Monday, April 15, 2024

045 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 2 tháng 4, 2023

        045 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 2 tháng 4, 2023 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "045 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Hành xả ba la mật có cái tư riêng của mình, chẳng hạn như tình cảm có tư riêng của mình, còn Hành Xả thường chi là nghiệp chủ mình làm với một chức năng của mình chứ không có một cái riêng tư.

Tất cả hữu tình là chủ nhân của nghiệp lực, tất cả chúng sinh là chủ nhân của nghiệp lực, tất cả hữu tình là di sản của nghiệp lực.

Trước khi phát triển hành xả Ba La Mật đọc trong quyển

Biên Niên Sử Của Chư Phật

Tập Một - Phân Một - Chú Minh III

Tác Giả: The Mót Venerable Mingun Sayadaw 

Đại Trưởng Lão Mingun

Dịch Giả: Bhikkhu Pasado

trang 374 có giải thích ra hết 

Development Of Upekkhā

 Sự Phát Triển Hành Xả

Sự phát triển về Hành Xả thì tương tự như sự phát triển về Từ Ái đã được đề cập đến ở trong Bộ Vô Ngại Giải Đạo. Như đã đề cập ở trên, các phương pháp đã được áp dụng trong việc phát triển về Từ Ái là 528 bởi vì có bốn phương thức cơ bản. Về mặt khác, trong việc phát triển Hành Xả thì duy nhất chỉ có một phương thức đó là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (Nghiệp Chủ) có nghĩa là “tất cả chúng hữu tình có những tác hành, Nghiệp Lực (bởi do họ đã tạo tác) là tài sản của riêng họ”. Do đó, các phương pháp trong trường hợp này hình thành một phần tư của 528, tức là 132. 

Trong khi việc phát triển Từ Ái thì có mười hai thể loại chúng hữu tình: năm Vô Hạn (không có chỉ rõ) và bảy Hữu Hạn (được chỉ rõ). Vì lẽ rằng Hành Xả thì chỉ có một cách thức mà chúng ta lại có tới mười hai phương thức được áp dụng trước khi ứng dụng chúng ở trong mười phương hướng:

 1. Tất cả Hữu Tình là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả chúng hữu tình có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ); 

2. Tất cả Chúng Sinh là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả chúng sinh hữu tình có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ); 

3. Tất cả Hữu Sinh Mạng là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả sinh vật hiện hữu có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ); 

4. Tất cả Nhân Loại là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả loài người hoặc những cá nhân có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ); 

5. Tất cả Hữu Mạng Ngã là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả những ai hiện hữu bản sắc cá biệt có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ);

6. Tất cả Nữ Giới là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả người nữ, giống cái có Nghiệp Lực là tài sản của riêng ho); 

7. Tất cả Nam Giới là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả người nam, giống đực có Nghiệp Lực là tài sản của riêng ho); 

8. Tất cả Thánh Nhân là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả các bậc Thánh có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ);

 9. Tất cả Phi Thánh Nhân là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả những người mà vẫn chưa đạt được trạng thái của các bậc Thánh có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ); 

10. Tất cả Chư Thiên là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả Thiên Chúng có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ); 

11. Tất cả Nhân Loại là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả loài người có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ); 

12. Tất cả Các Thụ Khổ Nạn Giả Atula là Chủ Nhân của Nghiệp Lực (tất cả Chúng Ngạ Quỷ đang thuộc những trạng thái khốn khổ có Nghiệp Lực là tài sản của riêng họ). 

Khi mười hai phương thức này đã được đáp ứng cho mười phương hướng thì kết quả là 120. Những điều này được gia bổ thêm mười hai phương thức mà bất hữu quan đến bất luận phương hướng nào thì tổng số về các phương thức trở thành là 132. Bất luận một trong các phương thức thích hợp này đều có thể được sử dụng trong việc phát triển Hành Xả, tuy nhiên cũng không nên xem các phương thức khác là bất khả thích dụng. 

Để làm cho nó rõ ràng hơn: thì như trong trường hợp của Từ Ái, người ta phát triển Hành Xả bằng cách sử dụng các thuật ngữ khác cho chúng hữu tình và các nhân vật nếu như người ta đã mong muốn như vậy. Từ ngữ Chủ Nhân Nghiệp Lực cũng có thể được thay thế bởi các thuật ngữ Pali khác có cùng ý nghĩa mà đã được đề cập ở trong Bài Kinh Sự Kiện Cần Phải Quán Sát, Phẩm Triền Cái, Chương Năm Bài Kệ thuộc Tăng Chi Bộ Kinh. Ở đó người ta đã nói rằng: Chủ Nhân của Nghiệp Lực, Di Sản của Nghiệp Lực, Sản Địa của Nghiệp Lực, Bằng Hữu của Nghiệp Lực, Tỷ Hộ của Nghiệp Lực.

1. Chủ Nhân của Nghiệp Lực: có Nghiệp Lực là tài sản của mình,

 2. Di Sản của Nghiệp Lực: có Nghiệp Lực là di sản của mình,

3. Sản Địa của Nghiệp Lực: có Nghiệp Lực là sản địa của mình, 

4. Bằng Hữu của Nghiệp Lực: có Nghiệp Lực là bằng hữu của chính mình,

 5. Tỷ Hộ của Nghiệp Lực: có Nghiệp Lực là nơi nương tựa của mình. 

Vì tất cả năm thuật ngữ Pāli này đều có cùng ý nghĩa giống hệt nhau, người ta có thể phát triển Hành Xả bằng cách thay thể “Tất cả Hữu Tình là Chủ Nhân Nghiệp Lực” với bất luận một trong bốn biểu đạt từ sau đây để làm hài lòng người ta hoặc để cho người ta được tuệ tri rõ ràng hơn.

Sabbe sattä kammadāyādā 

Sabbe satta kammayoni 

Sabbe sattā kammabandhu 

Sabbe satta kammapațissaranā 

Tất cả Hữu Tình là Di Sản của Nghiệp Lực, 

Tất cả Hữu Tình là Sản Địa của Nghiệp Lực,

 Tất cả Hữu Tình là Bằng Hữu của Nghiệp Lực, 

Tất cả Hữu Tình là Tỷ Hộ của Nghiệp Lực.

----------------------------------------

Có lần Sư nói: Vô lượng của tâm sở Bi Tùy Hỉ, tại sao hai cái đó nó đi với nhau, khi có lòng Bi thì mình có Tùy Hỉ, còn tâm Từ với tâm Xả nó đi với nhau. Từ phải có Xả, Bi phải có tùy Hỉ, chứ còn không mình đi Tứ Vô Lượng Tâm; Từ, Bi, Hỉ, Xả theo bậc thang hết Từ lên Bi, hết Bi lên Hỉ, rồi tới Xả chịu không nổi.

Trong khi mình phát triển nó thì Điểm Cần Xem Xét (trang 378 - 387) , tại vì không thì mình lọt vô tư kiến của mình, ái luyến tình cảm của mình.

Ngài Mingun cắt nghĩa rõ nên mình phải biết, đầu tiên vô Hành Xả Ba La Mật Ngài nói:

Về mặt khác trong việc phát triển Hành Xả thì duy nhất chỉ có một phương thức là Chủ Nhân Nghiệp Lực thôi, mình phải đi qua Kammassaka của chúng sinh đó mình mới Hành Xả Ba La Mật được, còn không mình đi Metta Tâm Từ với chúng sinh chứ không đi Hành Xả, "thấy tội nghiệp nó quá, thương nó quá thôi mình giúp nó".

Trong phần Tâm Từ Metta Ngài Mingun nói rõ, mình học khi đi hành Từ Ái  mình phải hiểu.

Trang 329 

Ba Thể Loại Hỷ Ái

Các vị giáo thọ cổ đức đã phiên dịch từ ngữ Từ Ái của Từ Ái Ba La Mật sang Miến Ngữ là “lòng thương yêu”. Một cách tương tự, họ phiên dịch Hỷ Ái cũng là lòng thương yêu. Ý nghĩa của lòng thương yêu ở Từ Ái là một thuật ngữ chuyên môn trong khi đó ý nghĩa của lòng thương yêu ở Hỷ Ái là một thuật ngữ phổ thông. Vì thế, Hỷ Ái đã được chia ra thành ba: (1) Hỷ Ái Tính Dục, (2) Hỷ Ái Thân Nhân, và (3) Hỷ Ái Nhân Từ. 

Trong ba thể loại đó:

 (1) Hỷ Ái Tính Dục (Tình Ái) là lòng thương yêu giữa những người nam và những người nữ và đã được sinh ra do bởi lòng ham muốn (Ái Dục), lòng tham lam; lòng thương yêu này đã được gọi là Sắc Tính Dục trong các quyển sách nói về Từ Chương Học.

 (2) Hỷ Ái Thân Nhân (Luyến Ái) là sự quyến luyến giữa những Cha Mẹ và con cái, giữa những anh em trai và các chị em gái, và đã được dựa trên việc sống chung với nhau trong cùng một căn nhà. Thể loại của lòng thương yêu này đã được gọi là Hữu Ái Tâm Thâm Nặc trong Từ Chương Học. 

Cả hai Hỷ Ái Tính DụcHỷ Ái Thân Nhân đều không có thiện hảo, cái trước là sự đam mê (Tham Ái) trong khi cái sau là lòng tham lam (Tham).

 (3) Hỷ Ái Nhân Từ (Từ Ái) là lòng thân ái hoặc lòng nhân từ không có giới hạn đã được biểu thị hướng đến các tha nhân vì sự hạnh phúc của họ. Lòng thương yêu này thì hoàn toàn không có sự quyến luyến hoặc lòng khát vọng để luôn được sống chung với các tha nhân. Mọi người có thể đang sống cách biệt khá xa nhau và tuy thế người ta hạnh phúc khi được tin rằng những người đang sống ở xa xôi đó được thịnh đạt. Sự cách biệt như vậy không ngăn cản người ta cảm thấy được hài lòng với sự hạnh phúc của họ. Vì thế, Từ Ái thì thuần khiết và cao quý và cũng được gọi là Phạm Trú (Cõi Giới Siêu Thoát). Điều đó có nghĩa là, việc phát triển lòng thương yêu như vậy là đang sống trong một trạng thái của tâm thức siêu thoát. Không chỉ có Từ Ái, mà còn có lòng Bi Mẫn (sự đồng tình), sự Tùy Hỷ (lạc sự vị tha) và sự Hành Xả (sự trấn tịnh) cũng là các Pháp Phạm Trú. 

Như vậy Phạm Trú bao gồm tất cả những bốn đức tính này. Chúng cũng còn được biết đến là Tứ Phạm Hạnh (Những Sự Thực Hành Cao Quý). (Một danh xưng khác nữa của Phạm HạnhVô Lượng, bất khả hạn định, vì chúng là những phẩm chất tinh thần đã được phát triển và đã được trải rộng hướng đến tất cả chúng hữu tình mà số lượng là vô hạn.)

 Cần lưu ý một cách cẩn thận rằng sự phát triển tấm lòng thân ái không phải là sự phát triển của Hỷ Ái Tính DụcHỷ Ái Thân Nhân bất tịnh, mà đó là Hỷ Ái Nhân Từ thuần khiết và cao quý. Cách thức để phát triển Từ Ái sẽ được trình bày sau này. 

-----------------------------------------------

Các vị giáo thọ cổ đức, tức là các vị Chú Giải xưa dịch Từ Ái là Từ Ái Ba La Mật là lòng thương yêu có 3 thể loại là Hỷ Ái Tính Dục, Hỷ Ái Thân Nhân, Hỷ Ái Nhân Từ.

Hỷ Ái Tính Dục là lòng thương yêu giữa người nam và người nữ.

Hỷ Ái Thân Nhân là lòng thương yêu giữa cha mẹ và con cái, anh em trai chị em gái.

Hỷ Ái Nhân Từ là thương cho chúng sinh.

Thì Metta Parami tức là Từ Ái Ba La Mật này là đi từ Hỷ Ái Nhân Từ không có 2 Hỷ Ái kia, không có riêng tư, không có nam nữ, không có anh em gia đình thân thuộc, đó là Hỷ Ái trong sạch nên được gọi là Phạm Trú Brahma Vihāra một trong Tứ Vô Lượng Tâm

Do đó, khi mình đi cái này thì có 2 pháp nghịch, Từ Ái có pháp nghịch là Dosa  Sân hận hai cái đối nghịch nhau. 

Từ Ái có pháp nghịch trực tiếp là Sân Hận, nếu không có sân hận thì Vô Sân. 

Còn gián tiếp với Từ Ái là Từ Ái cá nhân, Từ Ái Vị Kỷ, giống như mẹ thương con thì không có Từ Ái, đó là tình thương vị kỷ không có trạng thái trong sạch, nó có sự dính mắc ái luyến thì là Từ Ái vô sân,

Do đó, Từ Ái  có 2 pháp nghịch là Sân và Vị Kỷ đối nghịch với tâm Từ Ái

Trong phần rải Tâm Từ của ngài Mingun Sư dịch lại:

1. Averā hontu - Bất Oan Trái (mong cho họ được thoát khỏi sự thù oán),

2. Abyāpajjā hontu - Bất Cừu Hận (mong cho họ được thoát khỏi sự hận thù).

3. Anīghā hontu - Bất Khốn Khổ (mong cho họ được thoát khỏi điều bất hạnh) và

4. Sukhī attānaṃ pariharantu - Tự Cẩn Phòng Đắc An (mong cho họ có khả năng để tự cẩn phòng an vui)

Ngài Tịnh Sự dịch là 

Averā hontu - Đừng oan trái lẫn nhau

Abyāpajjā hontu  - Tâm không khổ não

Anīghā hontu - Mong cho không bị khổ

Khi mình nói Hành Xả Ba La Mật thì mình phải biết nắm cái Kammassaka Nghiệp Chủ của chúng sinh. 

Thiền sinh hỏi: Tức là trước tiên mình có Hành Xả trước rồi mới nhìn được nghiệp chủ của chúng sinh đó ?

- Phải

Thiền sinh: Chứ còn bây giờ mình chưa có Hành Xả thì mình nhìn theo ái luyến tư riêng của mình thì mình không nhìn ra cái nghiệp chủ của chúng sinh được ?

- Phải.

Thiền sinh: Chứ không phải là mình, thí dụ bây giờ mình coi cách người ta sinh hoạt, coi cách sống của người ta, những người họ giao tiếp, môi trường người ta sống, thân, ngữ, ý của họ ra sao, thì cái đó cũng cho mình biết được cái số hay cái nghiệp của người ta.

- Đúng rồi. Nhưng  khi nào mình nhìn thấy hết những vấn đề đó, nếu họ ở nhà họ, còn mình ở đây? Rất khó.

Làm sao mình biết được Kammassaka Nghiệp Chủ của chúng sinh ?

