Sunday, February 23, 2025

068 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 29 tháng 7, 2023

 068 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 29 tháng 7, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "068 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Thiền sinh hỏi: Pháp Thực Tính có Đồ Đạo làm cảnh nó duyên với một Pháp Thực Tính mà cũng là đồ đạo cảnh qua nhân duyên. Rồi tiếp theo nói là Nhân làm Duyên với Đạo Cảnh.

Pháp Thực Tính đầu có phải là nhân không, và Pháp thực tính nhì mà nói có phải là Uẩn tương ưng không ?

HT trả lời: Một Tam Đề có 3 Pháp : Đạo Cảnh, Đạo Nhân, Đạo Trưởng.

Tà Đạo                      Đồ Đạo (Trung Đạo)                     Chánh Đạo

Cảnh                                  Nhân                                     Trưởng 


Cảnh

Thí dụ như Đồ Đạo, nếu Cảnh của Đồ Đạo, Cảnh của Đạo nó có những gì là Cảnh của Đạo. Đạo có Cảnh gì thì mình mới nói được. Rồi Nhân làm duyên với Đạo này là cái gì, Trưởng làm duyên với Đạo này là cái gì, mình phải nói.

Thì bây giờ mình nói Đồ Đạo có 2 là: Tà Đạo và Chánh Đạo. Rồi Đồ Đạo là Trung Đạo. Thì mình mới nói được.

 Vậy thì, nếu ta nói vế bên phải đi về Chánh Đạo thì:

-  Cảnh của Chánh Đạo là gì, mình ghi xuống. 

-  Nhân của Chánh Đạo là gì, mình ghi xuống.

- Trưởng của Chánh Đạo là gì, mình ghi xuống.

Còn nếu đi vế bên trái là Tà Đạo, thì:

- Cảnh của Tà Đạo là gì, mình ghi xuống.

- Nhân của Tà Đạo là gì, mình ghi xuống.

- Trưởng của Tà Đạo là gì, mình ghi xuống.

Mình phải tìm ra nó, thì ban đầu mình tìm ra, 

- khi nói tới Tà Đạo có 4 chi : Tà tinh tấn (Micchāvāyāmo), Tà niệm (Micchāsati), Tà định (Micchāsamādhi), Tà kiến (Micchādiṭṭhi)

- Chánh Đạo có 8 chi, Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định

- Hành Đạo (Trung Đạo) 

Cảnh của Tà Đạo là gì ? Thí dụ, trong Tà Đạo có Tà Tinh Tấn. Trong Chánh Đạo có Chánh Tinh Tấn.

Thì Cảnh của Tà Đạo, giờ mình lấy Tà Tinh Tấn. Tên ăn trộm có Tà Tinh Tấn, nó tinh tấn để lấy được tài sản của người gia chủ. Còn người Phật tử có Chánh Tinh Tấn mong cầu giải thoát chấm dứt khổ đau sinh tử. Hai cái đó khác nhau, tên ăn trộm cũng có tinh tấn, như tinh tấn đó là tà, không trong sạch, chỉ muốn ăn cắp tài sản của người ta thôi.

Bây giờ mình nói Tà Tinh Tấn thì có Chánh Tinh Tấn.

Thì Cảnh của Tà Tinh Tấn là :

- Tài sản làm cho ăn trộm tinh tấn lên.

- Bóng đêm tiếp tay cho ăn trộm.

- Khổ đau làm cho tên ăn trộm tinh tấn.

- Khổ thú làm cho tên ăn trộm tinh tấn.

Cảnh của Chánh Tinh Tấn là:

- Níp-bàn làm Cảnh cho bậc Thánh nhân, cho người tu tập hướng tới Đồ Đạo làm Cảnh là cảnh Níp-bàn, cảnh Giải Thoát chấm dứt khổ đau. Thì Cảnh đó là Đồ Đạo.

Thì cái này là Cảnh, trong đó có khổ đau, cảnh an vui, cảnh địa ngục hay cảnh Níp-bàn. Mấy cảnh đó làm duyên cho mấy phương pháp đó hiện bày. Sư chưa nói tới Duyên.

Nhân

Nhân có 2 là 

- Nhân Bất Thiện

- Nhân Thiện

Nhân Thiện có 3 :

- Vô Tham

- Vô Sân

- Vô Si.

Do đó, Đồ Đạo làm Nhân thì chỉ có nhân Thiện thôi là vô tham, vô sân, vô si, đưa nó đi tới con đường chấm dứt khổ đau.

