Monday, November 25, 2024

062 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 17 tháng 6, 2023

  062 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 17 tháng 6, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "062 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh


Namo Buddhaya

Minh Hạnh

I/ Thời (Kāla) 

Tiền Sinh                  Câu Sinh                        Hậu Sinh

(Quá Khứ)                 (Hiện Tại)                      (Vị Lai)


Giống Câu Sinh là ngay Hiện Tại. 

Giống Tiền Sinh thuộc về Quá Khứ

Giống Hậu Sinh là Vị Lai

Trong đời sống hàng ngày mình đang sống với Hiện Tại thì mình phải sống với Giống Câu Sinh.

Đó là mình nói theo Thời (Kāla) là mình nói Giống.

Giống Câu Sinh mà nói theo Thời là nó ngay hiện tại. Trong Giống Câu Sinh có 15. Giống Hậu Sinh có 4. Giống Tiền Sinh có 3.

Giống Tiền Sinh có 3 : Cảnh Tiền Sinh, Vật Tiền Sinh, Cảnh Tiền Sinh Duyên.

Giống Hậu Sinh có 4 : Hậu Sinh Hiện Hữu, Hậu Sinh Bất Ly, Hậu Sinh Duyên, Hậu Sinh Bất Tương Ưng.

Thì nói về Thời (Kāla) là như vậy.

II/ Mãnh Lực

Khi nói về mãnh lực tu. Mình có 3 :

1) Đồ Đạo Duyên

2) Thiền Na Duyên - nếu mình hành thiền thì có Thiền Na Duyên.

Hai cái Đồ Đạo Duyên và Thiền Na Duyên thuộc Giống Câu Sinh, nhưng mình nói về mãnh lực.

3) Nhân Duyên.

Trong sinh hoạt hàng ngày tiếp xúc thì có :

 Nhân Duyên có 6 Nhân là : Vô Tham, Vô Sân, Vô Si (Thiện) và Tham, Sân, Si (Bất Thiện). Có 3 nhân Vô Ký mình không cần lo, chỉ lo Thiện và Bất Thiện thôi. Mình phải biết Tham, Sân, Si là nhân bất thiện mình phải ngăn trừ. Còn nếu như sống trong sự tu tập thì Vô Tham, Vô Sân, Vô Si.

Trong sự tu tập như vậy mình muốn mãnh lực mạnh thì mình nói qua Cảnh Trưởng Duyên.

III/ Trưởng Duyên có 2 là :

-  Cảnh Trưởng Duyên

-  Câu Sinh Duyên

Câu Sinh Duyên có 4 chi : Dục, Cần, Tâm, Thẩm.

Cảnh Trưởng Duyên thì có những Cảnh Trưởng lớn, có Tư Duy Duyệt Ý và Thực Tính Duyệt Ý. Nhưng trong Cảnh Trưởng Duyên có Thiện có Bất Thiện. Cảnh Trường có Tư Duy Duyệt Ý, có Tư Duy Bất Duyệt Ý.

Mãnh Lực có Đồ Đạo Duyên, Thiền Na Duyên, Nhân Duyên.

Trưởng Duyên có 2 là Tư DuyThực Tính.

Tư Duy có tính chất chủ quan, là "của tôi" Tư Duy là của mình. Nhưng trong Tư Duy của mình, mình có Tư Duy thích hay Tư Duy không thích, nó thuộc về Cảnh Trường.

Thực Tính là tính chất trung thực khách quan hay tính chất trung tính, nó không mang tính chất chuyên về bên nào. Thực Tính này chỉ có Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, nó là trung thực, nó không cần phải là chủ quan hay khách quan.

 Rồi khi mình thấy mình có Trưởng Duyên làm động cơ động lực hay là một sự thúc đẩy mình làm, kích khởi cho mình, thì lúc bấy giờ mới cho qua phần Cảnh Vô Gián Duyên.

Thì Cảnh Trưởng Duyên này sẽ bằng nghĩa với Cảnh Cận Y Duyên.

Cảnh Cận Y Duyên có 2 là :

1. Thân cận với người, thân cận với bậc hiền trí, thân cận bậc Thánh nhân, thân cận bậc đa văn quảng kiến

2. Thân cận với Pháp là thân cận Chánh Pháp

Cận Y là gần gủi hoài không rời 

Cảnh Trưởng là hấp dẫn lực làm cho mình bị lôi cuốn. Thí dụ mình thích cảnh sắc đẹp làm mình bị lôi cuốn, chứ chưa chắc nó là Cảnh Cận Y của mình.

Do đó, mình phải hiểu mỗi năng lực đó. 

Phần 24 Duyên Paṭṭhāṇa Sư chưa có đi hết. Khi vô tới Mãnh Lực về Duyên theo Mãnh Lực, theo Thời, theo Giống, Người, Cõi, Cảnh Giới có nhiều chi tiết cần học.

 Bây giờ mình học hết 24 Duyên, học về ý nghĩa 24 Duyên, rồi trong ý nghĩa đó có năng sở là chi pháp, rồi trong năng sở chi pháp đó nó theo thời, theo người, theo lộ trình tâm, theo cảnh giới, cõi giới. Mình nắm cái đó xong mình qua phần trang chót của quyển số 5 về Mãnh Lực, Thời Gian, Cõi Giới, thì mới đi qua cái đó. Hồi đó Sư học với Ngài Tịnh Sự là như vậy đó, học phần đầu trước rồi nhảy xuống quyển số 5 học hết phần Mãnh Lực đó xong rồi nắm hết cái đó rồi mới vô chi tiết, cách Ngài dạy Sư là vậy. Giống như mình coi tiểu thuyết đọc quyển 1 rồi qua đọc quyển cuối coi người vai chánh chết hay sống, rồi mới đọc tiếp quyển 2, quyển 3. 

Tiền Sinh có 2 loại: 

1. Tiền Sinh (Pháp)

2. Vật Tiền Sinh (Cảnh)

Thí dụ, Pháp đã qua rồi, một Pháp trong tư tưởng mình sinh lên, mình nhớ lại chuyện quá khứ, chuyện mới xảy chiều hôm qua, chuyện tuần trước, chuyện năm ngoái hay nếu có khả năng nhớ lại kiếp quá khứ.

Thì những Tiền Sinh hay Vật Tiền Sinh, mình phải biết phân biệt; nếu nó lọt vô trong ý của mình những chuyện đã qua rồi thì nó thuộc là Pháp. 

Nhưng nếu như vật là cảnh.

Thí dụ: Hôm qua mình đi thấy một đóa hoa hồng, bữa nay mình thấy một đóa hoa hồng nữa, thì đóa hoa hồng bữa nay minh thấy với hoa hồng ngày hôm qua mình thấy, 2 cái giống nhau về cảnh, nhưng nó cũng thuộc dạng là chạn lại từ ý qua cảnh Pháp nhưng nó thuộc loại Vật (Cảnh).  

Còn cái này không có Cảnh, nó không có Vật (Cảnh) mà Pháp chạn lại trong Tâm của mình, thì lúc đó, nếu mình không học kỹ phần Tiền Sinh Duyên, vô ngồi thiền, đi thiền hành, hay thiền ngọa, hay thiền trụ, tứ oai nghi, mình không bắt được Tiền Sinh Duyên này, mình không lọc được tư tưởng của mình nó chạy mình không nắm bắt được.

Trong Paṭṭhāṇa Đức Phật Ngài không có nói, nhưng các quí Ngài như Ngài Paṇḍita, Ngài Mahasi, Ngài Janaka đều nói rằng "wandering mind" là "Tâm phóng dật", nếu nói theo  Paṭṭhāṇa thì nó thuộc về duyên nào ?  Nó không chắc chắn nằm trong Thiền Na, nó không nằm trong Đồ Đạo.

 Khi nói tới "wandering mind" là "Tâm phóng dật" nó thuộc về Cảnh hay về Pháp của Tiền Sinh Duyên ?

- Mình không định được, tại vì mình không có học.

Như vậy, khi mình chú ý  được sự phóng dật của Tâm, có một noting mind (tâm chú niệm) nhìn thấy Tâm phóng dật (wandering mind) với cảnh đang hiện bày hay nó theo Pháp đang có, đang chạy theo.

Hai cậu cháu tu, Sư cậu đắc quả Alahan, Sư cháu mới làm trụ trì chưa đắc quả Alahan, sau buổi lễ dâng y Kathina Sư cháu có bộ y casa đem cúng dường Sư cậu. 

- Bạch Sư Cậu, con xin kính cúng dường Sư cậu bộ y này.

Tác bạch xong, chú đặt bộ y dưới chân và  đứng hầu quạt Sư Cậu.

Sư Cậu nói:

- Thầy có bộ y hậu rồi. Con hãy cất nó đi mà dùng.

Chú tác bạch nhiều lần nhưng Sư Cậu vẫn không chấp thuận lời thỉnh nguyện. Thế rồi chú tự nghĩ: “Khi Sư Cậu còn là cư sĩ, thì ta là cháu kêu người bằng cậu. Nay ngài là Sa môn, thì ta là pháp quyến của ngài. Ngài còn là y chỉ sư của ta, thế mà ngài không thèm san sẻ với ta.  Vậy ta ở chùa làm gì?  Làm Sa môn cầu đạo phỏng có ích chi! Thà làm nghiêm đường chủ hộ còn hơn” .

Rồi chú lại nghĩ: “Thật khó mà thích nghi với cuộc sống gia đình. Giả sử ta là một gia trưởng, ta sẽ sinh sống ra sao?” .

Rồi chú suy nghĩ: “Ta sẽ bán bộ y dài, mua một con dê cái. Dê cái có lợi. Chúng sanh con. Ta sẽ bán dê con, tích lũy vốn liếng dần dần, rồi sẽ kiếm một cô vợ sanh cho ta con trai, và ta sẽ đặt tên nó theo tên cậu ta. Ta sẽ đặt con trai ta trên một chiếc xe đẩy, đưa vợ con đến đảnh lễ người. Rồi khi đi trên đường, ta sẽ bảo vợ ta đưa con cho ta bế. Nàng từ chối. Bất giác nàng sẩy tay, đánh rơi con xuống đường, và bị chiếc xe cán qua em bé. Thế là ta trợn mắt mắng nàng, và  lấy cành cây bên đường và quất cho nàng mấy phát vào lưng.

Đứng quạt hầu Sư Cậu mà đầu óc cứ chạy nhảy theo vọng tưởng liên miên, chú đập phải chiếc quạt vào đầu Sư Cậu mà tưởng là người vợ. 

Sư Cậu đọc được từng ý nghĩ đã diễn ra trong đầu óc của thằng cháu. Ngài nói:

- Này cháu, sao không đánh vợ cháu mà lại đánh lên đầu ta chi vậy ?

Chú sa di giật mình: “Thôi, chết rồi! Thầy ta đã biết hết mọi thứ suy nghĩ trong đầu ta rồi. Ta còn mặt mũi nào là thầy tu nữa đây!” . 

Chú vội quăng chiếc quạt và cắm cổ chạy.

Đó là thuộc về Pháp Triền Cái, và thuộc Tiền Sinh Duyên. Mình bắt hụt rồi, mình niệm không ra, mình không diệt được tâm đó, tâm mình cứ trạo hối, tâm mình càng phóng dật, và những triền cái khác kéo theo.

Những cái đó khi nói tới Paṭṭhāṇa là giải quyết được.

Cũng như Hậu Sinh, chưa có sinh ra, nó chỉ tạo dựng cho thời gian tới, bà mẹ có bầu, chưa sinh đứa bé, nhưng bà mẹ đã lo tã lót để khi đứa bé ra đời nó có đầy đủ thứ cần dùng - đó là Hậu Sinh Duyên, đứa bé chưa sinh ra mà bà mẹ phải lo, khi nó được sinh ra thì có đủ, thì cái đó là cái đi tới trước. Giống như ông quan huyện đậu trạng rồi ông chưa về làng, nhưng ở làng bắt đầu lo cờ súy để đón ông về làng - đó là Hậu Sinh Duyên.

Nên cái đó trong tích tắc. Do đó, mình không biết được, Hậu Sinh Duyên nó vậy đó.

Còn Hậu Sinh Hiện Hữu, Hậu Sinh Bất Ly. Hậu Sinh Hiện Hữu là mình cứ nuôi dưỡng cái đó hoài không chịu buông.

Giữa Kiết Sử và Lậu Hoặc, 2 cái này dễ bị lầm.

Kiết Sử là thói quen. Thói quen này khi nó gặp cảnh thì nó hiện bày ra. Do đó, nó thuộc về Cảnh.

Lậu Hoặc là mình ở trong nó mà không hay biết, nó thuộc về Pháp.

Thí dụ: mấy cô sành về ăn uống, ai mang món gì đến mình có thói quen phê bình nhận xét, mà lúc đó mình đang ở trong Lậu Hoặc (mà mình không biết), mình phê bình theo kiết sử, mình đang ở trong dục lậu. 

Vừa đem thức ăn ra là mình có thói quen phê bình, nhưng thật ra thói quen này ở trong Lậu Hoặc của mình.

Chỉ có Lậu Tận Thông diệt hết Lậu Hoặc, chứ còn 5 cái kia là Thắng Trí hiện bày theo khả năng thôi, chứ chưa diệt Kiết Sử được. 

Khi Đức Phật Ngài đắc Lậu Tận Thông, tuệ thứ 3 trong Tam Minh, trong 3 canh thì canh chót Ngài đắc Tam Minh (Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh) là Ngài diệt Lậu Hoặc, thì khi Lậu Hoặc mất thì Kiết Sử mất, chứ không phải Ngài diệt được kiết sử.

Vậy thì, trên con đường mình tu từ Sơ Đạo, Sở Quả, Nhị Đạo, Nhị Quả, Tam Đạo, Tam Quả, Tứ Đạo, Tứ Quả, là mình phải gột rửa Lậu Hoặc thì Kiết Sử này mới rụng xuống từ từ.

Thân Kiến - Nằm trong Kiến Lậu, mình thấy được Kiến Lậu thì mới ra khỏi Thân Kiến

Giới Cấm Thủ - Là Dục Lậu

Hoài Nghi - là Vô Minh Lậu

3 cái này là Kiết Sử, cái thói quen của mình. 

Làm sao mình biết được Thân Kiến ? Tại vì Kiến Lậu của mình là do cái đầu kiến thức của mình nhìn về nó, trong cái đắm chìm đó mình mới nhìn ra nó. Mình dùng Kiến Lậu của mình để thấy thân kiến, chứ không phải mình thấy trong Chánh Pháp, không phải trong Chánh Kiến của mình.

Khi  muốn bẻ cái thân kiến này, cái tà kiến thấy sai chấp lầm thân 'tôi', của 'ta' của mình thì mình phải bẻ kiến chấp, kiến lậu (diṭṭhāsāva) mình đang chìm trong đó, thì kiến lậu diệt thì thân kiến diệt.  Đó là Lậu Tận Thông mới diệt trừ được kiết sử.

Nên mình nói mình diệt kiết sử của mình, nhưng mình không diệt Lậu Hoặc thì không diệt được kiết sử.

Abhiññāna = Thắng Trí

Abhi = là Thù Thắng

ññāna = Trí, hay làTuệ

ññāna này bao gồm cả Paññā và ññāna

Paññā = wisdom

ññāna là quá trình trong Vipassana ññāna

Do đó, Abhiññāna = Thắng Trí là trí tuệ thù thắng, dẹp Lậu Hoặc, diệt trừ được kiết sử. Mình vừa chặt gốc vừa chặt ngọn, hay là mình chặt gốc ngọn ngã đổ luôn. Đó là do người có sở hạnh của họ. Có người họ chặt cây họ chặt ngọn trước rồi từ từ chặt xuống tới gốc, có người chặt gốc trước cây đổ ngã luôn.

