Thursday, November 20, 2025

075 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 9, 2023

                                                074 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 9, 2023  

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng 075 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Dāna: là bố thí, là phước hữu lậu, kiếp sau mình sinh lên hay tại kiếp này mình hưởng quả (pala) của phước hữu lậu, tức là có phước vật, nhưng có phiền não, là sợ người ta cướp, sợ người ta ăn cắp, sợ người ta tới giết mình. Dāna sống trong trạng thái của hữu lậu còn phiền não. 

Pariccāga: từ bỏ; từ bỏ; ban tặng; từ bỏ, hi sinh, là phước vô lậu, là phước giải thoát, mà phước vô lậu đó trổ ra trong đời sống hàng ngày là thoát khỏi những phiền não. 

Trên con đường muốn giải thoát có 2 con đường mình lên làm :

1. Muốn làm Dāna bố thí để mình hưởng lợi

2. Muốn làm Pariccāga để mình ra đi giải thoát.

Tất cả các vị Bồ Tát Bodhisatta, dù là Thinh Văn, hay là Độc Giác, hay là Chánh Đẳng Giác họ đang là Bodhisatta họ theo Pariccāga hơn là Dana.

Còn Phật tử người mà không có học thì họ thích làm Dana, họ không hiểu được Pariccāga. Nói theo danh từ ngoài thì Dana là phước Hiệp Thế, Pariccāga là phước Siêu Thế.

Mình làm những việc thiện với nguyện Pariccāga buông bỏ để giải thoát  không còn phiền não, nhưng phước Dana vẫn đi theo mình mà nó không làm phiền mình. Còn nếu mình làm thiện mà không có nguyện Pariccāga mà mình làm Dana thì đương nhiên Dana nó có phước nhưng nó sẽ làm phiền mình kéo theo nó, phải biết tác ý, mình không có vọng móng, nhưng nó theo ta như bóng với hình.

Các bậc Bodhisatta bậc Chánh Đẳng Giác thì Ngũ Đại Thí Pañca Pariccāga là các Ngài đi tới con đường Chánh Đẳng Giác. 

 Pariccāga gọi là Phóng Khí, là không để ý tới.

Dāna là Xả Thí.

Bồ Tát Sumedha là tiền thân của Đức Phật Gotama. Khi Bồ Tát Sumedha mở cửa kho chứa tài sản 7 đời của phụ thân Ngài để lại cho Ngài.  Ngài đứng phát ai xin gì Ngài cho cái đó, sau đó Ngài nghĩ ta ra đi mà còn đứng đây phát thì đó là còn ràng buột, Ngài mở cửa kho ai muốn lấy gì thì lấy và Ngài bỏ đi không để ý tới nữa. Đó gọi là Pariccāga.

 Dāna là bố thí có những nhỏ nhặt sẽ làm quí Phật tử phiền não, chẳng hạn như cá nhân tuyển thí chứ không tập thể thí, thí dụ như quí Phật tử ưa người đó thì cho, còn không ưa người đó thì không cho, đó là cá nhân tuyển thí , cho dù tới chùa lựa ông Sư của mình còn ông Sư khác không cúng thì đó cũng là Dāna chứ không phải là Pariccāga.  Còn khi phóng khí Pariccāga là Phật tử để cúng dường  ở bàn ai lấy thì lấy, chứ không có cá nhân tuyển thí.

Mỗi một pháp thiện của mình với tác ý gì, mình có niệm có kiểm soát không hay mình làm một cách máy móc theo thói quen của mình xưa nay không có chuẩn bị gì hết.

Mỗi vật thực mấy cô mang đến chùa, mỗi lễ vật mấy cô mang tới chùa hay mang tới cho người khác, làm như vậy thì mấy cô làm Dāna hay Pariccāga thì mấy cô phải có tác ý, chứ không phải làm máy móc hay làm không có trí tuệ.

 Mỗi một pháp thiện công đức nó cho mình con đường mình đi, mà con đường này mình đi mà mình không biết thì cái đó coi như là mất đi một phần năng lực, rồi quả trổ sinh ra mình lại mất đi một phần nữa.  Tại vì có khi mình không biết đón nhận, mình không biết nên mình không hoan hỉ đón nhận, có khi nó phản ứng ngược lại với quí Phật tử.

 Do đó, tai sao có những người nói tôi làm việc thiện phước hoài mà sao tôi phiền não hoài không được an vui.  Thấy người ta ít làm phước mà người ta lại được yên vui, còn mình sao bị phiền não hoài.  Những cái đó là do tác ý và trí tuệ của mình nó làm ra cho mình.

Nên mấy thiện công đức là của mình mà mình không làm chủ được mình trong những việc thiện công đức thì nghiệp chủ  Kammassakatā của mình trước kia do Vô Minh duyên Hành mình đã làm ra nó chụp mình.

Một đứa con mình sinh ra là cơm mới hay cơm cũ mình không biết. Rồi ngược lại mình làm con, mình đối với cha mẹ, cha mẹ là cơm mới hay là cơm cũ của mình. Đối với cha mẹ là cơm cũ của mình hay là mình đang làm cơm mới để mình hưởng, hay là mình đang đón nhận cơm cũ mà mình phải trả, mình không biết. Họ đứng vị trí làm con, mình đứng vị trí làm cha mẹ.

Mỗi người có : Cha mẹ có nghiệp cũ, con cái có nghiệp cũ, tương tác nhau mới gặp nhau. Nếu không tương tác với nhau, không kết hợp nhau thì không gặp nhau.

 Vậy thì khi mình hiểu được nghiệp cũ của nó, và khi mình tự biết được nghiệp cũ của mình, thì mình tạo ra nghiệp mới mình trở lại trong nghiệp cũ và mình nhìn ra nó không nhìn nghiệp cũ mà muốn nó trong nghiệp mới, thì mình phải có tác ý.

Thí dụ, mình sinh đứa con ra, cho nó đi học, từ tiểu học cho đến đại học, nhưng mình nhìn việc học của nó thì mình biết được nghiệp cũ của nó hay nghiệp mới của nó, nó học giỏi mình biết, nó học dở mình biết, đó là của cá nhân nó học. Còn khi nó ở trong nhà với mình, nó có hiếu nó nghe lời mình, nó bướng bỉnh cứng đầu hỗn hào bất cung kỉnh với mình đó là nghiệp cũ hay là nghiệp mới của mình mình biết.

Bây giờ nếu như mình muốn tương tác thì mình còn cộng nghiệp, còn không muốn tương tác mình rút lại thì không cộng nghiệp, thì ngày mơi, kiếp sau đường ai nấy đi, nó chỉ mượn kiếp này hay mình vay kiếp này, 2 người gặp nhau trong kiếp này, kiếp sau không gặp nhau.

 Con đối với cha mẹ cũng vậy.  Sariputta sinh ra trong gia đình Balamon, mẹ của Ngài là người cực đoan bà không muốn Ngài đi tu theo Đức Phật, gia đình Ngài có 7 anh em, Ngài là anh cả, em út là Revata,  Ngài độ đi tu hết, tất cả đều đắc Alahan.  Mẹ của Ngài không có niềm tin Tam Bảo và không tin vào phước báo nghiệp báo. Tới giờ chót ngày cuối cùng trước khi Ngài viên tịch, Ngài trở về căn nhà cũ của cha mẹ và Ngài viên tịch tại đó để Ngài độ cho mẹ của Ngài lúc đó chưa đắc quả thì Ngài phải đi rồi, tại vì tới cuối rồi. Từ khi Ngài biết được Đức Phật tới ngày cuối Ngài viên tịch là Ngài liên tục trở về nhà để cho mẹ Ngài để bát cho Ngài với 500 vị Tỳ Khưu đệ tử, Ngài tạo ra để mẹ Ngài làm việc thiện này, với thửa ruộng này là phước điền nhưng Ngài cũng không làm được, cho đến ngày cuối bà mới có một đức tin thôi thì Ngài viên tịch rồi. Ngài Xá Lợi Phất kiên trì và nhẫn nại.

 Nên Đức Phật nói Pháp nhẫn nại thì Sariputta là đệ nhất.

Thì một chuỗi dài của Sariputta để làm con đối với mẹ cha của mình, thì muốn làm như vậy thì Ngài bỏ nghiệp cũ của Ngài và tạo ra nghiệp mới, rồi nhìn lại nghiệp cũ của mẹ Ngài và tạo nghiệp mới cho Ngài.  Ngài bỏ nghiệp cũ của Ngài Ngài tạo nghiệp mới cho chính Ngài, rồi Ngài mới nhìn nghiệp cũ của mẹ của Ngài rồi Ngài mới tạo nghiệp mới cho mẹ Ngài.

Làm con cũng vậy, làm cha mẹ cũng vậy.

Như vậy thì trong đời sống hàng ngày nếu mình cứ sống trong nghiệp cũ của mình mà tương tác với gia đình mình với cha mẹ hay là con cái thì làm sao có nghiệp mới cho mình, cho con mình, cho gia đình mình ? 

Không có. Quí Phật tử đang sống trong nghiệp cũ thì làm sao nói là nghiệp mới được, tập khí mình còn, thói quen mình còn, tính nết mình còn, mình không sửa đổi thì mình đi qua với con mình, nó không chịu, cha mẹ cũng không chịu. Ngài Xá Lợi Phất hoàn toàn hết rồi, Ngài là Chí Thượng Thinh Văn, là đệ nhất cao tăng của Đức Phật mà Ngài cũng làm hết sức của Ngài. Nên quí Phật tử phải thấy rất là quan trọng.

Nghiệp cũ của mình là gì ?  

Nghiệp cũ có 2 loại :

1. Sống trong thói quen của phiền não 

2. Sống trong thói lập đi lập lại không chịu thay đổi

Sống theo thói quen của phiền não hay là sống theo thói quen của lập đi lập lại. Thí dụ bố thí trì giới sống lập đi lập lại không có thay đổi. Đó cũng là nghiệp cũ.

Hai nữa là quí Phật tử sống trong phiền não là tham sân si giận hờn hỉ nộ ái ố, sống trong đó một chuỗi dài như vậy, đó là nghiệp cũ của mình. Nghiệp cũ của mình là mình sống trong cái phiền não của mình hay là sống trong thói quen của mình.

Như mẹ Sư sáng thức dạy là làm một ly cà phê sữa đá để lên bàn thờ Phật để cúng dường Đức Phật, xong thì lên tụng kinh 1 tiếng rưỡi, tụng kinh xong thì mẹ Sư thỉnh ly cà phe sữa đá xuống dùng, rồi bắt đầu nấu cơm cho chồng con ăn, xong thì đi xả thí. Mẹ Sư cứ sống như vậy, không có cái gì là mới hết, chứ mẹ Sư không sống trong phiền não.

Còn mình đây, có người sống trong phiền não, không có gì thay đổi mới, có người sống trong tuổi già với nghiệp cũ của mình mà họ không hay. Nếu quí Phật tử sống trong trường hợp này thì cái gì là nghiệp mới của quí Phật tử ?