Đức Phật Ngài thương học trò của Ngài, người xuất gia hay tại gia Ngài đều lo hết, ông Sư nào trước khi vô mùa an cư Vassa thì đến đảnh lễ Đức Phật xin đi tới những thành phố, làng mạc, rừng, thì Ngài cho, và buổi tối Ngài dùng Phật nhãn quan sát những người học trò đó, nếu thấy ông Sư nào tâm đang hiện bày cái gì Ngài đọc được và Ngài nhắc, Ngài dùng Phật âm của Ngài nhắc: "đừng làm cái đó, buông, giải thoát." Thì ông Sư đó nhiếp tâm vô và đạt kết quả liền.

Còn mình đây không vô một tầng số nào hết.

Nên quí Phật tử phải thấy không có con đường nào khác là con đường Paṭṭhāṇa là Pháp Hành, Paṭṭhāṇa là pháp thoại của Đức Phật Ngài nói còn những Chú Giải là do các Ngài học tới đó rồi viết ra mà thôi. Khi học Paṭṭhāṇa mà xuyên xuốt, duyên nó đan rồi những câu mẫu đề này với mẫu đề này đan với nhau mình mới thấy nó là pháp Hành cùng một level, cùng trình độ, cùng một suy nghĩ mới ăn khớp được thì bắt đầu Pháp hiện bày rõ.

Do đó, mình đừng chủ quan và cũng không có nên tư kiến. Mà cái đó không khéo bị rớt vô kiết sử, mà kiết sử nó qua tới lậu hoặc, nó chìm luôn trong đó luôn; dục lậu, kiến lậu, hữu lậu.

Các quí Phật tử phải cố gắng, tại vì "Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan bất phục" một khi mất thân người khó trở lại làm người, 10,000 kiếp không trở lại làm người. 

Còn Phật Pháp càng khó nữa, một khi rời khỏi Phật Pháp, bao nhiêu kiết sử, bao nhiêu lậu hoặc bao vây mình. 

Nên mới có câu: "Công trồng là công bỏ, công làm cỏ là công ăn". Người ta trồng cây xuống người ta nói có trái ăn, không phải, mà phải làm cỏ sạch cây mới lớn và có trái ăn. Mà mình chủ quan là mình trồng cây rồi giờ chờ có trái hái ăn, nhưng không làm có sao có trái mà hái ăn.

Mình biết mình có Nghiệp Chủ của mình và biết cách tu của mình thì gặp ông Thầy hay là người hiền trí họ nói tới mình cảm nhận được, còn không thì trợt quớt.

Trong 6 vị: mặn, ngọt, chua, cay, chát, đắng, mình phải biết mình thích vị nào. Thí dụ cái vị thôi, thì quí Phật tử sẽ thấy người thích ăn ngọt, người thích ăn mặn, người thích ăn cay. Cái đó là Kammassaka Nghiệp Chủ của mình. Kammassaka không có gì là xấu hết, nhưng mình biết được là tốt.

Nếu như bạn thích ăn mặn tánh của bạn là gì? Nếu bạn thích ăn ngọt tánh của bạn là gì? Người ta bắt đầu nhắc hay khuyên mình.

Mà từ đó mình cũng biết, mình thấy người thân của mình thích ăn gì mình biết  nghiệp chủ của họ. 

Cái đó chỉ nói về vị thôi, còn qua Pháp Hành cũng vậy, 4 oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi, mình thích cái nào thì Kammassaka ở đó. Có người chỉ chịu tọa thiền hành chứ không đi thiền hành, có người chỉ ngọa hành không thích tọa hành.

Bây giờ mình muốn tu thì lời khuyên, các vị nào cũng nói hết, Ngài Pandita cũng vậy, Ngài Janaka cũng vậy, Jantila cũng vậy, tất cả, ngay cả Đức Phật muốn tu phá kiết sử đó bằng pháp nghịch. Thí dụ như mình thích tọa hành thì mình đi Thiền hành, mình thích ngọa hành thì mình đi tọa hành, mình phá cái đó mình chịu nổi mình đánh bể cái Kammassaka, cái này nó bể, qua con đường tu.

Tu là sửa, sửa cái nghiệp mình, bằng cách nào?

Không bằng tư kiến được.  Đọc qua phần Paṭṭhāṇa pháp nghịch duyên nó sẽ chống lại pháp thuận duyên, bởi duyên này pháp duyên này. Nhân duyên nó có bắt đầu phá ngược lại, mình mới học có cơ sở và nó có công thức hay là có cấu trúc tu mới được, chứ không phải mình nói theo tư kiến cái suy nghĩ riêng tư của mình.

 Mình phải biết Kammassaka của mình, qua khẩu vị và qua hành động của mình, qua sở hành của mình cũng biết nữa.

Lấy pháp nghịch chống lại pháp thuận, đó là tu bằng mãnh lực duyên, chứ không bằng mãnh lực nào hết. 

Nhân duyên là Tham, Sân, Si, thì phi nhân duyên là Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, đi ngược lại thì là đường tu mình.

Pháp Đức Phật dạy mình rõ như vậy mà mình không học mình cứ theo ý kiến mình nói.

Mình không ý thức rõ là mình bị tổn thất, là thất bại, tại vì thời gian đi qua, tuổi thọ mình mất, thời gian mình mất là sức khỏe mình mất là mình không có cơ hội mình tu, quí Phật tử phải cẩn thận điều đó.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh Đức Phật Ngài nói: "Ngày đêm luôn trôi qua, thời gian luôn di động, tuổi trẻ bỏ lại chúng ta, ta tiến dần sự chết." 

Mà bây giờ không lo tu tập thì thời gian mình không chặn lại được, cái tuổi thọ mình đâu có chặn lại được, cái sức khỏe đâu có đứng lại được, nó đi tới, mình quay trở lại thì hết hơi rồi, mệt rồi không đủ khả năng vận hành và mất hết.

Giống như một người già vô trong bệnh viện trở về nhà thấy cảnh này cảnh kia họ nói chắc ngoài kia đem về hay có người âm đi theo mình, nhưng mà bây giờ nếu như người có tu vô bệnh viện trở về nhà họ không có mấy cái đó vì họ có Pháp của họ. họ có tu của họ, họ đi con đường của họ làm sao có cửa vô theo được. Nhìn vô biết liền, vậy thì mình không phải lăn vô bánh xe này, bánh xe này là không đúng, mình biết rồi, mình tránh đi qua đường kia.

 Chỉ có vậy thôi, mà mấy cô nói Sư nghe Sư hiểu. Nhưng mà mấy cô ở nhà mà bàn rồi gọi nhau nói vậy vậy đó bắt đầu mấy cô lo. Mấy cô vuột hết. 

Mình có phước là mình có Paṭṭhāṇa 

Đức Phật, Mẹ của Ngài mang cùng A Tăng Kỳ với Ngài, từ 1 A Tăng Kỳ trở lên mới làm người mẹ của kiếp chót của Bồ Tát Chánh Đẳng Giác, thì Ngài hơn nữa Ngài phải trao tặng cúng dường hay là cống hiến người Mẹ của Ngài cái gì mà thù thắng vi diệu nhất là Abhidhamma Paṭṭhāṇa. 

Paṭṭhāṇa Đức Phật Ngài nghiệm về Duyên Sinh Duyên Hệ ở tại đó 1 tuần lễ, tuần lễ thứ tư Ngài ở đó. Vi Diệu Pháp phải 7 bộ, Paṭṭhāṇa chỉ có một và nằm trong 7 bộ đó.

1. Bộ Pháp Tụ (Dhammasangani)

2. Bộ Phân Tích (Vibhanga)

3. Bộ Chất Ngữ (Dhatukatha)

4. Bộ Nhân Chế Định (Puggalapannatti)

5. Bộ Ngữ Tông (Kathavatthu)

6. Bộ Song Đối (Yamaka)

7. Bộ Vị Trí (Patthana)

27.23 Mà chỉ có Paṭṭhāṇa Ngài mới Nhất Thiết Chủng Trí và phún hào quan 6 màu thì Paṭṭhāṇa là thù thắng và Ngài đem cái thù thắng đó Ngài cúng dường cho Mẹ của Ngài, thi cái đó pháp gọi là tuyệt kỷ, không khác hơn, mà kinh Nikaya là Ngài nói cho chúng sinh, tùy căn cơ Ngài nói, còn Paṭṭhāṇa là pháp tinh hoa tuyệt đối, nên quí Phật tử phải nắm cái đó, đó là Pháp Hành, mà trong Nhị Đề.

Triền Cái có 6 pháp: Triền cái, pháp triền cái, cảnh triền cái, tương ưng triền cái, tương ưng và không tương ưng triền cái, 

Lậu hoặc, tương ưng lậu hoặc, bất tương ưng lậu hoặc, cảnh lậu hoặc, 6 pháp.

Trong 100 Nhị Đề đó có đủ Pháp Hành để tu, đầu tiên là pháp nhân, nhân này là nguyên nhân, là tác nhân, cái này tạo tác ra. Thì mới thấy Tham, Sân, Si, rồi Vô Tham Vô Sân, rồi Vô Tham Vô Si, rồi Tham Si, Tham Sân, Sân Si, Sân Tham, Si Tham, Si Sân, quay vòng tròn như vậy. 

Cái quen của mình là thuận duyên thì phải đi pháp nghịch lại thì mới là tu. Còn nếu đời mình là nghịch duyên thì phải đi pháp  thuận lại thì mới gọi là tu để sửa cái nghiệp của mình.

Thí dụ:

Nếu sinh ra tài sản, của cải, vật chất đầy đủ phong phú sung sướng, đó là thuận duyên của mình, thì cách tu của mình là phải nghịch lại, phải buông xả hay xả thí, chứ còn đeo níu dính mắc thì trôi lăn.

Nếu sinh ra mình nghèo khổ thiếu thốn, mình phải đi pháp thuận lại, mình phải tu tập trau dồi để ra khỏi pháp nghịch này, chứ không có suôi tay, và không có ai tạo cho mình cái thuận, mà chính mình làm ra.

Trong 10 đạo quân, Ngài Pandita nói trong 10 đạo quân cái đói và cái khát là một đạo quân, mà khi nó They Strike us.

Ngài dùng từ ngữ "They Strike us - phát sinh"

hunger (đói) and thirst (khát) they strike us = cái đói và cái khát đột nhiên phát sinh trong khi đang hành thiền, nó chi phối tâm của mình mất đi sự tập trung, mất sự chú niệm của mình.

Nó phát sinh lên cái cảm thọ này cảm giác này, là cái đói cái khát nó đang phát sinh lên làm cho mình mất đi sự tập trung của mình, mất đi chú niệm của mình, mất đi cái mình đang tu tập.

Những cái đó khi đang tu tập thì cái đói, cái khát là Kiết Sử hay là Pháp. 

Cái đói cái khát nó phát sinh lên mà quí Phật tử nhận nó là cái Kiết Sử của mình thì mình phải đi cái Pháp Diệt cái kiết sử này.

Còn nếu như nó là Pháp thì mình phải đi cái Pháp với nó. Khi mà nó tới cái cảm xúc (feeling) này, cái đói, cái khát nó thuộc 2 loại là physical vật chất và mental tinh thần. Thì 2 cái object này nó sẽ ở đâu ?

                     Physical vật chất                  Pháp <----- là kiết sử

Đói và khát                               object      ta, tôi

                    Mental tinh thần 


Nếu đói và khát thiệt, do mình không ăn không uống, mình làm việc nhiều quá một thời gian dài, thí dụ, từ sáng tới trưa mình không ăn uống, từ trưa đến chiều tối mình hành thiền không ăn uống, thì cái đó là physical hay là mental?

Còn mình ăn no đầy đủ, uống nước đầy đủ, mình vẫn cảm thấy đói và khát, thì cái đó thuộc mental.

Mấy cái này nếu như mình không có trí mình lọc không được rồi mình đi theo thói quen của mình, mình sẽ có kết hoạch tính toán với nó.

Nếu nó là physical thiệt, là đói thiệt, là khát thiệt thì mình lấy pháp gì tu ?

Nếu nó thiệt sự không phải physical mà là mental, ăn rồi, uống rồi, có nước rồi, có vật thực rồi, đủ hết rồi, mà vẫn cảm thấy đói và khát thì cái đó thuộc về mental mình có pháp tu.

Ngài Pandita nói, với cái tâm của bạn lúc bấy giờ đang có là tâm tham (a greedy mind). Còn mình nhìn được tâm này rồi thì mình có pháp tu của tâm này.

Nếu đói khát này là Tham thì từ <----- căn nhân -- nhân duyên nó đang lên. Mình nói cái này là cái Pháp 

Còn cái này là kiết sử

để hình 045 - 38.47 


Nhưng mình có tâm tham lên thì mình có kiết sử của mình, nhưng nếu mình nhìn thấy nó như là một pháp thôi thì không có "tôi" "ta", thì quí Phật tử nhìn vô đó là một Mãnh Lực Duyên. 

Mà Mãnh Lực Duyên nó có bè có nhóm, có giống, có thời, có môi trường, có mãnh lực, xúc sinh, bảo hộ. Mình nhìn vô cái đó bạt khởi căn thì mới ra được pháp này, chứ không có "tôi" "ta" thì mới ra, mới gọi là tu. Chứ mình đánh không đúng như ông thầy thuốc bỏ thuốc không đúng thì không chữa được bệnh. Quí Phật tử phải trung thực.

Nên Ngài Pandita nói: lẽ tất nhiên bạn phải là người trung thực chứ không ai cho bạn sự trung thực này. 

Anh phải thành thực, người ta tạo điều kiện, những nhu yếu phẩm nào anh cần, trường thiền hay thiền viện đáp ứng, nhưng anh phải trung thực để anh tu anh sửa cho anh. Cái đó chỉ là phương tiện người ta tạo cho mình, còn ở trong mình phải tu cái chân chánh, sự trung thực.

Do đó, khi mình biết cái đói và khát này chỉ là cái tham nó trở thành một cái pháp rồi với Mãnh Lực Duyên này nó tới rồi thì mình nhìn vô nó có một Duyên Hệ.

Duyên Hệ có mãnh lực, thời gian, giống.

Thời có 2: 

1. Thời chuyển khởi, 

2. Thời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Ở trong quá khứ, hiện tại, vị lai nó có chuyển khởi, từ quá khứ nó có chuyển khởi qua hiện tại, từ hiện tại nó chuyển khởi qua vị lai, nó luôn luôn di chuyển, nó thay đổi thay đổi.

Giờ Sư nói: Đói và khát theo thời thì thuộc vào thời nào.

Như vậy thì khi đói khát khởi sinh lên, cái thời mà cô đang thấy, cô nghiệm, cô nghĩ ra được, cô biết được nó là thời đang hiện tại.

Nếu nói thời gian thì nó là chuyển khởi, mình không kể quá khứ, hiện tại, vị lai, nó vẫn chuyển chuyển hoài, mà nó vẫn hiện hữu hoài, nó tồn tại hoài, nó không mất, thì pháp Đói và Khát là Pháp Chuyển Khởi theo thời, nó đi theo trong mình, nó không có mất.