Ngài Tịnh Sự nói: Tôi thiếu phước vật, tôi có phước trí thôi, tôi không có phước vật vì tôi không có bố thí. Sư mới nói Ngài dạy học là Ngài đã bố thí rồi, nhưng Ngài dạy là Ngài có thí như thí của Ngài chỉ là Pháp. Sư hỏi Ngài là Ngài có biết thí vật không, tại vì Ngài nói là Ngài không có phước vật Ngài chỉ có phước trí thôi. Ngài nói Ngài biết nhưng Ngài không làm, Ngài không muốn vướng vô phước vật để mà nó ràng buột mình khó tu, tài sản, của cải ràng buột mình. Nhưng Sư hỏi Ngài biết làm phước vật không, Ngài nói biết nhưng Ngài không làm. Và Ngài kể cho Sư nghe một câu chuyện rất dễ thương. 

Ngài kể câu chuyện tiền thân của Mục Kiền Liên. Có một kiếp Ngài Mục Kiền Liên là tiều phu đốn củi, là một Tiền Sinh Duyên, nó không thuộc loại cảnh nữa, nó thuộc về Pháp, hiện bày qua Pháp chứ không qua Cảnh.

 Ngài nói đó Tiền Sinh Duyên, Pháp Duyên của Ngài Mục Kiền Liên.

Khi là một ông tiều phu đi đốn củi, người tiều phu đốn trúng một cây có tổ ong, ong bay lên, người tiều phu nói "tôi không muốn phá nhà của mấy ông, ngày nào tôi đắc đạo quả tôi sẽ độ mấy ông đắc đạo quả với tôi luôn". Thì giòng đời trôi qua nhiều kiếp, tới kiếp cuối cùng của Ngài Mục Kiền Liên, Đức Phật vô trong một ngôi làng đó 1 tuần lễ không có vật thực nào ai cúng dường cho Ngài, Ngài không có phước vật vì Ngài không có gieo duyên cho ai trong ngôi làng đó, nhưng Mục Kiền Liên vừa bước vô thì được người trong ngôi làng đó cúng dường, qui y, xuất gia tu, và đắc đạo quả cả làng.

Chu Tăng lấy làm lạ, Đức Phật nói Mục Kiền Liên có gieo nhân duyên trong tiền kiếp với những người trong làng nên bây giờ được người trong làng theo, còn Như Lai không có gieo, nên Như Lai không có.

Sư cho chim ăn, Sư rải thực phầm cho những con chim ăn Sư nói qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Từ đây về sau quí Phật tử muốn có phước vật, bất kỳ cho ai cũng vậy, vừa đưa cho họ quí Phật tử nói qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng, thì sau này có phước vật. Cho cá ăn cũng vậy, nói qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. 

Cái đó thuộc về Cảnh vả về Pháp. Cảnh với Pháp hợp nhau thì nó vuông tròn.

Thì cũng vậy, khi mình đi qua phần diệt Kiến Lậu thì Thân Kiến diệt. Nó thuộc Lậu Tận Thông, mà Lậu Tận Thông này nó không thuộc về Cảnh mà thuộc Pháp, chứ không phải Cảnh nào để cho mình thấy. Pháp mà mình nhìn không biết được, không lọc được, không thấy được, coi như là vuột qua liền. 

Mình sẽ thấy Túc Mạng Thông, hay Tha Tâm Thông, hay Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, hay Thần Túc Thông, chứ mình không thấy được Lậu Tận Thông, vì Lậu Hoặc của mình đang đắm chìm. Mà đó là trí Abhiññāna = Thắng Trí, nhưng thật ra là Hiệp Thế, chứ không phải là Siêu Thế.

Do đó, một tích tắc thôi, một sát na thôi, mình biết được thì làm luôn 2 cái vừa Lậu Hoặc vừa Kiết Sử. Mà học Paṭṭhāṇa trí mình mới làm được.

Nên những cái đó mình biết khi cho bố thí mình đưa nhưng mình không cho qui y, mình không có tác ý, mình không có trí. Bên Bắc Tông các quí Thầy đều biết sử dụng như vậy, nên họ có phước vật nhiều. Còn bên Nam Tông lo về trí, lo giải thoát thôi chứ không muốn hưởng, không muốn chùa to Phật lớn thì vướng bận vì sự ràng buột. Đó là đường lối của Ngài Tịnh Sự đi là vậy.

Nếu biết mình giải quyết được hết, do trí của mình biết, mình khéo léo tu tập thì sẽ làm được điều đó, nhưng phải cẩn thận, dễ vướng mà không hay, tháo ra không kịp.

Trong phần Thân Kiến có Ngũ Uẩn Thủ Kiến 

Ngũ Uẩn Thủ Kiến có

Sắc Thủ

Thọ Thủ

Tưởng Thủ

Hành Thủ

Thức Thủ

Thân kiến mà thuộc Kiết Sử có Sắc Thủ, Thọ Thủ, Tưởng Thủ, Hành Thủ, Thức Thủ, là của Tôi, trong Tôi, là Tôi.

Lậu Hoặc có 4 loại : dục lậu hoặc (kāmāsava), hữu lậu (bhavāsava), tà kiến lậu hoặc (diṭṭhāsava). và vô minh lậu hoặc (avijjāsava). 

Nhưng thật ra, Kiến Lậu hay Dục lậu hay Vô Minh lậu, thì lấy Pháp nào trị ? Bỏ hữu lậu bhavāsava ra còn 3 Lậu, thì mấy cô lấy cái nào ?

Kiến Lậu, Dục Lậu, Vô Minh Lậu trong Ngũ Thủ Uẩn Kiến.

Hữu Thân Kiến Sakkàyaditthi là nói về mình, mình nhìn về mình chứ không nhìn người, "sắc này là tôi", "tôi có trong sắc này". Thì lúc quí Phật tử nói "sắc này là của tôi" , "Tôi có trong sắc này" là đang nói Kiến Lậu, hay là Dục Lậu, hay Vô Minh Lậu.

Phần Thân kiến có Ngũ Thủ Uẩn : Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thấy là của tôi, trong tôi, là quí Phật tử đang ở trong Kiến Lậu, ở trong Dục Lậu, hay trong Vô Minh Lậu ? 

 Mình sống có Thân, Ngữ, Ý. Khi đụng với người, giờ mình nói về mình thì mình ra được cái lậu hoặc nào. Khi mình nghĩ cho mình mà không nghĩ cho người thì mình ra loại lậu nào.

Do đó, khi mình nói chuyện với người, "dạo này thấy chị ốm quá" mình trả lời "đâu có ăn uống gì được đâu, lo quá." Thì đó là đang trong kiến lậu nặng.

Cái đó là thực tế "sao lúc này thấy chị ốm quá" , "Tôi có ăn uống gì đâu" Thì lúc đó cô đang nói trong phần Kiến Lậu, hay cô nói đang trong Dục Lậu, hay trong Vô Minh Lậu. Cô đang trong Lậu nào ?

Mình ngồi thiền, cảm thọ lên, đau, nhức, thì mình đang nói cái thọ này là trong Kiến Lậu, Dục Lậu, hay Vô Minh Lậu. Nó đang trong Ý, vì khi ngồi thiền mình không nói chuyện với ai, mình ngồi nghiệm một mình.

Khi cô làm việc, như làm việc ở computer hay đang rửa chén, đó là Thân hành động, thì cô đang ở Kiến Lậu, Dục Lậu hay Vô Minh Lậu. Nếu cô ra được cái này mới thấy được Thân Kiến của mình.

Người học giả sơ cơ học ít nói bạn còn nhiều thân kiến lắm, nhưng thật ra một khối lậu hoặc bự sau lưng mà mình  không thấy.

 Vậy thì khi hành giả ngồi thiền trong trạng thái ngồi không nói chuyện với ai hết chỉ có Pháp lên thôi, thì hành giả đang sống trong Ý, chứ không có ngữ, không có thân, mà Ý đang lên, Pháp đang lên, thì lúc đó hành giả thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cái này của mình nó nằm ở trong Vô Minh Lậu, hay  Kiến Lậu, Hữu Lậu, Dục Lậu, thì hành giả thắng, diệt được rồi, còn nếu  không thấy thì không cách nào, ngồi chỉ ngồi niệm hoài hơi thở vô hơi thở ra, sanh và diệt vậy thôi. 

Ba hạ phần kiết sử; Thân Kiến, Hoài Nghi, Giới Cấm Thủ, riêng hay là chung một lượt hay lẻ tẻ, rời rạt, mỗi cảnh một pháp, hành giả chưa tìm ra.

Người đắc Sơ Đạo, Sơ Quả là diệt 3 hạ phần kiết sử này một lượt luôn chứ không riêng, không có diệt cái này xong rồi diệt cái kia. Khi đắc Sơ Đạo Sơ Quả thì 3 cái này rớt luôn một lượt, không có riêng.

Nếu nói về Kiến Lậu thì thuộc về Cảnh.

Dục Lậu thì thuộc về Cảnh.

Vô Minh Lậu thì thuộc về Pháp 

Kiến thì phải có Cảnh vì mình nhìn vô. 

Khi người ta nói lúc này thấy chị ốm quá, có ăn uống gì đâu, là Cảnh, là kiến mình thấy. Nhưng khi họ nói như vậy là trong trạng thái đó là trạng thái Vô Minh, họ không biết họ nói như vậy.

 Còn thí dụ như người ta nói lúc này thấy chị ốm, mặt xanh, mắt thâm quầng, chắc chị bị bệnh gan. nghe vậy thì dục lên, thật ra nó nằm trong Vô Minh.

Vô Minh thuộc trong 8 bất tri, 8 điều không biết, bất tri khổ đế, bất tri tập đế, bất tri đạo đế, bất tri diệt đế, bất tri nhân đã qua, bất tri quả hiện tại, bất tri nhân quả liên quan, bất tri liên quan tương sinh.

 Nếu quí Phật tử nghe người ta nói lúc này chị thấy ốm quá, mình trả lời có ăn uống gì đâu, đó là mình nói thân kiến.

Nếu như người ta hỏi, lúc này thấy chị ốm quá, mình hỏi, tôi ốm thật hả, thì đó là dục trong sự mong cầu muốn của mình.

Còn trạng thái, lúc này thấy chị ốm, ồ vậy hả, là không có dục mong cầu.

Như vậy thì Thân, Ngữ, Ý, khi đang sống trong Thân, Ngữ, Ý thì kiến với dục là bề ngoài, vô minh ở trong.

Còn nếu bỏ Thân, bỏ Ngữ, mà ngồi nghĩ (Ý) thì chỉ có Vô Minh mới làm  vậy thôi, không có Kiến, không có Dục, mà Vô Minh dẫn đi.

Như vậy thì khi các qui Phật tử đang đi khóa tu thiền Vipassana; thiền tọa, thiền ngọa, thiền trụ, thiền hành.

Khi hành giả đang đi thiền thì có 2 Pháp hay 3 Pháp, người đi 2 Pháp, người đi 3 Pháp. 

- Pháp đầu tiên họ đi là Pháp Tứ Niệm Xứ; Thân, Thọ, Tâm, Pháp, họ đi tuần tự như vậy.

- Pháp thứ hai là họ diệt Kiết Sử, sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong thân, thọ, tâm, pháp.

- Pháp thứ ba là họ đi trong sự diệt Lậu Hoặc; Dục Lậu, Kiến Lậu, Hữu Lậu, Vô Minh Lậu.

3 pháp tùy mỗi người.

Những người sơ cơ hay những người không biết họ đi một Pháp Tứ Niệm Xứ thôi, chứ họ không đi qua phần diệt kiết sử. Trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức của thiền tọa, thiền ngọa thì họ đi qua Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Bhāvanā Dhamma - Pháp Tu Tập, có 3 Pháp :

1) Tứ Niệm Xứ

2) Diệt Kiết Sử

3) Diệt Lậu Hoặc

 Hành giả muốn tu cách nào cũng được, và cũng biết được, sau này làm giám thị nhìn sẽ thấy cách tu của mỗi người, có người thì tu Tứ Nệm Xứ.

1) Tứ Niệm Xứ

Thứ nhất là tu Tứ Niệm Xứ - Thân, Thọ, Tâm Pháp

                                          - Trong 4 oai nghi; ngọa, tọa, hành, trụ

bây giờ đi vào chi tiết Pháp Hành:

 Ngọa Hành có : 3 giai đoạn

Thân - có Xúc

Thọ - có Thân / Tâm

Tâm - có Thiện / Bất Thiện

Pháp - Lục Xứ - Giác Chi

                        - Chánh Đạo

Lục Xứ, chứ mình đi ngược lại ngũ uẩn, thủ uẩn không được. Thân xứ tiếp xúc cảnh xúc (ngọa hành) 

Phần thân xúc nó có 10 điểm : Đầu, mình, tay, chân, lưng v.v. đều là thân xúc. Hành giả phải đi qua những điểm đó, đầu đụng vô cái gối, hay đầu đụng vô cái nệm, đầu đụng vô cái giường, đó là xúc do đầu. Thân mình nằm trên giường là xúc, tay mình đụng, chân mình đụng, lưng mình đụng, mấy cái đó đều gọi là Thân Niệm Xứ, Thân Tùy Quán, theo Tứ Niệm Xứ - ngọa hành

Cái Thọ về Thân, lúc bấy giờ thấy 1 ngày ngồi thiền mệt, vừa trụ, vừa hành, vừa đứng, vừa ngồi, mệt quá giờ mình về nằm xuống giường. Cái thân mình bắt đầu có Thọ Lạc. Thân vừa tiếp xúc vô là Thọ sinh lên liền, Thọ của Thân sinh lên, Tâm theo đó sinh lên, lúc đó Tâm Thiện hay Bất Thiện mình biết.

Lục Xứ có 2 là Thân Thức / Cảnh Xúc, lúc bấy giờ mình có Niệm Giác Chi (Sinh, Diệt)  / có Chánh Niệm (Tập Đế / Khổ Đế) . Nếu vừa tiếp xúc mà không có Niệm không có Chánh Niệm thì vuột, phải làm lại.

Vừa Niệm Giác Chi xong thì qua Chánh Niệm luôn tức là mình Niệm 2 cái Thất Giác Chi và Bát Chánh Đạo.

Đây chỉ mới đi về Tứ Niệm Xứ.

Bhāvanā Dhamma - Pháp Tu Tập này mà quí Phật tử đang đi pháp Tứ Niệm Xứ mà đã đi đúng chưa ?

Qua phần thứ 2, sau khi Ngọa Hành xong rồi thì pháp đầu tiên của hành giả tiếp nối là Trụ Hành, rồi từ Trụ Hành hành giả đi vô toilet làm vệ sinh thì cái đi là Thiền Hành, sau đó trở về ngồi thiền gọi là Tọa Hành.

Còn người thứ 2 nằm mà không đứng lên mà ngồi trên ghế gọi là Tọa Hành

Có người nằm trên giường là Ngọa Hành xong rồi ngồi dậy thì là Tọa Hành, xong rồi mới bước xuống đất và đứng lên là Trụ Hành, Trụ Hành xong mới bước đi là Thiền Hành tới nhà vệ sinh.

Đó là 4 oai nghi của mình; Ngọa, Tọa, Trụ, Hành, mình phải đi tuần tự như vậy.

Có người không qua tọa, đang nằm bước chạng xuống đất đứng luôn.

Những cái này là của Tứ Niệm Xứ, trong khi đi như vậy không biết đó là Kiết Xử, không biết là mình đang Lậu Hoặc.