Nếu sống mà không có trong Pháp thì một là cô sống trong cái làm việc thiện lập đi lập lại.  Còn hơn nữa mà không có được pháp thiện lập đi lập lại hàng ngày mà mình có tạo ra do thói quen là sống trong phiền não lập đi lập lại, trong thói quen lập đi lập lại không có gì là mới, 100 năm sau gặp lại cũng vẵn như vậy không ra khỏi, và cái nghiệp đó nó lập đi lập lại cho tới kiếp sau, và cái nghiệp cũ của quá khứ nó lập đi lập lại và mình cứ hưởng cơm cũ này lập đi lập lại cho kiếp này mình sẽ đón nhận nữa, đó là may, còn không là rớt xuống nữa.

Rồi con mình sinh ra "sanh tử bất sanh tâm, sanh ngưu vô sanh giác" nghĩa là, con trâu sinh ra được cái thân chứ không sinh được cái sừng, sinh đứa con là sinh được thân của nó chứ không sinh được cái tâm của nó. Thì mình nhìn nó với một đứa con của nghiệp cũ hay đứa con mới của nghiệp mới, nếu sống mà không có trí và không có tác ý thì mình sẽ trôi lăn và nó cũng trôi lăn với kiếp sống của nó.

Nghiệp cũ của nó nếu như mình nhìn nó với nghiệp cũ của nó, khi mình vừa sinh nó ra thì mình nhìn nghiệp cũ của nó mình có biết không. Con mình sinh ra mình cùng với nó là nghiệp cũ.

 Giữa 2 lằn ranh cha mẹ và con cái. 

Con cái, những gì nó đang làm ra dù là cũ hay là mới, là cha mẹ mình phát nguyện không lập lại, chỉ tạo mới thôi thì mình mới có cái nghiệp mới được. Mình nhìn thấy nó là cái gương phản chiếu của cái nghiệp của mình thì mình mới tạo ra một cái nghiệp mới cho mình, chứ mình không có trách nó, thấy nó là mình giựt mình.  Nếu như mình biết nó có sự tương tác với mình trong cái nghiệp lực này mới kết nhau trong một gia đình.  Thì mình nhìn thấy nó những gì của nó, dù là cũ hay là mới, thì mình nói ta không lập lại cái này nữa, thì  mới có cơm mới.

Nếu mình không nhìn ra được thì chính mình ôm cái khổ của mình trong cái sự vô minh của mình mà mình không biết gì.

Trong thời hiện tại trong Thức này là Quả Dị Thục chứ không phải là Thức Đổng Lực.  Khi nhìn cái này (cha mẹ / con cái, nghiệp cũ nghiệp mới) thì là Thức Quả Dị Thục, mà khi nhìn thấy Quả Dị Thục này đang có chính mắt mình nhìn nó thì mình chỉ nhìn vô nó mà kết vô với thói quen của mình thì rớt vô trong Hiệp Thế.  Mà nhìn nghiệp cũ là Quả Dị Thục của mình thì mình chỉ nhìn đây chỉ là Danh Sắc thôi, thì bắt đầu mới thoát ly được.

Thức mình nhìn vô, đây là quả Dị Thục mà chỉ là Danh Sắc thôi.  Thì khi những cái gì nó đang là Danh Sắc hiện bày ra nó chỉ qua 6 cửa mắt, tai, mũi, miệng thôi.  Rồi nếu nhìn ra được cái đó chỉ là lục xúc (lục Xứ) thì nó chỉ là Xúc thì mới ra Thọ, chứ không nghiệp cũ hay nghiệp mới thì mới ra được.  Còn không là ôm nguyên một khối của nghiệp cũ, và ăn cơm cũ, chứ không có bữa nào là cơm mới, tại vì mình không có trí.

Xúc, Thọ, Ái, 3 cái đó là tâm sở (tứ đồng) nó là một cái khoen cột chúng sinh trong vòng thúc phược này.

Do đó, khi học qua Tứ Niệm Xứ ; Thân, Thọ Niệm Xứ mấy cô mới ra được 

để hình 55.32


 Liên Quan Tương Sinh                           Tứ Niệm Xứ 

  Danh / Sắc                          < -----        Thân Niệm Xứ

  Lục Xứ                              <-------

                                                              Thọ Niệm Xứ


Vậy là đang hành Tứ Niệm Xứ hay đang sống trong mãnh lực của Liên Quan Tương Sinh trong lúc mình đang hành thiền Vipassana mà không biết thì mình đang trong nghiệp ăn cơm cũ không có cơm mới.

Xúc, Thọ, bắt qua, chứ nó không nằm trong Thân Niệm Xứ nữa, nó đang là Thọ của Liên Quan Tương Sinh hay là Thọ mình đang niệm chỉ là Pháp, 2 cái đó là cũ và mới.

để hình 075 - 56.38


Vòng Liên Quan Tương Sinh nó làm cho mình rớt trong vòng luân hồi sinh tử, mà cái này đang ở trong hiện tại.  Thì khi Thức của mình biết được là quả dị thục, biết được ta đây chỉ là Danh và Sắc thôi, thì nếu nhìn với Thân Niệm Xứ là có niệm của cái mới, còn nếu không biết thì cái Danh Sắc mình đang niệm, đó là đang ở trong nghiệp cũ của mình đang hình thành và đang chi phối đang dẫn dắt đi.

 Vậy thì khi ngồi thiền mà thấy Danh Sắc này là thấy  Danh Sắc của Liên Quan Tương Sinh hay là Danh Sắc của Thân Niệm Xứ ?

Khi quí Phật tử ngồi thiền cái Thức của mình nhìn vô con người mình đang ngồi thiền là quả Dị Thục chứ chưa nói về Tâm Đổng Lực.  Thì với trạng thái đang hành thiền với Thân Niệm Xứ mình chỉ nhìn vô mình ngồi thiền đây chỉ là Danh Sắc thì mình sống trong Liên Quan Tương Sinh hay chỉ là trong Thân Niệm Xứ với Danh Sắc mà mình đang niệm. Danh Sắc của Liên Quan Tương Sinh hay Danh Sắc của cái niệm của Thân Niệm Xứ ?

Khi ngồi thiền mấy cô thấy đây là Danh Sắc của Thân Niệm Xứ hay cô thấy Danh Sắc của Liên Quan Tương Sinh ?

  Thiền sinh hỏi: khi mình hành Tứ Niệm Xứ thì về Danh Sắc này mình thấy rõ ràng là nó là cái nghiệp của quá khứ , nhờ Danh Sắc này mà khi mà mình thấy như vậy mình mới ra được con đường của Thân Niệm Xứ, tại vì nó là của nó chứ không phải là của mình.

HT trả lời : Đúng rồi, khi hành về Thân Niệm Xứ, nó qua Thọ, qua Tâm, qua Pháp, mình đang hành, mình nhìn về Danh Sắc, đó là tuệ đầu tiên, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, thì mình phân biệt tuệ Danh Sắc theo Thân Niệm Xứ của mình niệm thấy hay là mình thấy được lúc đang hành Thân Niệm Xứ thấy được Danh Sắc này của Liên Quan Tương Sinh của mình đang hiện bày của nghiệp cũ.

Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Nāmarūpapariccheda ñāṇa tuệ thứ nhất của Tứ Niệm Xứ Satipatthana thì mình phân biệt được Danh và Sắc, đây là Danh, đây là Sắc của Liên Quan Tương Sinh hay Danh và Sắc của Thân Niệm Xứ ?

Anh Tâm Nhiệt nói khi vô ngồi mình niệm Thân Niệm Xứ đến một hồi sau Danh Sắc này nó đánh mình tơi tả mình chỉ thấy một chuỗi dài Liên Quan Tương Sinh thôi, chứ không thấy Pháp nào của Danh và Sắc của Niệm Xứ của mình hết. Thì mình thấy đúng không ?

 Nhưng đứng về trong Pháp Abhidhamma; Xúc, Thọ, Tưởng, thì Xúc, Thọ, Ái Dục chấp thủ, những pháp này toàn là tâm sở.  Thì đứng trong Tứ Niệm Xứ niệm Thân thì có Danh Sắc, mà trong Danh Sắc này Thân mình biết có Niệm Xứ, Thọ Thân có Niệm Xứ, Thân, Thọ, Tâm, Pháp, bắt đầu mình thấy Thân có Lục Xứ là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.  

Còn trong Lục Xứ tiếp xúc ở đâu thì mình biết có xúc ở đó, sau cái Xúc thì ra Thọ thì bắt đầu, nếu mà có cái Thọ thì cái phần đang đi tới cái Thọ thì mình để Thọ Niệm Xứ làm, Thọ Niệm Xứ sẽ làm việc đó, chứ không phải chức năng Thân Niệm Xứ làm.

 Qua tới phần Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu (Sinh Hữu), có Sinh, có Lão Tử.  Những giai đoạn này thuộc về Tâm Niệm Xứ.

Những giai đoạn từ Nghiệp Hữu nó qua Pháp Niệm Xứ 

Ái Dục nó của Liên Quan Tương Sinh là thuộc Tâm Niệm Xứ, Tâm biết, chứ Thọ không biết.

Chấp Thủ của Liên Quan Tương Sinh, Tâm biết chứ không phải Thọ biết.

Thọ chỉ có chức năng là cảm thọ, cảm giác, ghi nhận.

Ái, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu, qua tới Pháp, ngoài chức năng của Tâm rồi, nó tạo tác ra nghiệp hữu nó ra sinh hữu, rồi Sinh Lão Tử, đó là Pháp bắt đầu nó theo Liên Quan Tương Sinh.

Lúc đó đi theo trình tự : Thân Niệm Xứ -->  Thọ Niệm Xứ -->Tâm Niệm Xứ -->  Pháp Niệm Xứ   là quí cô hành Niệm Xứ   Satipatthana   (tất cả trình tự này gọi là Nghiệp Mới)  

 Còn trình tự : Liên Quan Tương Sinh  --> Danh / Sắc  --> Lục Xứ -- > Xúc  --> Thọ (cũ) ---> Ái Dục ---> Chấp Thủ ---> Nghiệp Hữu (Sinh Hữu) --> Già / Lão Tử (là Nghiệp Cũ)     

 Như vậy thì khi biết được Danh / Sắc của Liên Quan Tương Sinh, biết được Danh / Sắc của Thân có Niệm, biết được đây chỉ là Danh Sắc trong Thân       

 Vậy thì khi  hành Thân Niệm Xứ    

Thân Niệm Xứ đi tới Thọ để biết tiếp Thọ hay là ở Thân Niệm Xứ  phải thấy được Thực Tính Thực Tướng, là nó có Nghiệp Cũ và Nghiệp Mới.

Thân Nghiệp Xứ mà đi tới Thọ, hay là trong Thân Niệm Xứ này thấy được Thực Tính Thực Tướng không cần tới Thọ là đã thấy được liền thì Nghiệp Cũ Nghiệp Mới.

- Thân Niệm Xứ này vượt qua khỏi Thực Tính Thực Tướng của nó rồi thì  xuống Thọ, thì bắt đầu là Thọ của Liên Quan Tương Sinh hay là Thọ Niệm Xứ. 

- Mà Thọ này đợi qua tới Tâm Niệm Xứ thì không có Nghiệp Cũ Nghiệp Mới, mà đang ở trong cái Nghiệp Cũ Nghiệp Mới.

Cha Mẹ là Thân Niệm Xứ, hay Cha Mẹ là Liên Quan Tương Sinh.