Như vậy, khi cái đói mình có thể gián đoạn được, nó không có đủ, nghĩa là nó chỉ có pháp xúc sinh thôi, nó lên mình thấy còn nó không có bảo hộ, nó không kéo dài, nó không giữ, mình muốn nó có thì mình nghĩ nó có, còn không muốn tới nó thì mình nghĩ tới công việc mình, thì mình nghĩ tới cái kia, nó không kéo dài, nó không hiện hữu trong mình.

Khi đói khát (1)  ----> mình niệm đói khát

Công việc làm ----> gián đoạn ----> đói khát (3)

Khi hết việc -----> đói khát (2)  ----> trở lại ----> niệm

Khi đói khát phát sinh lên mình có cái niệm đói khát, nhưng vì công việc làm mình không ngưng được, do đó mình niệm nhưng mình gián đoạn cái niệm đó rồi mình nghĩ tới công việc làm, mình không nghĩ tới đói khát, mình phải buông nó.

Khi mình viết xuống thì mình đi tuần tự cái pháp nó diễn tiến tâm thức mình đi.

Khi đói khát đến mình ghi niệm có 2 chiều hướng là:

-  nghĩ tới thọ thực được ăn được uống

- hay nghĩ tới bận việc

Hai cái này nó dằn co trong tư tưởng của mình ngay lúc đó. Đói khát đang lên thì mình niệm đói khát mình biết đói khát đang lên, nhưng mình có 2 tư tưởng xen ra liền, một là nghỉ tới đi tìm cái gì để ăn uống xong trở lại làm, 2 là mình bận làm việc không ngưng để đi ăn uống được, mình nghĩ bận việc thì mình làm công việc của mình cho xong thì mình gián đoạn nghĩ tới đói khát và cái đói khát bị gián đoạn. Rồi sau khi hết việc làm rồi thì cái đói khát trở lại thì mình niệm nó.

 Thì cái đói khát (1) và cái đói khát (2) nó thuộc physical. Còn đói khát (3) thì thuộc mental vì mình áp chế nó được.

Bằng pháp tu nào ?

1. Nếu mình bỏ đi ăn thì sợ người chủ đuổi.

2. Nếu mình bỏ đi ăn thì công việc bê trễ.

3. Nếu mình chờ người giao thức ăn đến. (ta, tôi)

Giai đoạn 1, mình niệm mà mình không chiều theo ý nó thì mình mới đi tiếp qua giai đoạn 2 lo việc làm thì pháp tu nào mà cô niệm cái đó xong không cho nó chi phối mình.

Như vậy trong mấy tâm như: Tịnh nhẫn, tâm nhẫn, hạnh nhẫn, pháp nhẫn thì sài cái nào ? 

- Nếu nói sài tâm nhẫn là mình sài kiết sử

- Nếu sài hạnh nhẫn là mình sài kiết sử

- Hay mình sài pháp nhẫn, mình sài với cái pháp, mình ra liền.

Những cái này; Tịnh nhẫn, tâm nhẫn, hạnh nhẫn, pháp nhẫn  là Kammassaka là Nghiệp Chủ của mình, pháp này là của mình. Sài cái nào mình biết liền.

Nếu cái này xảy ra bạn sài cái nào ? 

- Tôi sài tâm nhẫn, tôi lấy cái tâm tôi chịu đựng, khắc phục pháp này đang chi phối tôi.

Đó là mình biết được Kammassaka là Nghiệp Chủ của người đó.

Cái này là thói quen của tôi, tôi sài hạnh nhẫn, nết hạnh của tôi, tôi chịu đựng nó được. Cái này là hạnh nhẫn

Còn tịnh nhẫn là sao? Tôi phải giữ tâm tôi không bị giao động. Là tịnh nhẫn.

Còn nếu cái này là pháp nhẫn. Cái này là bắt buột rồi, không có làm khác hơn. Không có cái hạnh, không có tâm gì hết đó, mà cái này ở trong cái thể minh chịu đựng, là pháp nhẫn.

Thì đi theo cái nào nó ra Kammassaka là Nghiệp Chủ 

Và người chủ, người công việc, và người đem thức ăn chưa tới, nhìn vô họ biết được người đang đói khát sống với pháp nào.

Người giao thức ăn tới trễ họ nói "không sao bà đó hạnh nhẫn lắm", "không sao, bà đó có tâm nhẫn lắm, mình tới trễ một phút không sao đâu, bà không la, không giận, không tức đâu."

Như vậy là mình nhìn ra được nghiệp chủ Kammassaka rồi.

Vậy cái tu của mình là cái nào ?

Thiền sinh: Trong trường hợp lấy đói khát làm đối tượng, tại sao mình không dùng pháp Danh và Sắc rồi mình đi xuống pháp mình coi, nếu mà trường hợp đói khát này trội lên nhiều thì lúc đó mình biết là triền cái của mình là cái gì, khi mình biết triền cái của nó là cái gì thì mình dùng cái pháp đối trị nó.

HT trả lời: Đói khát chỉ là Danh Sắc thôi, Sắc thân đang đói khát, Danh biết, rồi mình tu cái gì. Sinh Diệt là một mãnh lực, và nó đang diễn tiến là thời gian chuyển khởi.

Thiền sinh: khi mình biết đây là một pháp do Danh và Sắc, Danh biết cái đói này là của Sắc, khi đó thì mình biết đây là cái pháp Sinh Diệt, khi pháp Sinh Diệt này mình phải có một chánh niệm mình phải có tinh tấn vào cái chánh niệm tỉnh giác thì khi đó mình phải chánh niệm vào đề mục nào mà mình đang làm hiện tại để mà mình áp chế nó.

HT trả lời: Không, vậy là mình bị lạc đề tài. Tại vì đói khát này đang là physical, còn cái cô đang nói là mental. Cái này là đang đói, đang khát thiệt sự, còn nếu là mental mình chỉ dùng tâm mình quán thôi, mà thực ra cái physical của mình đang đói thiệt khát thiệt là nó đánh thôi thúc. Mấy cô khoan hỏi vấn đề Niệm Sinh Diệt. 

Có cái áp đảo cái đói khát physical bởi một cảnh trưởng của mental của mình mạnh hơn thì áp đảo cái thân sắc này 

Nếu cô đi Nhẫn Nại Ba La Mật thì không có nghiệp chủ Kammassaka . Cái hạnh nhẫn Ba La Mật là mình chỉ đối phó với pháp thôi, nhưng thực ra  Hành Xả Ba La Mật nó mới ra nghiệp chủ chứ không phải nhẫn nại Ba La Mật. Phải đi Hành Xả Ba La Mật mới không có nghiệp chủ Kammassaka.

Trong 4 pháp tâm tịnh, tâm nhẫn, hạnh nhẫn, pháp nhẫn đều là nghiệp chủ Kammassaka.

Phải đi Hành Xả Ba La Mật thì không tạo nghiệp chủ.

Nếu đi nhẫn nại Ba La Mật là mình đi kèm với nó thôi, chứ không phải là mình tu, mà mình đi Hành Xả Ba La Mật mình không để ý tới nó mình đi Hành Xả Ba La Mật mình đi rốt ráo luôn. Như vậy thì ngay cả khi cô niệm về Vipassana, còn cái này là mình đi về Ba La Mật, 2 cái khác nhau, mấy cô phải nhớ.

Khi quí Phật tử đi Vipassana là mình đi Danh và Sắc đi qua pháp Sinh và Diệt dưới mãnh lực liên tục sinh hay là thời gian chuyển khởi, nó hiện bày như vậy. Nhưng, nếu quí Phật tử đi cái này thì tới rốt ráo là cái gì, cho dù nó là physical, cho dù nó là mental thì sẽ thấy là Sinh Diệt.

Thì physical (vật chất) trong Sinh nó có Diệt. Trong mental (tinh thần) này nó có Sinh, nó có Diệt. Cái nào thắng thế, cái nào áp đảo, cái nào chủ lực, cái nào chủ yếu, thì mình phải tìm ra.

Bây giờ nói Danh hay Sắc. 

Bỏ Sắc còn Danh thôi, bỏ Danh còn Diệt thôi, Diệt chỉ còn Pháp thực tướng

Physical, mental, Sinh Diệt chỉ là Danh Sắc, đi tới nữa là Danh, đi tới nữa là Diệt, đi tới nữa chỉ có Pháp thực tính hay thực tướng.

Vậy thì đi đường Vipassanay hay đường Hành Xả Ba La Mật ?

Truyện kiếm hiệp của Kim Dung, quyển đầu tiên là Võ Long Ngũ Bá có 5 người là Bắc Cái, Nam Đế, Tây Độc, Đông Tà, và Trung Thần Thông, được viết theo sơ đồ dưới đây: 

                                

                                     Bắc Cái, 


Tây Độc              Trung Thần Thông                 Đông Tà

                       

                                     Nam Đế   

                                       

- Bắc Cái là Hồng Thất Công, ông có 2 chiêu là đả cẩu bổng pháp, giáng long thập bát chưởng. Đả cẩu bổng là cây gậy đánh chó,  là Thân tùy quán

- Đông Tà có nhiều quái chiêu, ông này là Đào Hoa đảo. là Thọ tùy quán

- Nam Đế có Nhất Dương Chỉ, là Tâm tùy quán, là Nhất tâm, là Nhất thống

- Tây Độc có Hàm Mô Công, là Pháp triền cái.

- Trung Thần Thông là Vương Trùng Dương có Cửu Âm chân kinh và Ngũ Dương Chân Kinh. Là Niệm và Tỉnh Giác

Võ Lâm Ngũ Bá lấy Tứ Niệm Xứ mà hành đối với:

-  Thân Niệm Xứ, Bắc Cái là Cái Bang, thân mình là Cái Bang bỏ bao nhiêu vô cũng không đủ, từ một túi tới tám túi, có thập bát giới, 6 căn, 6 trần, 6 thức, nằm ở trong thập bát chưởng, tung chưởng nào là chết đó.

- Đông Tà là thọ hỉ, thọ lạc, thọ khổ, nó thay đổi, nó quái dị lắm, nó muốn ra chiêu gì thì ra chiêu đó.

-  Nam Đế thì chỉ có Nhất Tâm, Nhất Dương Chỉ. Thì là Tâm Tùy Quán.

- Tây Độc hàm mô công là Pháp Ngũ Thủ Uẩn và Pháp Triền Cái là độc hại.

Như vậy thì khi mình tới Thọ Tùy Quán thì mình thấy nó tà lắm, nó quái dị lắm. Nói tới Thân mình nó có thập bát chưởng, nó có thập bát giới, 6 căn, 6 trần, 6 thức, nó đánh mình loạn xà ngầu hết.

Tây Độc là Pháp Ngũ Thủ Uẩn, Ngũ Triền Cái độc hại vô cùng, nó giết mình biết bao nhiêu lần, sinh diệt luân hồi tử sinh liên tục.

Còn Nhất Dương Chỉ chỉ có một tâm thôi, đừng sài nhiều tâm, chỉ một tâm thôi, là Nhất Thống.

Và Trung Thần Thông, muốn có thì phải có Niệm và Tỉnh Giác, Cửu Âm Chân Kinh, Ngũ Dương Chân Kinh.

Ngủ Thủ Uẩn và Ngũ Triền Cái nó độc hại lắm, nó đánh cho mình chết luôn, mà mình không có Chánh Niệm và Tỉnh Giác ở giữa trung tâm này thì Bắc cũng chết, Đông cũng chết, Tây cũng chết, Nam cũng chết nữa. Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Sư đọc quyển  sách nào cũng vậy, Sư đưa Pháp vô luận ra mình thấy được liền.

Cũng như, trong truyện Tây Du Ký có 4 cái ngộ: Ngộ Tịnh, Ngộ Không, Ngộ Năng, Ngộ Giới, là pháp tâm tịnh, tâm nhẫn, hạnh nhẫn, pháp nhẫn. Rốt cuộc chỉ Ngộ thôi chứ không phải là chấp giữ. Khi mình chấp giữ thì mình chưa có Ngộ, nếu nói theo Tây Du Ký, đường đi về Tây Du là Tây Phương Cực Lạc. Nếu mà không có Ngộ Tịnh, Ngộ Không, Ngộ Năng, Ngộ giới, thì không đi tới nơi được, phải biết Tây Du Ký.

Thì thập bát chưởng  thập bát giới, 6 căn, 6 trần, 6 thức, tại sao mà Bắc Cái lại là bát giới bát chưởng, đúng ngay bon liền. 

Nhiều người bình luận về chuyện của Kim Dung, Sư nói không, phải đưa Pháp của Đức Phật vô mới thấy rõ.

Nên những cái này là trong Pháp hết.

Như vậy thì anh đi tịnh nhẫn, anh đi tâm nhẫn, anh đi hạnh nhẫn, anh đi pháp nhẫn thì anh đang ngộ không hay là ngộ năng, anh đang ngộ giới hay ngộ tịnh, đi cái nào, mà phải đi cái Ngộ, chứ không phải 4 pháp kia (Không, Năng, Giới, Tịnh)

Ở giữa là trung tâm phải có Chánh Niệm và Tỉnh Giác để mà nhìn thấy được pháp


                                 (thân tùy quán)

                                     Bắc Cái, 


Tây Độc              Trung Thần Thông                 Đông Tà

(pháp triền cái)      (Niệm và tỉnh giác)              (thọ tùy quán)

                       

                                     Nam Đế   

                                     (nhất tâm)

- Bắc Cái, Hồng Thất Công, ông có 2 chiêu là đả cẩu bổng pháp, giáng long thập bát chưởng. Đả cẩu bổng là cây gậy đánh chó,  là thân tùy quán

- Đông Tà có nhiều quái chiêu, ông này là Đào Hoa đảo. là thọ tùy quán

- Nam Đế có Nhất Dương Chỉ, là tâm tùy quán, là nhất tâm, là nhất thống

- Tây Độc có Hàm Mô Công, là Pháp triền cái.

- Trung Thần Thông là Vương Trùng Dương có Cửu Âm chân kinh và Ngũ Dương Chân Kinh. Là Niệm và Tỉnh Giác

Đối với Thân chỉ là Thập Bát Giới mà thôi, 6 căn, 6 trần, 6 thức.

Những cái đó là mình thấy mình có Pháp.

Như vậy thì quí Phật tử tập đi, biết nhìn pháp, biết nhìn chi pháp, biết nhìn duyên rồi mình bỏ vô tu tập.

Thân Tùy Quán, Thọ Tùy Quán, Tâm Tùy Quán, Pháp Tùy Quán: Ngũ Thủ Uẩn và Ngũ Triền Cái. Giờ mình bỏ chi pháp vô Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nhưng, nếu đưa vô Phật Pháp thì nói là Tùy Quán thôi chứ không nói là Niệm Xứ được, cái này gọi là Pháp Hành, còn Pháp Học là Thân, Thọ, Niệm Xứ là Pháp Học. 

Thọ Niệm Xứ là Pháp Học, 

Thọ Tùy Quán là Pháp Hành.

Thân Niệm Xứ là Pháp Học.

Thân Tùy Quán là Pháp Hành.

Do đó, hành giả phài đang Tùy Quán với Niệm Xứ, là hành giả đang Pháp Hành với Pháp Học mình đang có.