 Mình nói là mình có Niệm, có Giác Chi, có Chánh Đạo, thật ra đó chi là theo pháp Tứ Niệm Xứ, mà mấy cô làm chưa tròn, chứ chưa qua giai đoạn diệt Kiết Sử.

Mình đi như vậy và mình lập đi lập lại hết ngày này qua ngày kia, hết khóa tu này đến khóa tu kia và đời sống mình cứ lập đi lập lại như vậy. Nhưng không có bao giờ nghĩ tới một phút nào về diệt Kiết Sử và diệt Lậu Hoặc của mình dù sống trong khóa tu, sống trong Niệm, trong sinh hoạt, trong lúc nào cũng vậy.

Bây giờ qua phần Kiết Sử

2) Diệt Kiết Sử.

* Ngọa Hành có : 

 - Thân 

- Thọ 

- Tâm 

 - Pháp 

Chỉ một sát na hay chỉ một khoản khắc

Thân --> có Xúc thì có Sắc Thủ Uẩn ----> thấy liền có Kiết Sử. Chứ không niệm cái Xúc, cái Thân đứng lại

Thọ --> Thọ Thủ Uẩn  ----> Kiết Sử , chứ không phải Thọ, Lạc, Khổ của Thân / Tâm. Thọ này là Thọ Thủ Uẩn.

Tâm ---> Thức Thủ Uẩn 

Pháp ---> Tưởng - Hành

Đó là Thủ Uần.

Nếu mình đi theo Niệm, cái đó là Niệm Xứ. Nếu mình nhìn thấy thì nó là Kiết Sử.

Bước thêm một bước nữa thì quí Phật tử ra được Kiết Sử của mình. Hồi nãy mình đứng đó mình niệm tại vì không biết Kiết Sử, mình đứng đó mình niệm Thân, Thọ, Tâm, Pháp đi theo hết Tứ Niệm Xứ mình đi vòng lại chứ mình không đi qua diệt Kiết Sử.

3) Diệt Lậu Hoặc

* Ngọa Hành có : 

 - Thân 

- Thọ 

- Tâm 

 - Pháp 

Thân ---> Sắc Thủ Uẩn  ---> Vô Minh Lậu. khi Sắc Thủ Uẩn này nằm trong Ý, nó không phải là mình thấy mà mình biết là Vô Minh Lậu

Thọ ---> Thọ Thủ Uẩn ---> Vô Minh Lậu

Tâm --> Thức Thủ Uẩn ---> Vô Minh Lậu

Pháp ---> Hành - Tưởng ---> Vô Minh Lậu

Khi Vô Minh Lậu đi qua rồi thì Kiến Lậu, Dục Lậu không vô được, đừng đi qua Kiến Lậu, Dục Lậu.

Thì mình đi qua phần diệt Lậu Hoặc. Nên Đức Phật khi Ngài đi qua canh thứ 3 Lậu Tận Thông, đầu tiên là Thiên Nhãn Thông là sanh diệt trí, canh 2 là Túc Mạng Thông, thứ 3 là Lậu Tận Thông.

Trong quyển In This Very Life của Ngài Paṇḍita Ngài nói: "khi ta nói tới Vipassanā  dhammā là pháp Minh Sát Tuệ nó bao hàm 5 chi thiền chứ không thể không có" . Mà mình nói 5 chi thiền này chỉ trong thiền An Chỉ Samadha thôi là không đúng.

Samadha                                         Vipassana

- Tầm

- Tứ                                                Niệm

- Hỉ

- Lạc

- Nhất Thống (Định)                         Định

Vipassana có Niệm = bằng với Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc + Định =  Niệm, Định, Tuệ

Tầm của Thiền Chỉ là lấy đối tượng đề mục kasina hay là hơi thở.

Tầm của Thiền Vipassana là Niệm Xứ .

Tứ của Thiền Chỉ là Kiết Sử, Lậu Hoặc (mấy cái này nó đang xoay quanh mình, chứ nó không đi theo Niệm Xứ.

Như vậy thì khi hành thiền (tùy hành giả tu tập)

                     Tứ Niệm Xứ       Kiết Sử              Lậu Hoặc

Ngọa Hành    Thân xúc       Sắc Thủ Uẩn           Dục Lậu

                                                                        Vô Minh Lậu

                      Tầm                  Tứ

                      Niệm   Giác Chi                            Chánh Đạo / Chánh Niệm

Để hình 062 - 1.31.08



Ngọa Hành, khi thân xúc thì kiết sử của mình là Sắc Thủ Uẩn. Nếu người sống trong lậu hoặc của kiết sử, mà kiết sử nằm trong lậu hoặc, chẳng hạn khi đi mệt về được nằm xuống giường thi cảm thọ hỉ lạc, đó là Dục Lậu.

Còn nếu như họ nhìn vô sắc thân này thật sự làm khổ mình, đó là Vô Minh Lậu.

Chỉ có một cái xúc thôi, mà mấy mồi lửa này là do Tầm (Tứ Niệm Xứ) , Tứ (Kiết Sử). Mà Tứ Niệm Xứ và Kiết Sử là Giác chi. Lậu Hoặc là Chánh Đạo.

Trong giai đoạn từ Niệm Giác Chi, 3 phần Chánh Niệm này Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc

Chánh Đạo, Chánh Niệm là Nhất Thống (Định), Chánh Niệm xong thì tới Chánh Định rồi tới Chánh Kiến, nó mới ra được Tuệ, Tuệ là Chánh Kiến Chánh Tư Duy.

Nếu hành giả đi đúng Chánh Niệm, Chánh Định mới ra được Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, có Tuệ, thì mới ra được phần Ái Tập (Tập Đế) và Khổ Đế.

Một cái xúc thôi hành giả đi qua được Tứ Niệm Xứ, đi qua được Kiết Sử, đi qua được Lậu Hoặc. Một cái xúc trong mấy điểm mà mình đụng.

Do đó Ngài Ananda khi đầu của Ngài vừa chạm gối, một cái xúc thôi Ngài diệt kiết sử, diệt lậu hoặc luôn, là cái đó là cách thức Ngài đi như vậy. 

Cũng vậy, khi trong Ngọa Hành, thì thân xúc là bàn tọa đụng vô mặt nệm thì có Thọ, có Tâm, có Pháp.

Rồi trong cái đó Xúc, Thọ, mình diệt Kiết Sử, diệt Lậu Hoặc. 

Rồi khi mình đứng lên từ trong giường mình vừa ngồi mình đứng lên Xúc thì không có Niệm cái đứng, vừa Xúc là bắt đầu Niệm luôn, nguyên thân mình đứng lên là nó qua Kiết Sử qua Lậu Hoặc.

Bây giờ mình đi Niệm Xứ, rồi mình qua diệt Kiết Sử, hay đi diệt Lậu Hoặc, tùy theo hành giả.

Thì 3 pháp Tứ Niệm Xứ, diệt Kiết Sử, diệt Lậu Hoặc đó người tu phải đi qua, gọi là tu tập, 

Trong 3 Pháp đó mình biết rồi bây giờ mình nghiệm lại: Mấy bữa nay mình sống trong Niệm Xứ chứ mình không nghĩ tới diệt Kiết Sử hay diệt Lậu Hoặc.

Quí Phật tử sống trong Tiền Sinh Duyên ngay trong hiện tại.

Mình sống trong Tiền Sinh Duyên trong Cảnh hay Tiền Sinh Duyên trong Pháp ?

Khi Sư tả từ cái Ngọa tới đứng lên thì mình nói ta sống trở lại Cảnh cũ của mình, có xảy ra, có làm cái đó, mình đang sống trong Cảnh Tiền Sinh.

Còn quí Phật không có, quí Phật tử hình dung Pháp hiện bày ra trong Niệm Xứ của mình, Tiền Sinh Duyên. Đó là cách quí Phật tử biết tu tập về nhận định Pháp.

Tối nay về làm quí Phật tử biết bắt đầu làm cái gì không ? Là Hậu Sinh Duyên.

Bây giờ đang ngồi đây, đang tu tập, lãnh hội được rồi, là Câu Sinh Duyên, quí Phật tử lãnh hội được hết, Sư viết tới đâu lãnh hội được hết là đang ở Câu Sinh Duyên.

Mà nếu cái này làm cho cô bị cuốn hút là Câu Sinh Trưởng, Câu Sinh Trưởng này thuộc Thẩm Trưởng hay Dục Trưởng hay Tâm Trưởng, lúc đó hành giả nhận ra được. Từ đó mình sống trong cái duyên này thì những cái duyên đó sẽ có mãnh lực của nó làm cho Pháp của hành giả bắt được nắm được, hiểu được, chứ còn không thì vuột hết. Rồi mình trở lại kiến thủ hay tư kiến của mình. Công dụng của Paṭṭhāṇa là như vậy.

Như vậy, bây giờ Sư viết ra quí Phật tử biết là có trải qua nó thì đó là quí Phật tử đang sống trong Tiền Sinh Duyên ngay khi đang ngồi đây.

Còn như ngay khi đây Sư kể ra Cảnh đó mà cô ngồi ngủ thì mấy cô không có Tiền Sinh và không có Câu Sinh, thì gọi là Vô Gián Duyên.

Mình sống trong trạng thái Câu Sinh Duyên thì mới thấy được Pháp còn không thì mình sống trong tư kiến của mình thì luẩn quẩn không đi ra được. Trong Paṭṭhāṇa không có 'tôi, ta'.

 Khi các bạn hành Tứ Niệm Xứ bạn không bao giờ bạn hành diệt kiết sử, không bao giờ bạn hành diệt lậu hoặc, mà bạn hành Tứ Niệm Xứ để cho bạn có Chánh Niệm trong Pháp Tứ Niệm Xứ và giữ nguyên Kiết Sử.

Thật sự là vậy, mà không ai nói cho mình và không ai chỉ cho mình cứ để cho mình trôi đi, mà mình nghĩ là mình đúng, trong cái nghĩ đó là mình đang vô minh và mình nghĩ là mình đúng thì mình đang Kiết Sử Thức Uẩn, đang có Thức Thủ Uẩn trong Kiết Sử này. Cái 'Tôi' cái 'biết' của mình là Thức Thủ Uẩn mà mình không thấy. Trong cái đó mình không thấy vì mình Vô Minh Lậu, mà mình nói mình đang hành Tứ Niệm Xứ.

Mình viết xuống, mình vẽ xuống, rồi mình trình bày, mình thấy, mình nghiệm, nên mới gọi là Dassanena Pahàtabba - Kiến Giải Đoạn Trừ, mình thấy mình phải diệt, mình không thấy sao mình diệt.

Bây giờ quí Phật tử không thấy được Kiết Sử của mình, không thấy được Lậu Hoặc của mình sao diệt được, sao Dassanena Pahàtabba - Kiến Giải Đoạn Trừ. 

Bây giờ quí Phật tử xác định mình tu loại nào ? 

Bây giờ mình nói về Paṭṭhāṇa. Thì trong Pháp, trong Paṭṭhāṇa thì nãy Sư nói thì mình sống trong hiện tại thôi, quá khứ không truy tầm, tương lai không hướng vọng. Sống trong hiện tại là mình sống trong Câu Sinh. 

Nếu quí Phật tử đang đi Thiền Na Duyên là mình có đi mấy pháp môn thiền.

Nếu đi Hành Đạo thì đi Đồ Đạo Duyên.

Mỗi chức năng Thiền Na Duyên nó có Quyền Lực Duyên của nó, nó có Quyền Lực Duyên của mỗi chức năng Đồ Đạo Duyên, nó có Quyền Lực Duyên của nó.

Mỗi chức năng Thiền Na Duyên nó có Trưởng Duyên của nó, nó có mãnh lực của nó, nó có Trưởng Duyên trong phần Thiền Na Duyên. Trong Hành Đồ Đạo có Trưởng Duyên thì nó có Trưởng Duyên.

Bây giờ Sư nói phần Paṭṭhāṇa trước.

để hình 062 - 1.50.57



Khi đi hành thiền :  thì mình có Thiền Na Duyên. Trong Thiền Na Duyên có Quyền Lực Duyên. Trong Quyền Lực Duyên có Trưởng Duyên.

Như vậy thì. Nếu Thiền Na Duyên này thuộc Giống Câu Sinh, hành giả sống trong Thời Hiện Tại, không có quá khứ, không có vị lai. Quyền Lực Duyên này là trong Hiện Tại (không có quá khứ, không có vị lai). Trưởng Duyên chỉ có Câu Sinh Trưởng Duyên. Nếu nó rớt vô Cảnh Duyên là mấy cô đang phóng dật.

Trưởng Duyên có 2: 

- Cảnh Trưởng Duyên, và 

- Câu Sinh Trưởng Duyên. 

Nếu đang nói Thời Hiện Tại thì không có Cảnh nào lọt vô Trưởng Duyên, không có Cảnh Tư Duy Duyệt Ý, không có Thực Tính Duyệt Ý.

Thế thì, Trưởng Duyên phải là Câu Sinh Trưởng Duyên, mà Câu Sinh Trưởng Duyên này có Dục, Cần, Tâm, Thẩm. Thẩm Trưởng thuộc Tuệ, lấy Thẩm Trưởng làm duyên cho Thiền Na Duyên, hay trong Hành Đạo. 

Thẩm Trưởng là Tuệ có 3 là : Văn, Tư, Tu.

Lấy Thẩm Trưởng này bổ túc cho Thiền Na Duyên, bổ túc cho Quyền Lực Duyên, chứ không qua Cảnh Trưởng Duyên.

 Nếu như hành giả đang đi hành thiền thì đang phải sống trong Giống Câu Sinh, chứ không phải trong Giống Cảnh, không phải Giống Tiền Sinh, không Giống Hậu Sinh, không Giống Vô Gián. 

Thì hành giả phải dùng nó làm Dục, Cần, Tâm, Thẩm, Câu Sinh Trưởng, mà Câu Sinh Trưởng hành thiền là Tâm phải có tương ưng trí, thì Thẩm Trưởng làm chức năng tuệ; Văn, Tư, Tu - Niệm Xứ, Kiết Sử, Lậu Hoặc.

Đó là nói về Duyên, chứ Sư không nói về vấn đề kiến thức của mình.

Vô Tuệ Văn là mình đang có Niệm Xứ, mình biết cái này là Niệm Xứ, thì Tư của mình, mình biết cái đó thuộc về Kiết Sử, thì Tu của mình thuộc Lậu Hoặc.

Bây giờ trở lại. Khi người ta hỏi mà mấy cô trả lời trong 3 pháp tu : 1) Tứ Niệm Xứ,  2) Diệt Kiết Sử,  3) Diệt Lậu Hoặc, mấy cô tu cái nào ?

 Khi mà người ta hỏi thì mình mới tìm ra, thì ta đang nói về Hành Thiền.

Còn đi Hành Đạo : Đồ Đạo Duyên / rồi có Thiền Na Duyên /  có Quyền Lực Duyên / có Trưởng Duyên.

Mình lấy Đồ Đạo Duyên, rồi có Thiền Na Duyên. Đạo mà không có Thiền thì không thành tựu. Đạo phải có Thiền, 'thẩm thị chú mục' là chức năng của Thiền Na, thẩm thị là quán sát, chú mục là chú ý ghi nhận. 

Đồ Đạo thì có Thiền Na. Rồi có Quyền Lực Duyên, rồi có Trưởng Duyên.

Đồ Đạo Duyên --> Bát Chánh Đạo 

Thiền Na Duyên --> 5 chi thiền

Quyền Lực Duyên --> Ngũ quyền

Trưởng Duyên --> Dục, Cần, Tâm, Thẩm.

Do đó, ở trong 3 Pháp 1) Tứ Niệm Xứ,  2) Diệt Kiết Sử,  3) Diệt Lậu Hoặc, là hành đạo hay hành thiền ? 