Con cái là Liên Quan Tương Sinh hay là Tứ Niệm Xứ, mình đổi. Nếu như con cái mình với nghiệp cũ là con cái của mình, với trạng thái Niệm Xứ mình nhìn thấy nó chỉ là Danh Sắc. Với cái Nghiệp của nó hiện bày ra nó mình nhìn thấy diễn tiến của nó theo Liên Quan Tương Sinh nó đang có của nó và mình niệm cái đó mình bắt đầu làm theo cái biết của mình thì mình đang có Nghiệp Mới và có cơm mới.

Quí Phật tử không có biết dùng cái đó, không có phát hiện được cái nào là cơm cũ cái nào là cơm mới của mình rồi tự mình làm khổ mình, ngay cả khi đang tu tập cũng tự mình làm khổ mình, rồi ngán vấn đề tu tập, nói tới tu tập có nhiều người sợ. Con cái cũng vậy, ngó tới con cái chúng chỉ làm khổ mình thôi chứ không thấy cái gì an vui cho mình là tại vì mình không biết cách nhìn, tại vì mình không có trí để giải quyết cho chính mình chứ không phải cho họ.

Ở đây, Tứ Niệm Xứ, ta cứ đi tuần tự, hết Thân Niệm Xứ rồi đến Thọ Niệm Xứ, đến Tâm Niệm Xứ, rồi đến Pháp Niệm Xứ.

Vòng Liên Quan Tương Sinh nó quay tròn trong vòng luân hồi, nó là Nghiệp Luân, Phiền Não Luân, rồi ra Dị Thục Quả Luân, 3 cái Luân này nó quay.  Thì khi thấy Danh Sắc này nó quay qua Lục Xứ, ta vừa biết Danh Sắc thì 6 căn ta tiếp xúc với 6 trần, bắt đầu ta biết nữa ta niệm tiếp nữa thì cái đó là Saṁsāra của vòng quay 

Còn khi tiếp xúc được Danh Sắc và khi Danh Sắc bắt đầu mở cửa nào trong Danh cũng được Sắc cũng được, trong 6 căn này nó mở cửa nào mình chỉ thấy là hồi nãy có Danh Sắc bây giờ có Lục Xứ đó là trạng thái của nó, còn không thì đi nữa, tại vì mình vuột.

Mình làm cái này hoàn toàn trong Liên Quan Tương Sinh chứ không trong sự tu tập bhavana.

Bhavana tu tập là phải có Tuệ Văn, Tuệ Tư, mới có Tuệ Tu, còn nếu không sẽ không có nghĩa lý gì cái bhavana.

Vậy thì phải chính mình đây ăn nghiệp cũ ăn nghiệp mới ăn cơm cũ ăn cơm mới đang sống trong nghiệp cũ đang sống nghiệp mới mà mình không biết, một ngày 24 giờ mình không biết mình sống trong nghiệp cũ hay sống trong nghiệp mới.

Một thiền sinh nói : Mình đang học Phật Pháp là mình đang ăn cơm mới. 

HT trả lời : đó là hình thức thô. Cơm mới là phải từ trong tri thức của mình, quí Phật tử ngồi nghe mà mất liền cái cũ thì đó là ăn cơm mới, nhưng ngồi nghe mà còn giữ lấy cái đó để rồi tuần sau cũng lập lại như vậy.

Sariputta là chàng thanh niên Upatisa sau khi nghe ĐĐ Assaji  nói chàng thanh niên Upatisa làm mới liền, và Ngài lập lại cái câu nói của ĐĐ Assaji  với người bạn Kolita Moggallàna thì người bạn này có cơm mới liền, Ngài lập lại cái của ĐĐ Assaji  hay là cái biết của bậc Thánh nhân Tu Đà Hườn nói cho Kolita nghe.

ĐĐ Assaji  nói thanh niên Upatisa nghe xong đắc quả Thất Lai, rồi thanh niên Upatisa tới nói cho Kolita Moggallàna nghe câu của ĐĐ Assaji  hay là của vị Thánh Thất Lai nói, rồi Kolita đắc quả Thất Lai là mới.

 Bây giờ quí Phật tử nghe rồi về kể cho con mình nghe. Quí Phật tử không thấy được cái mới, cái mới là không phải về lập lại, đứa con nói má chỉ là cái máy nghe thôi, con không thấy cái gì mới, nên đứa con không thay đổi. 

Nên mình phải bằng hành động con mình mới thấy lúc bấy giờ lời nói của mình mới có hiệu lực.

khi Upatisa tới nói với Kolita thì Kolita nhìn Upatisa không phải là người cũ mà Ngài đã thay đổi rồi thì Kolita mới lắng nghe, những cái lắng nghe đó Kolita mới nghiệm ra được cái mới của người mới chứ không phải cái cũ của người bạn cũ của mình. UpatisaKolita Chuyển Tộc (Gotrabhū)  từ phàm qua Thánh.

Cũng vậy, khi quí Phật tử nghe Pháp này (Tứ Niệm Xứ), khi hành Pháp này và nghiệm pháp này (Liên Quan Tương Sinh) thì phải là người mới để mà biết cái này chứ không phải là lập lại cái mà mình nghe này chỉ là trạng thái nghiệp cũ trùng lại thì mới có cái mới, phải Chuyển Tộc (Gotrabhū) mới ra cái mới

Vậy thì mình mới thấy Pháp mình học, sách mình đọc, những cái nghĩa lý Pháp nghĩa mình đọc rồi mà mình không có thay đổi, rồi mình ngồi xuống kể lại trùng tuyên lại đúng trong sách chưa chắc làm thay đổi người nghe

Hai người bạn  UpatisaKolita tới gặp Đức Phật thì 2 tuần lễ sau Kolita đắc Alahan sau đó 2 tuần tiếp Upatisa mới đắc quả Alahan, tức là Mục Kiền Liên đắc quả Alahan trước Ngài Xá Lợi Phật, mà Đức Phật nói Sariputta là đệ nhất trí tuệ còn Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông. Trí tuệ của Ngài Xá Lợi Phất chỉ dưới Đức Phật thôi.

Cùng nghe pháp Đức Phật mà Mục Kiền Liên đắc quả Alahan trước Ngài Xá Lợi Phật 2 tuần lễ sau mới đắc Alahan.

Chư Tăng đến hỏi Đức Phật tại sao Ngài Xá Lợi Phất là đệ nhất trí tuệ chí thượng thinh văn đại đệ tử của Đức Phật tại sao đắc Alahan trễ hơn DĐ Mục Kiền Liên chỉ là đệ nhất thần thông.

Thì Đức Phật Ngài trả lời : Không phải ngẫu nhiên mà là có nguyên nhân mà có pháp lý giải thích rõ ràng.

Đức Phật Ngài nói với một người đại trí tuệ với một người trí tuệ hoàn hảo người ta phải hoàn bị hết tất cả về trí tuệ của họ, họ không thể làm nhanh lẹ được, họ phải hoàn bị hết.

 Họ phải hoàn bị hết, thời gian để họ hoàn bị không kéo dài theo ý mình được, khi nào chín muồi thì nó tới. Như đi thi, trả lời bài thi theo cái học của mình hay là theo trí tuệ của mình theo thói quen của mình, theo cách xử của mình học trong trường lớp mà thầy giáo dậy là nó ra cái của quí Phật tử.

Thí dụ như mỗi lần Sư đi thi mẹ Sư nói không nạp bài trước, làm xong rồi phải đọc đi đọc lại, kiểm tra lại coi có sơ xót gì không, chắc rồi mớt đem đi nạp. Người mà ra sau chót hết không phải người đó là dở mà người ta hoàn bị người ta xem xét kỹ rồi mới đi nộp, mình đi ra trước không phải là mình giỏi hay là mình xuất xắc, có khi và có khi không phải.

 Ngài Mục Kiền Liên trên con đường Ngài tu, Ngài không nguyện là đệ nhất về Trí Tuệ, Ngài chỉ nguyện là đệ nhất về Thần Thông trong một thời Phật nào ra đời. Còn Ngài Xá Lợi Phất trong một kiếp Ngài nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác mà bậc trí tuệ mà không thành tựu với cái xả thí của Ngài với con mắt của Ngài do vua trời Đế Thích thử rớt xuống Ngài vẫn làm trí tuệ Chí Thượng Thinh Văn và Ngài phải hoàn bị theo năng lượng tu tập của Ngài, và tới khi nào chín muồi nó thành tựu. chứ Ngài không nóng vội so đo với người.

Còn mình thì so đo sao người ta được mình không được, đó là tập khí kiết sử của mình chứ không phải Pháp, làm sao gột rửa cái Chuyển Tộc của mình được, sao qua được cái Dũ Tịnh (vodāna) của mình được, làm sao  qua được chuyển tộc (Gotrabhū) của mình được vì mình ở trong đó thì không ra được. Ngài cứ lọc rửa cho tới khi nào nó thành thì Ngài thành, chứ Ngài không vọng móng xác định ngày tháng.

Quí Phật tử trồng cây cần có thời gian để trồng mới ra được trái, nhưng thời gian của chính nó cho ra bông ra trái của nó, nhà nông chỉ biết theo tư kiến của mình.

Do đó Đức Phật Ngài trả lời Chư Tăng vì muốn hoàn bị với trí tuệ mà Ngài đã nguyện, do đó Ngài phải trau dồi cho đến khi nào thành tựu và hoàn bị chứ không có vọng móng, kỳ vọng hay là đặt một  nào trước hay sau, nhanh hay chậm, mà làm cho tới khi nào thành tựu thôi.

Vậy thì, trong đời sống hàng ngày quí Phật tử muốn có một có một cơm mới và  muốn tạo ra một nghiệp mới mình phải hoàn bị với pháp mới mà mình đang tu tập cho tới viên mãn chứ không phải nóng vội, mà từ từ nó ra.

Nghe một bài Pháp này về nói lại cho gia đình là không có nóng vội và phải thời cơ và đúng thời điểm thì mới có kết quả.

Trong Tạng Luật, vị Tỳ Khưu cáo tội một vị Tỳ Khưu khác, không phải là gặp đâu nói đó, mà phải đúng chỗ đúng thời, đúng điều kiện mới nói. 

Và ông Sư đi sám hối với Chư Tăng để nhập chúng lại sau khi bị cấm phòng để nhập chúng lại, thì ông Sư cũng phải đi lựa ông Sư nào hiểu biết mình chứ không lựa những Sư nào chống đối mình để xin nhập chúng. Nếu ông Sư lựa người chống đối mình để xin nhập chúng thì ổng không chịu không cho vì ông là người chống đối mình là chết rồi, thì phải lựa ông Sư biết mình hiểu mình thì ông Sư đó cho mình nhập chúng, đó là theo Tạng Luật. 

Do đó, người có trí họ phải biết khi mà mình hành thiền đắc hành thông là lẹ lắm, đâu có ai kiểm soát nhưng mình muốn trở thành người có trí sẽ có người kiểm soát mình vả người ta trắc nghiệm mình do đó mình phải hoàn bị thì người ta mới nhìn mình là người có trí, nếu mà sơ sót là không được.