Trưởng

Còn nếu Trưởng thì chỉ có Thẩm Trưởng (là Tâm Sở Trí Tuệ)

Do đó, khi nói tới chữ "Nhân", Đồ Đạo làm Nhân thì nó có 3 nhân Thiện vô tham, vô sân, vô si. 

Nhưng đứng ở góc độ Đồ Đạo làm Trưởng thì chỉ có Thẩm Trưởng là nhất. Dục, Cần, Tâm, Thẩm, cũng được, nếu mà nói trên đường tu tập có tứ Trưởng cũng được. Nhưng trong phần Cảnh trong phần Bất Thiện thì có 3 thôi là Dục, Cần, Tâm 

Cần Trưởng, Dục Trưởng, Tâm Trưởng. Nếu bất thiện thì không có tâm.

Muốn vô chi tiết này thì mình phải đi trở lại quyển I Paṭṭhāṇa. Quí Phật tử phải coi Đồ Đạo Duyên, Nhân Duyên, Trưởng Duyên, lọc ra Năng Duyên, Sở Duyên, Địch Duyên của mỗi cái.

Đồ Đạo làm Cảnh, Đồ Đạo Nhân, Đồ Đạo Trưởng.

Nếu mà Đồ Đạo làm Cảnh thì bắt đầu mình vô Cảnh Duyên. Cảnh Duyên có 3 là : Năng, Sở, Địch

Đồ Đạo Nhân, có Nhân Duyên. Nhân Duyên có 3 là : Năng, Sở, Địch.

Đồ Đạo Trưởng có Trưởng Duyên. Trưởng Duyên có 3 là : Năng, Sở, Địch.

Mình kết học 3 cái đó lại, Năng Duyên nào vô Năng Duyên nào, gọi là tấu hợp.

Qua phần hiệp lực thì tổng quát lại hết tất cả như là mẫu số chung, có Ghatanà – Hiệp Lực và Sabhàga - Tấu Hợp,  qua phần đó mình mới vô Địch, rồi vô trong 7 Pháp Paṭṭhāṇa. Rồi trong 4 cách : thuận, nghịch, thuận nghịch, nghịch thuận mới ra được.

 7 Pháp của Paṭṭhāṇa :

1) Paticcavàra – Giai đoạn Liên Quan

2) Sahajàtavàra – Giai đoạn Câu Sanh, 

3) Paccayavàra – Giai đoạn Duyên Sinh, 

4) Nissayavàra – Giai đoạn Y Chỉ, 

5) Sansatthavàra – Giai đoạn Tương Tạp, hay là hỗn hòa, 

6) Sampayuttavàra – Giai đoạn Tương Ưng, 

7) Panhàvàra – Giai đoạn Vấn Đề.  

Phải đi 7 Pháp đó với 4 cách: thuận, nghịch, thuận nghịch, nghịch thuận. Pháp Tam Đề là vậy, chứ không nói suông.

Trung Đạo là mình hành, còn Chánh Đạo là phương pháp. Mình muốn hành Đồ Đạo (Trung Đạo) theo phương pháp Chánh Đạo thì mình biết đường đi.

Khi nắm được ý thì mới ra được chủ đề mình muốn giải quyết. Ưu tư của người tu là phải tìm ra cách giải quyết khổ đau của mình. 

Có 2 loại khổ đau là : Khổ đau hiệp thế

                                 Khổ đau siêu xuất thế gian.

Thì cả 2 lộ này mình phải thấy. 

Khổ đau hiệp thế là trong Tam Giới.

Khổ đau siêu xuất thế gian trong Tam Giới này nó chỉ là cảnh người tu mình nhắm tới.

 Như vậy thì minh phân tích để tìm ra.

Ở trong thế gian này mình bị nặng phần kiết sử, hay bị nặng phần triền cái, hay nặng về lậu hoặc. Mình phải học, phải viết ra bảng vẽ. Mình đưa ra chủ đề và trong mục nào. Ba cái kiết sử, triền cái, lậu hoặc mình có hết thì mình ôm hết không từ chối. Nếu có triền cái mình đánh dấu vào, ta có khổ đau này, những triền cái này nó đeo ta phiền não lắm ; hôn trầm, thùy miên, tham sân, hoài nghi, phóng dật hối hận, trạo hối theo ta, ghi xuống.

