuệ Paññā, tôi có insight thôi. Insight tức là bên trong mình thôi.

Do đó mình giữ lại, tôi không làm nữa, tôi phải giác ngộ, cái nào tôi làm phải có kết quả của tôi

Cũng như, quí Phật tử làm Ba La Mật phải có kết quả Ba La Mật  chứ không phải mơ hồ không biết mình có làm.

Cho tới ngày hôm nay Sư dám bảo đảm với quí Phật tử kể cho Sư nghe có bao nhiêu Ba La Mật không ? 

Người đắc được tuệ thứ nhất Danh / Sắc, vô trong hội chúng, vô trong bàn ăn, vô trong tập thể mà người ta nói nặng mình một cái mình bừng lên, như vậy là đâu có Danh Sắc, mà là có Thủ. Thì đó là trắc nghiệm, là một bài thi là mình rớt liền. 

Còn nếu người đắc được tuệ thứ nhất về Danh / Sắc mà họ giác ngộ thì đụng vô họ thì họ không phản ứng.

Quí Phật tử nghiệm được không, nếu thấy thân này chỉ là Danh / Sắc thì không hề hấn gì với lời nói vô ra của người. Thật ra mình còn nguyên khối chẳng qua là không đụng vô thôi, rồi mình bọc mình lại mình tưởng mình có chứ thật ra mình chưa hưởng vị Giác Ngộ.

Như vậy thì khi quí Phật tử làm việc thiện phước nhưng không diệt được tham dục, thì khi đụng vô cái cửa tham dục thì mình bọc lại cái gì của mình và đánh mất bao nhiêu Thiện phước mình đã làm ra, do đó người ta nói: "một phút sân hận đốt cháy cả rừng công đức."  Và Ba la Mật mình bị đứt và mình mất hết.

Bị đánh ở tham dục thì phòng thủ ở tham dục bởi dāna xả thí, nó chọc xuống lời chê bai lời chỉ trích mình rớt xuống là tại vi lấy cái tham dục nhẩy xuống chụp giữ  lời chê bai chỉ trích, bị rớt liền. Thì đường nào cũng chết hết, tại vì mình không có Giác Ngộ, mình chỉ tu phước Thiện thôi.

Sư nhìn thấy như vậy thì Sư lo, khi quí Phật tử rời lớp học quí Phật tử sẽ không đủ sức để đấu với đội quân ác ma, chưa đủ, phải xác nhận vậy đó.

Còn quí Phật tử không có đội quân nào, đánh đâu chết đó.

Ác ma không đánh bên Ba La Mật, quí Phật tử có Ba La Mật thì ác ma không đánh được. Nên ác ma nói với Đức Phật : "ta theo dõi người 7 năm ta không thấy một khuyết điểm nào từ thân ngự ý trong mỗi phút giây". Ngài không bị khuyết điểm nào hết, nó không xâm nhập vô được. Nó theo dõi suốt 7 năm, 24/7 không rời Ngài, mà không thấy một khuyết điểm nào, nó thử đủ cách hết mà không kiếm thấy gì, Ngài chỉ nói câu : "Xương ta có tan rã, giòng máu ta có khô cạn, ta quyết không gục ngã trước mọi áp lực của ác ma." Trước sự cám dỗ của ác ma, Ngài nói đâu phải chỉ với Chư Thiên Ma, mà với phiền não ma, pháp hành ma, ngũ uẩn ma, tử thần ma, Ngài luôn luôn sống chết với nó chứ Ngài không có chễnh mãng. Còn mình đây không có.

 Quí Phật tử nói đã qua Tuệ Giác, phân biệt Danh / Sắc biết hết rồi, từ sáng đến chiều Sư hỏi mấy cô tu thấy sao ? 

mấy cô trả lời "mệt quá Sư ơi". 

- Phân biệt Danh / Sắc có gì đâu mà mệt, chỉ là Danh / Sắc thôi mà.

Trung ngôn nghịch nhĩ, lời thật mất lòng. Lời nói thật nó khó nghe, nhưng lời nói thật thì phũ phàng.

Quí Phật tử phân biệt được Danh / Sắc, cũng như nhà khoa học vô trong phòng thí nghiệm phân biệt được hóa chất này hóa chất kia, nhưng bản chất của của quí Phật tử thì còn nguyên, phân biệt được chất này chất kia phân biệt được hết, nhưng mình thì còn nguyên khối, nhiều khi mình còn bự hơn nữa, cái ta cái tôi, tôi phát minh ra được, tôi tìm ra được, tôi làm được cái này cái kia, nhưng mà không giác ngộ.

Quí Phật tử phân biệt được Tuệ Danh / Sắc chưa ?

Đề Bà Đạt Đa ném đá trúng chân Ngài, Chư Tỳ Khưu hỏi Ngài có đau không, Ngài nói đau, nhưng Ngài không bị ảnh hưởng, không có cái tôi, không có cái thủ trong này.