Vậy thì mình biết cái nào là cái mới, cái nào là cái cũ, và mình sống trong cái cũ. Thứ hai nữa mình không có hoàn bị những cái gì cái mới của mình mình vội quá chưa chắc mình có cái mới hoàn bị. Phải kiên trì như Ngài Xá Lợi Phất thì mới trở thành bậc trí và có trí thật để mình xử dụng để có, chứ không phải do người ta đề cử.

Thì muốn có nghiệp mới phải làm cho hoàn mỹ và chính mình phải thay đổi của cái cũ của mình thì mình mới có cái nghiệp mới và từ đó đến làm cha đến con cái, rồi làm con cái với cha mẹ của mình phải có cái đó, chứ không thể nào nóng vội. Trong khoa học một người làm sai hai người cùng sửa 20 năm họ nuôi dưỡng trong tập khí này, mình phải có 20 năm nhẫn nại để sửa 20 năm sai lầm, chứ không phải một ngày một buổi là xong./.

--------------------------------------------------------------

pariccāga : (m.) giving up; abandonment; bestowal; renunciation. (m.) donation; charity. Pariccāga, (fr. pariccajati) 1. giving up, abandonment, sacrifice, renunciation A. I, 92 (āmisa° & dhamma° material & spiritual); Ps. II, 98; J. I, 12 (jīvita°); DhA.

pariccāga: (m.) từ bỏ; từ bỏ; ban tặng; từ bỏ. (m.) tặng phẩm; từ thiện. Pariccāga, (fr. pariccajati) 1. từ bỏ, từ bỏ, hy sinh, từ bỏ A. I, 92 (āmisa° & dhamma° vật chất & tinh thần); Ps. II, 98; J. I, 12 (jīvita°); DhA.

Chữ pariccāga = pari+ cāga; pari là trọn vẹn, cāga là lìa bỏ, bỏ đi. Chữ pariccāga theo nguyên ngữ là "buông bỏ trọn vẹn"

Thursday, October 9, 2025

074 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 16 tháng 9, 2023

                                             074 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 09 tháng 9, 2023  

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng 074 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Phước vật, phước đức, phước trí, thì trong phần phước đức rải Tâm Từ là Hiệp Thế. Mà Tâm Từ + với Tâm Xả thì ra được Siêu Thế, không bắt buộc là Từ thì Xả liền mà mình tạo ra phước báu rồi thì đừng ôm giữ cái đó nếu không thì nghiệp chủ của mình dắt đi, nên mình phải Xả để mình đi qua.Thì nối tiếp qua, Từ,  Xả thì qua khỏi nghiệp chủ phải đi tới Hành Xả Trí. Bài học liên kết nhau một cách rất có ý nghĩa mà mình không thể nào không thấy được điều đó.

Do đó, khi không đi tới  Xả là quí Phật tử ở trong mãnh lực liền.  Mãnh lực của Thiện thì mình an vui, mãnh lực của bất thiện thì mình phải trả quả khổ, 2 cái đó lẫn lộn nhau.  

Mình Xả, chẳng hạn như ngay khi mình đang bị khổ mình nói : "Mình khổ quá, tại vì mình vô minh nên mình làm và bây giờ mình khổ quá". Đó là mình ôm vô, mình nói câu đó tưởng là mình có trí, tưởng là mình đã giác ngộ. Không phải, mà là mình đang ôm vô, mình chưa xả.  Ngay khi khổ mình nói : "Khổ này không phải của ta, ta không làm chủ được cái khổ này, nó đang chi phối ta." Nhìn thấy được thực tướng, mình ra, không ôm vô. 

Khi nghe một câu điện thoại hay một câu người ta tâm sự. Thì không có hiện tại, không có quá khứ, chỉ có Pháp đang hiện bày không có chi làm chủ cả, chỉ có cái nghiệp làm chủ do mình ôm chứ không có gì khác, thì mình mới ra được.

Cũng như Thiện, ta có phước ta ngồi ta hưởng phước, thì phước đó giữ mình lại, cái phước đó chỉ là cơ hội là bàn đạp để mình tiến tới giải thoát,  lúc đó Hành Xả Trí hoạt động, chứ không ngồi hưởng phước.

Câu chuyện tiền thân của Đức Phật Ngài cho chúng ta bài học rất giá trị : 

Hai anh em tỳ khưu tu chung, nhưng đường đi của vị tỳ khưu anh của Gotama là Đức Phật là tu giải thoát, còn vị bạn của Ngài tu về Thiền Sắc Giới Samati, bây giờ Ngài giải thoát rồi 2600 rồi Samati vẫn còn trên đó. Mà Đức Phật Ngài nói Samati còn phải đi tục sinh chứ không giải thoát, vì chưa phải là Thánh, chỉ Thánh mới được giải thoát. Thì mình thấy rồi, ôm phước mà hưởng, thì nghiệp chủ bọc mình lại.

Người càng có phước nhiều thì phước bọc mình dầy chừng nào thì khó đi chừng nấy.  Cái gì cũng được hết, cái gì cũng có hết, ướt nguyện gì cũng thành hết thì làm sao đi, khó lắm, đừng nói chi đến người bị khổ mà ôm hoài cũng không đi được, trả hết khổ mới đi được, làm sao trả hết, không trả hết được, mình chỉ vuột mà đi thôi chứ làm sao trả hết được, không có ai trên đời này trả hết được.

Mẹ Sư nguyện : "bao nhiêu nghiệp hồi đó tôi tạo ra giờ tôi xin trả hết, kiếp sau lên tôi không lập gia đình, tôi khổ quá."

 Ngài Tịnh Sự nói với mẹ Sư : "Cô Sáu đừng có nguyện như vậy, mình ăn bao nhiêu lúa gạo, rồi mình nói với nông dân làm ruộng mình nguyện trả hết số lúa gạo mình đã ăn, thì làm sao mình trả hết được. Thật ra nó không đòi mà mình nói như vậy nó đến nó đòi."

Do đó, khi đứng 2 vế, bên có phước mình vui mình ôm, bên khổ mình buồn mình ôm, cả hai làm mình đứng lại. Mình không ôm cái nào hết, mình Hành Xả, nhìn thấy trong tam phước, chỉ nhìn thôi thì mình mới đi được.

Trong kinh Pháp Cú, kệ ngôn 62, Đức Phật nói : 

Con tôi, tài sản tôi,

Người ngu sanh ưu não,

Tự ta, ta không có,

Con đâu, tài sản đâu?

Nếu là của mình thì mình không có già, không chết.

Vua cha muốn Sĩ Đạt Đa ở lại làm vua lúc 16 tuổi. Nhưng Ngài muốn đi xuất gia, Ngài nói với vua cha, 

Ngài nói : Con xin phụ vương 3 điều, nếu có 3 điều phụ vương cho thì con ở lại không ra đi, 3 điều là ; đừng già, đừng bệnh, đừng chết." 

Vua Tịnh Phạn mới nói : "Phụ vương cũng phải già, phải bệnh, phải chết, làm sao mà có để cho con."

- Nếu mà phụ vương không cho con đừng già, đừng bệnh, đừng chết, con không sống ở đời, con phải đi."

Ngài có đầy đủ hết, 3 tòa lâu đài, 4 hầm châu báu, rồi vua cha, rồi hoàng cung, người hầu người hạ mà Ngài vẫn bỏ đi, huống chi là mình có một chút xíu vẫn giữ.

Do đó, 

Càng lên phước càng nhiều, như các vị Trụ Trì, các vị Trưởng Lão ngồi ôm giữ, không ra khỏi phòng, điện thoại reng không bắt, người ta gõ cửa kêu không mở, tới chùa không tiếp.

Mình còn nói, còn nghĩ suy, còn tạo tác thì còn ra nghiệp chủ. Trừ khi nào mình thấy mình trải nghiệm thực sự, đối diện thực sự và mình ở trong thực sự của Tam Tướng thì mình mới thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã thực sự bằng chân lý, mình dám từ đó qua thân lời ý không tạo tác, chỉ cái đó mới cứu mình thôi, chứ không ai cứu mình được.

Nên mình có phước mình có chân lý, mình có phước mình có chánh pháp, mình có phước mình có sự nhắc nhở. Một ngày một phút mình xa người nhắc nhở hay mình xa cái mình học là mình tạo tác liền, "Tâm viên ý mã" tâm như con ngựa, ý như con khỉ nhảy tới nhảy lui không đứng yên, tâm bắt cảnh này bắt cảnh kia.

Do đó, mình phải cẩn thận.

 Peace of mind = dịch là Tâm cảnh thanh tịnh, chứ mình nói Tâm thanh tịnh là không được,  Tâm có cảnh, mà cảnh với tâm là một, mới ra được.

Khi mình nói : "Tâm tôi thanh tịnh" thì không có, Tâm phải có cảnh.

Purity of mind = Tâm cảnh thuần khiết, nó trong sạch, trong sáng, nó không có vẩn đục bởi các phiền não, những pháp ô nhiễm tinh thần hay là ô uế nhiễm nó chi phối tâm thức mình.  Mấy cái này mình phải tu tập bằng hành động chứ không phải bằng ý nghĩa suông, lời mình không nói, ý mình không nghĩ, hành động không tạo thì mới được, chứ còn không thì tạo tác không ngừng. Rồi tới khi đủ lực rồi nó hiện bày ra lúc đó mình than, hay mình hưởng, mình vui, mình đón nhận hay là mình từ chối, hay mình chạy trốn, không cách nào. Những cái đó là những sự thật, nó tạo ra, mình tạo ra, hay nó đi theo ta với cái nghiệp mình có hay nó đã là nghiệp chủ của mình, nó đến với mình, không thể nào nói không được.

Trong quyển Biên Niên Sử Của Chư Phật Ngài Mingun nói rõ  Hành Xả Trí là phương pháp để tu tập khỏi Nghiệp Chủ Kammassakatā.

Những bộ sách Buddhavaṃsa, Mahāvaṃsa. Cūlavaṃsa, Anagatāvaṃsa, chúng ta sẽ có dịp được học.

Chữ vaṃsa nghĩa là Hệ Tộc hay là Chủng Tộc, Tông Tộc, Giòng Giống.

Buddhavaṃsa là Chánh Tạng, Phật hiện tại

Mahāvaṃsa, Cūlavaṃsa, Anagatāvaṃsa là Chú Giải + Chú Minh.

Buddhavaṃsa, Mahāvaṃsa, Cūlavaṃsa những Phật quá khứ cũng như Phật hiện tại được đúc kết lại ra bộ Tiểu Bộ Kinh Khuddaka Nikaya

Anagatāvaṃsa vị lai, Hệ Tộc vị lai, Phật vị lai

Sư sẽ đưa ra cho quí Phật tử học mới thấy con đường của các Ngài Bồ Tát tu tập. 

 Bodhisatta (Pali), 

Tiếng SankirtBodhisattvā âm là Bồ Đề Tát Đỏa, khi cắt chữ Bồ và Tỏa thành Bồ Tát.

Nhưng nếu mình dịch theo từ ngữ Pali Bodhisatta thì Bodhi là Giác Ngộ, satta là Hữu Tình, thì Bodhisatta là bậc Giác Hữu Tình, tức là bậc Hữu Tình này có ý thức giác ngộ.