Kiết sử đưa vô Đồ Đạo mình phải đi. Triền Cái này nó chỉ là Cảnh để cho mình đối diện nó thôi. Lậu hoặc là Trưởng mình phải biết cái mạnh của nó, thì mình phải đặt ra.

 Khi đi học cũng vậy, mình phải coi một bài học, cái nào là trọng tâm, cái nào là tiểu tiết, cái nào đưa tới giải quyết, cái nào chỉ là bối cảnh thôi. Mình phải biết.

Thì kiết sử, Sư nói đó là trọng tâm của mình để mà đi tới thì mình nói tới tà kiến, ngó qua bên triền cái nó có không, ngó bên lậu hoặc nó có không hay là tà kiến chỉ có trong kiết sử thôi, mình ráp vô.

Trong Triền Cái có :

- Tham Triền Cái.

- Sân Triền Cái.

- Trạo Hối Triền Cái.

- Hoài Nghi Triền Cái

- Hôn Thùy Triền Cái.

- Vô Minh Triền Cái.

Triền Cái, nếu nói theo Abhidhamma thì thêm Vô Minh Triền Cái. Nếu nói theo Nikaya chỉ có 5 chi.

Thì kiết sử là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, 3 hạ phần kiết sử này là Đồ Đạo của mình phải đi tới.

Bây giờ ráp vô.

Kiết sử tà kiến mà ta nói là thân kiến sakkàyaditti Hữu Thân Kiến này nằm trong triền cái nào ? Tham có 2 loại : Tương Ưng Kiến và Bất Tương Ưng Kiến.  Vậy thì Kiết Sử nằm trong Tham Thân Kiến. Nếu mà nó lập đi lập lại, nó là Kiết Sử, mà nó thoáng qua nó là Triền Cái.

Nhưng Tà Kiến lọt qua bên phần Lậu Hoặc thì Tà Kiến nằm ở Kiến Lậu.

Nếu  phân tích được thì mình mới ra được mình mới tu được, mình mới giải quyết nó được.

Kiết Sử ta nói anh Thân Kiến này đứng về bên Triền Cái nó thuộc về Tham Tương Ưng Kiến. Đứng về bên Lậu Hoặc nó là Kiến Lậu, còn mình muốn sâu nữa thì mình bổ túc vô.

Nếu chưa ta nói sơ sơ thôi 

anh tà kiến này, kiết sử, thân kiến thuộc về kiết sử này nó thuộc loại nào ? Mình nói Kiến Lậu.

Nhưng nếu nói qua Thân Kiến này vô minh triền cái 

Kiến có 2 : Tà Kiến và Chánh Kiến.

Tà Kiến - Tâm Sở Tà Kiến (1 trong 3 bọn Tham Phần).

Nếu nói về chi pháp thì Tà Kiến là Tâm Sở Tà Kiến, là 1 trong 3 bọn Tham Phần (Tham, Tà Kiến, Ngã Mạn) 

4 pháp Bất Thiện là : Sân, Tận, Lận, Hối.

Chánh Kiến (Tâm Sở Trí Tuệ).

Khi nào mình có Chánh Kiến ? Khi mình có Trí Tuệ thì mình có Chánh Kiến.

Khi nào họ có Tà Kiến ?  Khi mình có Tâm Tham là mình có Tà Kiến. Tại vì Tâm Sở không đứng một mình, mình phải biết liền.

 Như vậy thì, khi mình có Thân Kiến kiết sử tức là mình có Tâm Tham Tương Ưng Kiến (đôi thứ 1 và đôi thứ 3)

đôi thứ nhất

1) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

2) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

đôi thứ ba

5) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

6) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng  Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

Vậy thì khi các Phật tử nhìn vô Thân Kiến Kiết Sử của mình mà mình niệm được Niệm Xứ thì nó sẽ có 2 cái, Tâm trong Tâm, Tâm Chánh Kiến nhìn thấy Tâm Tà Kiến.

Nhìn vô Thân Kiến Kiết Sử có Niệm Xứ thì có 2 là :

1. Tâm Thiện 

2. Tâm Tham. 

Mình niệm được Pháp, Trạch Pháp Giác Chi nằm trong Pháp Triền Cái.

Tại vì Thân Kiến thuộc về Tâm Sở thì Tâm này phải là Tâm Thiện

Khi Tâm Thiện của mình Niệm thuộc về Tâm Niệm Xứ. Tâm Thiện thấy Tâm Tham. Tâm Chánh Kiến nhìn thấy Tâm Tà Kiến.