Hành giả đi Hành Thiền Tứ Niệm Xứ, thì đi Thiền Na Duyên, Quyền Lực Duyên giữ Ngũ Căn Ngũ Lực, tứ Trưởng, Trưởng Duyên, không đi Bát Chánh Đạo, thì hành giả không qua diệt kiết sử và diệt lậu hoặc.

Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ  Satipatthana Sutta, Đức Phật nói đây là Ekāyano maggo - con đường độc đạo duy nhất diệt mọi Kiết Sử, diệt mọi Lậu Hoặc đưa đến Thắng Trí đưa đến giải thoát. Câu nói này Đức Phật nói với người dân xứ Kuru.

Ekāyano maggo - con đường độc đạo diệt kiết sử diệt lậu hoặc đưa đến giải thoát.

Do đó khi hành giả đi qua pháp môn Tu Tập  Tứ Niệm Xứ, hay pháp Hành Thiền, mà không đi qua Mãnh Lực Duyên thì không nói là đang diệt Kiết Sử, diệt Lậu Hoặc, mà là đang kiến chấp, chấp thủ, thủ uẩn.

Như vậy, khi đối với 3 pháp tu tập 1) Tứ Niệm Xứ,  2) Diệt Kiết Sử,  3) Diệt Lậu Hoặc này hay là đối với pháp Hành Thiền Hành Đạo này, là ta đi về Pháp Duyên.

Trong pháp tu Thiền Niệm Xứ là hành giả không có Pháp Duyên, không có Pháp Tứ Niệm Xứ, trong pháp diệt Kiết Sử không có Pháp Duyên không diệt Kiết Sử. Hành giả trong pháp Lậu Hoặc mà không có Pháp Duyên không diệt Lậu Hoặc, cái đó trong 3 pháp này mà tu theo Pháp Duyên thì mới tu được.

Nếu ta hỏi 3 pháp này bạn tu loại pháp nào ? 

Trả lời: Tu nương theo Pháp Duyên để mà tu 3 pháp này. Tu nương về Pháp Duyên mới tu được 3 pháp này 1) Tứ Niệm Xứ,  2) Diệt Kiết Sử,  3) Diệt Lậu Hoặc.

Chứ không có pháp nào mà tu được hết 

Còn không mình chỉ đi theo kiến chấp của mình hay kiết sử của mình, hay lậu hoặc của mình hay theo khả năng của mình biết thôi.

Sư sẽ đi sâu hơn nữa, tại vì câu này cô Diệu Giác hồi trưa có hỏi về Paṭṭhāṇa hỏi về Câu Sinh, Tiền Sinh, Hậu Sinh. Sư nói qua cái này do Pháp Hành của mình thôi, tuần tới Sư đi sâu hơn nữa.

Quí Phật tử có kiến chấp kiến thủ của mình, phải cẩn thận. Vô tu quí Phật tử tu Tứ Niệm Xứ, dù tu diệt Kiết Sử, dù  tu diệt Lậu Hoặc, quí Phật tử không có áp dụng Pháp Duyên được.

Trong mỗi Duyên có 3 pháp : 

- Pháp Thiện

- Pháp Bất Thiện

- Pháp Vô Ký.

Do đó khi Hành Thiền hay Hành Đạo, quí Phật tử đi theo Pháp Thiện bởi Mãnh Lực Duyên, hay Pháp Bất Thiện bởi Mãnh Lực Duyên, hay Pháp Vô Ký bởi Mãnh Lực Duyên, thì mới rút ra Kiết Sử, rút ra Lậu Hoặc, rút ra mọi chấp thủ cố chấp của mình, cái tập khí của mình.

 Trong mỗi Duyên đều có 3 Pháp : Pháp Thiện, Pháp Bất Thiện và Pháp Vô Ký, 

Trong mỗi duyên có 3 pháp nhưng mình có thể đi một pháp hay đi 2 pháp chứ không phải đi hết 3 pháp.

Khi đến phần Cảnh với Pháp thì Duyên hiện bày ra, có khi nó là pháp Vô Ký làm duyên cho Pháp Thiện, hay là Pháp Vô Ký làm duyên cho Pháp Bất Thiện.

Thí dụ: Một cảnh sắc hay cảnh thinh, đó là thuộc Pháp Vô Ký. Tại sao ? Là nó từ phần Tâm Nhĩ Thức là Vô Ký là Tâm Quả Dị Thục nó đưa vô mình là Tâm Đổng Lực, là Pháp Thiện hay là Pháp Bất Thiện, nếu quí Phật tử không nắm bắt được thì quí Phật tử vướng trong Kiết Sử dính trong Lậu Hoặc.

Khi nghe một âm thanh mình xử lý âm thanh hay là xử lý Tâm Đổng Lực ?

Ngài Paṇḍita nói, khi bà ngồi thiền, ông kia đứng lên mà nghe tiếng quần áo ông kia sột soạt thì tâm bà đã phóng dật rồi, là bà đó có tâm Đổng Lực của Bất Thiện rồi. Do Tâm Nhĩ Thức đã làm cho tâm Đổng Lực của bà này mất rồi.

Do đó, đối với phần đó hành giả lọc được bởi Paṭṭhāṇa thì hành giả mới ra được Kiết Sử của mình, ra được Lậu Hoặc của mình, chứ còn không thì không có trên cơ sở nào được hết

Tuần sau Sư sẽ giải thích ra cặn kẽ ./.

-----------------------------------------

 Āsava lậu hoặc là gì?

Āsava : influxes. Lậu Hoặc: 'chìm đắm ', "vết nhơ' còn được ví như “những gì nhơ bẩn tiết ra từ vết thương, 'say sưa', làm tâm chúng sinh rơi vào “loạn cuồng”, rơi vào “mê muội” không thể tiến cao hơn. Có bốn loại : dục lậu hoặc (kāmāsava), hữu lậu hoặc của sự tồn tại (ham muốn vĩnh viễn) (bhavāsava), tà kiến lậu hoặc (diṭṭhāsava). và vô minh lậu hoặc (avijjāsava)

1- Dục Lậu (kāmāsava).

Nghĩa chữ của “dục lậu” là “sự nhiễm đắm đối với 5 trần cảnh: Sắc, thinh, hương, vị,  xúc khả ái, đáng hài lòng và pháp thích ý liên hệ với 5 trần cảnh, là do dục, bởi dục mà tươm rỉ ra bợn nhơ phiền não, Ô nhiễm, hư hỏng, đồi bại, dơ bẩn, độc hại, bợn nhơ, xú uế, mê tối, lầm lạc... Mọi luyến ái dục lạc ngũ trần, đắm say vật chất đều thuộc về dục lậu.  Dục lậu len lỏi trong các cảnh giới; và chúng tồn tại dai dẳng trong tâm chúng hữu tình, không từ bỏ một ai! Như vậy, dục lậu chỉ cho sự tham ái, dục vọng ngũ ngầm bên trong tất cả những ai còn phàm nhân. Nó có năng lực dính hút, là cái gì cực kỳ lôi cuốn, làm say đắm tất cả chúng sanh, chúng bề bỉ bám chặt, chi phối mọi chúng sinh.

2- Hữu Lậu (bhavāsava).

Hữu lậu (Bhavāsava), ái tham sự tái sanh luân hồi, hoặc ái luyến trong thiền lạc. Chỉ cho sự tham ái, đeo dính, muốn tồn tại trong các cảnh giới. Nói cách khác – bhava (hữu) là hạt giống, là chủng tử; nó là tên gọi khác của hành (ái, thủ, hữu) đưa đến sanh, lão tử ở trong 12 duyên khởi. 

3 Kiến Lậu (diṭṭhāsāva).

Kiến lậu (Diṭṭhāsava), chấp tri kiến sai lạc, chấp tà kiến như thường kiến và đoạn kiến. Do sự luyến ái ý tưởng, tư tưởng; các quan điểm, lý thuyết, triết lý cục bộ, giới hạn, lầm lạc, nghiêng lệch... lại còn chấp thủ vào chúng nữa nên đưa đến đối kháng, tranh chấp, bảo vệ. Đấy chính là kiến lậu. Là những phiền não thuộc về sở tri, kiến thức, quan niệm.

4- Vô Minh Lậu (avijjāsava).

Vô minh lậu (Avijjāsava), sự si mê, sự mê muội, không hiểu biết pháp đáng biết như bốn sự thật. Là trạng thái vô minh liên quan đến Tứ Diệu Đế, ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên. không biết gì về khổ, về nguyên nhân khổ, sự diệt khổ và con đường khổ diệt.  không biết rõ, thấy rõ "cái ta" là không thật, không thực tính, không thực thể, là tánh không.

Nói cách khác, vô minh là trạng thái không sáng suốt, không tỉnh thức, không tỉnh giác, thiếu hiểu biết... Do vô minh che mờ nên tạo ra những hành vi bất thiện, tạo các vọng nghiệp rồi  luân hồi trong 3 cõi, 6 đường.


Thursday, November 14, 2024

061 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 3 tháng 6, 2023

  061 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 3 tháng 6, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "061 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh


Namo Buddhaya

Minh Hạnh


TỔNG HỢP NỘI DUNG VÔ TỶ PHÁP

Tập 1 - Chương (I-II-III-IV)

Trang 286

21 CẢNH QUẢNG NGHĨA

1. Cảnh Dục Giới (Kāmārammaṇa) Chi Pháp đó là 54 Tâm Dục Giới, 52 Tâm Sở, 28 Sắc Pháp, được 6 Cảnh.

2. Cảnh Đáo Đại (Mahaggatārammaṇa) Chi Pháp đó là 27 Tâm Đáo Đại, 35 Tâm Sở, được 1 Cảnh là Cảnh Pháp.

3. Cảnh Níp Bàn (Nibbãnārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Níp Bàn, được 1 Cảnh là Cảnh Pháp.

4. Cảnh Danh Pháp (Nãmãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Níp Bàn, được 1 Cảnh là Cảnh Pháp.

5. Cảnh Sắc Pháp (Rũpärammaṇa) Chỉ Pháp đó là 28 Sắc Pháp, được 6 Cảnh

6. Cảnh Hiện Tại (Paccuppannārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp hiện đang sinh khởi, được 6 Cảnh.

7. Cảnh Quá Khứ (Atītārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp đã diệt đi rồi, được 6 Cảnh.

8. Cảnh VỊ Lai (Anāgatārammaṇa) Chi Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp sẽ sinh, được 6 Cảnh.

9. Cảnh Ngoại Thời (Kãlavimuttärammaṇa) Chi Pháp đó là Níp Bàn, Chế Định, được 1 Cảnh là Cảnh Phá;

10. Cảnh Chế Định (Paññattiārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Thinh Danh Chế Định, Nghĩa Lý Chế Định, được 1 Cảnh là Cảnh Pháp.

11. Cảnh Siêu Lý (Paramatthärammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp, Níp Bàn, được 6 Cảnh.

12. Cảnh Nội Bộ (Ajjhattãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp, sinh khởi bên trong bản thân, được 6 Cảnh.

13. Cảnh Ngoại Bộ (Bahiddhãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp sinh khởi ở tha nhân, và Sắc Vô Hữu Sinh Mạng, Níp Bàn, Chế Định, được 6 Cảnh.

14. Cảnh Nội Ngoại Bộ (Ajihattabahiddhãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp sinh khởi cả nội bộ và ngoại bộ, được 6 Cảnh.

15. Cảnh Ngũ (Pañcārammaṇa) Chỉ Pháp đó là 7 Hành Cảnh Sắc, được 5 Cảnh

16. Cảnh Sắc (Rũpārammaṇa) Chỉ Pháp đó là các màu sắc.

17. Cảnh Thỉnh (Saddãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là các âm thanh.

18. Cảnh Khí (Gandhãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là các khí hơi.

19. Cảnh Vị (Rasārammaṇa) Chỉ Pháp đó là các mùi vị

20. Cảnh Xúc (Photthabbārammaṇa) Chi Pháp đó là lạnh nóng, cứng mẻm, lỏng, căng.

21. Cảnh Pháp (Dhammārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Thanh Triệt, Sắc Vi Tế, Níp Bàn, Chế Định.

-----------------------------------------------

Quảng Nghĩa là giải rộng ra

Cảnh Quảng Nghĩa là cảnh giải rộng ra.

 Quyển Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp là bản Chánh Tạng gốc, còn quyển tóm tắc là ngài Tịnh Sự vắn tắt lại. Quyển tóm tắt Nội Dung Vô Tỷ Pháp, mục đích của Ngài để trên đầu nằm của mình, mình hành hay mình học, cái gì mình thắc mắc, tâm biết mấy cảnh, cảnh có mấy tâm biết, mình mở ra coi.

Trang 16, (Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp - quyển tóm tắt)

                                      TÂM BIẾT MẤY CẢNH 

1) 3 Tâm Vô Sở hữu biết 3 cảnh là Cảnh Pháp, Chế Định và Ngoại Thời.

2) 15 Tâm Sắc Giới, 3 Tâm Không Vô Biên biết 4 cảnh là Cảnh Pháp, Chế Định,  Ngoại Thời, Ngoại Phần.

3) Thức Vô Biên và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng biết 6 cảnh là cảnh Nội Phần, Quá Khứ, Đáo Đại, Cảnh Pháp, Danh Pháp  và Siêu Lý.

4) Tâm Siêu Thế biết 6 cảnh là Cảnh Níp-Bàn, Siêu Lý, Ngoại Thời, Ngoại Phần, Cảnh Pháp và Danh Pháp.

5) Ngũ Song Thức biết 8 cảnh là Cảnh Sắc, Cảnh Hiện Tại, Dục Giới, Siêu Lý, Sắc Pháp, Nội Phần, Ngoại Phần, Cảnh Nội và Cảnh Ngoại Phần.

6) Còn Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc theo mỗi đôi Thức.

7) 3 Tâm Ý Giới biết đặng 13 Cảnh là Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, Cảnh Ngũ, Siêu Lý, Dục Giới, Sắc Pháp, Hiện Tại, Nội Phần, Ngoại Phần, Nội và Ngoại Phần.

8) Tâm Na Cảnh và Tiếu Sinh biết 17 cảnh là (trừ Níp-Bàn Chế Định, Đáo Đại và Ngoại Thời )

9) Tâm Bất Thiện, 4 Đại Thiện và 4 Đại Tố bất tương ưng biết đặng 20 cảnh ( trừ Đạo Quả và Níp-Bàn )

10. Tâm Thông, Khai Ý Môn, 4 Đại Thiện và 4 Đại Tố tương ưng biết đặng 21 cảnh tùy trường hợp.

-----------------------------------------

Đây trong quyển Chánh Tạng có chia làm 2 loại là biết cảnh Nhất Định và biết cảnh Bất Định. 

Trong quyển tóm tắt Nội Dung Vô Tỷ Pháp của Ngài Tịnh Sự chỉ nói tâm biết mấy cảnh thôi không nói cảnh Nhất định và Bất định, lúc dạy Ngài mới cắt nghĩa, Ngài mới giảng rộng ra. Nhưng trong quyển của Ngài Jotika có nói, thì Sư dịch ra. Nên mình phải biết là có khi Bất Định có khi Nhất Định không phải là chỉ biết suông như thế thôi.

 Như vậy mình nhớ lại có 21 cảnh, có 30 tâm biết, rồi tâm biết bao nhiêu cảnh, cảnh có bao nhiêu tâm biết, ở trong quyển tóm tắt  trang 2 trang 16.

Trong tuần rồi Sư trả lời câu hỏi của Phật tử là  Sư mới hướng dẫn sơ qua thôi, tại vì lớp học của mình đây mới tới Chương II, vừa xong phần Tâm Sở, Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp Chương III về Cảnh, về Biệt Cảnh.