Bồ Tát có 3 bậc : 

1. Chánh Đẳng Giác - Sammāsambuddha

2. Độc Giác - Pratyeka Buddha

3. Thinh Văn Giác - Savaka Bodhi

Thì trong bộ Buddhavaṃsa và 3 bộ Chú Giải Mahāvaṃsa, Cūlavaṃsa, Anagatāvaṃsa nói ra hết.

Khi quí Phật tử thấy được quyển kinh  bài bản này thì mình mới thấy hướng mình đi, cho tới hôm nay có nhiều Phật tử ở trong lớp mình chưa chú nguyện. Quí Phật tử biết mình nguyện Balamat, nguyện ngày nào tính ngày đó. 

Thì Balamat cũng vậy, khi quí Phật tử nguyện trước bàn Phật hay với Thầy của mình, hay người mình tin tưởng, thì người nguyện Balamat không tiết lộ ra bên ngoài dù chồng vợ, mẹ con.

Nếu như ngày hôm nay mình chưa nguyện thì mình chưa có.

Thì bậc Chánh Đẳng Chánh Giác Ngài trải qua 3 giai đoạn; nguyện trong tâm, nói ra lời, được Phật thọ ký.

Bậc Độc Giác là nguyện trong tâm, tự hành ra, giác ngộ, không có Thầy chỉ dẫn, tự mình ên.  Thời vị Phật Độc Giác ra đời thì không có giáo pháp của bậc Chánh Đẳng Giác cũng như không có Thinh Văn.

Bậc Thinh Văn Giác thời này phải có bậc Chánh Đẳng Giác hay Giáo Pháp của bậc Chánh Đẳng Giác để lại để mình thực hành tu.

Thinh Văn Giác chia làm 4 bậc :

1. Chí Thượng Thinh Văn, chỉ có 2 vị Chí Thượng Thinh Văn

2. Đại Thinh Văn. Trong Đại Thinh Văn có tùy theo mỗi vị Chánh Đẳng Giác, trong Đại Thinh Văn có Thinh Văn tầm thường. Có loại Thinh Văn tầm thường đứng ở bên ngoài. thí dụ như đời của Đức Phật Gotama có 80 Đại Thinh Văn, còn ngoài ra có những vị Đại Thinh Văn nhưng không có xuất chúng như Tứ Vô Ngại Giải hay là Lục Thần Thông thì cũng là Đại Thinh Văn nhưng nằm ở trong phần không được liệt kê trong 80 Đại Thinh Văn của Đức Phật Gotama.

3. Thinh Văn tầm thường là thời của mình, là không có Phật, không có vị Alahan, mình nương theo Giáo Pháp tu mà đắc giải thoát, như quí Phật tử tu rồi trở thành Thinh Văn, có Giáo Pháp của Đức Phật nhưng không có bậc Chánh Đẳng Giác hay bậc Thánh nhân.

Thì dạng Thinh Văn mà không có ở trong 2 trường hợp Đại Thinh Văn có Alahan thì mất 1000 kiếp đắc đạo quả.

Quyển Buddhavaṃsa mà Sư đang viết ra cho các quí Phật tử được ghi lại hết và phải đọc rồi mình lựa ra mình là loại nào, lần này là cơ hội chót Sư đưa ra cho các quí Phật tử để mà tự chọn lựa và mình phải quyết định mau, chứ không chờ và có cơ hội nào để mình nghiệm ra để mình nguyện, mình phải biết.

Trên con đường tu của các quí Ngài đi Balamat. Còn mình thì tùy theo khả năng và hạnh nguyện của mình, tùy theo sự hiểu biết của mình và mình phát nguyện theo năng lực đó.

Như Sư nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác là Sư phải biết được năng lực khả năng của Sư phải đi như vậy mà rất là khó, Sư càng đọc Sư càng hoan hỉ, tại vì Sư muốn cái khó để mình tiến lên, cũng như Sư tới Thiền Viện Saddhammaraṃsi của Ngài U Kundala, Ngài thương Sư Ngài dễ  Sư không chịu, Sư phải qua Thiền Viện Chanmyay của Ngài U Janaka rất khó trong việc chỉ dậy thiền sinh mà mình tu được.

Do đó, tùy mỗi Phật tử, tùy mỗi ý thức, tùy vào nhận định của mình, và mình phải nguyện.

Thì những tiêu chuẩn của mình sẽ ăn khớp vô với con đường đi của các vị đi trước.

Chẳng hạn như quí Phật tử nguyện Thinh Văn thì đang ở Thinh Văn tầm thường, không có bậc Thánh mình chỉ có Giáo Pháp thôi, thì Thinh Văn mà quí Phật tử nương theo Giáo Pháp là phải theo Giáo Pháp Balamat của bậc Chánh Đẳng Giác để lại, Giáo Pháp mình đang hưởng từ Đức Phật Gotama.

Trong cuộc đời của Đức Phật Gotama, các vị Phật trước như Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Konāgamana, Đức Phật Kassapa, 10,000 ngày tuổi mới đi tu, có người 9,000 tuổi mới đi tu, thời của mấy Ngài, chỉ có Đức Phật Gotama 29 tuổi là đi tu, các vị Phật kia sống 100,000 ngàn tuổi, 80,000 tuổi, chỉ có Đức Phật Gotama sống 80 tuổi, và trong các Ngài kia thì chỉ có Gotama là Trí Tuệ Balamat.

Nếu quí Phật tử đi trong đường Thinh Văn theo Giáo Pháp của Đức Phật Gotama thì phải đi Trí Tuệ Balamat, kèm theo năng khiếu của mình là tinh tấn hay nhẫn nại hay mình đi theo phần ly dục thì bổ túc thêm cho chính Balamat.  Nhưng mình lấy mũi nhọn để mình đi soi đường màn vô minh tối tăm của mình bằng trí tuệ.

Thì trí tuệ bằng cách nào ?  Mỗi pháp gì, mỗi trường hợp gì, quí Phật tử không cho tập khí, kiết sử, thói quen của mình là một trạng thái do dự nghi vấn mà mình phải dùng trí, mình phải giải quyết, mình nghĩ suy trước, chứ mình không làm theo tập khí.  Chuyện gì cũng phải dùng trí để suy nghĩ.  

Đó là mình nương theo Giáo Pháp của bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong thời còn Giáo Pháp của bậc Chánh Đẳng Giác để lại cho mình đang thọ hưởng này. Mình sống bằng trí, ở trong trí, và hành động trong trí. Không cho tập khí chen vô làm cho lu mờ trí của mình đang trau dồi đang tu tập thì mới có kết quả.

Muốn có trí, hành trong trí, suy nghĩ trong trí, nói năng trong trí, thì mình phải ở trong môi trường có trí. Thí dụ như gặp bậc thiện trí, ở cùng bậc thiện trí, đọc kinh sách cho có trí tuệ, thì mình mới có trí được, còn không thì trí của mình bị lu mờ.

Mình muốn có trí thì mình phải ở với người có trí, thì mình mới có cơ hội trau dồi trí. Mình phải trau dồi và phải luyện tập thì mới có cơ hội.

Tuệ có 3: Tuệ Văn, Tuệ Tư, Tuệ Tu.

Tuệ Văn

Sutta là Kinh Văn, hay là từ được nghe mà mình mới có nên gọi là Suttanta.

Văn có 3 :

1. Phải tự tu học.

2. Phải học từ tha nhân

3. Học từ kinh sách

 Ba điều này là Tuệ Văn. Bây giờ mình nghiệm lại xem mình có 3 điều này không, hay là mình có một, hay là có hai, thì mình tìm ra được con đường trí của mình.

Nếu như mình thấy mình tự tu học được thì mình mở con đường nào để mình tự tu học được.

  Còn không tự học được thì mình đi học với người có tuệ văn  người ta truyền dạy cho mình.

Hoặc mình trang bị kinh sách để mình trau dồi Tuệ Văn của mình.

Sư đi cả 3 điều này, Sư học kinh sách, Sư học với Thầy, Sư ra nước ngoài Sư học với các quí Sư  các vị Trưởng Lão, và Sư phải tự trau dồi nữa, thì Tuệ Văn này Sư mới có.

Thì các quí Phật tử cũng vậy. Nên điều quan trọng nhất là kinh sách, tại vì Giáo Pháp của bậc Chánh Đẳng Giác để lại cho mình, mình đang ở vị trí Thinh Văn tầm thường, mình chưa ở vị trí Đại Thinh Văn và Chánh Đẳng Giác, nên phải có kinh sách.

Khi mình nói tới Tuệ Văn là mình có 3 điều kiện này là may mắn, còn nếu mình chỉ có 2 là mình bắt đầu phải lo, Sư là vậy, Sư học tự mình và Sư học với Thầy, rồi Sư tìm kinh sách để học.

Tuệ Tư

Muốn có Tuệ Tư thì mình không ở gần người tham, người sân, không ở gần người mình kết oan trái với họ vì tư duy của mình sẽ không được trong sạch. 

Chánh Tư Duy là ly tham, ly sân, ly oán hận, thì Tuệ Tư Duy là mình phải xa những cái đó, chính mình cũng không có thì Tư Duy mình mới trong sạch được, mới sáng suốt suy nghĩ chính chắn. Nếu mình ở gần người tham người sân người oán hận họ đưa tư duy của họ ra qua lời, qua hành động, qua tư duy mình bị ảnh hưởng thì sao mình tư duy trong sạch được.

Tuệ Tư trong sạch thì có Chánh Tư Duy, mà Chánh Tư Duy của mình hay Chánh Tư Duy của người mà có thì mình đưa Chánh Tư Duy của mình được.

Quí Phật tử ở với một người đầy dẫy tham thì làm sao mình có Tư Duy trong sạch được. Ở với một người đầy dẫy sân thì làm sao mình có Tư Duy trong sạch được. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, mình ở gần người tham chỉ lo tích lũy gom góp vào thì làm sao mình sống với người đó được, họ cột trói. Còn người cứ oan trái sân hận họ nói ra những lời nghĩ suy của họ thì làm sao mà Tư Duy của mình trong sạch được, ở bên họ một ngày mình cũng bị nhiễm.

Nếu có Tuệ Tư, không phải là kiến thức mà là Tuệ, là mình phải biết pháp tu tập đó.

Tuệ Tu

Mình phải làm, không ai làm cho mình trong sạch được.  Đức Phật nói Thiền Định sinh trí tuệ, không thiền định không trí tuệ, Ngài nói trong kinh Pháp Cú.

36.14 Tuệ Tu Đức Phật nói thiền định sinh trí tuệ, không thiền định không sinh trí tuệ. Như thế thì trong việc Tu Thiền thì có 2 là Samadhi và Vipassana, mình không có trau dồi Tuệ Tu này thì không có kết quả, một ngày không trau dồi Tuệ Tu thì làm sao mình có trí tuệ được.

Có 4 cách Tu : Tu tọa (ngồi), Tu ngoạ (nằm), Tu Hành (đi), Tu Trụ (đứng).  Thì trong 4 oai nghi cái nào dễ nhất thì mình theo. 