Pháp Học (Satipaṭṭhāna)                   Pháp Hành (Vipassana)

Thân Niệm Xứ                                      Thân Tùy Quán 

Thọ Niệm Xứ                                        Thọ Tùy Quán 

Tâm Niệm Xứ                                        Tâm Tùy Quán 

Pháp Niệm Xứ                                       Pháp Tùy Quán


Satipaṭṭhāna = Tứ Niệm Xứ (Pháp Học)

Vipassana = Thiền Minh Sát (Pháp Hành)

Mình phải phân biệt được cái nào là Pháp Học cái nào là Pháp Hành. Hai lãnh vực khác nhau

Bốn pháp Tứ Niệm Xứ là Satipaṭṭhāna 

Bốn pháp Tùy Quán gọi là Vipassana Thiền Minh Sát 

Không có nhầm lẫn.

Sư trở lại:

Khi quí Phật tử đi Vipassana, Danh Sắc, Sinh Diệt, thì đúng là quí Phật tử đang đi Pháp Hành từ Tùy Quán này đến Tùy Quán kia, từ Đói Khát, từ Thân Tùy Quán đi đến Thọ Tùy Quán, rồi đi tới Tâm Tùy Quán, rồi đi tới Pháp Tùy Quán và mình ngộ được Thực Tính, Thực Tướng, Giải Thoát.

Nhưng trên con đường đi Tùy Quán này, từ Thân Tùy Quán qua Thọ Tùy Quán, Tâm Tùy Quán, Pháp Tùy Quán mình hành Ba La Mật, lấy con ngựa Ba La Mật mà đi Vipassana, không trở lại.

Ý nghĩa của Rằm Tháng Giêng là gì ?

Mārapūjā là cúng dường Ác Ma

pūjā = cúng dường

Māra = Ma Vương

Lễ Rằm Tháng Giêng là Mārapūjā, 

1) Mārapūjā là cúng dường Ác Ma, 3 tháng nữa Ngài viên tịch.

Cái tính lễ mà các quốc giáo ngày nay trên thế giới Cam Bốt, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, họ sài một tử ngữ là Mārapūjā, nhưng trong kinh thì ngày Rằm Tháng Giêng có thêm nghĩa nữa là.

2) Ovāda Patimokkha là Giáo Giới Biệt Biệt Giải Thoát Giới.

3) Ehi-bhikkhu Thiện Lai Tỳ Khưu 1,250 vị Alahan không mời, không ngủ, không hẹn, tự tới mà đắc quả Alahan.

Do đó, ý nghĩa của ngày Rằm Tháng Giêng:

1)  chính lễ là Mārapūjā 3 tháng nữa là Đức Phật Ngài viên tịch Níp-bàn vào ngày Rằm tháng Tư là lễ Vesakha Pūjā là lễ Tam Hợp; Đản Sinh, Thành Đạo, Níp-bàn, 

2) thứ hai là Ovāda Patimokkha ngày Giáo Giới Biệt Biệt Giải Thoát Giới cho 1,250 vị Tỳ Khưu này vào ngày Rằm tháng Giêng, 

3) và ngày Rằm tháng Giêng đó là có 1,250 thanh niên không hẹn không ngủ mà tự tới và Đức Phật Ngài ngoắc vô họ trở thành Alahan tất cả. Đó là ý nghĩa của ngày Rằm tháng Giêng là như vậy.

Trong Pháp Học có 3. Như vậy thì cái này thuộc về Pháp Học.

Vậy Pháp Hành của cái này là gì ?

 Pháp Hành là Giới, Định, Tuệ.

Ngày Rằm Tháng Giêng hàng cư sĩ cũng như hàng xuất gia, tại gia và xuất gia đều tưởng niệm tới ngày Rằm Tháng Giêng với 3 ý nghĩa này thì họ đi vào con đường Pháp Hành là Giới, Định, Tuệ. Lấy Ovāda Patimokkha làm Giới, lấy Ehi-bhikkhu làm Định, lấy Mārapūjā làm tuệ.

Giới: mình có Giới Ngăn, Giới Nguyện, Giới Sát Trừ

Định: thì mình có Chỉ và Quán

Tuệ: có Văn, Tư, Tu

Khi mình được nghe Ovāda Patimokkha là Giới thì bắt đầu mình phải hành với một người xuất gia hay là người tại gia là vị Tỳ Khưu họ hành Chỉ và Quán, tại vì mình biết Mārapūjā một trong 5 Pháp Mara đến với chúng sinh, mà điều cuối cùng của Mara là Tử Thần Chết (Maccumàra: Tử thần ma), mình nhìn thấy nó mà lo tu, còn 3 tháng nữa là Ngài viên tịch, Ngài phải rốt ráo trong 3 tháng này với 3 pháp Giới, Định, Tuệ, đó là Pháp Hành.

(5 Pháp Mara còn gọi là Ngũ Ma gồm: 1- Devaputtamàra: Ác Ma Thiên, 2- Kilesamàra: Phiền não ma, 3- Abhisankhàramàra: Nghiệp chướng ma, 4- Khandhamàra: Ngũ uẩn ma, 5- Maccumàra: Tử thần ma)

Nếu mình không có mốc thời gian 3 tháng viên tịch này, mà mình không có Ovāda Patimokkha làm lộ trình mình đi thì con đường Ehi-bhikkhu này thì không có kết quả.

Chánh Niệm và chú niệm là Tâm Sở Niệm.

Tỉnh Giác là Tâm Sở Tuệ, Tâm Sở Trí.

Nếu mà Tỉnh Giác không có Tâm Sở Trí Tuệ thì Tỉnh Giác không có hiệu quả.

Tỉnh Giác có 4 loại: 1. Ích sát tỉnh giác (Satthakasampajañña), 2. Thuận lợi tỉnh giác (Sappāyasampajañña), 3. Hành xứ tỉnh giác (Gocarasampajañña), 4. Bất mê tỉnh giác (Asammohasampajañña). Thì những loại Tỉnh Giác này bằng trí.

Còn Chánh Niệm chỉ là Tâm Sở Niệm thôi.

Niệm là Tâm Sở Niệm, Tỉnh Giác thuộc về Trí ./.


Monday, April 1, 2024

044 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 28 tháng 1, 2023

                                                                 044 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 28 tháng 1, 2023 

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "044 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Samatha là Thiền An Chỉ

Samādhi là Định An Chỉ

Ngài Paṇdita dùng chữ Samatha Bhāvanā trong quyển In This Very Life. 

Bhāvanā là tu tập

Samatha là Thiền An Chỉ

Khi đi tới giai đoạn định absorphone thì sẽ nói là được hấp thu, tiếng PaliSamādhi gọi là Định An Chỉ. Samatha là loại mục thiền, Samādhi là kết quả của Thiền An Chỉ đưa đến Định An Chỉ.

Thì absorphone đi tới kết quả của Thiền An ChỉSamādhi, còn đang thiền là Samādhi

Tu tập Thiền An Chỉ = tiếng PaliSamatha Bhāvanā 

tiếng Anh dịch là Concentration Meditation Thiền Định Tập Trung.

Còn SamādhiĐịnh An Chỉ là đưa đến kết quả rồi.

Thiền sinh hỏi: Khi tu thiền Samatha, tầng thiền thứ nhất là Sơ Thiền có 5 chi thiền là Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc. Ở chi thiền Tầm có: Thô Tướng, Cận Tướng, Quang Tướng. Thì khi Tầm xong thì mình qua Tứ thì cũng có  Thô Tướng, Cận Tướng, Quang Tướng.

Câu hỏi là khi từ chi thiền thứ nhất qua chi thiền thứ hai, từ cuối chi thiền thứ nhất thì nó đổi qua chi thiền đầu của cái thứ hai, nó không vô thô tướng giống như bên Tầm mà là nó đi qua không ?

HT trả lời: Có 2 hạng người là độn căn và lợi căn. Người độn căn thì phải  lập lại 3 tướng trong các chi thiền là Thô Tướng, Cận Tướng, Quang Tướng. Nhưng người lợi căn thì đi tiếp chứ không trở lại Thô tướng.

                  -- Thô Tướng

Chi Tầm     -- Cận Tướng

                  -- Quang Tướng

Chi Tầm  có Thô Tướng, Cận Tướng, Quang Tướng.

Thô Tướng là cái gì thô thiển, không rõ

Hồi xưa thời Đức Phật người ta dùng đất paṭhavī, sau này họ không đi tới cái thô sơ đó nữa. Hồi xưa Đức Phật Ngài dạy lấy đất sét paṭhavī  nặn thành một đề mục to bằng gang tay, tự mỗi người làm, họ nhồi bằng tay nên hình dạng không được mịn láng nên gọi là thô. Mình nhìn với con mắt và tâm lấy chi Tầm tới đề mục đất paṭhavī đối tượng kasina của mình, mình nhìn đề mục kasina rồi nhắm mắt lại niệm, thấy nó còn hay có cái gì chen vô. Nếu có cái gì chen vô thì mình không thấy đề mục đất paṭhavī trong tâm của mình. Thí dụ mình nhìn thấy mình niệm, nhưng mình nhắm mắt lại thì đối tượng đó phải ở trong tâm mình, cái đó mới gọi là Tầm. Thì nó thô sơ, nó méo tròn hay gồ ghề lồi lõm nó in ra trong tâm mình.

Thô: Mình đang ngồi niệm như vậy mà cái gì nhảy vô, chẳng hạn mình nhớ mình quên tắt lửa, mình quên đóng cửa nhảy vô trong tâm mình thì mình không còn đề mục thiền trong tâm nữa, thì mình mở mắt ra nhìn đề mục nhập vô lại, bắt đầu mình nhìn vô cái tầm đó với đề mục mình đang giữ mà không bị cái gì nó chen vô nữa, 5 triền cái không chen vô nữa, cái tầm mình nằm yên rồi, bắt đầu mình nhìn vô thì thấy nó rõ hơn mạnh hơn láng hơn.

Cận: Rồi tới Cận, hành giả thấy đề mục gần hơn với mình.

Quang Tướng: là thấy nó sáng nó trong ngần thì tâm mình ở luôn trong đó.

Đó là Thiền Samathi.

 Khi Tầm đi qua 3 giai đoạn này nó chỉ nhìn thôi, thì nó tới trạng thái sáng rồi nó ở trong đó thì Tứ quan sát ở ngay đây, và Hỉ ngay tại đây luôn, Lạc ngay tại đây luôn, Nhất Tâm ekaggatā ngay tại đây luôn, không trở lại Thô nữa.

Do đó, mình phải biết, mình phải đi như vậy, chứ còn không mình cứ nghĩ tưởng xem mình có trở lại từ thô tướng không, đó là tâm phóng dật, chứ không có thiền.

Nó đi luôn một lượt Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Nhất Thống.

Rồi người hành giả Sơ Thiền Pathamajjhānatầng thiền thứ nhất đi qua tới thiền thứ hai Dutiyajjhāna Nhị Thiền là từ Nhất Tâm ekaggatā, vừa vô ngồi là Nhất Tâm ekaggatā liền, Định của Sơ Thiền của tầng thiền thứ nhất vô tâm người hành giả liền, chứ không trở lại Thô rồi Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc nữa.

Do đó, mình đi:

1. Tầng thiền thứ Nhất mình đi: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất Thống (Nhất Tâm là một điểm chung với nhau). Thì lúc tới Nhất Tâm là người hành giả đắc được Sơ Thiền, người hành giả được Samādhi là Định An Chỉ.

2. Khi muốn trở qua tầng thiền thứ Hai: Từ Nhất Tâm của tầng thiền thứ Nhất  đi đến Tứ, không cần qua Tầm. Từ Nhất Tâm đến Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất Tâm (Nhất Thống).

3. Tầng thiền thứ Ba: Từ Nhất Tâm của tầng thiền thứ Hai, bỏ Tứ, đến Hỷ, Lạc, Nhất Thống.

4. Tầng thiền thứ Tư: Từ Nhất Tâm của tầng thiền thứ Ba bỏ Hỷ, đến Lạc, Nhất Tâm.

5. Tầng thiền thứ Năm: Từ Nhất Tâm của tầng thiền thứ Tư bỏ Lạc qua Xả, đến Nhất Tâm.

Ngài Paṇdita Ngài nói: như thế thì Thiền An Chỉ này có cái gì thiếu  không ? 

Ngài nói trong Thiền An Chỉ không mang lại, không cung cấp tuệ tri về chân lý hay sự thật, chỉ Vipassana mới thấy được chân lý. Do đó, đối với Thiền An Chỉ chỉ làm cho mình yên tịnh, chứ không thấy được bản chân thực tính của nó.

Giữa Thiền An Chỉ và Thiền Minh Sát Tuệ mình có một đề mục trung gian mà sài được cả hai bên, thiền An Chỉ cũng được, Thiền Minh Sát cũng được, đó là niệm hơi thở Anapana Sati. 

Khi mình đi Thiền An Chỉ thì tâm mình khắn khích vô cái hiện bày của Thiền An Chỉ, hơi thở vô, hơi thở ra. Người đi Thiền An Chỉ họ tập trung vào hơi thở vô hơi thở ra thôi, thở vô biết, thở ra biết để cho không phóng tâm, không bị 5 triền cái xen vô, thí dụ hơi thở vô ra định luôn trong cái đó. Hơi thở của mình chỉ có một thôi, không biết gì ngoài hơi thở, ở yên trong hơi thở luôn, và những cái xung quanh mình không biết.

Tuy nhiên, khi đi qua Vipassana thì hơi thở vô hơi thở ra không có nghĩa, mà hơi thở Sanh rồi Diệt, Dài Ngắn, Nặng Nhẹ, Mau và Chậm, nó bắt đầu qua thực tính của nó, bản chất thực tính của nó là của nó chứ không phải mình tạo ra hay là mình ép hơi thở, mình nén hơi thở, gồng hơi thở, mình hít hơi thở, mình không làm cái đó, mình cứ ngồi yên ngó gọi là quan sát thôi, thì cái đó là Vipassana.

Còn Samatha thì hành giả chỉ ngồi nhìn hơi thở vô ra, nó dài ngắn, nặng nhẹ, không cần biết. Họ chỉ theo hơi thở vô ra thôi. vô họ biết, ra họ biết, tâm họ không bị triền cái chi phối, bất luận thể loại nào. Thì lúc bấy giờ đi tới Thô, Cận, Quang Tướng họ ở yên, họ đi từ Sơ, Nhị, Tam, Tứ Thiền.

 Với người độn căn thì có ngũ thiền. Với người lợi căn thì có tứ thiền, rồi bắt đầu họ qua Thiền Vô Sắc, lúc bấy giờ họ lấy đề mục Vô Sắc, không qua đề mục Sắc Giới nữa, họ lên Không Vô Biên, Thức Vô Biên, Vô Sở Hữu, và Phi Phi Tưởng Xứ, gọi là Bát Định.