Quí Phật tử phân biệt được Tuệ Danh / Sắc được không, có Giác Ngộ không ?

Thì thật ra là quí Phật tử hoàn toàn  làm theo đường tu tập của mình thôi, nhưng không có Giác Ngộ hay hiểu biết việc làm của mình có kết quả ra sao, rất là tội nghiệp, mình phải thấy là mình sai rồi.

Khi Giác Ngộ rồi mà đội quân ma tấn công vô, mặt nào cũng vậy, 10 đội quân đó đánh không lủng thành trì Ba La Mật của quí Phật tử được, đường nào mình cũng nắm vững hết, tại vì đã Giác Ngộ rồi, không có "Tôi Ta" gì trong đây, không có kiết sử, không có tập khí, không có lậu hoặc gì hết, chỉ là pháp Sanh / Diệt thôi, thì mới bước ra khỏi cửa thành của nó được, chứ không nó biết mình yếu nó đến hoài.

Sư chỉ khuyên là mình không nên bỏ thì giờ tu thiện nữa mà phải tu diệt kiết sử và lậu hoặc của mình để không còn sinh tử luân hồi nữa.

Không còn cơ hội để hỏi người nào bắn mũi tên bắt vô vai của mình, không còn để thời gian hỏi mũi tên này do ai bắn.

Và quí Phật tử cũng vậy, khi pháp có trong tay quí Phật tử không còn thời giờ để mà hưởng mà phải giải thoát, giác ngộ liền, không để trở lại.

 Giác ngộ được tuệ phân biệt Danh / Sắc, ai đụng tới mình không nổi sân.

Mình tu Thiện mình chưa tu diệt, mình không diệt được hết, mình cứ lòi kiết sử của mình ra, mình đánh lại, mình phản ứng lại.

Các bậc Thánh nhân khi họ đắc đạo quả cỡ A Na Hàm trở lên A La Hán, có được Niết-bàn họ  "Singing the praises of nonexperience !" tức là "Xướng lên những thi ca tán tụng về sự phi trải nghiệm !"

Tức là các bậc Thánh nhân đắc đạo quả rồi họ hát lên những bài chánh trí, họ xướng lên những lời tán tụng họ đã thoát ra những trải nghiệm này mà họ không rớt vô trong cái mà họ trải nghiệm đó.

Ngày nào quí Phật tử còn ở trong trải nghiệm, còn sống trong bọc vỏ của trải nghiệm và nói rằng tôi đã trải nghiệm cái này tôi trải nghiệm cái kia, phải vượt qua cái đó mới được

 Những cái mà quí Phật tử còn nằm ở trong cảm giác của mình và mình còn dựa vào trong đó mình đón nhận nó nên chưa có Níp-bàn.

Quí Phật tử còn có thì còn trải nghiệm.

Các bậc Thánh nhân khi họ trải qua rồi họ không còn cái gì.

Quí Phật tử phải dừng lại phải thức tỉnh thì mình mới có tiến bộ, mình mới có thành công và mình mới có kết quả được.

Còn không, chưa có Ba La Mật, chỉ có Thiện phước sanh trở lại làm người làm trời phước báu đầy đủ, không thiếu gì hết.

Mình phải kiểm tra lại và mình xác định lại mình ở vị trí nào và ở trong chặn đường nào, đoạn đường nào đã đi qua. Mình đừng có đi nhiều quá, đừng đi nhanh quá, đừng đi xa quá rồi mình mất gốc luôn và không có ai ôn mình nhắc nhở mình hay kiểm soát kiểm tra mình thì mình cứ nghĩ là mình có hết rồi là chết trong cái ngủ say đó.

Niệm và phóng dật, nếu có niệm, mà quí Phật tử phóng dật thì mất hết.

Nếu có Minh Sát Trí mà chưa Giác Ngộ, đó là một a deep sound sleep (ngủ say) của mình, nó sẽ làm mình ngủ say và nó đánh bậc cơ hội giác ngộ của mình.

Ngài Anuradha Ngài đắc Tam Quả Ngài tới hỏi Ngài Xá Lợi Phất tại sao tôi chưa đắc A La Hán. Ngài Xá Lợi Phất nói vì cái ngã mạn của Ngài.

Ngã mạn là kiết sử. Ngài có Minh Sát Trí Ngài có thiên nhãn thông nhìn thấy các bầu trời mà Ngài ngã mạn có mình ta nhìn thấy không ai nhìn thấy, cái đó chặn con đường A La Hán của Ngài.

Trong bài kinh Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã hay bài kinh Tiểu Sử Đức Phật Thích Ca của Ngài Hộ Tông "Mặc ai danh lợi bôn xu, Con nguyện giữ hạnh người tu thoát trần". Nhưng mà mình ôm hết tất cả trần gian này vào trong mình hết thì sao mình thoát. Cái khen, cái chê, cái vui, cái buồn mình cũng ôm vô, cái giận cái hờn mình cũng ôm vô thì không có cơ hội giải thoát, mà mình hiểu sai trong cái gì mình đang có và mình không có thức tỉnh, vậy là chưa giác ngộ.