 Giờ câu hỏi tới thì mình cũng giải, Sư giải theo Lộ Trình Tâm cittavithi thuộc về chương IV, ở bên VN họ học giỏi quá họ đi trước mình. Nhưng Sư không muốn quí Phật tử bị trạng thái hụt hẫn với những câu hỏi mình chưa học tới nên Sư nâng lên giải thích một cách tổng quát trước, bữa nay Sư giảng câu hỏi vô chi tiết hơn. 

Tâm Sở biết mấy cảnh.

Giải thích Tâm Tiếp Thâu có 2 cảnh. Tâm Bất Định, tập hợp các Tâm,

Những cái này nói đầy đủ chi tiết là cho các học viên học ở trường lớp bên Thái Lan người ta dạy như vậy, nhưng quyển tóm tắt Nội Dung Vô Tỷ Pháp của Ngài Tịnh Sự là quyển chỉ nam dành cho các vị Giáo Thọ đem theo giảng lướt qua rồi học viên ở nhà phải đọc thêm.

Câu hỏi 1 của Phật tử: Trong lộ trình tâm, Lộ Ý Môn Đổng Lực Dục Giới bắt cả 6 cảnh (cả 5 cảnh ngũ hiện tại) hay chỉ biết cảnh pháp ? (tức là 1 trong 6 cảnh đó thôi)

Họ hỏi Tâm Khai Ý Môn, thì bắt đầu mình coi Tâm Khai Ý Môn biết bao nhiêu cảnh, coi trong quyển sách tóm tắt Nội Dung Vô Tỷ Pháp của Ngài Tịnh Sự soạn.

Trang 16.

10) Tâm Thông, Khai Ý môn, 4 Đại Thiện và 4 Đại Tố tương ưng biết đặng 21 cảnh tùy trường hợp.

Tâm Thông là Tâm Thắng Trí, 2 Tâm Thắng Trí là Thiện Thắng Trí và Duy Tác Thắng Trí là 2 tâm hiện bày năng lực phi thường sau khi qua Ngũ Thiền thì có Thiện dành cho phàm và tam quả. Còn Duy Tác Thắng Trí dành cho các bậc Alahan vô sinh hiện bày Thắng Trí. Thì ở đây Ngài để là Tâm Thông, Khai Ý Môn, 4 Đại Thiện và 4 Đại Tố Tương Ưng biết đặng 21 cảnh tùy trường hợp.

Như vậy mình trả lời câu hỏi Tâm Khai Ý Môn biết bao nhiêu cảnh là biết 21 cảnh. Nhưng Tâm Khai Ý Môn biết cảnh là biết cảnh Pháp.

Nhãn biết cảnh sắc, nhĩ biết cảnh thinh, thiệt biết cảnh vị, tỷ biết cảnh khí, thân biết cảnh xúc chạm. Thì đôi Ngũ Song thức biết 5 cảnh cũ; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, sắc thinh khí vị xúc. Mấy cái kia biết cảnh Pháp, ngoài Ngũ Song Thức ra biết 5 cảnh ngũ ra.

Thì mình phải biết là Tâm Khai Ngũ, hay Tâm Khai Ý, Tâm Đổng Lực, Tâm Na Cảnh nó ngoài 5 cảnh kia. Nhãn thức chỉ biết cảnh sắc, nhĩ thức biết cảnh thinh thôi, chứ không bước qua chức năng nào khác được. 

Thì trong quyển tóm tắc Nội Dung Vô Tỷ Pháp của Ngài Tịnh Sự.

Thì khi hỏi Tâm Khai Ý Môn 

Trong phần Lộ Trình Tâm, Lộ Ý Môn Đổng Lực Dục Giới bắt cả 6 cảnh, có 5 cảnh ngũ hiện tại.

Hỏi Lộ Ý Môn Đổng Lực Dục Giới.

Lộ Ngũ Môn là xuyên qua 5 cửa (5 đôi Thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) là Lộ Ngũ Môn.

Còn Lộ Ý Môn là xuyên qua Lộ Ý thôi, giới và ý thức giới đều qua Lộ Ý Môn. Ý Môn biết cảnh Pháp thôi.

Thì có 5 cảnh ngũ hiện tại.

Trên bản đồ Lộ Trình Tâm.

Khi ta nói tới Đổng Lực là họ bắt cảnh thời hiện tại. Còn phần 5 đôi phía trước là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tiếp thâu, thẩm tấn, đoán định thuộc Lộ Ngũ Môn thì thuộc về quá khứ rồi. Còn phần sau thuộc về vị lai. 

Tâm Đổng Lực, Ngài khoanh tròn ghi chữ C là Đổng Lực 

Thì câu hỏi 1 của Phật tử: Trong lộ trình tâm, Lộ Ý Môn Đổng Lực Dục Giới bắt cả 6 cảnh (cả 5 cảnh ngũ hiện tại) hay chỉ biết cảnh Pháp ? (tức là 1 trong 6 cảnh đó thôi).

Thì Tâm Đổng Lực Ý Môn chỉ bắt cảnh Pháp thôi, chứ không có bắt cảnh sắc, cảnh khí, cảnh vị, mà đưa lại cho họ thì nếu cảnh ngũ hiện tại thì anh kia đã qua rồi, nên mình sai cái chỗ là  nhãn thức bắt cảnh sắc thì nó truyền qua tâm thức tiếp thâu rồi thẩm tấn, đoán định thì những cái đó mà đưa tới Đổng Lực thì là đã là quá khứ, còn anh Đổng Lực chỉ bắt hiện tại thôi thì lúc đó cảnh pháp lên.

Vậy thì khi.

Nếu ta nói theo lộ trình Na Tùng Lưu Hành là Lộ Ngũ Môn tiếp nối qua Lộ Ý Môn, khi Ngũ Môn bắt cảnh xong rồi truyền qua Lộ Ý Môn đưa tới để xử lý cảnh thì mình thấy.

để hình 061 - 11.35



Sát na đầu tiên là Khai Ngũ Môn, sát na thứ nhì là Nhãn Thức, sát na thứ 3 là Tiếp Thâu, sát na thứ 4 là Thẩm Tấn, sát na thứ 5 là Đoán Định, kế tiếp là 7 Tâm Đổng Lực. Nếu như cảnh cự đại (cảnh lớn thiệt lớn) thì nó có Na Cảnh, còn nếu không có cảnh lớn, tức là vừa hết phần Đổng Lực nó qua Hữu Phần (nó không có Na Cảnh). Còn nếu có Na Cảnh (cảnh dư) là khi có cảnh cực đại. Thí dụ, một quả bom rớt xuống phát ra tiếng nổ lớn, mình ở gần đó nghe chát chúa, thì sự nổ hết rồi nhưng có dư âm còn để lại trong tâm thức mình, và làm tai mình ù, đó là cảnh cực đại, cái đó thuộc Na Cảnh nó chạng lại có Tâm Đổng Lực.

Khi mình giải thích về Tâm thì mình phải giải thích như thế này:

Khi trái bom rớt xuống phát ra tiếng nổ thì Tâm Đổng Lực của mình là Tâm Sân (bị giựt mình) rồi Na Cảnh này không phải là ù tai, vì ù tai nó thuộc về sắc thân thuộc về sắc pháp, mà lúc này giựt mình hồi hộp hoảng hốt lo sợ, chứ không nói tới ù tai.

Ù tai thuộc về sắc pháp, có dư âm chạng vào Tâm mình là Na Cảnh hưởng cảnh của Tâm Đổng Lực dư đưa lại. Thì trạng thái tâm lý đó là trạng thái giựt mình hoảng hốt lo sợ chứ không ù tai.

Nên mình nói đúng pháp như vậy thì mới được.

Ngay lúc trạng thái giựt mình này thì nó thuộc loại pháp triền cái, nó là trạo hối, phóng dật và hồi hộp, hối hận, thuộc về triền cái, thì tâm này là Tâm Sân, và nó xử lý cái đó là cảnh pháp, pháp này là pháp nghịch, pháp bất thiện.

 Cũng vậy, thí dụ như mình đi trong màn đêm tối mịt mù không nhìn thấy gì, thì có một người xuất hiện, chẳng hạn như Chư Thiên xuất hiện ra làm mình giựt mình. Cảnh đó là cảnh đẹp có Chư Thiên là cảnh đẹp xuất hiện tới với mình làm mình giựt mình, thấy Chư Thiên mà Tâm Sân thì phải có Hữu Phần Khách. 

 Do đó có Tâm Hữu Phần khách ở đây.

3 nguyên nhân sinh tâm hữu phần khách. 

- 1 là người Dục Giới, tái tục bằng Đại Quả Hỷ Thọ.

- 2 là Đổng Lực bằng Tâm Sân.

- 3 là Cảnh Rất Tốt hoặc Vừa, hoặc Xấu.

- Vì Na Cảnh sanh không được, nên 1 trong 6 Tâm Na Cảnh Xã Thọ sanh ra can thiệp giữa Ưu và Hỷ.

Hữu Phần Khách này là trái độn.

Hữu Phần Khách chỉ có trong cõi Dục Giới. Cõi Sắc Giới, cõi Vô Sắc Giới không có.

Vì cõi Sắc Giới, cõi Vô Sắc Giới các vị Phạm Thiên an trú trong Định, các vị Phạm Thiên họ ở trong thiền. Chỉ có người cõi Dục Giới mới phóng dật, giựt mình hoảng hốt hay sợ hãi lên là của Dục Giới, nhưng gốc của họ, cái Tâm của họ tái tục Tâm Đại Quả Hỷ Thọ, tâm họ vui. Rồi Tâm Đổng Lực thì sân, cảnh thì đẹp, cảnh rất tốt, nhưng họ giựt mình. 

 Như hồi nãy Sư nói mình đang đi trong đêm tối đường vắng hoe, chợt có người vỗ vai làm mình giựt mình.

Thứ 3 là Cảnh Tốt, Cảnh Xấu. Vì Na Cảnh sinh không được, thì Tâm Hữu Phần Khách chen vô, đó là trái độn.

Thì Tâm Hữu Phần Khách là trái độn giữa cảnh thi đẹp mà Tâm Đổng Lực xử lý cảnh này là tâm sân. Nếu mà đẹp thì phải là tâm hỷ thì nó phải có trạng thái là tâm tham, nhưng nó lại lên tâm sân thành ra nó không chịu được phải có Tâm Hữu Phần Khách chen vô, mà Na Cảnh không có đủ điều kiện để sinh ra kịp lúc này, thì nó có Tâm Hữu Phần Khách xen lên, thì những cảnh đó thuộc cảnh pháp chứ không thể nào thuộc cảnh Ngũ được. Cảnh Ngũ chỉ nằm trong 5 đôi thức. Do đó, những cảnh đó thuộc cảnh pháp với Tâm Nhãn Thức bắt cảnh sắc thôi, Nhĩ Thức bắt cảnh thinh.

Thì câu hỏi của vị này hỏi là: ".... hay chỉ biết cảnh pháp, 1 trong 6 cảnh? ". 

Thì mình trả lời là: Họ chỉ biết cảnh Pháp thôi. 

Tâm Lộ Ý Môn Đổng Lực chỉ bắt cảnh Pháp thôi, còn những phần trước biết 1 trong 5 cảnh, nó thuộc Lộ Ngũ Môn thì nó biết như vậy, còn nếu qua Lộ Ý Môn nó còn rõ ràng hơn là nó chỉ biết cảnh Pháp thôi. 

Lộ Ý Môn thuộc về phần của cảnh Pháp.

Lộ Ngũ Môn nằm trong 5 cảnh sắc, thinh, khí, vị, xúc.

Như vậy thì:

 Như hồi sáng Sư có gợi ý cho quí Phật tử khi hành thiền, mình nói Tâm Thân Thức biết cảnh xúc thì khi cô ngồi thiền dùng đề mục sổ tức là niệm hơi thở thì Tâm Thân Thức bắt vô bằng cảnh xúc. Nhưng khi Tâm Thân Thức bắt qua Tiếp Thâu, Thẩm Tấn, Đoán Định vô Tâm Đổng Lực thì lúc bấy giờ Tâm Đổng Lực bắt cảnh Pháp.

Khi nó tới Đổng Lực nó đưa ra cảnh Pháp có 2 loại; Thiện, Bất Thiện. Xúc là vô tư, còn Đổng Lực thì tạo tác ra. Tại vì Tâm Thân Thức bắt cảnh xúc mà niệm hơi thở vô thì nó là một Tâm Quả Dị Thục rồi, mà đưa lên Đổng Lực mà khởi lên thiện hay tất thiện là tạo ra nghiệp lực.

Do đó, nếu quí Phật tử trong khi hành thiền, ngồi hay đi, đứng hay nằm mà ta không giữ được niệm với Tâm Đổng Lực này ta tạo ra, thiện hay bất thiện cũng vậy tạo ra vòng nghiệp lực liền.

Vậy thì, khi mình hít vô biết trạng thái hoan hỷ. 

Hoan hỷ có 2 loại: 

1. Hoan hỷ trong tham, trong ham thích, là hoan hỷ của bất thiện, thuộc về kiết sử, là thói quen của mình, thấy cảnh thích làm mình tham, cái đó mình không kiểm soát được, lúc đó mình không có trí và mình đang bị phóng dật

2. Nếu hoan hỷ với trạng thái tôi có niệm mà trí tuệ tôi biết là hoan hỷ của thiện.

Lúc bấy giờ nếu nhìn vô cảnh pháp này mới thấy được là có kiết sử hay là có niệm nó chen vô liền, nó lẹ và vi tế lắm và nó tấn công mình lẹ lắm một cách mau chóng mà mình không ngờ không thấy không biết. Do đó, đối với người sống theo kiết sử, sống theo thói quen nhiều dễ bị chết trong lúc hành thiền, không có thành công đâu.

chỉ có một là cho nó qua luôn là mình vuột cái tâm mình chạy đi nó không có kết quả gì hết, hai nữa là có là mình dính vô trong kiết sử của mình. 

Câu hỏi 2: Tâm Khai Ý Môn biết được 21 cảnh, như vậy, khi nào sự Khai Ý Môn trong Lộ Ý, phải chăng tâm này biết được luôn cả 5 cảnh ngũ hiện tại như trích trong đoạn cảnh Duyên; Pháp Vô Ký làm duyên cho Vô Ký bằng cảnh Duyên, Uẩn Vô Ký sắc trợ khai ngũ môn trong những trường hợp nào bằng cảnh duyên.

Abyākato dhamma : Pháp Vô Ký (chủ từ)

Abyākatassa dhammassa : Pháp Vô Ký (túc từ)

Ārammanapaccayena paccayo làm duyên theo Cảnh Duyên

paccayo ăn vô Abyākato dhamma 

Ārammanapaccayena ăn theo Abyākatassa

Pháp Vô Ký làm duyên cho Pháp Vô Ký theo mãnh lực cảnh duyên thì mình đưa về văn phạm.

Thì chữ paccayo ăn vô Abyākato dhamma ở phần trên

còn Ārammanapaccayena ăn theo Abyākatassa

Thì Pháp Vô Ký làm duyên cho Pháp Vô Ký theo mãnh lực cảnh duyên

paccayo = mãnh lực 

Ārammana = cảnh

paccayena = duyên

Họ lại ghi xuống là họ muốn chính cái chỗ Tâm Khai Môn. Ở trong phần cảnh duyên có phần Khai Môn là

 Abyākata khandhā

Iddhividhañāṇassa = thần túc trí

cetopariyāñāṇassa = tha tâm trí

Pubbemivāsānussati = túc mạng tùy niệm trí

Anāgataṃsāñāṇassa = Vị lai thắng trí (biết được tương lai của mình)

 āvajjanāya = Tâm khai môn

Câu hỏi 2: Tâm Khai Ý Môn biết được 21 cảnh, như vậy, khi nào sự Khai Ý Môn trong Lộ Ý, phải chăng tâm này biết được luôn cả 5 cảnh ngũ hiện tại như trích trong đoạn cảnh Duyên; Pháp Vô Ký làm duyên cho Vô Ký bằng cảnh Duyên, Uẩn Vô Ký sắc trợ khai ngũ môn trong những trường hợp nào bằng cảnh duyên. nó có ảnh hưởng đến 5 cảnh ngũ không ? 