Tâm Tham có cảnh mới sinh ra Tâm. Cảnh Tâm Sở Nghiệp và Tác Ý nó bắt đầu nhìn.

Tâm Tham này có Cảnh thấy sai trách lầm, Cảnh này là Cảnh gì ? Tâm Tà Kiến, lúc bấy giờ mình phải nằm trong Ngũ Thủ Uẩn Kiến ; Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, của "Tôi", trong "Tôi", ở trong "Tôi" trong phần Ngũ Thủ Uẩn Kiến. 

Giờ mình nói Cảnh nằm trong Cảnh nào ? Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bất kỳ 1 trong 5 cái này, Cảnh đang sinh lên thì Tâm nhíp vào thì Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí bắt vô  Niệm. Thì lúc bấy giờ Tâm Tham, Cảnh cảnh này Sinh / Diệt rớt vô cái Diệt, Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí bắt được thì kiết sử Diệt, trong 1 sát na.

(Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí 'Vô Tham, Vô Sân, Vô Si' nhìn vào Tâm Tham thì Tham diệt, nhin vào tâm Si thì Si diệt, nhìn vào Tâm Sân thì Sân diệt, trong 1 sát na.)

Khi Tâm bắt vô được, khi mà nó Diệt rồi, mà cái Niệm kiến mình có kiết sử diệt.

Tâm Đạo bắt được lúc nào là bắt lúc đó.

Mình viết xuống mình mới ra được chi pháp, còn nói suông thì không được.

Nên cái quan trọng của pháp Niệm Xứ chỗ cốt lõi là mình phải biết cách vận hành và  kỹ thuật của Niệm và mình biết ráp lại.

Thế thì khi ta nói kiết sử nào cũng vậy. 

Bây giờ ta nói về Hoài Nghi là Triền Cái, hay Hoài Nghi là kiết sử, hay Hoài Nghi này là Lậu Hoặc, mình bắt đầu bỏ vô.

Mình muốn nói về pháp để mình thấy về pháp Hoài Nghi. Hay ta nói về Tâm Niệm Xứ để mình thấy được Tâm Si Hoài Nghi.

Khi ta đưa vô chi pháp. Khi Thân Kiến này là Tâm Sở hay là Tâm, nói Tâm Sở là Tâm Sở Tà Kiến. Nếu là Tâm thì nó thuộc Tâm Tham Tương Ưng Kiến, chứ nó không phải Tâm Tham Bất Tương Ưng Kiến. 

Do đó, tới giai đoạn qua khỏi Tâm Đạo thứ 1 là Tâm Thất Lai, qua tới Tâm Đạo thứ 2  là Tâm Nhất Lai là châm vô Tâm Tham Bất Tương Ưng Kiến chứ không còn bận tâm với vấn đề Tâm Tham Tương Ưng Kiến nữa. 

Nên tham đó là Tham thô hay là vi tế thì mình mới tìm ra được Tâm Tham Tương Ưng Kiến là Tâm thô của hàng Thất Lai, lên tới hàng Nhất Lai bắt đầu giảm xuống chỉ còn là Tham Bất Tương Ưng Kiến thôi.

Đi tới Bất Lai thì từ Hỷ qua tới Xả diệt luôn 2 cái đó. Giữa Nhất Lai với Bất Lai là Hỷ với Xả còn, nhưng tới Bất Lai, tâm tham không còn Hỷ Xả diệt luôn hết Tham Bất Tương Ưng Trí và Tương Ưng Trí, Hỷ Xả hết.

Hỷ là thô, Xả là tế, 

Do đó mình hỏi Bất Lai vượt Tham tế, Nhất Lai vượt Tham thô, Thất Lai vượt Tham Tương Ưng Kiến.

Mình phân tích từng chi pháp.

Khi ta nói tới bài kinh Niệm Xứ, dưới phương pháp nào mình dùng Tâm Niệm Xứ, nếu biết cách dùng. Khi ta nói tới Tâm Niệm Xứ thì ta nói Tâm với Tâm. Nếu ta muốn đối xử với kiết sử thì ta đối xử với Triền Cái ta có Tâm với Tâm thì giải quyết được mấy cái đó chỉ mục tiêu của Niệm Xứ, mục tiêu của Paṭṭhāṇa là Tam Tướng.

Mà nếu như đi qua phần Samadhi thì không đứng trong phần Vipassana trong Tứ Niệm Xứ này thi lấy chi Thiền để áp chế Triền Cái thôi chứ không có Kiết Sử, nó nằm ở đó và chờ cơ hội tấn công lại.