Thì Thiền định sinh trí tuệ, mình muốn có tuệ mình phải tu. Trong khi tu thiền Samadhi cũng được, tu thiền Vipassana cũng được, một giờ, một phút, một giây, một ngày một buổi cũng được, thì việc tu thiền cho quí Phật tử thấy được chân lý, trước mắt là thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, bằng con người của mình, trong hiện tượng con người mình có trải nghiệm, chứ không cần phải qua giáo lý hay kinh sách, hay kinh điển.

 Bây giờ mình bỏ Balamat vào :

Văn : Tự học -->  Có thêm Tinh Tấn Balamat và Trí Tuệ Balamat. Tự học không được là vì thiếu Balamat.

         Học với tha nhân --> Cần có Nhẫn Nại Balamat, học với người thì mình phải nhẫn nại. Khi mình tu tới đây mà mình dội ra là vì mình thiếu Balamat.

        Học qua kinh sách ---> Cần có Trí Tuệ Balamat, và Chú Nguyện Balamat.

Và trong khi mình đang muốn trau dồi, mình đang tu học về Tuệ Văn, mình trau dồi Tuệ Tư, trau dồi Tuệ Tu, mình bỏ Balamat vô thì Balamat vun lên theo cái nguyện của mình đi theo.

Đối với bậc Chánh Đẳng Giác bỏ xác cũng phải học cho bằng được, bỏ một phần thi thể là Phật Độc Giác, một phần thi thể là Trí Thượng Thinh Văn.

Khi người ta học người ta hành mình nhìn mình biết Balamat của họ ở cấp độ nào, lượng Balamat của họ tới giai đoạn nào. Mình tự biết được.

Nếu mình không bỏ Balamat vô thì dù quí Phật tử có Tuệ Văn cũng bằng không. Mình có công thức, có phương pháp, nhưng mình không có chất liệu đưa vào thì cũng như không, có Thầy cũng vậy mình không tu học được có  kết quả, có kinh sách cũng không có kết quả, mình phải bỏ Balamat vô "có công mài sắc có ngày nên kim", mình có trau dồi kinh sử thì mình mới có ngày có trí tuệ, mình mới có sự hiểu biết, có tri thức.

Thì đó là chân lý, đó là sự thật.

 Khi Đức Phật Dīpaṅkara Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Bồ tát Sumedha 4 a tăng kỳ nữa sẽ thành Phật có tên gọi là Gotama, có người cha tên là Tịnh Phạn, người mẹ tên là Maya ở kinh thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) có vị Thị Giả là Ananda, có 2 vị Thinh Văn là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.

 Ngài nhìn thấy có 16 a tăng kỳ Bồ tát Sumedha đã làm đã gieo trồng 48.21 và tu trau dồi để dành. 

Thiền An Chỉ, Thiền Minh Sát; Ly Tham, Ly Sân, Ly Oán Hận bằng cách nào ? 

Đầu tiên nhất muốn được tư duy này Tuệ Tư trong sạch thì phải chú nguyện : "Nguyện cho tôi gặp người Ly Tham, Ly Sân, Ly Oán hận, đừng cho tôi gặp những người đầy Tham, đầy sân, đầy oán hận". Thì chú nguyện Adhiṭṭhāna của mình trong sạch. Mình phải có chú nguyện, nếu như mình có tinh tấn mà mình không có chú nguyện thì không có kết quả.

Tư duy là từ trong tâm mình phát lên chú nguyện, tư duy của mình đi theo chí hướng đó mới được.

Nguyện cho tôi không thân cận người tham để tôi có tư duy trong sạch, thì lúc đó mình có chú nguyện, thì hướng nguyện Adhiṭṭhāna sẽ dẫn dắt mình đi. 

Còn người không có chú nguyện là người không có lập trường thì trôi lăn, mình không phân biệt được người tham, người sân, người oán hận, mình không nhận định được.

 Chồng, vợ, cha, mẹ, con cũng vậy, bạn bè tu học, huynh đệ thầy trò cũng vậy, phải có chú nguyện chứ không bỗng nhiên được. Nếu như có thì kiếp này ta không có chú nguyện để hẹn lại kiếp sau thì tới đây đứt rồi kiếp sau không tiếp nối được.

Khi mấy cô hành động tạo tác là bằng lời, ý, nhưng khi cô trả bằng sát na tâm đổng lực. Sát na tâm đổng lực trả ra tiền hậu nghiệp, hậu báo nghiệp, hậu hậu báo nghiệp, cả sáu sát na ở giữa, sát na thứ 1 thứ 7, hai cái sát na đó trả trùng trùng không biết sát na nào, do đó trong các nhận thức đó với kiến thức mình biết thì mình với Tuệ Tư Duy mình phải chú nguyện thì mình mới đi được, cái nguyện đó là lập trường của mình, mình phải xác định lập trường của mình, lập trường chân chánh, lập trường chân thực, lập trường trong sạch, lập trường với chú nguyện của mình phải chính chắn, không có bỗng nhiên tự nhiên được. 

Cái Tư Duy phải có lập trường, cái chú nguyện nằm trước mắt mình; "nguyện cho tôi sinh ra dời không gặp người tham, nguyện cho tôi sinh ra đời không gặp người sân, nguyện cho tôi sinh ra không gặp người oan trái, để tư duy của tôi không bị vẩn đục, để con đường tu tập của tôi may mắn gặp kết quả tốt.

Và khi chú nguyện Adhiṭṭhāna  sẽ có kết quả liền, nguyện đi để không bị trôi lăn.

Học với tha nhân mình phải có nhẫn nại, khi mình đến với người mình phải bỏ cái ta để mình học.

Người muốn tu, không có con đường nào không qua Tam Tướng, ngay cả Bồ Tát Chánh Đẳng Giác Ngài còn trong hoàng cung nếu Ngài không ra ngoài cửa thành thấy 3 hiện tượng: già, bệnh, chết, dù ở trong ngai vàng lầu son gát tía sung sướng đầy đủ, thấy già, thấy bệnh, thấy chết, về là Ngài thức tỉnh. 

Do đó, người muốn có Tuệ Tu dù Thiền Chỉ hay Thiền Minh Sát phải tự trải nghiệm Tam Tướng, nếu chưa thì cũng phải có, hay phải thấy có, thì họ mới chính chắn được.

Mình tiễn đưa người này người kia mà mình đâu có thức tỉnh, tánh khi tập khí mình vẫn còn, ai làm vừa lòng mình, mình tham, mình muốn nữa, ai làm trái ý mình, mình sân lên, muốn hủy diệt họ. Sống cuộc đời này mình cứ oan trái với nhau. Oan trái là một biểu hiện bất toại nguyện của mình.

Vì tư duy của mình không được ổn định, thì con đường đi theo đó mà trổ sinh. Trong trạng thái đang trổ sinh nó dẫn dắt lôi kéo mình không tu được, trong khi ngồi tu nó lại chụp vô đầu mình, tham sân si nó lôi kéo tâm mình.

Do đó, mình phải biết, mình phải có chú nguyện Adhiṭṭhāna

Tiền thân của Ngài Anuruddha khi là nô bộc đi theo một người bá hộ bỏ bác  cho vị Độc Giác, người bá hộ nói với người nô bộc : "Ta có của, ngươi có công, người về nói vợ ta đem vật thực bỏ bác cho vị Độc Giác này thì ta cho ngươi lấy công đức này, ngươi để bác đi." Thì Ngài Anuruddha bỏ bác cho vị Độc Giác Ngài nguyện : "Nguyện kiếp nào con sinh lên con nguyện không được nghe tiếng không có." Tức là Ngài muốn cái gì thì sẽ được có cho Ngài, thì kiếp Ngài sinh lên là hoàng tử Anuruddha khi Ngài còn nhỏ  thường hay chơi trò đánh bạc ăn bánh với các vương tôn khác, và hoàng tử thường hay bị thua nhiều nên phải sai người hầu về cung để xin bánh của mẫu hậu. Một lần bánh hết, mẫu hậu cho người báo là “bánh không có”, vì từ nhỏ đến lớn chưa từng nghe đến hai chữ “không có” nên hoàng tử bắt người hầu đem đến cho mình thứ “bánh không có”. Mẫu hậu nghe vậy liền cho người lấy một cái mâm vàng, úp chiếc bát vàng khác lên và đem cho hoàng tử. Người hầu mang mâm không đến đưa cho hoàng tử, hoàng tử mở mâm ra thấy đầy ắp bánh. Bánh thơm ngon, hoàng tử chưa từng được ăn loại bánh này giờ ăn thấy ngon. Hoàng tử đi đến gặp mẫu hậu, và mẫu hậu biết được sự kiện phi thường đó và biết rằng đó là phước báu của hoàng tử. 

Ngài Jotika, Thầy của Ngài Tịnh Sự,  Ngài Jotika nguyện "không được biết không biết", cái gì không biết thì phải biết, ngôn ngữ nào không biết, kiến thức nào không biết ta phải biết.

Ngài Anuruddha sinh cùng thời với Đức Phật, may là Ngài có bậc Chánh Đẳng Giác và huynh đệ của Ngài là Chí Thượng Thinh Văn ở chung với Ngài thì Ngài mới giải thoát. Ngài Xá Lợi Phất còn vướng vô ngã mạn Ngài ngưng đường Alahan của Ngài.

Còn nếu như mình không có học câu của ngài Jotika Thầy của Ngài Tịnh Sự dịch Abhidhamma quí Phật tử học không biết mà không học thì làm sao mà  mở cái trí của mình, cái không biết thì mình phải biết. Môn học này tôi không biết thì tôi cần phải biết, mình nguyện như vậy, thì chú nguyện của mình mới trổ sinh ra quả này cho mình có.

Thí dụ như nguyện không biết thì cho tôi phải biết, thì quí Phật tử đứng trước bàn thờ Phật nguyện : "Nguyện cho con đời này và những đời sau con được sinh trở lên làm người, con nguyện cho con biết cái không biết con phải biết."

Sống trên đời này mình không có chủ quan, mình phải trau dồi phải học mỗi ngày, phải tu tập mỗi ngày.

Do đó, Hành Xả Trí mà đi tới Xả Giác Chi, mà đi tới Hành Xả Balamat này quí Phật tử phải có Thập Phúc Hành Tông - phải có Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma).

Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) 

Tri là biết

Kiến là thấy

Chân là thật

Chước là đúng

Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) là biết thật thấy đúng.

Muốn Hành Xả Balamat phải có Chân Tri Trước Kiến, muốn Hành Xả Trí phải có Chân Tri Trước Kiến.

Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) là pháp thứ 10 trong Thập Phúc Hành Tông.

Thập Phúc Hành Tông, đó là:

1- Bố thí (Dānamagga), là tạo phước bằng cách bố thí xả tài.

2- Trì giới (Sīlamaya), là tạo phước, bằng cách giữ giới, thọ trì những giới cấm.

3- Tu tiến (Bhāvanāmaya), là tạo phước bằng cách tu tập thiền định, chỉ và quán.

4- Cung kính (Apacāyanamaya), là tạo phước bằng cách kính lễ bậc trưởng thượng.

5- Phục vụ (Veyyāvaccamaya), là tạo phước bằng cách làm lợi ích cho người khác với công sức của mình.

6- Hồi hướng (Pattidānamaya), là tạo phước bằng cách hướng nguyện công đức đã làm, để tạo điều kiện cho người khác sanh tâm thiện.