Trong quyển sách In This Very Life của Ngài Paṇdita nói; sau khi Đức Phật Ngài đắc đạo quả xong thì 49 ngày Ngài chiêm nghiệm giáo pháp mà Ngài đã chứng đắc ở 7 chỗ động tâm xung quanh trong khu vực Bodhgaya Bồ Đề Đạo Tràng, thì trong 49 ngày đó Ngài không ăn mà Ngài chỉ đi chỗ này chỗ kia rồi ngồi thiền Ngài đổ hào quang trong 7 tuần lễ, thì 7 động tâm đó xong rồi thì Ngài mới trở lại Bodhgaya Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài nói ta có trách nhiệm phải độ chúng sinh với giáo pháp này ta đã tìm ra, tự Ngài gióng; lên ta có trách nhiệm quan trọng lắm. 

Thì Ngài nhìn thấy chúng sinh sống trong màn vô minh dày đặc, Ngài mới nói thôi bây giờ tìm những người nào có tâm thanh tịnh hơn trong số chúng sinh vô minh này, và Ngài nhìn thấy 2 người Thầy cũ của Ngài là Alarama KalamaUddaka Ramaputta, 2 vị này thì một vị là Thất Định, một vị Bát Định. Vị Thất Định Alarama Kalama là Alahan đắc Vô Sở Hữu Xứ có đông tín đồ. Còn Uddaka Ramaputta có Bát Định là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, 2 vị này có khả năng để nghe Giáo Pháp của Đức Phật nói cực kỳ vi diệu. 

Ngay khi Ngài vừa nghĩ tới đó thì có một vị  Thiên Tử tới tác bạch với Đức Phật là Alarama Kalama vừa mất trước khi Đức Phật đắc quả giác ngộ 7 ngày, còn Uddaka Ramaputta vừa mất đêm qua. Đức Phật nghe vậy Ngài nói; uổng quá, 2 người đó mất cơ hội to lớn. 

Tại vì khi sinh về cõi trời Vô Sắc Giới chỉ có Danh Pháp, không có mắt, không có tai, 

Ở cõi Sắc Giới còn tai còn mắt, các vị Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên Baka, các vị Phạm Thiên Sahampati còn mắt còn tai, mắt để còn nhìn thấy Đức Phật, tai còn nghe pháp Đức Phật nói.

Chứ lên tới cõi trời Vô Sắc Giới không có Sắc Pháp, không có nhãn, không có nhĩ. Thì Đức Phật nói không có cơ hội gặp Đức Phật. Thì khi họ sinh về cõi trời Vô Sắc Giới thì họ mất cơ hội gặp được Đức Phật, mình phải hiểu như vậy. Sau khi Ngài nghiệm ra được rồi thấy 2 vị đó đi về cõi trời, sau đó Ngài nghĩ tới 5 anh em Kiều Trần Như.

Mình phải hiểu là thời gian Ngài ngồi thiền, cũng như mình ngồi thiền mình đi Bát Định đi suốt luôn, tức là mình đi 4 Sắc Giới vả 4 Vô Sắc Giới, mình có thể làm luôn một lượt, khi mình qua tới Ngũ Thiền đối với người độn căn, qua tới Tứ Thiền đối với người lợi căn Sắc Giới thì họ bắt đầu Không Vô Biên thấy rộng lớn, còn hơi thở không rộng lớn, bắt đầu họ nghĩ tới các cõi trời hư không rộng lớn, họ lấy đề mục Không Vô Biên, họ không nghĩ cái gì khác hết, chỉ có hư không thôi, hư không hư không vô biên to và rộng lớn.

Do đó, mình đi một lượt luôn cũng được nữa nếu hành giả có đủ năng lực, đủ kiến thức, có đủ thời gian, không có chậm trễ, không có chờ đợi, và không có mất cơ hội. 

Tuy nhiên nó chỉ đem tới cho mình là trạng thái của người Samadhi là trạng thái yên tịnh, chứ không đem lại sự tìm thấy chân lý.

Thành ra mình muốn yên tịnh, thí dụ như Sư giảng dạy nhiều hay Sư đi dạy mệt tối về người hao năng lực Sư vô ngồi thiền 1 tiếng thấy như là nạp bình ắc qui lại thấy trong người khỏe tuyệt vời, đó là Sư trải nghiệm Sư biết vậy đó, hơn cả ngủ nữa. 

Các quí Phật tử trước khi đi ngủ, sau khi làm 4 điều đọc mấy bài kinh, Sư khuyên mấy cô ngọa thiền, cái ngọa thiền quí lắm, mà cái đó mấy cô tập được trạng thái này trong phút giây đó rõ hơn là ban ngày mấy cô ngồi thiền sẽ được yên tịnh, cái phút giây đó tuyệt diệu hơn là khi cô ngồi 5 giờ chiều, 6 giờ chiều, 7 giờ chiều, cho dù mình ở một mình một phòng nó không bằng lúc mình ngọa thiền rồi mình đi vào giấc ngủ cũng được nhưng mà mình ngọa thiền được mình thấy sự quí báu của sự yên tịnh này, Đức Phật Ngài trải nghiệm ra hết, Ngài dạy mình là chính xác lắm, không có sai đâu, mà Phật tử mình lại sợ là khi mình ngồi thiền dễ nhập nhằng rồi mình ngủ luôn mình mất đi cơ hội, không phải, mà mình làm được cái đó là mình làm chủ được tâm mình không cho ngủ, còn mình muốn nó ngủ thì cho ngủ, mình xả nó ra, mình làm chủ được cái tâm mình.

Trong quyển Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp tập I về phần Tâm Sắc Giới Sư viết ra đầy đủ chi tiết rõ ràng.

 Khi đi tới Thô Tướng ra sao, Quang Tướng ra sao, Cận Tướng ra sao. Cũng như khi mình đi về Tâm từ Mettà, rải Tâm Từ hay mình đi hành thiền Tâm Từ. Rải Tâm Từ chỉ là pháp Thiện thuộc Thập Phúc Hành Tông thôi, nếu như hành Tâm Từ nó sẽ là một loại thiền An Chỉ. 

Khi đi thiền An Chỉ về pháp rải Tâm Từ hay là Tứ Vô Lượng Tâm trong Thiền An Chỉ nó nằm trong 36 đề mục của Sắc Giới, thì hành giả phải đi tới Nhất Tâm ekaggatā của thiền đó, đi Tâm Từ thì phải Nhất Tâm ekaggatā với Tâm Từ, hay đi với Tâm Bi, Tâm Xả đều phải Nhất Tâm ekaggatā với những tâm đó thì mới là hành thiền An Chỉ với Tứ Vô Lượng Tâm.

Còn rải tâm từ mình rải đến tất cả chúng sinh đừng oan trái lẫn nhau - Sabbe sattā averā sukhī hontu.

Rải Tâm Từ là một trong Thập Phúc Hành Tông, mình cho phước hay mình hồi hướng phước hay là chia phước thì đó là phần Dasa-kiriya-puñña-vatthu Thập Phúc Hành Tông thôi.

Nhưng khi tới phần Samatha của Brahma-vihāra Tứ Vô Lượng Tâm thì nó sẽ có đi 5 chi thiền; Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Nhất Tâm, rõ ràng. Ngài Mahashi viết rất kỹ, nó sẽ đi 5 chi này rõ ràng.

 Ngài Mahashi Ngài viết cái này rất là kỹ Sư có đọc Sư biết cái đó, tới section của Ngài Mahashi các quí Phật tử sẽ đọc hết một lượt luôn rồi sau đó sẽ có đủ những bộ môn của các quí Ngài bắt đầu mình chọn lọc, tìm cái nào thích hợp nhất cho mình, thí dụ có người thích hợp với Ngài Mahashi, có người thích hợp với Ngài Pandita, có người thích hợp với Ngài Kundala thì sẽ đi theo phương pháp theo sự hướng dẫn của các quí Ngài đó. 

Trong mấy quyển sách đó mà Sư đưa ra cho quí Phật tử sẽ nắm bắt được rõ ràng. 

Mình có nhiều điều kiện về lợi ích về phương tiện Sư nói với cô Tịnh Nhân là mấy Phật tử có phước, nói thật, chứ Ba Mẹ Sư đâu có được như vậy, bây giờ Sư muốn chia sẽ Sư không có cách nào Sư làm được với Ba Mẹ Sư thì chỉ có ban đêm Sư mới làm được với Ba Mẹ Sư. Giờ mấy cô có thì mấy cô phải thọ hưởng cái phước báu của mình không bỏ qua và mình phải nắm cho kỹ cho chính xác.

Thiền Sinh hỏi: Trong quyển Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp, tập I, trang 119. Trong đó có nói hữu tình bàng sinh có tình cảm. Tại sao loài bàng sinh không có thân ngữ ý mà lại có tình cảm ?

HT trả lời: Loài bàng sinh có tình cảm. Trong 8 Tâm Đại Thiện có bao gồm loài bàng sinh.

Có một lần Đức Phật Ngài tới, một con chó chạy ra Đức Phật nói: "Ngươi  chỉ tài sản cho con đi." Thì con chó khi người chủ nó đi về nó chỉ chỗ hũ vàng chôn dưới gầm giường. 

Có một vị Độc Giác Phật từ trên núi Himalaya vào trong thành phố đi bát, thì con chó từ trong thành phố đi ra dắt đường Ngài đi bát, một bữa Ngài gạt nó, khi tới ngã ba con chó sủa, Ngài nói được rồi ngươi đi trước đi ta đi theo, nhà của chủ con chó bên tay trái nên con chó chạy vào con đường bên tay trái, Ngài Độc Giác đi qua tay phải, con chó chạy lại sủa, Ngài Độc Giác nói "ta biết rồi ta đi theo", con chó quay trở lại con đường bên tay trái, Ngài Độc Giác tiếp tục đi trên con đường tay phải, con chó lại sủa tiếp.

Con chó khi vừa thấy Ngài xuống nó nằm xuống đảnh lễ Ngài xong nó đứng lên Ngài Độc Giác nói dẫn đường ta, con chó bắt đầu chạy. Nó sài tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, nó không biết là Ngài thử nó nhưng nó biết là Ngài đi sai đường, nó dắt Ngài đi trở lại đúng đường.

Cái thứ hai là, hồi đó Sư đi dạy học, Sư có những bài kiểm cho Phật tử Tăng Ni, Sư hỏi "chúng sinh nào, loài hữu tình nào ngủ mà không ăn ?" 

Hữu tình tiếng Pali là Satta. 

Satta dịch là Hữu Tình, là loài chúng sinh có tình cảm. Chữ Bodhi Satta người Trung Hoa không dịch, họ chỉ âm chữ Bodhi Satta là Bồ Đề Tát Đỏa mà họ bỏ 2 âm Đề và Đỏa còn lại 2 chữ là Bồ Tát, nhưng chữ Bồ Tát không có nghĩa, chữ Bồ Đề cũng không có nghĩa, mà chữ Bồ Đề Tát Đỏa cũng không có nghĩa

Thì chữ Bodhi dịch là Giác Ngộ

Satta dịch là Hữu Tình

Bodhi Satta là loài Hữu Tình có sự ý thức giác ngộ, là các bậc đang tu hành Ba La Mật.

Ba La Mật có 3 bậc: Thinh Văn Giác, Độc Giác, và Chánh Đẳng Giác 

Sư hỏi các quí Phật tử trong 3 bậc này thì đang ở bậc nào ?

Chánh Đẳng Giác có 3 bậc: nguyện trong tâm, nói ra lời, và được Phật thọ ký. 

Sư nguyện Chánh Đẳng Giác nói ra lời.

Quí Phật tử có quyền nói mình là Thinh Văn Giác, thì quí Phật tử phải có Ba La Mật trong đời sống của mình bảo vệ cho mình. Nên khi nói Thinh Văn mà chưa Giác thì chưa có Ba La Mật. Còn Thinh Văn Giác mà nói ra lời là Ba La Mật đầy đủ rồi chỉ chờ thọ ký thôi.

Thì khi quí Phật tử nói mình là Thinh Văn Giác thì phải có Ba La Mật bảo chứng cho mình trong đời sống của mình, thân, ngữ, ý của mình có Ba La Mật là kim chỉ nam để quyết định cái Thinh Văn Giác, cái vị trí môi sinh của mình ở đó, chứ không có thể nói chung được.

Bậc Thinh Văn Giác hơn người Phật tử suông. Thì trong thân, ngữ, ý của bậc Thinh Văn Giác hay thân, ngữ, ý của bậc Độc Giác họ luôn luôn sẵn sàng ở trong nền tảng của Ba La Mật họ đang đi trên nền tảng của Ba La Mật, họ sẽ nói "Tôi Thinh Văn Giác còn nguyện trong tâm." Tu Thinh Văn Giác còn nói ra lời tôi chưa được thọ ký thôi.

Thinh Văn Giác có 3 bậc là:

1. Tầm Thường, họ đơn thuần, họ sống bình dị, 

2. Đại Thinh Văn

3. Chí Thượng Thinh Văn có 2 là tả và hữu. Thời của Đức Phật chỉ có 2 vị Chí Thượng Thinh Văn Giác là tả thuộc bên tay trái của Đức Phật là đệ nhất về thần thông, bên hữu của Đức Phật là đệ nhất về trí tuệ, theo Niêm Luật thì vị Phật nào cũng vậy, trong hội chúng Thinh Văn Giác mà Ngài chỉ điểm ra. Đức Phật Ngài nói: "Hôm nay Như Lai tuyên bố Sariputta là Chí Thượng Thinh Văn ở bên tay phải của Như Lai, và Moggallàna Mục Kiền Liên, Chí Thượng Thinh Văn bên trái của Như Lai là đệ nhất thần thông về trí tuệ.

Trong hàng Đại Thinh Văn, trong thời của Đức Phật có 80. Còn các vị Phật quá khứ và vị lai bất định, mình không biết được tùy theo các vị Chánh Đẳng Giác.

Thì khi Ngài nguyện cái đó thì Ngài sẽ hưởng được năng lực đó, Ngài tiếp được năng lực đó. 

Hạng Thinh Văn tầm thường không cần phải thời Chánh Đẳng Giác ra đời, 2 bậc Thinh Văn Đại và Chí Thượng thì cần thời Đức Phật. 

Hạng Thinh Văn tầm thường thì quí Phật tử có thể nguyện kiếp này là Thinh Văn tầm thường, chỉ cần 1000 kiếp (kappa là kiếp) thì mình đắc đạo quả. Có khi Phật tử nguyện Thinh Văn tầm thường kiếp này mà quí Phật tử có 999 quá khứ rồi thì kiếp này đủ để giải thoát rồi.

Cho dù 3 bậc, Thình Văn tầm thường hay Đại Thinh Văn hay Chí Thượng Thinh Văn Giác, thì các quí Ngài, các vị Bồ Tát Giác Hữu Tình họ sống trong Ba La Mật không rời và không bao giờ quên và họ không thiếu xót được, đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, nói, ngủ, nghỉ, và thân, ngữ, ý luôn luôn trong Ba La Mật.