Mình cứ viết ra tuần tự theo trên bảng như Sư viết. 

để hình 068 - 43.07



Ta nói Thân Kiến, ta nói Hoài Nghi, Giới Cấm Thủ.

Hoài Nghi (Vicikiccha): có 2 loại là . Hoài nghi thông thường và hoài nghi có tội.

Hoài nghi có tội có 8 :

1.  Satthari kaṅkhati - Hoài nghi ân đức Phật.

2. Dhamme kaṅkhati - Hoài nghi ân đức Pháp.

3. Saṅghe kaṅkhati - Hoài nghi ân đức Tăng.

4. Sikkhāya kaṅkhati - Hoài nghi về tam học (giới - định - tuệ).

5. Hoài nghi về quá khứ.

6. Hoài nghi về vị lai.

7. Hoài nghi về hiện tại.

8. Hoài nghi về liên quan duyên sinh.

Nhưng nói về hoài nghi về chi pháp là Tâm Sở Hoài Nghi, là Tâm Si Hoài Nghi. Thì Tâm Si Hoài Nghi, Tâm Si Phóng Dật.

Vậy thì nếu nói về Triền Cái, nó thuộc về Hoài Nghi Triền Cái. 

Nếu nói về Kiết Sử thì nó thuộc về Hoài Nghi Kiết Sử.

Còn nếu về Lậu Hoặc nó thuộc về Vô Minh Lậu.

Như vậy thì khi ta có Tâm Si Hoài Nghi, thì Tâm Si Hoài Nghi này nó thuộc loại nào ? Tâm Si Hoài Nghi có Tâm Sở Si Hoài Nghi.

Si Hoài Nghi, Vô Tàm, Vô Quí, Trạo Cử thuộc bọn 4 Si Phần, bọn Bất Thiện Biến Hành.

Tâm Si Hoài Nghi thuộc loại 4 Si Phần, nó thuộc Bất Thiện Biến Hành, tức là có một lượi, không tách rời, khi có là có luôn 4 cái (Si Hoài Nghi, Vô Tàm, Vô Quí, Trạo Cử) nó là biến hành, không tách rời. Si mà Vô Tàm Vô Quí thì Trạo Cử liền. Nó thuộc loại 4 Si Phần. Nó thuộc Tâm Sở Si, nó có Si, Vô Tàm, Vô Quí, Trạo Cử hay là Phóng Dật. Mà kèm theo là mỗi Tâm Sở Bất Thiện nào mà có thì có 4 cái Si, Vô Tàm, Vô Quí, Trạo Cử nó vô hết.

Như vậy thì khi ta đi qua phần Hoài Nghi Kiết Sử, nó thuộc 1 trong 3 hạ phần kiết sử thì phải dùng tâm nào để niệm xứ nó, nó thuộc về Tâm Niệm Xứ Bất Thiện.

Mình thay thể vô, nó là Tâm Si Hoài Nghi thì mình có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí.

Khi quí Phật tử nói tới phần Tâm Si Hoài Nghi này mà mình muốn diệt nó thuộc loại Si Hoài Nghi nó thuộc trong 3 hạ phần kiết sử mình phải dùng tới Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí mới diệt được chứ còn Tâm Đại Thiện thường thì không được. 

Minh (vijjà) sinh Vô Minh (Avijjà) diệt,

Trí Tuệ sinh Hoài Nghi diệt. 

Vậy thì trong đời sống hàng ngày, cũng như trong khi có khóa tu quí Phật tử sài Tâm Đại Thiện nào để mình tu ? Quí Phật tử có sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí suốt thời gian, hay chỉ sài Tâm Đại Thiện chung chung thôi ?

Vấn biết rằng một nhà học võ, cho dù là võ sư đi nữa, không phải lúc nào họ đi ra đường họ cũng gồng thế võ, mà đụng chuyện họ mới sài, có khi sài kịp có khi sài không kịp.

Nên quí Phật tử thấy chữ Đại Thiện Tương Ưng Trí để diệt được Tâm Si Hoài Nghi, 1 trong 3 kiết sử đầu tiên của Tâm Thất Lai là quí Phật tử sẽ yêu cầu phải xử dụng trí tuệ luôn luôn sắc bén.

Đầu tiên nhất Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí này đối diện với Si Hoài Nghi, Tâm trong Tâm.