Không có, trong Tâm Khai Môn có 2. Ngày xưa Ngài Tịnh Sự gọi là Khán Môn là ngó thấy. Nhưng không phải, sau này chữ  āvajja nó mở cửa, nó gọi là Khai Môn, nó mở cửa ra, nhưng người đứng ở cửa gặp người khách tới mở cửa ra. 

Chức năng của Tâm Khai Môn có 2 :

- Tâm Khai Ngũ Môn là mở cửa lộ Ngũ

- Tâm Khai Ý Môn là mở cửa lộ Ý và đoán định cảnh ngũ

 mở phần Tâm làm Mấy Sự

trang 13 quyển tóm tắt Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp

TÂM LÀM MẤY VIỆC (sự)

- Thẩm Tấn Xả Thọ làm 5 việc là Thẩm Tấn, Na Cảnh, Tái Tục, Hữu Phần và Tử.

- Đại Quả làm 4 việc là Na Cảnh, Tái Tục, Hữu Phần và Tử.

- Quả Đáo Đại làm 3 việc là Tái Tục, Hữu Phần và Tử.

- Thẩm Tấn Hỷ Thọ làm 2 việc là Thẩm Tấn vă Na Cảnh.

- Khai Ý Môn làm 2 việc là Khai môn và Đoán Định

- Khai Ngũ Môn làm 1 việc là Khai Môn.

- Nhãn Thức làm việc Thấy.

- Nhĩ Thức làm việc Nghe.

- Tỷ Thức làm việc Ngửi.

- Thiệt Thức làm việc Nếm.

- Thân Thức làm việc Đụng

- Tiếp Thâu làm việc Tiếp Thâu.

- Tâm Thiện, bất Thiện, Tiếu Sinh, Đại Tố, Siêu Thế, Thiện Đáo Đại và Tố Đáo Đại đều làm việc Đổng Lực.

--------------------------------------------------

Thì Tâm Khai Ý Môn làm 2 việc là Khai Môn và Đoán Định.

Vậy thì nó làm có 2 việc thôi là mở cửa Lộ Ý và việc Đoán Định, chứ nó không biết về 5 cảnh.

Nên quí Phật tử phải cẩn thận:

- chức năng của Tâm làm bao nhiêu sự, 

- sự có mấy Tâm biết, 

cũng như là cảnh, 

- chức năng của Tâm biết bao nhiêu cảnh, 

- cảnh có bao nhiêu Tâm biết

Thì  nằm ở trong quyển  Nội Dung Vô Tỷ Pháp chương III

 Thì Tâm Khai Ý Môn không biết gì tới lộ Ngũ.

Thí dụ. Trong phòng bác sĩ chuyên môn, đầu tiên người bệnh nhân vô gặp người tiếp tân, người này thụ lý hồ sơ của bệnh nhân hay giấy tờ của bệnh nhân đem tới. Thì người tiếp tân nói người bệnh nhân cần khám tai mũi họng, thì người tiếp tân đưa qua người Tiếp Thâu, rồi người Tiếp Thâu đưa qua Thẩm Tấn, người Thẩm Tấn coi hồ sơ biết là bệnh nhân cần coi về tai nên đưa qua Đoán Định, người Đoán Định là người đứng trước cửa bác sĩ, người Đoán Định làm 2 chức năng; 1 là nhận hồ sơ thấy đúng rồi không sai, 2 là mở cửa cho vào gặp bác sĩ, chứ không làm việc gì đụng chạm với cảnh bên ngoài, cảnh ngũ không có, người làm trạng thái đoán định là quyết đoán, quyết định và họ có một cái sự cuối cùng của họ thôi

Thì khi đoán định mà quyết đoán đoán định đúng hay sai thì Tâm Đổng Lực liên đới ảnh hường. 

Do đó, Tâm Đoán Định nằm kế bên Tâm Đổng Lực.

Câu hỏi của Phật tử hỏi nó có ảnh hưởng đến 5 cảnh ngũ không ? - Không, nó chỉ biết vị trí đoán định thôi, còn 5 cảnh ngũ nó không biết, nó chỉ làm 2 sự thôi; mở cửa Lộ Ý nếu nó thuộc về Lộ Ý. Còn nếu thuộc về Lộ Ngũ thì nó là Đoán Định chứ nó không biết cái gì đằng trước đó.

Trở lại, ta xác định lại là cảnh ngũ chỉ có 5 đôi thức biết, ngoài chức năng của nó, những Tâm khác không biết và không để ý tới. Tâm nào biết cảnh đó. Thì anh Đoán Định ngồi trước cửa phòng bác sĩ để mở cửa cho bệnh nhân.

Câu trả lời là Tâm Đoán Định chỉ làm 2 việc là mở cửa Lộ Ý và đoán định Lộ Ngũ.

Còn phần Cảnh Duyên thì nó sâu lắm, nó không nằm ở trên phần gọi là Sự và Sở của Tâm thôi.

Tâm Khai Môn  āvajjanāya nằm trong Lộ Ý hiện bày theo cảnh Duyên về các Thắng Trí ;

Iddhividhañāṇassa = thần túc trí

cetopariyāñāṇassa = tha tâm trí

Pubbemivāsānussati = túc mạng tùy niệm trí

Anāgataṃsāñāṇassa = Vị lai thắng trí (biết được tương lai của mình)

 āvajjanāya = Tâm khai môn

nằm ở trong góc độ này là góc độ của người hành thiền họ sắp sửa hiện bày Thắng Trí.

Tâm Khai Môn mở cửa cho hiện bày Thắng Trí trong 5 cảnh là Lộ Ý Môn mà Cảnh Kiên Cố. Những Thắng Trí là Cảnh Kiên Cố là cảnh Thiền, đắc Thiền, đắc Quả, họ mới có.

Mình đang nói qua phần Sự, Sở của Chương III của Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp kéo qua Cảnh Duyên thuộc về Paṭṭhāṇa.

Câu hỏi 3: Trong Lộ Thuần Ý Môn khi nào có Hữu Phần vừa qua, khi nào không có Hữu Phần vừa qua ?

Nói tới Hữu Phần vừa qua hay không có Hữu Phần vừa qua là ta nói trong Lộ Cảnh chứ không nói Lộ Thuần Ý Môn. Nếu nói Lộ Thuần Ý Môn và Hữu Phần vừa qua là Na Cảnh Cực Đại, nó có Hữu Phần vừa qua, hay là cảnh có đó là cảnh không rõ thì thì nó có vừa qua nhiều lên.

Thuần Ý Môn nó nằm trong Lộ Ý mà khi nào nó có cảnh Hữu Phần vừa qua. Nó có trường hợp mình đang ngủ say, nghe tiếng gõ cửa văng vẳng mà mình không thức, tại vì mình đang ngủ say, cái Tâm của mình có nghe nhưng không đủ để cho mình thâu được cảnh đó rõ thì cái vừa qua, vừa qua, vừa qua, nó không vô lộ để mình thức dậy.

 Còn nếu như cảnh Lộ Ý Môn mà chỉ có một vừa qua rồi Khai Ý Môn mở rồi bắt đầu nó là vô Đổng Lực liền là cảnh lớn cảnh rõ (minh hiển), Lộ Ý Môn thuộc minh hiển, còn Ngũ Môn là cự đại là lớn và rõ. Do đó thì cái nào vừa qua, người đang ngủ say hay ở đàng xa. 

Thí dụ Sư làm ở cuối vườn rồi ở trên đây kêu Sư nghe không rõ, Sư chạn tới chạn lui Sư nghe không rõ, trường hợp đó thuộc về ý chứ không thuộc về cảnh Lộ Ngũ. Lộ Ý này mình không nắm được cảnh đó thì Lộ Vừa Qua sinh lên 2 sát na 3 sát na 7 sát na sinh lên mà nó vô Lộ không được.

Khi nào nó có Hữu Phần vừa qua và không có Hửu Phần vừa qua ? Tức là nó thuộc loại nằm trong lộ và ngoại lộ và cảnh nó không rõ và trong vị trí là bắt không được cảnh.

Tâm Hữu Phần Khách là người đó tánh thường hay sân nên dể nẩy sinh Tâm Sân.

Tâm Sân, đừng bao giờ nghĩ Tâm Sân là bực tức cau có giận dữ, mà chỉ giựt mình cũng là Tâm Sân.

Vậy thì mình hỏi có ai giựt mình không ?  Cái đó là tập khí của mình hay là thói quen của mình.

Thí dụ. người bạn gọi: "Chị, đi về" không nghe, đó là hữu phần vừa qua. 

Người bạn vỗ vai nói lớn: "Chị, đi về", mình bị giựt mình vì cái vỗ vai, đó là Tâm Sân khởi lên trong cái giựt mình đó. Không phải giận vì làm mình giựt mình, nhưng vì thói quen vì bất ngờ không kiểm soát được. 

Nên chữ Tâm Sân mình đừng bao giờ nghỉ rằng trạng thái giận dữ, nóng nảy, hay là cau có, mà chỉ có giựt mình cũng là Tâm Sân. Thì lúc đó nếu không có Hữu Phần Khách thì trạng thái đó là vỡ tim ngất xỉu. Nên tâm Hữu Phần Khách để giữ Tâm họ quân bình trở lại.

Tâm Hữu Phần Khách là người có trạng thái không có thụ lý cảnh một cách quân bình, họ phản ứng mạnh và mãnh liệt. Giống như 2 bên đang tranh cãi nhau, bắt đầu nóng lên thì có trái độn chen vô giảng hòa.

Thì anh Khai Ngũ Môn chỉ mở lộ ngũ thôi, còn anh Khai Ý Môn làm được 2 chức năng, 2 Sự, 2 việc, tức là mở Lộ Ý và Đoán Định cảnh Ngũ.

Câu hỏi 4: 8 Tâm Đại Thiện với bậc Thánh Hữu Học có 3 Tâm Sở Giới Phần; Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, hay còn gọi là ngăn trừ phần.

Thánh Hữu học (Sekkha) có 3 là:

- Sơ Quả (Thất Lai)

- Nhị Quả (Nhất Lai)

- Tam Quả (Bất Lai)

Thánh Vô Học có 1 là bậc Vô Sinh Alahan.

Vậy thì khi câu hỏi đặt lên: 8 Tâm Đại Thiện của bậc Thánh Hữu Học có 3 Tâm Sở Giới Phần; Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, hay còn gọi là ngăn trừ phần.

Giới có 3 là : Giới Nguyện, Giới Ngăn Ngừa, Giới Sát Trừ.

Như vậy thì Giới Ngăn Trừ Phần có 3 là Giới Nguyện, Giới Ngăn Ngừa, Giới Sát Trừ.

Thì đối với Giới Ngăn Trừ Phần coi lại phần Tâm Sở, 3 Tâm Ngăn Trừ Phần nó có bất định mà đi riêng, nhất định mà đi chung, nó có 2 phần đó. Coi lại Chương II phần Tâm Sở, thì mặt bất định mà đi riêng là những người phàm, tam nhân và hữu học. Nhất định mà đi chung là Vô Sinh. Các vị Alahan khi mà họ nói, đi đứng nằm ngồi thân, ngữ, ý của các bậc Alahan là luôn luôn nằm trong sát trừ, ngăn trừ phần, không bao giờ đi riêng hết, lời của họ nói ra là phải có Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng. Cái hành động nuôi mạng của họ là có Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, luôn luôn nó đi chung.

Còn các vị Phàm Tam Nhân

Phàm Nhị Nhân, phàm Vô Nhân không biết cái này nhiều, chỉ biết phần Giới Nguyện thôi.

Chứ còn Giới Ngăn Ngừa và Giới Sát Trừ phài là Tam Nhân (3 nhân; Vô Tham, Vô Sân, Vô Si) hay là 3 Bậc Thánh Hữu Học (Sơ Quả (Thất Lai), Nhị Quả (Nhất Lai), Tam Quả (Bất Lai) thì họ mới có.

 Ở trong phần, mở phần Tâm Sở Ngăn Trừ Phần, 3 Tâm Sở thì mấy cô biết được. 

Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp, Tập 1 - Chương (I-II-III-IV)

Trang 225 

25 TÂM SỞ TỊNH HẢO CÓ 4 PHẦN PHỐI HỢP

19 Tâm Sở Tịnh Hảo Biến Hành (Sobhaṇasãdhäraṇacetasika) từng mỗi Tâm Sở phối hợp được trong 59 hoặc 91 Tâm Tịnh Hảo, là 24 Tâm Dục Giới Tịnh Hảo, 27 Tâm Đáo Đại, 8 hoặc 40 Tâm Siêu Thế, tính thành 1 phần.

3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần (Viratīcetasika) từng mỗi Tâm Sở phối hợp được trong 16 hoặc 48 Tâm, là 8 Tâm Đại Thiện, 8 hoặc 40 Tâm Siêu Thế, tính thành 1 phần.

2 Tâm Sở Vô Lượng Phần (Appamaññãcetasika) từng mỗi Tâm Sở phối hợp được trong 28 Tâm, là 8 Tâm Đại Thiện, 8 Tâm Đại Duy Tác, 12 Tâm Sắc Giới (trừ 3 Tâm Ngũ Thiền), tính thành 1 phần.

1 Tâm Sở Trí Tuệ (Paññäcetasika) phối hợp được trong 47 hoặc 79 Tâm, là 12 Tâm Dục Giới Tương Ưng Trí, 27 Tâm Đáo Đại, 8 hoặc 40 Tâm Siêu Thế, tính thành 1 phần.

-------------------------------------------

Mình coi thấy

3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần có bao nhiêu Tâm Sở phối hợp. Bắt đầu mình mới coi vô phần phối hợp, chia ra những phần Tâm Sở mà nó Ngăn Trừ Phần nó làm việc.

Những nguyên nhân làm cho Tâm Sở Tịnh Hảo phát sinh lên thì mấy cô phải nhớ là có 8 nguyên nhân nội bộ.

trang 220

8 THỂ LOẠI NGUYÊN NHÂN NỘI BỘ

1. Tông Tộc (Kula): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến tông tộc của mình.

2. Niên Linh (Vaya): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến niên linh của mình.

3. Đa Văn (Bãhusacca): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến sự giáo dục của mình.

4. Chủng Tộc Ưu Tú (Jãtimahatta): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến chủng tộc ưu tú của mình.

5. Tôn Sư Kiệt Xuất (Satthumahatta): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến Đức Phật, Cha, Mẹ, Tôn Sư, Giáo Thọ.

6. Di Sản Trân Quý (Dãyajjamahatta): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến di sản của Đức Phật, của Cha Mẹ mà tự bản thân sẽ phải tiếp thọ những thể loại di sản ấy.

7. Trác Tuyệt Phạm Hạnh Giả (Sabrahmacarimahatta):  Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến hảo bằng hữu đã từng kết giao.

8. Dũng Cảm Tính (Sūrabhãva): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến lòng dũng cảm và sự an phận thủ kỷ của mình.

-----------------------------------

 8 nguyên nhân sinh ra có Tâm Sở Tịnh Hảo, có tàm quý tội nghiệt với sợ hãi với tội ác. 8 nguyên nhân đó có Tâm Sở Tịnh Hảo.