 Nên khi Sư hỏi Quí Phật tử biết tuệ phân biệt Danh Sắc không, quí Phật tử trả lời biết, và có giác ngộ không, chưa, chưa giác ngộ là sao? là mình chưa diệt được cái ta cái tôi cái kiết sử của mình, mình chỉ có Minh Sát Trí thôi chứ mình chưa có trí tuệ.

Bây giờ mình bắt đầu trau dồi trí tuệ của mình, phải trau dồi trên trí tuệ Ba La Mật. Nên chỗ trí tuệ đây là trí tuệ Ba La Mật để diệt đội quân ma và diệt kiết sử và lậu hoặc trong mỗi Minh Sát Trí mà mình trải qua phải đi đôi. Minh Sát Trí nào có thì trí tuệ Ba La Mật ngay đó cùng diệt kiết sử và lậu hoặc thì lúc đó mình vừa có Minh Sát Trí vừa có sự Giác Ngộ.

Tôi không bị cám dỗ thì quí Phật tử ra và từ đó trong suốt thời gian ác ma đi theo.

Thiên Ma đứng ngoài phiền não ma, đứng ngoài ngũ uẩn ma, đứng ngoài pháp hành ma, đứng ngoài trong mấy tử thần ma để mà nó sai khiến cái tứ lậu, dục lậu, hữu lậu, kiến lậu, vô minh lậu của con người chúng ta, đứng ở ngoài sai khiến và quí Phật tử không thức tỉnh thì sự tu tập của quí Phật tử chỉ là tu thiện để tạo ra công đức và mình hưởng phước chứ không giải thoát được.

Con người có 2 thành phần thể xác và tâm hồn. Mình không làm chủ không làm nô lệ, mình chỉ biết thôi và mình bắt đầu chịu diệt bỏ cái này và mình không có dính mắc với nó thì lúc đó làm chức năng Ba La Mật nó mới toàn thiện được, còn một chút nào mà quí Phật tử có dù là chủ hay là tớ là thầy hay là nô lệ thì quí Phật tử vẫn còn ở trong vướng mắc của nhân quả của nó ./.

---------------------------------------

Thập Đội Quân Ác Ma              Thập Pháp Toàn Thiện (Ba La Mật)

1/ Tham dục.                                1/ Xả Thí

2/ Sự bất mãn .                             2/ Trì Giới

3/ Sự đói và khát.                         3/ Ly Dục

4/ Tham ái.                                   4/ Trí Tuệ

5/ Hôn trầm thụy miên.                  5/ Tinh Tấn

6/ Sự sợ hãi                                  6/ Nhẫn Nại

7/ Sự hoài nghi.                            7/ Chân Thật

8/ Sự phỉ báng                             8/ Chú Nguyện

9/ Sự lợi lộc                                 9/ Từ Ái

10/ Tự khen mình.                      10/ Hành Xả

----------------------------------------------

MƯỜI SÁU  TUỆ MINH SÁT - 16 Tuệ Minh Sát (Vipassanāñāṇa)

1. Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc.

2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.

3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). (Phổ Thông Tướng)

4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt.

5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.

6. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ.

 7. Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành. Quá Hoạn Trí

8. Nibbidā ñāṇa: Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản. Quyết Ly Trí

9. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát. Dục Thoát Trí

10. Paṭisaṅkhā ñāṇa: Tuệ suy tư.

11. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành. Hành Xả Trí

12. Saccānulomika ñāṇa: Tuệ thuận thứ (thuận theo thực tế, tức thuận theo Tứ Diệu Ðế).

13. Gotrabhū ñāṇa: Tuệ chuyển tánh, vào lúc "chuyển thay dòng dõi" (tức từ phàm trở nên Thánh).

14. Magga ñāṇa: Ðạo tuệ.

15. Phala ñāṇa: Quả tuệ.

16. Paccavekkhaṇa ñāṇa: Tuệ ôn duyệt.

-----------------------------------

Mười phước nghiệp sự, phúc hành tông (Puññakiriyavatthu), việc làm tạo phước báu:

1. Tạo bằng bố thí (Dānamaya).

2. Tạo bằng trì giới (Sīlamaya).

3. Tạo bằng tu tiến (Bhāvanāmaya).

4. Tạo bằng cung kính (Apacāyanamaya).

5. Tạo bằng phục vụ (Veyyāvaccamaya).

6. Tạo bằng hồi hướng (Pattidānamaya).

7. Tạo bằng tùy hỷ (Pattānumodanāmaya) .

8. Tạo bằng thính pháp (Dhammassavanamaya).

9. Tạo bằng thuyết pháp (Dhammadesanāmaya).

10. Tạo bằng việc cải chánh tri kiến (Diṭṭhujukatamaya).