Vậy thì khi nào  có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, khi nào thấy có Tâm Si Hoài Nghi, lúc đó xử lý Tâm Si Hoài Nghi rồi xử lý Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, hay là  dùng Pháp nào trong sự tu tập này để diệt kiết sử ?

Khi Tâm Si Hoài Nghi khởi lên mình phải có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí để Niệm nó, do đó chức năng Niệm rất là quan trọng, lúc này bây giờ không còn nằm trong pháp Niệm Xứ. 

Pháp Niệm Xứ không giải quyết vấn đề này, khi mình tu lấy Tâm đối diện với Tâm thì mới ra được, muốn có Tâm Đạo thì phải có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí diệt Tâm Bất Thiện là Tâm Kiết Sử, cái đó mình không còn thắc mắc nữa, đó là điều chắc chắn.

Như vậy thì khi Tâm Si Hoài Nghi khởi lên (1 trong 8 Hoài nghi) chắc chắn là quí Phật tử rớt trong 4 chi trong 8 hoài nghi, thì vị Thiền Sư mới lọc cho mình ra.

 Quí Phật tử không hoài nghi Phật , không hoài nghi Pháp, không hoài nghi Tăng.

Quí Phật tử hoài nghi ta trong 3 thời và hoài nghi liên quan tương sinh. Duyên nào đưa tới, do đó, mình sinh hoài nghi. Minh cô đọng lại 4 hoài nghi này bắt đầu trí làm việc, bắt đầu lọc ra. 

- Hoài nghi ta trong quá khứ, ta không rõ.

- Hoài nghi ta trong vị lai, vị lai chưa tới ta không biết.

- Hoài nghi ta trong hiện tại, ta làm đúng chưa ?

Quí Phật tử đi cái đó là đang đi trong Tâm Si Hoài Nghi với Tâm Si Phóng Dật chứ không có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, mà đang bị phóng dật.

Quí Phật tử đang ở trong Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí mà không sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí vì kỹ thuật mình không biết, các hành giả không biết nắm thì rớt qua Tâm Si Phóng Dật liền, mà mình không hay, mình đang ngồi thiền không kết quả.

Có cái key, nhưng Sư còn đi vòng vòng cho quí Phật tử nắm chỗ đó quan trọng lắm.

Khi quí Phật tử có 4 trong 8 hoài nghi, thì Sư gỡ thì quí Phật tử còn 2 cái trong 8 hoài nghi, ta trong hiện tại và liên quan tương sinh, ta đang ngồi đây ta sinh hoài nghi, nếu không dùng Đại Thiện Tương Ưng Trí thì rớt vô Si Phóng Dật, không có con đường nào chạy hết, trong khi đó mình ngồi thiền hoài, mình hành hoài, trong pháp hành bộ hành cũng vậy, trong tọa hành cũng vậy, trong trụ hành cũng vậy, trong ngọa hành cũng vậy, quí Phật tử luẩn quẩn như con kiến trong chén đường mà thôi.

Thiền sinh hỏi: Để diệt Tâm Hoài Nghi mình phải có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, là Tâm có Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, mà Vô Si chính là Tâm để diệt hoài nghi phải không ?

HT trả lời. Không phải vậy, cô bị đang trong trạng thái phóng dật rồi, mình giải đáp không được là mình phóng dật liền

Khi ta đang ở trong nhóm hoài nghi, ta đang hoài nghi ta, pháp hành ta đi có đúng không, cái hoài nghi này, ta có Tương Ưng Trí này thì sẽ đi qua Si Phóng Dật. Tâm Si Hoài Nghi mà không giải đáp được thì rớt vô Tâm Si Phóng Dật. Tâm Si Phóng Dật là suy nghĩ để tìm câu giải đáp.

Tâm Si Hoài Nghi mà sinh, nghi mà diệt là mình không có tôi trong đó.

Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí qua luôn Sinh / Diệt, không qua Tâm Si Hoài Nghi.

(Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí 'Vô Tham, Vô Sân, Vô Si' nhìn vào Tâm Tham thì Tham diệt, nhin vào tâm Si thì Si diệt, nhìn vào Tâm Sân thì Sân diệt, trong 1 sát na.)

để hình 068 - 1.03.22



Nghi kiết sử mất với Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, thấy được pháp của nó, chứ không thắc mắc tại sao, tôi làm có đúng không, cái đó mình tránh không thắc mắc, chỉ có 1 sát na thôi, thấy được pháp của nó, chứ không thắc mắc. Sát na Niệm, sát na Định, sát na Tuệ bắt liền.