Trang 221 

CHÁNH NGỮ (SAMMĀVĀCĀ) HIỆN HỮU 3 ĐIỀU:

1. Thuyết Chánh Ngữ (Kathãsammãvãcã): Là việc nói ngôn từ tốt đẹp có Giới Pháp để kỳ vọng sự lợi ích đến cho người lắng nghe, chẳng hạn như Giáo Thọ dạy đệ tử v.v..

2. Tư Tác Ý Chánh Ngữ (Cetanasammãvãcã) : Là người có Tư Tác Ý Thọ Tri Giới Luật (Cetanãsamãdãnasīla) rằng sẽ loại trừ khỏi Ngữ Ác Hạnh (Vacīducarita), có việc bất vọng ngữ v.v.

3. Ngăn Trừ Chánh Ngữ (Viratīsammãvãcã): Là việc trừ liễu cả 4 Ngữ Ác Hạnh, có việc loại trừ vọng ngữ v.v. trong khi có Cảnh ứng đương sẽ trải bày trước mắt (Viramitabba vatthu).

------------------------------------------------

Chánh mạng hiện hữu 3 điều, thì những cái này họ làm những chức năng, thì những cái đó luôn luôn họ sống trong những điều mà chúng ta có lý do để nó sinh ra.

trang 223 

Kệ TRÌNH BÀY TÂM SỞ BẤT ĐỊNH VÀ TÂM SỞ NHẤT ĐỊNH

(ANIYATAYOGÏCETASIKA - NIYATAYOGĪCETASIKA)


Issãmaccherakukkueca     Viratikaruṇädayo

Nãnã kadãci mãno ca        Thīnamiddhaṃ tathã saha

Yathãvuttãnusãrena            Sesã niyatayogino

Saṅgahañca pavakkhãmi    Tesaṃdãni yathärahaṃ

Tật Đố (Issä), Lận Sắc (Macchariya), Hối Hận (Kukucca), 3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần (Viratīcetasika), Bi Mẫn (Karuṇä), Tùy Hỷ (Muditã) gom 8 Tâm Sở này phối hợp là khi có khi không, thỉnh thoảng, và không cùng nhau phối hợp, gọi tên là Bất Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Nãnãkadäcicetasika: khác biệt và tùy lúc Tâm Sở). Ngã Mạn (Mãna) phối hợp khi có khi không, gọi tên là Hữu Thời Tâm Sở (Kadäcicetasika). Cả 2 Tâm Sở Hôn Trầm (Thĩna), Thụy Miên (Middha) đây phối hợp khi có khi không, nhưng cùng nhau phối hợp, gọi tên là Cộng Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Sahakadäcicetasika: tùy lúc và cùng nhau Tâm Sở). 41 Tâm Sở còn lại, ngoài 11 Tâm Sở này, là Tâm Sở phối hợp một cách nhất định, gọi tên  là Nhất Định Tâm Sở (Niyatayogīcetasika).

Bây giờ trình bày việc đếm số lượng Tâm Sở theo Phần Phối Hợp (Sampayoganaya) vừa theo thích hợp.

Tâm Sở Bất Định (Aniyatayogīcetasika) ý muốn nói là Tâm Sở phối hợp với Tâm một cách bất định.

11 Tâm Sở Bất Định là Tật Đồ, Lận Sắc, Hồi Hận, Trạo Cử, Hôn Trầm, Thụy Miên 3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần, 2 Tâm Sở Vô Lượng Phản.

Tâm Sở Bắt Định có 3 thể loại là:

1. Bất Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Nãnãkadäcicetasika: khác biệt và tùy lúc Tâm Sở): Là Tâm Sở phối hợp được khi có khi không, thỉnh thoảng, và không cùng nhau phối hợp có 8 là Tật Đồ (Issä), Lận Sắc (Macchariya), Hối Hận (Kukucca), 3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần (Viraticetasika), 2 Tâm Sở Vô Lượng Phần (Appamaññãcetasika).

2. Hữu Thời Tâm Sở (kadäcicetasika) là Tâm Sở phối hợp được khi có khi không, có 1 là Ngã Mạn (Mãna).

3. Cộng Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Sahakadäcicetasika: tùy lúc và cùng nhau Tâm Sở) là Tâm Sở  phối hợp được khi có khi không, nhưng cùng nhau phối hợp, có 2 Tâm Sở là Hôn Trầm (Thĩna), Thụy Miên (Middha).

--------------------------------

Quí Phật tử thấy 

Tâm Sở Bất Định có 3 thể loại là:

1. Bất Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Nãnãkadäcicetasika)

2. Hữu Thời Tâm Sở (kadäcicetasika) 

3. Cộng Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Sahakadäcicetasika)

Những cái này bắt được 3 Ngăn Trừ Phần.

Những Tâm Dục Giới Tịnh Hảo có Tâm Đáo Đại, Tâm Siêu Thế. Những Tâm này nó làm những chức năng của các Tâm Sở mà chúng ta học qua.

Đối với bậc Alahan họ luôn có Sát Trừ Phần, trong khi một vị Alahan thì Giới Ngăn Trừ Phần có 3 là Giới Nguyện, Giới Ngăn Ngừa, Giới Sát Trừ luôn luôn có với họ.

Còn đối với phàm tam nhân (3 nhân; Vô Tham, Vô Sân, Vô Si) cũng như các bậc hữu học thì khi có khi không khi họ sài Tâm Chánh Ngữ, sài Tâm Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, khi có khi không. chứ không có khắn khích. Nhưng đối với các vị Alahan coi như là khắn khích, đó là 1.

Thứ 2, với bậc hữu học và bậc vô sinh nó có Tâm Sở Ngăn Trừ Phần về Giới Ngăn Trừ Phần họ có khi họ ở trong 2 trường hợp ở trong Thiền Định, họ giữ Bát Chánh Đạo thì 3 cái Ngăn Trừ Phần có (Giới Nguyện, Giới Ngăn Trừ, Giới Sát Trừ) luôn luôn đi khắn khích.

Ngay cả phàm tam nhân mình đây vô trong Thiền Định mình không có Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng. Mình chỉ có Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định, tại vì mình ngồi thiền không có ngữ nghiệp.

Nhưng, đối với các vị hữu học (Sơ Quả (Thất Lai),  Nhị Quả (Nhất Lai),  Tam Quả (Bất Lai) và bậc Alahan, họ vô Thiền, họ sống trong Bát Chánh Đạo của các bậc Thánh họ sống đầy đủ hết, còn mình khi có khi không với lại bất định, mà đi riêng. 

Thí dụ, như mình xử dụng lời nói thì mình có Chánh Ngữ, mà Chánh Ngữ của mình một là trong Giới Nguyện là không phạm giới vọng ngữ. 

Không phạm giới vọng ngữ mình là người đang giữ giới nguyện. "Tôi phải nói thật, tôi không nói dối" đó là đang giữ giới nguyện. 

Còn ngăn ngừa trong Thập Thiện, vọng ngữ, ly gián ngữ, thô ác ngữ, hồ ngôn loạn ngữ trong đời sống của mình nói, thì lúc bấy giờ là mình giữ cái Ngăn Ngừa, đối với phàm tam nhân, một trong 4 pháp về ác ngữ nghiệp mình không phạm vô, còn đối với các bậc hữu học, các bậc Alahan họ giữ.

Cũng vậy, Chánh Nghiệp, tức là Chánh Nghiệp này là hành động của họ, thân, ngữ, ý. Chánh mạng là việc nuôi mạng của họ, thì họ luôn luôn sống trong trạng thái có giới ngăn ngừa và các Alahan thì họ có cả 3 và nhất định là đi chung, còn các quí Ngài bất định mà đi riêng, tùy trường hợp khi có khi không. 

Như việc nuôi mạng, thì vì nuôi mạng mà họ phải nói, vì nuôi mạng mà họ phải hành động, thì Chánh Ngữ Chánh Nghiệp trong Chánh Mạng này họ phối hợp. 

Còn nếu như không vì nuôi mạng họ chỉ nói thôi, chẳng hạn người ta nhờ thuyết pháp, nói pháp, thì trong Chánh Ngữ của họ nói ra thì không có Chánh Nghiệp Chánh Mạng không có.

Còn các vị Sư hay các vị Thầy, hay các quí Phật tử thuyết pháp giảng đạo vì nuôi mạng, thì lúc bấy giờ mình có Chánh Ngữ ăn khớp vô việc nuôi mạng này.

Còn nếu như mình vì nuôi mạng mà mình không giữ được Chánh Ngữ thì mình phạm vô phần tà ngữ.

Do đó, phần 3 Ngăn Trừ Phần này trong câu hỏi bậc Thánh hữu học thì bất định đi riêng mà không có nhất định mà đi chung đến bậc Alahan thôi, đối với bậc Alahan luôn luôn tuyệt đối không có sai. Nhưng có một cơ hội cho các bậc hữu học khi họ là Thánh rồi, khi họ ở trong Thiền họ ở trong tu tập họ đi Bát Chánh Đạo đủ hết 8 chi của Bát Chánh Đạo.

Câu hỏi tiếp theo câu hỏi 4: qua Thường Cận Y Duyên câu Pháp Thiện làm duyên cho Vô Ký, 12 Tâm Bất Thiện có thể làm duyên cho 9 Tâm Quả Đáo Đại thời tái tục sinh về cõi Phạm Thiên không ?  Trong 129 chi pháp là 12 Tâm Bất Thiện, 27 Tâm Sở hiện hữu, 36 Tâm Quả cả 9 Tâm Đáo Đại.

 Qua phần Thường Cận Y Duyên 

Nicca Sila = giữ giới thường xuyên.

Đời sống mình ngắn ngủi nên khi sống mình phải giữ giới thường xuyên Nicca Sila đến đạo quả hay là cho kiếp sau mình được an lạc, đó là Thường Cận Y Duyên.

Bát Chánh Đạo thật ra không có phàm tam nhân. Bát Chánh Đạo gọi là Bát Thánh Đạo chứ không có Bát Chánh Đạo. Nhưng Đức Phật Ngài dạy 8 con đường này đi đến đạo quả con đường trung đạo Majjhima Patipada Magga thì Ngài vẫn cho người phàm mình hành Chánh Kiến Chánh Tư Duy.

Trong khi Ngài nói Ngăn Trừ Phần chỉ dành cho Alahan bậc vô sinh lúc nào họ cũng sống trong Bát Chánh Đạo thì 3 Ngăn Trừ Phần phần giới đạo.

Bát Chánh Đạo chia làm 3 là:

- Tuệ Đạo có 2 là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy 

- Giới Đạo có 3 là : Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng

- Định Đạo có 3 là: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định

Trong phần Bát Chánh Đạo hay Bát Thánh Đạo, Tuệ Đạo thuộc về Chánh Kiến, Chánh Tư Duy nó là mũi nhọn để cho mình hành đạo.

Vậy thì trong phần Giới Đạo Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng là các bậc Alahan họ là Thánh Đạo, từ ngữ gọi là Ariyasacca là Thánh Đế.

Ariyasacca là Thánh Đế

Ariyamagga là Thánh Đạo

Ariyaphala là Thánh Quả

Thì những cái này các vị Thánh nhân họ đi đứng nằm ngồi trong 4 oai nghi mà trong 3 nghiệp tạo tác thân, ngữ, ý họ luôn luôn sống trong Bát Thánh Đạo.

Thiền sinh hỏi: Đối với người phàm phu thì Giới Nguyện, Giới Ngăn Ngừa, Giới Sát Trừ dành cho bậc Alahan vô sinh. Nhưng theo lời Sư giảng thì mình luôn luôn phải nói mình có 3 giới, nhưng Giới Sát Trừ mình chưa thực hiện được thì mình có bị vọng ngữ không ?

HT trả lời: Giới Sát Trừ mình không bị vọng ngữ, mình sống luôn luôn trong Bát Chánh Đạo là mình có Sát Trừ rồi, nên mình tập cho mình tu tập. Mấy cô đứng ngoài thì đứng ngoài, còn mấy cô muốn hành thì hành, mình noi theo bậc Thánh nhân.

Trong quyển In this Very Life Ngài Pandita nói : "Ta rất là hạnh phúc sinh ra trong gia hệ của bậc Thánh tộc, do đó đường của bậc Thánh nhân đi đường của ta noi theo" Ngài Pandita nói rõ như vậy đó, mình không có bỏ, mình đứng ở ngoài không sai, mấy cô có quyền đứng ngoài.

Như ta nguyện Balamat, nguyện một Balamat được, nhưng tối cô nguyện 8 giới được hay 10 Balamat cũng được, tại vì mình không có phạm gì hết.

Chánh Ngữ có 4

Chánh Nghiệp có 3

Chánh Mạng có 7

Cái nuôi mạng của người xuất gia người tại gia phải ở trong cái này. Trong Chánh Mạng người cư sĩ tại gia có 5 điều không làm là không bán rượu, không bán thuốc lá, không bán thuốc độc, không bán vũ khí, không nuôi sinh bán tử. 5 điều đó người tại gia không làm, vì đó là tà mạng.

 Thứ 2 cần nhớ Bát Chánh Đạo là bánh xe có 8 căm và trong 8 cái căm đó quí Phật tử không được làm lỏng một cái căm nào hết, vì nếu như lỏng một cái căm thì bánh xe khi chạy sẽ bị lắc giống như bánh xe đạp nếu căm trùng quá thì khi chạy bánh xe sẽ bị lắc. 

Thì Bát Chánh Đạo là 8 cái căm mà người hành giả không cho nó lỏng bất cứ một trong 8 cây căm này, nếu mà lỏng 1 trong 8 cây căm này thì hành đạo không thành, mà còn thậm chí một trong 8 cái này mà đứt thì không có kết quả.

Chẳng hạn, mình đang hành đạo mà mình không có Chánh Ngữ, là mình bị đứt.

nuôi mạng không trong sạch, là mình bị đứt 

Do đó, phải cẩn thận. Mình đang chạy trên xe đạp mà các cây căm nó phải căng đều không được lỏng. 

Cũng như ta giữ Ngũ Quyền ; Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ phải cân bằng, không so le, không cái nào mạnh hơn cái nào yếu hơn. Ngài Pandita nói trên chiếc xe cỗ ngựa mà mình đi mà nó có con ngựa già vô dụng. Ngài Pandita nói nếu có 2 con ngựa một con ngựa mạnh một con ngựa già vô dụng (nag = con ngựa già) nó chạy không được thì nó không lôi được chiếc xe , thì trong Ngũ Quyền Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ, nếu 5 pháp quyền lực đó hay năng lực đó mà yếu một cái thì cỗ xe ngựa đi không được. Phải cẩn thận.

Qua phần Thường Cận Y Duyên.

Câu hỏi: Bất Thiện làm duyên cho Vô Ký. 12 Tâm Bất Thiện làm duyên cho 9 Tâm Quả Đáo Đại thời tái sinh về cõi Phạm Thiên giới có được không ?

9 quả Đáo Đại là 5 quả Sắc Giới + 4 quả Vô Sắc Giới.

12 Tâm Bất Thiện nó chỉ làm cho 7 Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân. Thì cái này nó xa lắm. Mà đối với Tâm Sắc Giới tâm thiện nào cho quả đó khắn khích nhau nó không rời. Đối với Tâm Đại Thiện thì nó cho 8 Đại Quả, cho 8 Quả Vô Nhân nữa, nó không rời. 

Nhưng đối với Sắc Giới, Vô Sắc Giới mà là 9 Tâm Đáo Đại thì là thiện nào vô quả đó khắn khích nhau.

Câu hỏi: Bất Thiện làm duyên cho Vô Ký. 12 Tâm Bất Thiện làm duyên cho 9 Tâm Quả Đáo Đại thời tái sinh về cõi Phạm Thiên giới có được không ?