Cũng như Sư, thí dụ như Sư đến với Phật tử với Ba La Mật Chánh Đẳng Giác của Sư, Sư về phòng với Chánh Đẳng Giác của Sư, với Ba La Mật liên tục, hay là Sư đi thăm bệnh những người ở trong bệnh viện, hay là Sư đi làm với cái Ba La Mật Chánh Đẳng Giác, mà một lần như vậy Sư đi với mấy A Tăng Kỳ trong tâm mà Sư nói ra lời, mà Sư biết được số lượng Sư đang hành, thì mình thực hiện một cái gì, mình chú nguyện cái gì, nó có năng lực đó, chứ không có suông được.

Thì khi quí Phật tử sống được với Ba La Mật Thinh Văn Giác của mình dù là Đại Thinh Văn Giác thì quí Phật tử sẽ có năng lực 1000 kiếp. Thí dụ bây giờ quí Phật tử đang ở 880 kiếp, thì đây có số lượng năng lực mà mình không biết mình không hiểu mình cứ nói suông cái miệng mà không hành và không thực hiện không nghĩ tới thì cái 880 kiếp này tự nó mất, nó không nằm trong tầm tay của mình trong cái năng lực của mình.

Khi quí Phật tử gặp khó khăn trong dời sống hàng ngày, ngay cả khi bệnh, nguyện Ba La Mật nào trong đời quá khứ cũng như ngay hiện tại tôi là nguyện Thinh Văn Giác sinh trổ quả cho tôi đón nhận quả phước này vượt qua cảnh khó khăn này. Cái đó cũng có năng lực.

Nguyện cho tất cả Ba La mật mà trong đời quá khứ mà tôi đã hành và ngay hiện tại tôi có, tôi xin trổ sinh quả có năng lực để vượt qua cái bệnh này. Thì nó có trổ sinh, thì nó có.

Còn quí Phật tử không biết hay không có nghĩ tới thì không bao giờ biết hết thì không có kết quả. Mình lại đi cầu cứu nhờ người này người kia hay mình đi nhờ các vị có Ba La Mật hay các vị Thinh Văn Giác có hành, họ có biết, họ cầu nguyện họ chia cho mình, giống như mình tới nhờ quí Sư, quí Thầy, người ta cầu nguyện cho mình. Tại vì mình không có, mà có khi quí Phật tử nhiều hơn quí thầy mà mình không biết.

Các quí Phật tử phải biết mình có Ba La Mật không?

Sư là Chánh Đẳng Chánh Giác chỉ cho mấy cô, giống như ông thầy dạy võ cho các học trò ông phải biết các học trò  của mình học tới đâu. Các quí Phật tử phải biết mình có Ba La Mật tới đâu, mình phải biết thuần thục rất là tự tin, không phải biết hồi hộp hay sợ sệt, mà là biết với sự bình thản.

Công chúa Yasodhara ở trong phòng bà không ra đảnh lễ Đức Phật khi Đức Phật trở về Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ), tất cả hoàng thân quốc thích ra đảnh lễ Đức Phật hết, cả vua cha Suddhodana vua Tịnh Phạn cũng ra đảnh lễ Đức Phật, Ngài đưa mắt nhìn và hỏi công chúa Yasodhara ở đâu? Vua Tịnh Phạn nói công chúa ở trong thư phòng, bà biết bà có bao nhiêu Ba La Mật, không phải bà ở trong thư phòng vì giận, mà bà có Ba La Mật, bà có nguyện thì phước trổ cho bà thì Đức Phật phải gặp bà.

Khi Đức Phật đi tới độ một chúng sinh thì những chúng sinh đó không phải là không có Ba La Mật, mà phải có Ba La Mật Ngài mới hít vô rồi Ngài mới độ được, những chúng sinh nào cũng vậy nhưng người biết người không biết, giống như những cây con mọc trồi lên bị một chiếc lá che Ngài gỡ chiếc lá che đó ra thì cây con mọc lên. 

Do đó mình phải biết, mỗi ngày mình có làm được bao nhiêu Ba La Mật mình biết, nói bao nhiêu lời Ba La Mật mình biết, hành bao nhiêu Ba La Mật mình biết.

Nên công chúa Yasodhara phải nguyện một A Tăng Kỳ asankheyya mới có được ngày hôm nay, vua Tịnh Phạn, hoàng hậu Maya phải có A Tăng Kỳ Ba La Mật mới gặp được Đức Phật ngày hôm nay, là người cha người mẹ cuối của một vị Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp cuối cùng. 

Ngay cả Rahula cũng vậy, Rahula đến với Đức Phật.  công chúa Yasodhara đứng trên lầu thấy Đức Phật đi bát, bà chỉ và nói với Rahula: 

- "Kia là Đức Thế Tôn và cũng là cha của con, con xuống đòi cha cho con tài sản." 

Rahula đi xuống xin liền: "Bạch Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn có phải là cha con không ?"

- Phải.

- Đức Thế Tôn cho con tài sản.

Đức Phật trả lời: Được. 

Và nắm tay dắt tới Ngài Sariputta:

- Này Xá Lợi Phất, nên làm những điều lợi ích cho Rahula.

Đức Phật Ngài đâu có tài sản, Ngài chỉ có Thánh sản, Thánh sản của Ngài là Ba La Mật, thì Rahula tới đòi Ba La Mật của Ngài thì Ngài phải cho Ba La Mật. Thì Ngài Sariputta cho Rahula xuất gia 7 tuổi đắc A La Hán.

Sư hỏi các quí Phật tử có Ba La Mật không ?

Mấy cô có Trí Tuệ Ba La Mật, mình có Trí Tuệ Ba La Mật, mình có Tinh Tấn Ba La Mật, mình có Chú Nguyện Ba La Mật, mình có Hành Xả Ba La Mật, mình có Chân Thật Ba La Mật.

Nên khi có người hỏi: Cô có Ba La Mật không ? Thì mình biết mình có Ba La Mật nào.

Thiền sinh hỏi: khi mình làm việc gì mình biết mình hành Ba La Mật thì con thấy không phải là một Ba La Mật mà giống như 10 Ba La Mật liên kết nhau luôn.

 HT trả lời: Cô đọc cuốn sách Thập Độ của Ngài Hộ Tông, cô đọc xong cô trả lại và nói con thấy Sư có tất cả. Sư nói tại sao Sư phải bỏ, hay Sư thiếu. Cô không hiểu nên cô mới thấy là cô không đủ hay cô thiếu mình còn đang thiếu hay mình chưa có. Chứ thật ra mấy cô có hết.

Như bậc Chánh Đẳng Chánh Giác là 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.  Ba la Mật bậc tối thượng, tức là cả sinh mạng luôn là Ngài hành Ba La Mật luôn nhưng Ngài không chết. 

Như trường hợp trong tích truyện Jàtaka (Bổn Sanh hay chuyện Tiền Thân) Ðức vua Bồ Tát Vessantara bố thí hai đứa con là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhā đến cho Bà la môn Jūjaka người không có giới, để tạo pháp hạnh bố thí ba la mật, thế mà phước thiện bố thí ấy cũng làm cho trái đất rung chuyển.

Đức vua Bồ Tát Vessantara cho xả thí mà không chết, Vesantara hành trì giới không có chết về cái Chánh Đẳng Chánh Giác của Ngài mà Ngài hoàn thành luôn và viên mãn và thành tựu nữa.

Tức là khi mà Ngài cho mạng sống của Ngài đã cho trong đó rồi, thí dụ như Ngài cho 2 đứa con là chết mạng sống của Ngài, tình cha con, Ngài đâu có chịu nổi, Ngài đã cho là Ngài đã chết.

 Rồi ngay cả Vua Trời Đế Thích xuống xin bà Hoàng Hậu Madrījeya của Đức vua Bồ Tát Vessantara về làm nô lệ, của Đức vua Bồ Tát Vessantara cũng cho  là mạng sống Ngài đã chết, tại vì bà Hoàng Hậu Madrījeya  mỗi ngày đi kiếm trái cây về cho Đức vua Bồ Tát Vessantara dùng để mà hành thiền, mà Ngài cho là mạng sống Ngài cắt luôn rồi.

Nhưng cuối cùng mà cho luôn cái đó cái đó là mạng sống của Ngài là luôn luôn có sự giải cứu của Vua Trời Đế Thích. Như Hoàng Hậu  Madrījeya Vua Trời Đế Thích xuống giải cứu liền, chứ đề một người phàm phu khác tới là coi như là Ngài đứt liền, bậc Chánh Đẳng Giác luôn luôn cái cuối cùng trong kiếp đó có Vua Trời Đế Thích tới giải cứu Ngài trong sự thành tựu Ba La Mật.

Bây giờ quí Phật tử không nguyện Thinh Văn Giác mà nguyện Độc Giác là 2 Ba La Mật thì cho một phần thân thể của mình là mình bỏ thời giờ và sức khỏe để đi đến giúp người ta, như buổi tối người ta kêu cứu cô đi là một phần thân thể của cô đi rồi cô đi về, giờ đó phút giây đó là mình đang ngồi thiền giờ phút giây đó mình đang đọc kinh mà mình đi là cho một phần xong rồi cô về là xong một phần thân thể.

Ngài Tịnh Sự Ngài dạy Sư lúc Sư mới vô tu, Ngài hỏi Sư, ông nguyện bồ tát nào, Ba La Mật nào ? Sư nói Thinh Văn Giác bạch Ngài, Ngài nói tốt quá. Câu thứ 2 Ngài nói: để tôi nói ông nghe. Qua câu thứ 2 là mình bắt đầu phòng thủ rồi đó, cái đó là cái trải nghiệm của Sư thôi, mấy cô đừng có phòng thủ với Sư.

Ngài nói, nếu ông nguyện học tới lớp 12, mà không học tới lớp 12 rồi sao, nó rớt xuống lớp 10, lớp 7 hay lớp 8, còn nếu như ông nguyện học tới tiến sĩ, mà không đậu được tiến sĩ rồi xuống còn thạc sĩ, không có PhD (Doctor of Philosophy) thì mình xuống còn Master, không có Master thì mình còn Bachelor, bây giờ ông nguyện high school mà không có high school nữa đâu. 

Tức là, nếu cô nguyện Thinh Văn Giác mà cô không tới Thinh Văn Giác thì cô ở đâu. Sư nghe Sư hiểu rồi. Nên cái này là chỉ có Ngài Tịnh Sự Ngài dạy.

Sariputta có một kiếp Ngài nguyện là Chánh Đẳng Giác, mà vua trời Đế Thích muốn thử Sariputta nên giả làm một thanh niên đến gặp Sariputta xin con mắt của Sariputta để làm thuốc cứu mẹ. Ngài Sariputta đưa tay móc ngay con mắt bên trái ra, đưa tận tay thanh niên. Người thanh niên nói không phải con mắt bên trái, phải là con mắt bên phải mới cứu được mẹ. Ngài Sariputta lại móc con mắt bên phải đưa cho người thanh niên. Người thanh niên cầm con mắt của Sariputta và nói:

-  "Con mắt ở trên gương mặt thì đẹp nhưng khi móc ra nhìn thấy ghê quá" 

Nói xong người thanh niên liệng con mắt xuống đất và lấy chân chà. 

Sariputta Ngài nói: "ta cho ngươi thật lòng mà ngươi không trong sạch với trạng thái nhận quà của ta cho, từ đây về sau ta không cho nữa."

Và Ngài Sariputta rớt xuống thành Chí Thượng Thinh Văn, may mà rớt xuống Chí Thượng Thinh Văn còn không rớt mất tiêu.

Do đó, các quí Phật tử mình phải nguyện dự phòng, thì bây giờ nguyện Độc Giác, mà không tới Độc Giác thì mình còn Thinh Văn Giác.

Như anh Tâm Nhiệt và Cô Diệu Giác, khi ở nhà anh Tâm Nhiệt với cô Diệu Giác chạy xe lên là nguyện Thinh Văn, nhưng tối trở về nhà hai vị nguyện Độc Giác là hết phần thân thể mình ở nhà thì mới ra được phần Độc Giác, lúc nào mình cũng đi đôi, nếu có rớt Độc Giác thì ở lại Thinh Văn, còn đang Thinh Văn rớt thì không biết mình đang ở đâu.

Nguyện Chánh Đẳng Giác người nữ không nguyện được, còn nguyện Độc Giác thì nam nữ đều nguyện được.

Do đó, quí Phật tử nguyện Độc Giác một phần thân thể thì một phần thân thể của mấy cô ở trong mình trải qua, hay là mình chịu tồn phí trong thởi giờ, sức khỏe, năng lực của mình, nó ảnh hưởng tới phần sống của mình thì một phần đó là quí Phật tử ở trong Độc Giác. Mình làm Thinh Văn chỉ là tròn 3 mặt thôi, còn Độc Giác thì thêm một phần thân thể, phần thể xác, phần thời gian, năng lực, sức khỏe của mình thì mình được Độc Giác. Quí Phật tử phải biết cách nguyện.

Các quí Phật tử thuộc loại Bồ Tát nào ?

Phục nguyện, làm sao thời kỳ Độc Giác cũng thành, đó là mình nguyện Độc Giác.

Ngài Tịnh Sự nói; ông không được Thinh Văn, ông không được Độc Giác, làm sao ông hưởng trong thời kỳ mà giáo pháp Đức Phật, tại vì sinh tử luân hồi, mỗi lần tục sinh, sinh tử luân hồi trong 6 nẻo đường luân hồi rất là nguy hiểm, rất là bấp bênh, ai biết được mình sinh lại làm người làm trời, mà có khi rớt trong 4 đường ác đạo, do đó mình phải nguyện thì Ba La Mật này nó đưa mình đi chứ không phải Thiện phước đưa mình đi, tại vì mình phải đi tiếp trong chu kỳ mình nguyện cho thành thì Ba La Mật của mình bảo bọc mình trong an toàn.

Còn trong cái Thiện, tại vì mình đang học tới phần giải thoát Sư sẽ đưa tới phần gọi là nhân và quả của sự giải thoát này mà trong mỗi cái pháp tâm hay cái hành của mình trong Thân, Ngữ, Ý của mình thì nó đưa tới cái khung đó thì mới thấy được kết quả.

Trong bài kinh Phục Nguyện  

Phước lành con đã tạo ra,

Các đời quá khứ hay là đời nay.

Nghiệp chưa cho quả phước nào,

Nguyện thành Pháp độ để vào thiện căn.

Sau này dù tạo mấy lần,

Từ đây cho đến siêu thăng Niết bàn.

Hể làm chuyện tốt sẳn sàng,

Mỗi điều hạnh phúc thành đoàn nhân duyên.

Giúp cho phiền não sớm yên,

Trợ mau giải thoát kế liền kiếp sau.

Nếu trể chẳng gặp Phật nào,

Nhằm kỳ Độc Giác làm sao cũng thành .

Thì trong bài kinh Phục Nguyện có câu: 

"Nhằm  kỳ Độc Giác làm sao cũng thành",  đó là phục nguyện Độc Giác. Ngài Tịnh Sự nói với Sư: Ông không được đọc câu kinh này tại vì ông nguyện Chánh Đằng Giác thì không thể đọc câu đó được, Sư đọc câu đó là hỏng nguyện Chánh Đẳng Giác của Sư.