Thì sát na Định, sát na Niệm đây là Si Hoài Nghi. Sát na Định là trí tập trung vô đang sinh, và Tuệ tập trung vô đang diệt kiết sử dứt.

Còn không thì quí Phật tử đi loanh quanh trong phóng dật này 

Mình đưa bài pháp này lên, đưa cái cột này lên, đưa cái chi pháp này lên, đưa Tam Đề này lên, đưa cách giải quyết mình lên là ra.

Áp dụng trong Đạo Cảnh, Đạo Nhân, Đạo Trưởng, đưa cột này lên, triền cái nè, kiết sử nè, lậu hoặc nè, đi vào trong pháp, pháp nào đang có là pháp đó mình có.

Pháp nào sinh lên nó chỉ là pháp Tâm biết và Tâm đang có, bắt cái đó.

Từ đó, mới thấy người đắc đạo Thất Lai không có hoài nghi, họ sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, họ không có Thân Kiến, họ chỉ sống trong Đại Thiện Tương Ưng Trí, và họ sống không có một cái gì chấp thủ. Cũng là con người đó nhưng tâm của họ đã thanh lọc.

Mình áp dụng, rồi trắc nghiệm, thì khi gặp Cảnh bậc Thất Lai sẽ xử lý. Với một Cảnh người phàm phu họ hiện bày. Mình tìm ra được.

Như vậy, bây giờ mình áp dụng trong đời sống hàng ngày, như trong khóa tu, khi nào triền cái mình biết, khi nào kiết sử mình biết, khi nào lậu hoặc mình biết, mình phải thanh lọc liền, không cần phải hỏi, không cần phải suy tư nghĩ ngợi. Chứ không thể nào quí Phật tử còn thắc mắc, hay là không chuyên nghề, không chuyên nghiệp là không được.

Bây giờ mình nói thời tiết.

Thời tiết có mấy loại : 

- Nóng. Nóng của thời tiết, hay nóng do mình nghĩ, mình biết, mình phải phân biệt được nóng của thời tiết hay nóng do mình nghĩ. Chứ không còn có trạng thái 

- Lạnh. Lạnh của thời, hay lạnh do mình nghĩ  

- ấm, 

- mát, 

Nếu không có Niệm, không có trí thì mình bung vô trạng thái nghĩ của mình. Câu nói "con nghĩ  thời tiết nóng lạnh là của ông Trời cho" thì cũng là của mình.

Giữa 2 cái nóng, lạnh, nếu ta có Niệm --có --> Pháp --có --> Tâm, không bị chi phối trong đó.

Nếu có cái Niệm thì thời tiết chỉ là Pháp và Tâm mình biết Pháp đó thôi. Chứ mình không có nóng, lạnh cái suy nghĩ trong đó.

Một thí dụ thôi, thí dụ về thời tiết thì mình cũng vô Niệm, chỉ tại vì mình không có Niệm thôi, và mình thất Niệm, mình không có Trí, và mình chạy theo nghiệp lực rồi.

Do đó, chức năng của Niệm Xứ, chức năng sự tu tập của mình, chức năng xử lý của tình huống đó đến với mình, thân, ngự, ý, mình luôn luôn thấy rất là quan trọng, một chuyện nhỏ thôi, chỉ là thời tiết.

Giờ Sư cho một thí dụ lớn hơn và nó hấp dẫn lôi cuốn hơn : Vật Thực, nó mang tánh chất chủ quan hơn nữa, thời tiết nó còn là khách quan, tới vật thực mình thấy ngon, dở, tốt, xấu, thích hay không thích.

Nếu không có Niệm và mình chỉ thấy Pháp thôi thì mình mới có cái Tâm thì mình rớt trong trạng thái của Vật Thực lôi cuốn mình.

Mình đứng ở đây nó có 2 làn ranh, một bên là tu tập, một bên là trôi lăn, cứ để trôi lăn tới đâu thì tới mà họ vẫn nói là tương ưng, họ vẫn có Chánh Ngữ, chứ không có tà ngôn tà ngữ, không nói sai không nói bậy, nhưng họ sống trong trạng thái của mình. 

Như vậy thì khi mình có Pháp này thì những triền cái hay kiết xử nó không xâm nhập vô, hay nó chỉ đạo mình, từ chút một chút thì bắt đầu mình đánh rớt kiết sử. 

Kiết sử đó là kiết sử gì ? Kiết sử cái tôi của mình, cái thói quen của mình, thì thân ngự ý của mình bắt đầu hoàn chỉnh đi theo hướng đi của các bậc có trí tuệ, chứ mình không có luông tuồng nữa.