Trả lời là:  Không có, mình nói về chi pháp mà, nó quá sức đi. Họ đưa  câu hỏi mà nó không vô một cái điểm tựa nào hết.

Giờ nói tới phần Thường Cận Y Duyên trước

Upanissāya paccaya 

Upanissāya Cận Y Duyên có 3 là : 

- Cảnh Cận Y Duyên = nó bằng với Cảnh Trưởng Duyên. Cảnh Trường Duyên có 2 là Cảnh Trường và Câu Sinh Trưởng

- Thường Cận Y Duyên

- Vô Gián Cận Y Duyên = bằng Alahan vô sinh

Thường Cận Y Duyên nó đi hết trong các lãnh vực của vòng luân hồi, nó là một lãnh vực mạnh mãnh liệt nhất của trong cái Vô Minh Duyên Hành, cho tới khi đắc đạo quả rồi cái Thường Cận Y là cái thói tiền khiên tật thân của họ vẫn chưa hết được. Phải cẩn thận.

Vị Tỳ Khưu Alahan nhảy qua giòng nước là Thường Cận Y, ông có tiền khiên đó bỏ không được, có người đem đi thưa với Đức Phật, Đức Phật nói vị Tỳ Khưu này là Alahan thiệt, nhưng do tiền khiên tật thân thường cận y duyên này có thói quen như vậy, hễ thấy vũng nước là nhảy, ngày xưa trong 500 kiếp ông là khỉ.

Nhưng mà Vô Gián Cận Y này là chỉ có các bậc Alahan họ khắn khích trong đường Đạo Quả họ tu tập.

Thế thì trong 3 Cận Y Duyên này, Cảnh Cận Y Duyên, Thường Cận Y Duyên, Vô Gián Cận Y Duyên, người phàm tam nhân hay người phàm nhân hay là bậc Thánh hữu học hay là bậc hữu học như ta đây có bao nhiêu loại duyên ? 

Vô Gián Cận Y Duyên là bậc Alahan họ sống luôn luôn tinh cần không gián đoạn. 

Cận Y Duyên nghĩa là gần gủi nương nhờ sát cạnh không rời xa mà nương vào cảnh gần nhau.

Thường Cận Y Duyên là thân, ngữ, ý luôn luôn sống với nhau, đó là Thường Cận Y. Thân, ngữ, ý của ta cận y với thân, ngữ, ý của người.

Cảnh Cận Y Duyên là Tâm của ta bắt gần với cảnh không rời.

Vô Gián Cận Y Duyên là liên tục không gián đoạn, nương tựa gần và không gián đoạn.

Cảnh Cận Y là Cảnh Trưởng.

Cảnh Trưởng có 2 là:

Tư Duy Duyệt Ý

Thực Tính Duyệt Ý / Bất Duyệt Ý

Thì phần Cảnh Trưởng Duyên thường thường nằm ở trong phần Duyệt Ý

Thí dụ như: Tư Duy Duyệt Ý là theo cái ý của mình là mình thích, nó thuộc cảnh trưởng của mình.

Rồi vô Thực Tướng Thực Tính của nó là Duyệt Ý là nó làm cho mình thức tỉnh, chẳng hạn như Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã là Thực Tính Duyệt Ý mình thích hay không thích cũng là của nó không ảnh hưởng gì hết.

Do đó, đứng về con người mà sống nhiều về tập khí thì họ sống trong Tư Duy Duyệt Ý.

Đứng về con người tu tập họ biết được sự thật, dù cho sự thật có phũ phàng hay có đau khổ nhưng sự thật đó làm cho họ thức tỉnh thì gọi là Thực Tính Duyệt Ý.

Cảnh Trưởng Duyên.

Những người nào họ đi tu hay trong đời sống hàng ngày của họ, họ càng có Cảnh Trưởng, họ càng có Cảnh Cận Y họ mới sống được, những người đó là họ bám chặt, chẳng hạn như người con bám chặt với người mẹ không rời, tại vì nếu ra khỏi người mẹ người con sống không nổi. Cảnh Cận Y giống như cây có rễ bám chặt dưới đất, nếu như nhổ nó khỏi đất là nó chết, đó là Cảnh Cận Y. Cũng như người nghiện thuốc lá, mùi thuốc lá là Cảnh Trưởng của họ là Cảnh Cận Y của họ, họ xa là họ chịu không nổi. Nên người sống trong Cảnh Cận Y tốt cũng có, xấu cũng có, cả 2 mặt. Tư Duy hay Thực Tính, Duyệt Ý hay Bất Duyệt Ý thì thường thường nó nằm trong phần Duyệt Ý nhiều.

Trong đời sống hành ngày mình nghiệm lại quí Phật tử có Cảnh Thường Cận Y Duyên không, có Cảnh Trưởng không ?

Nếu quí Phật tử sống trong Cảnh Cận Y trong phần giới luật thì người đó sống an toàn, rồi từ chỗ Cận Y đó mà coi như là Cảnh Trưởng của họ vừa nương tựa vừa là Cảnh Lớn mạnh của họ cho họ thức tỉnh, thì Thường Cận Y này thường hành theo, nương theo giới luật, chi pháp của giới luật, điều giới học họ có họ nương họ hành thường xuyên mà Vô Gián không rời.

Vô Gián Cận Y của bậc Alahan. Vô Gián Cận Y là Bát Thánh Đạo, họ sống trong Bát Thánh Đạo không rời, đi, đứng, nằm, ngồi họ sống trong Tuệ Đạo, Giới Đạo, Định Đạo, Chánh Ngữ, Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, họ sống luôn trong cái đó, rồi Vô Gián Cận Y, không gián đoạn, không rời.

Thí dụ như quí Phật tử nói sống trong Tam Bảo, sống trong Phật Pháp, sống trong Pháp Học, Pháp Hành, thì những cái đó là những Cảnh Trưởng hay là những suy nghĩ của mình, nhưng mình phải đưa vô khuôn khổ của nó như vậy.

Nếu sống trong Giới Luật thì khi người đã sống được, họ mới nói: giới luật còn mạng sống còn, sự sống còn hay đạo hạnh còn phạm hạnh còn, rồi từ đó xả thí, trì giới, tham thiền, bắt đầu phải đi qua con đường đó.

Do đó, trong Thường Cận Y Duyên có 2 trường hợp là thiện và bất thiện. Có người sống trong bất thiện, họ sống trong sự sát sinh, trộm cắp, tà dâm, hay là sống trong phạm giới, trong ác ngữ, ác hạnh, ác nghiệp, thì đó cũng là Thường Cận Y của họ.

Giống như người ăn trộm họ không rời khỏi cái nghề ăn trộm của họ là cái đó là Thường Cận Y của họ, mà cái Cảnh Cận Y của người ăn trộm đó là tài sản của người ta, là Cảnh Trưởng của họ, họ phải nương vào tài sản của người ta để mà họ lấy về cho họ được mà quyết làm, họ sống bằng nghề đó và thành Vô Gián Cận Y cho người ăn trộm.

- Cũng như người nói dối thì Cảnh Cận Y của họ là họ nói dối, họ thường nói dối là Thường Cận Y, và họ không rời việc nói dối là Vô Gián Cận Y.

- Giữ Giới, thường giữ Giới, nương vào Giới là Cảnh Cận Y, Thường Cận Y, Vô Gián Cận Y. 

- Hành Thiền, nương vào hành Thiền, liên tục hành Thiền không gián đoạn là Cảnh Cận Y, Thường Cận Y, Vô Gián Cận Y.

Vậy thì mình nói bây giờ mình nói mình nương vào cha mẹ, mình luôn không gián đoạn, không có, thì mình chỉ có Cảnh Cận Y.

Hay mình đang đi xa, mình đang đi đâu đó mình nhớ Cha Mẹ mình phải quay về mình nương, đó là Cảnh Cận Y. Còn Thường Cận Y là người đó không đi xa, luôn luôn gắng bó, Mẹ đi trước mình đi sau, Mẹ lên lầu mình lên lầu.

Vị Tỳ Khưu Cảnh Cận Y của anh là gì ? Giới, Định, Tuệ, không được rời, Cảnh Cận Y giống như người con mà đeo sát với người Mẹ, nương vào người Mẹ, và Thường Cận Y ở bên Mẹ, Vô Gián Cận Y là không rời, không gián đoạn.

Mình biết 12 Tâm Bất Thiện chỉ có 7 Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân thôi và nó trở lại Bất Thiện rồi tạo tác ra nữa. Do đó, hồi đó mình học là Tâm Bất Thiện nó không có thì giờ để hưởng.

Thí dụ, khi lọt xuống địa ngục, cảnh khổ vừa đụng vô là tâm sân sinh lên, nên không có thì giờ để hưởng.

Với Tâm Đại Thiện mình có Tâm Đại Quả để mình hưởng, nó có Tâm Quả Thiện Vô Nhân để mình biết, nhưng ít ra mình có 8 Tâm Đại Quả này mình hưởng trong đời sống hàng ngày của mình. 

Còn anh Tâm Bất Thiện tham, sân, si khi trổ quả rồi là chưa hưởng đã tạo quả rồi.

Nên mình phải thấy khi mà tạo Tâm Bất Thiện, Tâm Quả thật ra mình không có hưởng mà tạo tiếp nữa, khổ chồng chất lên khổ, do đó mình mới sợ.

2) Thứ 2, 9 Tâm Quả Đáo Đại này chỉ có nó là kiên cố, là lộ trình tâm kiên cố, là Tâm nào cho Quả đó, Thiện cho quả Thiện.

Nên câu hỏi này không hợp lý.

Câu hỏi 5. Về sách Thanh Tịnh Đạo do Ngài Tịnh Sự dịch, điều này Sư có đề cập trong các buổi giảng. Con xin hỏi là Ngài Tịnh Sự có dịch đầy đủ cả bộ hay không ? Ở Việt Nam con tầm cầu nhưng chưa thấy. Con có một bộ sách photo từ chương 17 đến chương 19 có đề tên Sư Cả Tịnh Sự.

Về bộ Paṭṭhāṇa thì với Ngài Tịnh Sự thì Ngài muốn làm hết tất cả. Thứ nhất Ngài muốn làm xong bộ  Abhidhamma, đó là hạnh nguyện của Ngài , thì Ngài đã làm xong, rồi qua bộ Thanh Tịnh Đạo Ngài có dịch. Nhưng cái này mình phải nói thật là Ngài làm xong một cách tổng quát và kết quả cuối cùng là không dùng được. Lý do là Ngài dùng lối văn của Ngài, như 7 bộ Abhidhamma Ngài dịch xong rồi hiện trong phòng Sư có, người ta gửi qua cho Sư và với một lời chú thích xin nhờ Sư hiệu đính lại vì không học được với văn của Ngài.

Thành ra tất cả những cái không phải chỉ có chương 17 đến chương 19 không đâu, cái nào cũng có hết, ngay cả Liên Quan Tương Sinh Ngài cũng vậy. Thì trong phần Liên Quan Tương Sinh (Thập Nhị Nhân Duyên - paticca-samuppàda,) thì Ngài gọi là Cao Học rồi Ngài ra quyển sách Cao Học; Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Sắc v.v chứ Ngài không có giải thích ra.

Nên quyển Thanh Tịnh Đạo, thật ra ở VN mình chỉ có một người duy nhất làm xong 2 quyển là Ni Sư Thích Nữ Trí Hải dịch từ quyển của Ngài Nanamoli, mà trong 2 tập đó ngày hôm nay người VN cả Chư Tăng cũng không có dùng được tại vì Ni Sư Thích Nữ Trí Hải viết ngắn gọn, đó là điều Sư nói sự thật là vậy đó.

Sư có 4 bộ Thanh Tịnh Đạo: 1 bộ bằng ngôn ngữ Pali và Anh ngữ, 2 bộ của Thái ngữ, và bộ thứ 4 là của Miến ngữ. Bốn 4 đó khác nhau chút chút nó không giống nhau, có bộ chi tiết hơn, có bộ đầy đủ hơn, có bộ nặng về Abhidamma nhiều hơn, có bộ nặng về Pháp Hành nhiều hơn, nặng về Giới nhiều hơn. Tại vì Thanh Tịnh Đạo có 3, Visuddhimagga có 3 ; Giới Thanh Tịnh, Định Thanh Tịnh, và Tuệ Thanh Tịnh.

Do đó, nên trả lời câu này Ngài Tịnh Sự có đầy đủ bộ Thanh Tịnh Đạo, nhưng không dùng được.

Cũng như bây giờ trong phần 7 bộ Abhidhamma bên Viện Phật Học Vạn Hạnh gửi qua nhưng dùng không được. 

Chẳng hạn như Āsevanapaccaya  dịch là Trùng Dụng Duyên, tức là dùng đi dùng lại.

Thí dụ như cô sống với một Cảnh Trưởng của cô là bố thí, người sống với Cảnh Trưởng là bố thí từ khi họ sống cho đến ngày chết, từ khi mở mắt tới khi nhắm mắt ngủ họ sống là phải xả thí, không xả thí không được, họ thích xả thí, cái gì họ cũng tìm cách để xả thí. 

Mà xả thí có 3 cách; xả thí về thân, xả thí về lời, xả thí về ý.

Thí dụ như xả thí về ý là lúc nào cũng vậy đó, họ hành thiền, họ bỏ thời gian công sức của họ cho việc thiền, đó là xả thí về ý.

Xả thí về ngữ là họ nói Pháp, họ chỉ dẫn người này nấu ăn cũng là xả thí về ngữ.

Xả thí về thân thí dụ như có của họ cho, hay làm việc công đức giúp đỡ người khác, đó là xả thí về thân.

Thân xả thí, ngữ xả thí, ý xả thí, họ nguyện trước bàn thờ nguyện ngày 24 tiếng con nguyện xả thí thân ngữ ý thì họ lấy cái đó làm hoài.

Thì cái đó, ngày này ngày kia việc này từ thân qua ngữ qua ý họ làm với trạng thái lập đi lập lại gọi là Trùng Dụng Duyên Āsevanapaccaya. Pháp Thiện làm duyên cho Pháp Thiện là Trùng Dụng Duyên Āsevanapaccaya, nó thuộc về giống Vô Gián, liên tục không gián đoạn, hết xả thí ngữ đến xả thí ý, hết xả thí ý đến xả thí thân, hết xả thí vật đến xả thí công đức, xả thí Pháp, xả thí tài sản, họ lúc nào cũng xả thí hết, họ cho ra cho ra, họ không bỏn xẻn, không dính mắc, đó là họ xả thí. 

Thì cái đó gọi là Trùng Dụng Duyên Āsevanapaccaya, sống bởi sự lập đi lập lại này. Mà hồi trước Ngài dịch là Cố Hưởng. Mấy bậc trí giả nghe mà giựt mình, ủa sao Āsevanapaccaya dịch là Cố Hưởng nghĩa là mình tham, chữ Cố Hưởng nặng lắm.

Cho tới ngày hôm nay trong các quyển sách của Ngài dịch Ngài sửa là Trùng Dụng Duyên rồi, trong quyển Nội Dung Vô Tỷ Pháp Ngài dịch là Trùng Dụng Duyên rồi, nhưng trong quyển cũ đưa lên Viện Phật Học họ vẫn để Cố Hưởng, khi họ gửi qua cho Sư họ nói quyển này không dùng được. 

Bậc Alahan bậc Vô Sinh là Tứ Quả Ngài Trùng Dụng Duyên trong Pháp Thiền hưởng Níp-bàn trong Thiền Quả Duyên bởi pháp Trùng Dụng Duyên, thì mình nói Ngài Alahan Cố Hưởng Thiền Quả.

Trùng Dụng là lập đi lập lại chứ không phải Cố Hưởng./.