Minh phải nguyện. Ban ngày mình nguyện Thinh Văn Giác, tới tối mình nguyện Độc Giác.

Cũng như ban ngày nguyện Ba La Mật để mình sống trong Thân, Ngữ, Ý. Khi  nói chuyện mình nguyện nói trong trí tuệ, nói trong chân thật, trong nhẫn nại, trong hành xả, hay là trong chú nguyện mình nói chuyện hay trong hành động mình bỏ ra hay đi giúp người ta thì trong trí tuệ Ba La Mật. 

Nhưng tối mình về thì mình nguyện hết 10 Ba La Mật (Dasapāramī) là:

1. Dānapāramī - Bố thí Ba la mật,, Bồ tát xả tài với tâm nguyện giải thoát.

2. Sīlapāramī - Trì giới Ba la mật, Bồ tát thu thúc thân hành, khẩu hành trong sạch với tâm nguyện giải thoát.

3. Nekkhammapāramī - Xuất ly Ba la mật, Bồ tát tâm lìa bỏ sự tham muốn trong trần thế, chỉ hướng tâm đến mục đích giải thoát.

4. Aññāpāramī - Trí tuệ Ba la mật,, Bồ tát tu tập trí tuệ sáng suốt, học hỏi sự hiểu biết chân lý nhân quả, với mục đích chứng đắc quả giải thoát.

5. Viriyapāramī - Tinh tấn Ba la mật, Bồ tát siên năng nỗ lực trong mọi việc, không lười biếng, với mục đích chứng đắc quả giải thoát.

6. Khantipāramī - Nhẫn nại Ba la mật, Bồ tát kham nhẫn với mọi nghịch cảnh, chịu đựng, không nổi giận oán thù, làm như vậy với mục đích đạt đến giải thoát.

7. Saccapāramī - Chân thật Ba la mật,  Bồ tát tôn trọng sự thật, nói lời chân thật không giả dối.

8. Adhiṭṭhānapāramī - Chí nguyện Ba la mật, Bồ tát muốn giải thoát luôn giữ vững tâm nguyện giải thoát luôn kiên định, không xao lãng.

9. Mettāpāramī - Từ tâm Ba la mật, Bồ tát nhiếp phục sân hận, luôn an trú từ tâm đối với mọi loài.

10. Upekkhāpāramī - Hành xả Ba la mật, Bồ tát giữ tâm bình thản, không dao động trước sự đời khen, chê, vui, khổ, được, mất, vinh, nhục.

Mình nguyện 2 cấp Độc Giác và Thinh Văn Giác rồi mình đi vào giấc ngủ, thì mình có an toàn. Có rớt xuống thì mình cũng là Thinh Văn, còn không thì rớt xuống đâu mình không biết.

 Do đó, mình nguyện là phải Độc Giác.

Bây giờ quí Phật tử đang là Thinh Văn, qua khỏi năm 5000 năm mới tới thởi Độc Giác Phật, khi đó mới gặp Đề Bà Đạt Đa và A Xà Thế, lúc đó họ cũng là vị Độc Giác, chắc chắn trong kiếp này các quí Phật tử chỉ là Thinh Văn thôi, không qua được Độc Giác, nhưng mình có bỏ ống Độc Giác. Tới khi Xá Lợi Níp-bàn là 5000 năm lúc bấy giờ tất cả xá lợi trên thế giới đều tụ về  Bodhgaya Bồ Đề Đạo Tràng có một vị Phật thuyết pháp 7 ngày  chỉ có Chư Thiên đến nghe không có con người đến nghe,  mà Chư Thiên là những đệ tử của Đức Phật bây giờ họ xuống nghe, bây giờ quí Phật tử có chủng tử tới nghe là lúc đó là Thình Văn Giác hết, là Đức Phật Ngài độ lần chót hết.

 Thì qua khi Xá Lợi Níp-bàn là hết rồi, bắt đầu là 5001 lúc đó Phật Độc Giác ra đời vô số, cho tới khi lên một hai tăng kỳ trở lại 84000 năm thì Đức Phật Metteyya Phật Di Lặc mới ra đời lúc đó trở lại là có Chánh Đẳng Giác và Thinh Văn, và không còn Độc Giác, Độc Giác không hiện hữu trong thời Chánh Đẳng Giác.

 Do đó, quí Phật tử phải biết nếu nguyện Độc Giác thì có 23 Ba La Mật trong mình, còn nguyện Thinh Văn Giác thì có 10 Ba La Mật.

Sau 5000 năm khi giáo pháp của Đức Phật hoại thì mình hưởng Độc Giác của mình.

Khi quí Phật tử nguyện Độc Giác thì trong hàng ngày mình có phần nào thân thể của mình là thời gian, sức khỏe và năng lực trí tuệ của mình, mình phải tiêu tốn hao một phần chứ không phải mình làm theo Thinh Văn bình thường, làm thì có, không có thì thôi không làm, nhưng phần hi sinh một chút là thêm một chút nữa.

Thí dụ, như người làm việc bình thường không overtime, họ làm 8 tiếng họ về. Người làm overtime là Độc Giác, không phải vì đồng tiền, nhưng  phải làm cho xong việc tại vì hãng cần, mà bây giờ nói tôi không làm tôi đi về, thì người đó là Thinh Văn thôi, mình thấy cái hi sinh của anh Độc Giác anh chịu ở lại làm overtime. Sư nói đừng nói vấn đề mà 1/5 hay là .5 gì đó, mình không nói hướng họ đi nhưng tinh thần họ có, mình hiểu  Độc Giác chỉ một phần của nó là vậy, họ phải bỏ thời gian của gia đình hay bản thân hay là giờ giấc hay là sức khỏe ở lại làm thêm. 

Mình có hạt giống đó, mình có chủng tử đó thì mình sẽ được hưởng cái đó. Thinh Văn vẫn là Thinh Văn nhưng mình thêm phần Độc Giác là mình có thêm công đức đó nữa.

Mỗi ngày mình làm cả 2 phần, phần của Thinh Văn và phần của Độc Giác, đụng chuyện mình sài Thinh Văn, đụng chuyện mình sài độc giác, mình linh ứng uyển chuyển, chứ không có thụi lùi lại, mình cố gắng trau dồi, cái đó quí Phật tử có thêm nhiều công đức, và nó đánh phá những pháp phiền não hay là những pháp triền cái pháp nghịch của mình, chỉ có nó mới làm được thôi.

Bây giờ tới phần trắc nghiệm

Câu hỏi 1: Hữu tình nào ngủ mà không ăn

1).   Thứ nhất là Hữu tình vô tưởng (Phạm Thiên) ngủ mà không ăn. Họ ngủ 500 kiếp

Hữu tình vô tưởng, do năng lực thiền của họ là Tứ Thiền Vô Sắc, họ nguyện có tâm sẽ bị phiền não, giờ nguyện kiếp nào sinh lên không có tâm thì họ sinh về cõi trời Asaññā sattā Cõi Trời Vô Tưởng, chúng sinh ở cõi này không có tâm thức, họ chỉ có sắc pháp thôi, họ ở luôn nơi đó cho đến hết kiếp họ tục sinh lại với nghiệp thứ 7 (sát na thứ 7 của lộ trình tâm động lực) của họ dắt họ đi, đó là Hữu Tình Vô Tưởng

2)  Thứ hai là Long Vương ngủ mà không ăn. Thời Đức Phật tiếng động của bình bát rớt xuống giòng sông  Long Vương thức dậy và nói: "Có một vị Phật ra đời" nói xong Long Vương ngủ tiếp. 

Chuyện trong một kiếp quá khứ là một ông sadi, ông Thầy kêu quét lá sân chùa, ông sadi quét sân xong than mệt quá, ông làm biếng nên ông than mệt, ông lấy công đức mà ông quét lá sân chùa theo lời ông Thầy xong ông nguyện: Nguyện kiếp nào cái phước mà hôm nay ta làm ta sinh ra chỉ ngủ thôi không làm gì hết." Thì ông sinh ra làm Long Vương nằm dưới đại dương. Mà trải qua 4 đời Phật từ Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Konāgamana, Đức Phật Kassapa, rồi tới Đức Phật Gotama, 4 cái bình bát nằm kế bên Long Vương, ông nghe bình bát rớt ông ngó lên nói có một vị Phật ra đời. Thời Đức Phật Ngài nguyện Ngài thả bình bát trôi ngược giòng, bình bát rơi cái cộp xác nhận có một vị Long Vương ra đời, cái bình bát trôi trở vô đêm đó Đức Phật đắc đạo quả

Câu hỏi 2. Người nào thức mà không ngủ ?

1) Hạng người Vô Sắc Giới, từ Không Vô Biên tới Phi Phi Tưởng Xứ, các Ngài lên trên đó không có sắc pháp, chỉ có danh pháp thôi, chỉ ngồi thiền không, ngồi suốt cho tới hết kiếp luôn. Tuổi thọ của người Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ 16 ngàn kiếp, thọ nhất trong 31 cõi của Tam Giới: 11 cõi Dục Giới + 16 cõi Sắc Giới + 4 cõi Vô Sắc Giới.

Thì người thức mà không ngủ là hạng người Vô Sắc Giới, họ chỉ có danh pháp không có sắc pháp họ sinh lên trên đó họ không có sắc pháp, họ sài tâm thức, họ không có ngủ, họ ở trong thiền, họ không đi đâu hết. Các vị Phạm Thiên, Sơ Thiền Sắc Giới, Nhị Thiền Sắc Giới, các vị đó có khi đi có khi không đi, có khi họ ngồi thiền họ không đi, như Samati tới thỉnh Đức Phật thuyết pháp thì các vị đó thuộc Sơ Thiền Sắc Giới.

Người Vô Sắc Giới là 4 cõi : Không Vô Biên, Thức Vô Biên, Vô Sở Hữu, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Hạng người này chỉ có Danh Pháp họ không có sắc pháp, họ sinh lên trên đó sống an trú trong thiền.

2) Thứ hai là người nhập định, người đắc định họ thức không ngủ. Niêm luật của người nhập định từ 1 ngày đến 7 ngày là hết, không được hơn, 7 ngày là dành cho người Thiền Diệt, hay là Diệt, Thọ, Tưởng, Định Nirodha-Jhāna hay là Nirodha-samàpatti, là người tam quả và tứ quả họ mới có, là người Bất Lai và Vô Sinh, họ thức không ngủ, lúc đó họ ngồi thiền trong trạng thái nhập định và tâm không sinh, sắc pháp còn nhưng họ không ăn không ngủ, họ ở trong trạng thái tịnh lặng 7 ngày. 

Còn thí dụ như quí Phật tử mà nhập định, thí dụ như ban đêm quí Phật tử ngồi thiền mà nhập định ngồi an trú trong định theo lời chú nguyện của mình, mình có chú nguyện thì mới được. Trong phần đọc phần những tiên khởi trong phần hành thiền của mình, thì quí Phật tử nguyện, cho tôi một tiếng, cho tôi 2 tiếng, cho tôi một ngày để tôi nhập định. thì lúc đó theo chú nguyện của mình mà nó sẽ thực hiện. Thì chú nguyện đó có người chú nguyện một giờ, có người chú nguyện một ngày, thì lúc đó họ thức không ngủ.

3) Hạng thứ 3 là ngạ quỉ chỉ thức không ngủ do nghiệp ác của nó nên không cách nào ngủ được. Hạng ngạ quỉ bị đói khát ngủ không được, họ cứ đi tìm sự an lạc cho họ mà không có được, do quả trổ. Như thân bằng quyến thuộc của Bình Sa Vương. Vua Bình Sa Vương đang ngủ trên long sàng mà nó đến lay trong 3 đời Phật quá khứ nó cầu cứu xin giải thoát nó ra khỏi kiếp ngạ quỉ của nó, nhưng không ra, tới thời vua Bình Sa Vương cầu Đức Phật Gotama nó mới ra khỏi cảnh thức mà không ngủ này, nó trả quả.

4) Hạng chúng sinh ở địa ngục do phải trả quả. 

Nên quí Phật tử phải nhớ khi "Nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục" một khi mất thân người khó trở lại làm người, nếu rớt xuống 4 đường ác đạo địa ngục, ngạ quỉ, atula, súc sinh, có những súc sinh thức không ngủ, trả quả mà ngủ không được, và những người làm ác tối ngủ không được vì lương tâm cắn rứt hành hạ dầy vò làm cho người đó phải trả quả trong phần tâm linh đau khổ cho tới ngày họ mất, rồi họ lại bắt đầu đi theo nghiệp đó đi nữa.

Do đó, khi người ta hỏi câu hỏi: Hạng người nào thức không ngủ, mình nói từ tốt xuống xấu:

1. Tốt nhất là Vô Sắc Giới, họ có danh pháp không có sắc pháp.

2. Hạng thứ hai là người nhập định, họ ở trong trạng thái định của họ, họ không có ngủ.

3. Hạng thứ tư là ngạ quỉ.

4. Hạng chúng  sinh ở địa ngục

Như Đề Bà Đạt Đa, với A Xà Thế không ngủ được nhất là ở trong đại địa ngục.

Do đó, những câu hỏi này là câu hỏi làm cho mình động tâm để mình thức tỉnh mà lo tu. Đầu tiên là mình phải động tâm thì mình đi tới thức tỉnh. Chữ "Kệ Động Tâm" không phải là kêu mình tu mà là kêu mình thức tỉnh là mình phải ý thức rồi mình mới tu tập. Thì giai đoạn đó mình trở thành Giác Hữu Tình, khi đã qua được ý thức mà đi tới thành Giác Hữu Tình thì mình đi con đường Ba La Mật mới thành tựu với ý nghĩa của người thức tỉnh giác ngộ có sự hiểu biết. Còn không thì họ làm theo thông thường pháp thế gian của khả năng của họ biết thôi.

Do đó, những cái này là những câu hỏi Sư thường hay thực hiện trong những lúc mà kiểm tra bài thi.

Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, nếu nói hạng người không ngủ thì những người ở tầng thiền của Sắc Giới từ Sơ Thiền Sắc Giới đến Tứ Thiền, Ngũ Thiền, thì những vị đó cũng Thiền.

HT trả lời: Nói chung là cõi Đáo Đại từ Sắc Giới tới Vô Sắc Giới họ coi như là thức không ngủ, nhưng trạng thái mà mình muốn nói "Thức không ngủ" của rốt ráo thì cõi Vô Sắc Giới nhiều, còn người Sắc Giới có khi họ thức nhưng họ đi nghe pháp Đức Phật họ đi làm chuyện mà họ nhìn thấy Đức Phật hay là lễ bái Đức Phật, những cái đó đâu phải trạng thái chỉ có thức và ngủ và không ngủ của chuyện ngồi thiền.