7- Tùy hỷ (Pattānumodanāmaya), là tạo phước bằng cách vui thích theo công đức của người khác đã làm.

8- Thính pháp (Dhammassavanamaya), là tạo phước bằng cách nghe pháp của Đức Phật thuyết, hay các đệ tử của Ngài thuyết, thậm chí là nghe những bậc thiện trí dạy bảo.

9- Thuyết pháp (Dhammadesanāmaya), là tạo phước bằng cách nói pháp chân chánh cho người khác nghe, thậm chí chỉ là bàn luận Phật pháp, hoặc nói những lời hay lẽ phải.

10- Cải chánh kiến thức - Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma), là tạo phước bằng cách trau dồi kiến thức, làm cho tri kiến được ngay thẳng, chánh kiến.

Bây giờ mình nói lại,  Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) khả năng Tri Kiến của mình, tự mình nghiệm lại có bao nhiêu phần trăm trong cuộc đời này ở bất cứ lãnh vực nào có được bao nhiêu phần trăm Tri Kiến này.

Văn - Tự tu học, Tri Kiến tự tu học của mình bao nhiêu phần trăm, đặt xuống.

Văn - mình học với tha nhân, Tri Kiến mình học của tha nhân mình lãnh hội tu tập được bao nhiêu phần trăm.

Văn - mình học Kinh sách, Tri Kiến mình học từ nơi Kinh Sách lãnh hội tu tập được bao nhiêu phần trăm.

Mình mới ra được Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) này. Chân Tri Trước Kiến là cái vốn, rồi cái vốn mới bổ túc cho đường tu tập hay là con đường hành đạo của mình hay con đường cầu giải thoát của mình được.  

Tri Kiến của quí Phật tử biết về Phật Pháp bao nhiêu, về kiến thức bao nhiêu, về tu tập bao nhiêu, mình phải có. 

Tại sao có những khóa thi trong một năm mình học xong phải có khóa thi để người ta mới gạn lọc, trắc nghiệm lại kiến thức của mình lãnh hội được hay là mình có được trong một năm mình ở trên ghế nhà trường hay ở nhà mình học được bao nhiêu phần trăm. Những bài thi đó hay những đợt thi đó là người ta chỉ trắc nghiệm thôi, và trên cái đó có xác xuất, ở đây không đặt chữ hên sui may rủi được, mà bằng thực lực.  Nếu mình tu thiệt lại cần cái sự thật đó. Do đó, không phải đơn giản.

Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) là pháp thứ 10 trong Thập Phúc Hành Tông.

Thứ 10 trong Hành Xả Thí, Hành Xả Ba La Mật, là pháp thứ 10 trong Pháp Ba La Mật, hay trong Pháp Minh Sát Trí.

Thì tới giai đoạn Dục Thoát Trí, trí nguyện dục thoát thì lúc đó cái trí của quí Phật tử ở trong lãnh vực nào, trải nghiệm nhiều thật nhiều đầy đủ về Tam Tướng, hay trải nghiệm nhiều thật nhiều phương pháp để giải thoát, cả hai cái đó dằn co.

Có 2 hạng người :

1. Người trải nghiệm đầy đủ về Tam Tướng, Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.

2. Người vững vàng trong Thiền Định tu giải thoát.

Quí Phật tử đứng ở hạng người nào ?

Sĩ Đạt Đa Ngài chưa trải qua, Ngài chỉ thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, nhưng Ngài biết con đường đi của Ngài phải giải thoát và Ngài đi, cho tới khi Ngài vừa vượt qua thì Ác Ma chặn lại, Ngài nói tránh ra để ta đi, thì Ngài đâu có trải qua khổ đau. Ngài biết con đường đi của Ngài là giải thoát, tới lúc đó Ngài phải ra đi, Ngài không có một phút giây nào trải nghiệm đau khổ, cuộc sống của Ngài sung sướng.

Nên trong 4 câu Đức Phật Ngài nói có 4 hạng người tu, tu nan đắc nan, tu nan đắc dĩ, tu dĩ đắc nan, tu dĩ đắc dĩ.

Ngài Sĩ Đạt Đa không bao giờ thấy khổ, mà có cái khổ nào là vua cha cho dẹp liền không để cho Ngài thấy để Ngài được sung sướng, 3 tòa lâu đài hưởng 3 thời tiết, mùa đông vô đó ấm áp, mùa nắng vô đó mát mẻ, mùa mưa vô đó là bông hoa tươi tốt.

Mình là người trải nghiệm hay là người vững tâm, người vững tâm đi trên đường tu tập giải thoát không có gì lung lay hết, ác ma đi theo 7 năm cũng không làm được gì Ngài. Ngài vô rừng tu 6 năm Ngài mới trải nghiệm sự đau khổ nhưng không lay chuyển được tâm Ngài.

Thì người vững tâm tu tập giải thoát này ở đâu họ cũng vẫn kiên quyết. Còn người trải nghiệm Tam Tướng rồi thì họ đứng ở đó trải nghiệm để họ nghiệm lại thôi chứ chưa chắc họ đi.

Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) là thấy đúng, đi đúng, hiểu đúng.

Vị ngọt nào Ác Ma cũng biết, cay, đắng, ngọt, bùi, cái nào Ác Ma cũng biết, chỉ mình không biết thôi.

 Giờ mình ở đây mình khổ là mình tu nhưng không may mắn, Ba La Mật mình chưa đủ, mình chưa giải thoát, mình sinh về trời, ở trên trời mình hưởng phước, đến khi hết phước trên cõi Thiên, mình xuống làm người, mình lấy đường nào mình tu, nếu mình không vững vàng đường tu thì mình rớt vô con đường trôi lăn.

Mình chọn con đường vững vàng kiên cố để tu.

Như anh em của Đức Phật, họ đi tu khi thấy Đức Phật tu, như con của Đức Phật Rahula đi tu vì thấy Đức Phật tu, mẹ của Rahula là bà Yasodhara đứng trên lầu chỉ xuống nơi Đức Phật đang đi và nói với Rahula kia là cha con, con đi xuống đòi tài sản đi". Thì Rahula đi xuống và gặp Đức Phật hỏi Ngài có phải là cha con không ? Đức Phật nói phải, Rahula nói Ngài chia cho con tài sản. Đức Phật nói Như Lai chỉ có Thánh sản, Như Lai không có tài sản. Và Ngài nắm tay Rahula đến Ngài Xá Lợi Phất cho xuất gia đi tu thành Alahan, Rahula đâu có trải nghiệm Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã trước khi xuất gia, và Ngài 7 tuổi đắc Alahan.

Quí Phật tử đừng đòi hỏi phải qua trải nghiệm, có phước là đi, có người bất hạnh không được may mắn nên phải qua trải nghiệm đau khổ, như người trong hang tối lần mò đi tìm con đường giải thoát.

Thí dụ, một người không có phước, người đó phải tự tu học, rối sau đó cầu pháp với tha nhân, rồi người đó tìm kinh sách của Phật để nương tựa. Họ đi từng bước như vậy.

Còn người may mắn cỡ nào mình phải có Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) về mình.

Trong 3 Tuệ; Tuệ Văn, Tuệ Tư, Tuệ Tu, mình thiếu cái nào thì mình lo trau dồi cái đó. 

 Nhưng có 2 hạng người sinh ra, có người khổ, có người sinh ra không có trải qua cái khổ nào hết, nhưng họ ngán ngẩm cuộc đời nên họ đi tu. Mình phải nghiệm ra mình thuộc hạng người nào.

Khi mình nói có trải nghiệm bằng Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) hay là kiến chấp của mình hay là thành kiến của mình cố chấp về trải nghiệm. Cái trải nghiệm ở trong tư duy, mình đã trải nghiệm qua cái sân của mình, khổ quá rồi mình sân lên, hay hưởng nhiều quá mình tham lên, sống đầy dẫy trong oan trái mình không hay biết.  Thì trong trải nghiệm này mình nói mình đã có thấy thì không phải  Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma).

Còn mình nói mình vững vàng trong con đường tu tập là không có lý do gì để minh giao động, không có cái gì lôi kéo mình được, không có lý do gì mà làm đánh đổ chí nguyện của mình. Thấy con đường đạo rồi là lo tu liền, không cần đợi tới trải nghiệm. Đó gọi là Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma).

Mình chưa có, giờ bắt đầu mình mới làm khi trải nghiệm qua 2 trắc nghiệm này mình mới trở lại mình phải lo Văn, Tư, Tu, để mình mới thấy được mình ở vị trí nào, chứ mình chưa có.

Con đường tu tập của mình mà mình nói mình đứng vững vàng tu tập trong vế 2 là không có cái gì để mà chặn con đường tu của mình khi mình có chú nguyện Adhiṭṭhāna. Như Đức Phật vừa ra đi thì Ác Ma chặn cửa, Ngài vô rừng 6 năm khổ hạnh mà không lay chuyển: "Thân ta có tan rã, xương ta có tan rã, giòng máu ta có khô cạn quyết không rời khỏi con đường đạo này". 

Câu đó là Ngài chú nguyện, mà từ xưa tới giờ Ngài chưa từng trải qua một cái gì khổ đau trong cuộc đời Ngài, và Ngài sống trong rừng già trong 6 năm không có đời sống đầy đủ của con người mà Ngài vẫn quyết lòng tu.

Khi gặp khổ quí Phật tử mới lo tu 

Mình chưa làm chủ được mình. Cũng như Sư làm chủ được Sư nhưng sức khỏe Sư không cho, nên Sư chưa làm chủ được, phải ngừng, phải nghỉ, phải chờ đợi, như Sư đang tu rồi chuyện này chuyện kia mà Sư vẫn vững vàng tu, không gì lay chuyển Sư, lôi kéo Sư, mà cũng chưa dám nói. Đó gọi là  là Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma). 

Còn không là kiến chấp của mình.

Ly trần bất nhiễm trần

Cư trần tất nhiễm trần

Mình viết 2 câu đó mình trắc nghiệm, trong hoàn cảnh nào tôi cũng tu, tôi cũng trải nghiệm, tôi ý thức được.

Một phút giây nào mình sống trong cái không được toại nguyện là mình thấy một chuỗi oan trái, con cũng vậy, chồng cũng vậy, cha mẹ cũng vậy, gia đình cũng vậy, là một chuỗi oan trái liền.

Do đó, mình ở trong vị trí 2  vững vàng tu tập, nhưng nó có cho mình tu tập không hay là bị nghiệp chủ chi phối. 

Nhưng đừng buồn, mình nhận thức được rồi thì lo tu tập, lo trau dồi Văn Tư Tu, rồi mình hành lại, rồi mình đi con đường nào mình đi, mình phải có Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma), và mình xác định được mình ở vị trí nào.

cuốn :  TỔNG HỢP NỘI DUNG VÔ TỶ PHÁP

TẬP III: Chương VI-VII-VIII

Trang 678 Từ Vô Minh cho tới Lão Tử

để hình 074 - 1.52.27



Ghi chú: 

          . VM: Vô Minh (Avijjā) thuộc Phiền Não (PN)

          . H: Hành (Saṅkhāra) thuộc Nghiệp Báo (NB)

          . T: Thức (Viññāṇa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          . DS: Danh Sắc (Nāmarūpa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          . LX: Lục Xứ (Salāyatana) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          . X: Xúc (Phassa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          . T: Thọ (Vedanā) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          . AD: Ái Dục (Taṇhā) thuộc Phiền Não (PN)

          . CT: Chấp Thủ (Upādāna) thuộc Phiền Não (PN)

          . NH: Nghiệp Hữu (Kammabhava) thuộc Nghiệp Báo (NB)

          . SH: Sinh Hữu (Uppattibhava) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          . S: Sinh (Jāti) thuộc Dị Thục Quả (Q)

         . LT: Lão Tử (Jāramaraṇa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

Từ Vô Minh cho tới Lão Tử, quí Phật tử biết mình ở vị trí nào  không ?

trong bản đồ mình biết mình đi tới đâu không ?