Thực ra cô Tịnh Nhân nói đúng, nó có thể có Sắc Giới nữa, lên tới tầng thiền Sắc Giới thứ 4 gọi là Ngũ Tịnh Cư Thiên các vị đó là Bất Lai họ ở trong Chánh Niệm của họ; Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ. Ngũ Tịnh Cư Thiên là thế giới "Thiện hiện, thiện kiến, vô phiền, vô nhiệt", sắc cứu cánh, họ ở trong cõi đó, họ thiền, họ tu tập, nhưng họ đang tu trong con đường giải thoát, tại vì các Ngài là hạng Bất Lai. Còn từ Sơ Thiền Sắc Giới, Nhị Thiền Sắc Giới, Tam Thiền Sắc Giới, các vị đó có trạng thái đó thì có khi mình lọt qua Vô Tưởng thì trạng thái ngủ mà không thức thì trừ ra những trường hợp này.

Câu hỏi thứ 3. Nghiệp lực nào nặng nhất ?

Cực trọng nghiệp lực nặng nhất, là con đường đắc thiền mà sinh về cõi trời Sắc Giới, Vô Sắc Giỡi là người đó đạt được Cực Trọng Thiện nghiệp lực.

Còn nếu như phạm ngũ nghịch đại tội thì là Cực Trọng Ác Nghiệp Lực.

Do đó, nếu như trả lời câu hỏi nghiệp lực nào nặng nhất mà trả lời "ngũ nghịch đại tội" thì không đúng, vì thiếu một vế.

Ngũ nghịch đại tội là: 

1. Sát tử mẫu (giết mẹ)

2. Sát tử phụ thân (giết cha)

3. Chích huyết thân Phật (làm thân Đức Phật chảy máu). Đề Bà Đạt Đa lăn tảng đá xuống làm chảy máu chân Đức Phật.

4. Sát tử Vô Sinh (giết hại A La Hán)

5. Phá hòa hợp Tăng đoàn

Tăng đoàn khác với Tăng thân. 

Tiếng Pali Saṅgha là Tăng đoàn là đoàn thể của các vị tu sĩ hay là đoàn thể của Chư Tăng  Saṅgha

Tăng thân là cá nhân của một nhà Sư.

Trong đời này mình phạm bao nhiêu ngũ nghịch đại tội ? Trong đời này mình không sát tử vô sinh, không chích huyết thân Phật. Như vậy chỉ còn 3 loại là sát tử mẫu, sát tử phụ, phá hòa hợp Tăng đoàn. Đối với những người Phật tử cao niên lớn tuổi thì 2 loại sát tử mẫu, sát tử phụ thì không có, còn những người còn cha còn mẹ thì cẩn thận. Quí Phật tử không bao giờ nghĩ rằng là giết, không phải là mình giết, mình chỉ làm cho họ khổ tâm mà họ chết vì cái mình làm cho họ khổ, mình cũng mang nghiệp, phải cẩn thận lời nói của mình, Trời đã sinh Du mà còn sinh Lượng, 3 lần kích tướng mà ông Chu Du thổ huyết chết, là do lời nói của Gia Cát Lượng chứ không cần lấy gươm đao giết Chu Du, mà do Khổng Minh giết bằng lời. Do đó, sát tử phụ.

Cực trọng ác nghiệp lực. 

Chuẩn xác tà kiến nặng hơn cực trọng ác nghiệp lực. 

Khi nói mình phạm ngũ nghịch đại tội này là đã phạm vô cực trọng ác nghiệp lực rồi, nhưng cha mẹ của mình mà rớt vào chuẩn xác tà kiến mà mình không chuyển được thì mình cũng phạm vào cực trọng ác nghiệp lực

 Cha Mẹ không tin nhân quả, không tin tội phước, không tin sinh tử tái sinh, mình phải chuyển. Nên mình mới thấy các gương bậc Thánh nhân, các bậc gọi là tôn túc như Đức Phật phải độ Cha Mẹ. Xá Lợi Phất sinh ra do người mẹ là Bà La Môn tà kiến, đến phút chót Ngài cũng phải về độ cho Mẹ của Ngài cho có chánh kiến rồi Ngài mới tịch được. Các quí Phật tử phải cẩn thận, cố gắng nếu mà còn cha còn mẹ phải đưa về trong chánh kiến.

Trước khi Sư đi vào con đường xuất gia, buổi sáng Sư đi đến chùa Siêu Lý nghe Pháp gặp Ngài Tịnh Sự. Đằng sau hè của chùa nơi rửa chén bát của cô Tư Ngài có trồng cây soài giống dưới Vĩnh Long, cây soài ra trái nhiều lắm, tại vì cô Tư rửa chén nước đổ xuống hàng lá dứa, rồi nước chảy xuống gốc cây soài. Mỗi bữa không lỗi ngày nào hết Ngài Tịnh Sự đưa cho Sư một trái soài kêu Sư ăn lúc đó khoản 8, 9 giờ để trưa ngọ ăn, Sư cất trong hộc tủ, đến chiều Sư đi về Sư cầm trái soài đi về vì lúc đó trái soài là của Sư, thì lúc đi về má Sư ngồi trước cửa Sư nói má có trái soài nè. Má Sư nói thôi đừng sạo, có trái soài rồi mai mốt đi tu đó. Sư nói má thiệt à, Ngài cho con, con để dành về cho má, má ăn đi, không có dụ, không có gạt đâu. Sau đó mình có đi tu có bị sao đâu. Mỗi ngày Ngài cho một trái soài không ăn cất để dành mang về cho má.

Để không bị cực trọng nghiệp lực tội thì đưa cha mẹ mình ra khỏi cái thấy sai chấp lầm bằng mọi giá, bằng mọi cách, cái đó là mình bước ra khỏi cực trọng ác nghiệp lực. Chứ không phải mình thấy cha mẹ tà kiến thấy sai chấp lầm mà mình để lơ, mình nói mỗi chúng sinh có nghiệp riêng không độ nổi đâu.

Các bậc Thánh nhân, các Ngài đi qua như thế nào mình phải học cái đó, mình phải làm cái đó. Đó mới là chuyện mình không tạo tác ra trọng nghiệp lực này.

Ba Mẹ Sư hồi đó học với Ngài, mẹ Sư học với Ngài cho tới khi sinh con trai út rồi mẹ bệnh nên mới nghỉ, Mẹ Sư học Siêu Lý nên sách của Sư bây giờ phần lớn là của Mẹ Sư đưa cho Sư.

Nên khi học cực trọng nghiệp lực có 2 loại là Thiện thì lên cung trời Vô Sắc Giới, đó là cực trọng thiện nghiệp lực. Mà cực trọng ác nghiệp lực có 2 là ngũ nghịch đại tội và chuẩn xác tà kiến. 

Ngũ nghịch đại tội có niêm luật và có thời hạn, tới khi hết nghiệp của nó thì nó bứt ra liền, nó trở lại bình thường, giống như Đề Bà Đạt Đa và vua A Xà Thế. 

Nhưng chuẩn xác tà kiến, quả địa cầu này tan, quả địa cầu khác tới, Phật này tới Phật kia đi, cũng không hết. Nên làm con mà để Cha Mẹ tà kiến mà rớt trong chuẩn xác tà kiến làm con là mình nặng tội lắm, phải bằng mọi giá.

Nên Sư cái may cái phước của Sư là Ba Mẹ Sư biết chánh kiến biết tu tập, còn quí Phật tử nào mà chưa có mình phải ráng mà lo, thì bằng cái nào mình độ được. Các vị Phật, các vị Thinh Văn mà độ gia đình của các Ngài bằng Ba La Mật, mình phải đi bằng Ba La Mật mới độ được Cha Mẹ.

 Như vậy, khi quí Phật tử độ Mẹ hay độ Cha bằng Thinh Văn hay bằng Độc Giác. Buổi tối mình phải nghĩ suy để độ Cha độ Mẹ đó là mình đang đi Độc Giác, còn ban ngày mình đi Thinh Văn, tối mình suy nghĩ không ngủ được hay mình giờ chỉ có một trái soài lên chùa được lộc cho trái soài mình ăn nửa trái còn nửa trái đề dành cho Ba Mẹ, đó là nửa phần của con.

Quí Phật làm cái đó mà muội lượt là thiếu bổn phận chưa có Ba La Mật. Ba La Mật là lấy chúng sinh, mà trong chúng sinh cái gì gần nhất là mình thực hiện trước còn cái xa mình bắt đầu tính tới chứ mình không có làm chuyện gọi là vô ích hay là vô lý.

Cũng như các quí Phật tử mà Cha Mẹ mình mất thì mình lấy tâm sức tâm huyết của mình tu, bắt đầu mình nguyện mình chia mình hồi hướng. 

Nên các quí Phật tử thấy, ở đây Sư muốn nói quí Phật tử nghe, không phải mình hồi hướng mỗi ngày chưa đủ nữa chứ đừng nói một năm giỗ một lần, cái đó là sai ghê lắm. Cha mẹ cho mình ăn mỗi ngày mà mình hồi hướng một năm làm giỗ một lần hồi hướng cho, không có, mỗi ngày mỗi ngày mà còn chưa đủ nữa, phải tìm một cái gì cao quí nữa, như viết kinh sách hay in kinh sách hay ngồi thiền đắc định hồi hướng chia phước, cái đó mình làm trả ơn chưa hết chưa đủ. Cái đó là mình đang làm Độc Giác và Thình Văn.

Ở đây Sư nhắc mình làm với cái Ba La Mật của mình độ Cha độ Mẹ, làm từ từ, mưa dầm thấm đất, từ từ rồi chuyển, mình phải làm. Như Ngài Xá Lợi Phất Ngài về nhà mẹ của Ngài không hoan hỉ, mẹ Ngài la rày mà Ngài đứng yên, 500 đệ tử Ngài đứng kế bên mà Ngài im ru, nhưng Ngài vẫn phải về nhà độ mẹ.

Cha mẹ mình ở đâu mình nghĩ tới rồi hồi hướng cầu nguyện cho.

Mà mình làm cái đó thành Ba La Mật thân bằng quyến thuộc mình hưởng được cái đó, và cái đó trên đường mình đi kiếp này qua kiếp kia mình có sự hổ trợ với năng lực mình đang tu thành tụ Ba La Mật mình đang tu.

Sư tóm tắt lại: cực trọng nghiệp lực không phải chỉ ngũ nghịch đại tội mà có chuẩn xác tà kiến.

Chuẩn xác tà kiến có 3:

1. Thấy sai chấp lầm

2. Thường kiến đoạn kiến

3. Vô nhân kiến, vô hành kiến, vô hữu kiến

Vô nhân là không tin nhân quả. Vô hành là không tin cái mình tạo tác. Vô hữu là không tin quả phước và tội. Cái đó nó sống trong tư tưởng của mình mà mình không hay, trong đời sống hàng ngày một phút giây mình ngồi mình nghĩ tại sao mình khổ quá, cái câu mình nói rất là bình thường, nhưng thật ra mình đang rớt trong cái thường kiến, mình thấy mình khổ hoài không có thay đổi, đó là thường kiến.

Do đó, mình thấy tại sao mình không qua được cái sinh diệt này, đã có sinh là phải có diệt thì mình ra khỏi cái tà kiến này, cái đó một phút thôi, mà còn mình nghe người ta nói người ta than, mình nói đúng rồi tôi cũng thấy vậy là mình đang cộng nghiệp với họ. Những cái đó rất là vi tế, rất là nhạy cảm mà mình không có chánh niệm hay mình không có chú niệm mà mình rớt vô tại sao mình cứ tạo tác sao cứ khổ hoài là mình phải vướng vô những lúc mà mình không hay biết.

Khi tới người mình độ thân bằng quyến thuộc của mình độ hay là cha mẹ của mình độ, hay là anh chị em mình độ mình lấy cái gì mình đi. Ngài Xá Lợi Phật muốn tới độ mẹ của Ngài lấy trí tuệ Ba La Mật để độ mẹ mình. Khi Ngài đi tới mẹ của Ngài, Ngài đi với trí tuệ Ba La Mật, Ngài đi với chú nguyện Ba La Mật, Ngài đi tới tế độ mẹ của Ngài 

Khi Đức Phật hay Xá Lợi Phất đến với cha mẹ với cái nghiệp của người đó, mình phải biết cái nghiệp của người đó mình mới tới chứ không phải mình đi tới với nghiệp của mình, nghiệp chủ Kammassakatā của người mình muốn độ, Đức Phật đi tới với cái nghiệp của chúng sinh, chứ không phải Ngài đi với Ba La Mật, vì Ngài có rồi.

Do đó, khi mình tới tế độ cha mẹ mình, mình phải biết nghiệp của cha biết nghiệp của mẹ, cũng như quí Phật tử hồi hướng cho cha mẹ của mình, mình phải biết nghiệp của cha mẹ mình, người thân của mình, mình mới tới mình mới làm được cái hành động của mình cho, còn nếu không biết coi như là vô phương và không có kết quả và không có hữu ích.

Do đó, khi người ta hỏi: khi mình đi tới độ người ta mình có Ba La Mật, có Thinh Văn Giác là mình có rồi (là cái tôi của mình) nhưng mình tới với nghiệp chủ Kammassakatā của họ để mà mình độ họ, chứ không phải đi với cái tôi của mình.

Thì khi mình đi tới cái nghiệp chủ Kammassakatā của họ, có pháp nghịch  có phản ứng thì mình mới làm được pháp Ba La Mật của mình, còn mình đi tới ên ên vậy đó thì không có kết quả. Xá Lợi Phất về mẹ Ngài tát nước vào Ngài nhưng Ngài không bỏ, Ngài biết cái nghiệp chủ Kammassakatā  của mẹ Ngài, Ngài vẫn tiếp tục phải làm xong, bạt cái nghiệp này đi, chứ không phải Ba La Mật của Ngài.

Do đó, cái câu người ta hỏi, như vậy thì khi mình đi tới độ người ta mình phải biết Kammassakatā của người ta, chứ còn không mình không có chủ quan được.

Những cái này là những kinh nghiệm và quí Phật tử cần phải bổ túc, những bài thi những bài học Sư có những bài thi những câu hỏi vậy đó tóm lại ôn lại cho kết quả của mình thực hành.

Sư nhắc lại: 

Cực trọng nghiệp ác thì mình biết rồi, nó có hai là:

1.  ngũ nghịch đại tội, thời này chỉ còn 3 là; sát cha, sát mẹ, phá hòa hợp Tăng đoàn (Táng đoàn từ 4 vị trở lên)

2. Chuẩn xác tà kiến là vô nhân, vô hành, vô hữu

Và mình đi tới độ người nhà của mình người thân của mình quá vãng hay còn đang tại tiền thì mình phải biết Kammassakatā của người họ và mình thực hiện Ba La Mật của mình với cái nghiệp chủ đó để mà tương tác mới độ được.

Do đó, mình không có chủ quan được thì mình mới thành tựu được cái việc tu tập của mình. Mình tu đây là mình tu chữ Hiếu, chữ Thiện, và tu Ba La Mật, tu Giải Thoát. Mình phải đi từng bước, mới có kết quả, không nói suông.

Con đường mình tu là tu cho Ba La Mật, tu cho Giải Thoát, tu cho cái Thiện, tu cho pháp hoàn thiện, tu độ cho chúng sinh với cái nghiệp lực của chúng sinh./.