Giống như mình vô trong một khu buôn bán thì ở trước cửa có bản đồ cho biết mình đang ở vị trí nào của khu buôn bán đó. Thì bản đồ này cũng vậy, từ Vô Minh cho đến Lão Tử quí Phật tử xác định đang ở vị trí nào khi mình đang ở trong lớp học này.

8 Thời Hiện Tại, mũi tên chỉ xuống trong trạng thái Xúc (X), Thọ (T), Ái Dục (AD), rồi nó chạy qua Chấp Thủ (CT), Nghiệp Hữu (NH). Những cái đó thuộc thời Hiện Tại.

Đổ ngược đằng trước là Thức (T), Danh Sắc (DS), Lục Xứ (LX). Đó là thời Hiện Tại.

Do đó, khi Sư hỏi ngay trong lớp này, ngay hiện tại này quí Phật tử đang ở vị trí nào thi quí Phật tử nói trong thời hiện tại này.

Quí Phật tử phải viết bản đồ này ra,

Quá Khứ mình ở đâu, mình coi

Thời Quá Khứ ở trong Quả Dị Thục Luân hay ở trong Nghiệp Báo Luân, ở trong Phiền Não Luân.

Mình phải biết, chứ không nói mông lung, cái biết đó là Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma), 

Vậy thì ngay Hiện Tại này mình đang ở trong vị trí nào ? Trả lời là tôi đang ở trong Danh Sắc (DS). Rồi trong Danh Sắc này tôi đang ở trong Lục Xúc (LX) 1 trong 6 căn.

Vậy thì khi quí Phật tử ngồi Thiền, khi đang học, khi ở trong nhà tôi vừa có Danh Sắc vừa có Lục Xúc là bắt đầu  biết giòng sinh tử này nó chạy, giòng Liên Quan Tương Sinh này chạy, nó tạo tác ra thì cái này gọi là Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma), không có cách nào bẻ gãy được hết.

Chính trong vòng xích đó quí Phật tử định được vị trí mình ở đâu mình mới bẻ gãy được khoen trước và khoen sau thì cái khoen ở giữa sẽ gẫy, bẻ gãy khoen trước, bẻ gãy khoen sau thì khoen giữa gẫy.

Thí dụ, quí Phật tử tới Lục Xúc (LX) tới 6 căn rồi, nhưng nếu không biết chặn Lục Xúc này thì nó đi tới Xúc duyên Thọ thì bắt đầu nó kéo quí Phật tử đi nữa. Bây giờ mình có Chánh Niệm giữ cái đó khỏi Tam Tướng, chặn gãy cái khoen trước, khoen sau không mắc vào.

Bây giờ cầm bản đồ hay cái la bàn mà không biết đường đi thì cũng vô ích.

Quí Phật tử đang ở đâu ? Đang ở trong hiện tại, đang ở trong lớp này ? Thì quí Phật tử đang ở trong Danh Sắc, tôi có Lục Xúc, tôi có Thọ, Tưởng, Tư, tôi đang chạy theo cái đó hay là Xúc, Thọ, Ái, Chấp Thủ, mình đi trong đó.

Rời khỏi lớp, về tới nhà Lục Xúc, Thọ, Ái Chấp Thủ, đi theo vòng đó, mà lúc đó thấy nếu đi vòng này thì có Phiền Não Luân, đi vòng kia là Nghiệp Báo mình về mình đụng vô là Nghiệp Báo, hay là đi một vòng nữa là Dị Thục Quả, trả vay, hay là mình đang ở trong gieo trồng. 

Chứ không ai dám nói mình không có Nghiệp Chủ. Mình cầm bản đồ này ăn chắc, mình chụp bản đồ này ra để trên đầu giường mình coi khi nào là Nghiệp Quả, khi nào là Dị Thục Quả, khi nào là Phiền Não Luân, khi nào là Dị Thục Luân, khi nào là Nghiệp Báo Luân, mình xác định liền. 

Nhất là quí Phật tử không có đủ điều kiện để mà nhìn về Quá Khứ, và không có đủ điều kiện để nhìn tới Vị Lai,  cứ đứng trong Hiện Tại mình tìm cái khoen nào mình đi tìm tới cái đó là mình ra được con đường tu tập liền. Cái đó gọi là con đường tu tập.

Mà tu tập quí Phật tử đi từ Kinh Sách, học với người Thầy, và mình phải tu học, và mình phải tu tập Ly Tham, Ly Sân, Ly Oán Hận, và luôn luôn trau dồi con đường tu tập không ngừng trong An Chỉ và Minh Sát trong mỗi phút giây nào.

Thì con đường đó mình mới có kết quả mình mới có Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma), mình mới nói được mình ở trong vị trí này hay vị trí kia.

Thiền sinh hỏi: Phần Hiện Tại có phải lúc đó là Tâm Đổng Lực của mình không ?

HT trả lời: Không có, là Pháp thôi, chưa nói tới Tâm Đổng Lực, có khi là Dị Thục Quả, là Phiền Não Quả, trong Tam Luân, nó xoay quí Phật tử không định được. Quí Phật tử đang ở Hiện Tại, nó xoay, nó móc xích nhau.

 Do đó, áp dụng này thì mình nhìn qua 2 hạng người này mình phải hiểu, rồi có Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) này mình xác định được vị trí của mình, cái biết của mình thấy đúng, ra được kết quả liền.

Không phải Ái Dục, đó là phiền não, đó là nghiệp quả của mình. Mà nó là Luân Xa là bánh xe quay trong móc xích này, mình lọt vô trong móc xích này, giống như bánh xe đạp, lọt vô bánh xe nó quay hoài.

coi Trang 678 trên bản đồ thấy có :

5 Nhân Hiện Tại, 5 Quả Vị Lai

Khi quí Phật tử đang tự tu học này là đang làm Nhân Hiện Tại hay là Quả Vị Lai  cho mình có con đường tu tập.

Khi vững vàng trong con đường tu tập trong sự kiên cố lập trường của mình đó là Nhân Hiện Tại hay là Quả của Quá Khứ mà hôm nay mình có mặt trong này. Nếu trải nghiệm này là quí Phật tử đã trải nghiệm qua Quá Khứ hay đang trải nghiệm Nhân Hiện Tại để làm kết quả này, làm nền tảng nhân này, cho Quả Vị Lai giải thoát trên đường tu tập.

Do đó, khi mình không nắm được về chính mình thì lúc đó Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) của mình thực hiện trong 9 cái Thập Phúc Hành Tông còn lại; Xả Thí, Trì Giới, Tu Tập, Cung Kỉnh, Phục Vụ, mình làm theo đó có phải là vòng móc xích của Vô Minh duyên Hành, Phúc Hành, Phi Phúc Hành, Bất Động Hành. Do đó phải dừng lại, mình phải nghiệm lại.

 Thì trong phần Buddhavaṃsa - Biên Niên Sử Phật kỳ này Sư phát cho quí Phật tử dạy rất rõ con đường của bậc Chánh Đẳng Giác, giải thích rõ con đường Độc Giác, giải thích rõ con đường của các bậc Thinh Văn Giác, mình ở trong vị trí nào mình có bản đồ hết, và mình có kim chỉ nam, và mình có toát yếu để làm yếu lượt để mình tu tập, và tự mình xác lập lại mình ở trong vị trí nào để mình bẻ cái Sinh Tử này thì mới ra được vị trí mình muốn tu tập./.

--------------------------------------------------------------------

10)  - Chân trí, Chân là chân thật, cái biết của mình chân thật. Diṭṭhujukamma (Kiến thị hay thấy đúng)

Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) 

Tri là biết

Kiến là thấy

Chân là thật

Chước là đúng

Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma) là biết thật thấy đúng.

--------------------------------------------

Thập Phúc Hành Tông, đó là:

1- Bố thí (Dānamagga), là tạo phước bằng cách bố thí xả tài.

2- Trì giới (Sīlamaya), là tạo phước, bằng cách giữ giới, thọ trì những giới cấm.

3- Tu tiến (Bhāvanāmaya), là tạo phước bằng cách tu tập thiền định, chỉ và quán.

4- Cung kính (Apacāyanamaya), là tạo phước bằng cách kính lễ bậc trưởng thượng.

5- Phục vụ (Veyyāvaccamaya), là tạo phước bằng cách làm lợi ích cho người khác với công sức của mình.

6- Hồi hướng (Pattidānamaya), là tạo phước bằng cách hướng nguyện công đức đã làm, để tạo điều kiện cho người khác sanh tâm thiện.

7- Tùy hỷ (Pattānumodanāmaya), là tạo phước bằng cách vui thích theo công đức của người khác đã làm.

8- Thính pháp (Dhammassavanamaya), là tạo phước bằng cách nghe pháp của Đức Phật thuyết, hay các đệ tử của Ngài thuyết, thậm chí là nghe những bậc thiện trí dạy bảo.

9- Thuyết pháp (Dhammadesanāmaya), là tạo phước bằng cách nói pháp chân chánh cho người khác nghe, thậm chí chỉ là bàn luận Phật pháp, hoặc nói những lời hay lẽ phải.

10- Cải chánh kiến thức - Chân Tri Trước Kiến (Diṭṭhujukamma), là tạo phước bằng cách trau dồi kiến thức, làm cho tri kiến được ngay thẳng, chánh kiến.

----------------------------------

MƯỜI SÁU  TUỆ MINH SÁT - 16 Tuệ Minh Sát (Vipassanāñāṇa)


1. Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc.

2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.

3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). (Phổ Thông Tướng)

4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt.

5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.

6. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ.

 7. Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành. Quá Hoạn Trí, Bố úy trí: Cái trí thấy được sự đáng sợ của các hành. Khi hành giả tu tập về quán diệt sung mãn, sẽ thấy tính chất của các hành thật khủng khiếp, khi y muốn sống yên ổn.

8. Nibbidā ñāṇa: Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản. Quyết Ly Trí

9. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát. Dục Thoát Trí

10. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành. Hành Xả Trí.

11. Paṭisaṅkhā ñāṇa: Tuệ suy tư.

12. Saccānulomika ñāṇa: Tuệ thuận thứ (thuận theo thực tế, tức thuận theo Tứ Diệu Ðế).

13. Gotrabhū ñāṇa: Tuệ chuyển tánh, vào lúc "chuyển thay dòng dõi" (tức từ phàm trở nên Thánh).

14. Magga ñāṇa: Ðạo tuệ.

15. Phala ñāṇa: Quả tuệ.

16. Paccavekkhaṇa ñāṇa: Tuệ ôn duyệt.