Sư bắt đầu áp dụng : 

Thời tiết nếu đụng vô Thân Kiến của mình là Thọ, Thọ thì ra Tưởng, và mình có Hành, và quyết định của mình là Thức, từ Sắc của mình tiếp xúc.

Vật thực cũng vậy : Khi vật thực đụng vô Thân Kiến từ Sắc mình ra Thọ, Thọ ra Tưởng, Tưởng ra Hành, Hành ra Thức của Thân Kiến kiết xử khi mà liên quan đến vật thực. 

Bây giờ mình làm sao ? 

Do đó, với phương pháp  Đức Phật Ngài dạy cho các chư Tỳ Khưu nhìn vật thực mà quán tưởng.

 Pindapato là ôm bình bát đi khất thực. pato là cái bình bát

Nếu mình không tu, thời tiết có ảnh hưởng tới Thân Kiến của mình, vật thực ảnh hưởng tới Thân Kiến của mình, cái nhà cũng vô Thân Kiến của mình, cái khách quan cũng vô cái chủ quan của mình được. Thì Thân Kiến này nó thuộc trong chủ quan mà mình đã nuôi dưỡng nó, mình đã bảo vệ nó và mình đã sống với nó. Vì đụng vô cái tôi, cái ta là mình bắt đầu phản ứng ra vì mình không có tu.  Giờ mình biết rồi thì mình tu.

Thời tiết tới chỉ là Sinh và Diệt thôi. Vật thực tới chỉ Sinh và Diệt thôi. Do đó, nó bên ngoài, mình là trong, mình cứ nuôi dưỡng nó rồi tự nhiên nó xâm nhập mình, mình nuôi dưỡng nó mình mở cửa cho nó xâm nhập vào.

Do đó, cái tu của mình là mình phải biết, cái đó là tuệ giác, Tuệ Tư, Tuệ Tu, mình phải biết cái kỹ thuật này.

Mình trở lại với thời tiết, mình chỉ có Niệm, mình thấy nó là các Pháp, mình có Tâm của mình có ở trong triền cái này không ? Tâm mình có ở trong kiết xử này không ? hay Tâm mình có Tương Ưng Trí không ? Tâm mình đang trong phàm hay đang tu tập để thành Thánh ? Đó là sự tu tập của mình thường xuyên để mình giữ được Chánh Niệm này rồi mình mới lần bước đi ra khỏi cái con đường Vô Minh, hay con đường mà luân hồi này.

Bất cứ cái gì nó đến với mình thì Thân Kiến tiết xúc trước, và mình không trách người ta, không trách pháp bên ngoài, mình chỉ trách mình là mình không tu pháp bên trong để cho nó thâm nhập vào.

Cửa nào cũng chết. vô cửa Sắc, mà vô được rồi thì Thọ, Tâm, Tưởng, Hành, Thức nó xen vào được, và nó có đường nó chạy theo.

Do đó, Thân Kiến là kiến chấp hay là tri kiến nhận thức, hai cái đó mình phải biết.

                                         Kiến Chấp

Thân Kiến

                                        Nhận Thức.

hai cái đó mình phải biết. Kiến chấp, kiến nhận thức làm sao mình biết. Có Cảnh thì sinh Tâm. Tâm có Cảnh, giữa hai cái đó cái nào quyết định ?

Có Cảnh --> Có Tâm

Một thiền sinh trả lời: Tôi có tu thì Tâm tôi quyết định. Còn tôi không tu thì tôi chạy theo Cảnh, Cảnh quyết định.

Nếu đây là Cảnh Níp-bàn quyết định hay Tâm Đạo quyết định ?

Ta nói Cảnh quyết định, Tâm chạy theo. Có khi mình nói Tâm quyết định, Cảnh không lay chuyển tôi được, tôi giữ được Tâm tôi. Vậy giữa Thánh nhân với phàm nhân mình có 2 cái đó.

Vậy thì khi Cảnh Níp-bàn với Tâm Đạo này ở trong vị trí nào ? Mình phải phân biệt, nếu mình không phân biệt được thì không có thể nào tu tập để giải quyết được kiết sử, triền cái hay lậu hoặc được 

Cảnh chỉ có 3 : 

- Cảnh Triền Cái

- Cảnh Kiết Sử

- Cảnh Lậu Hoặc.

Nếu nó là Cảnh Triền Cái ; Tham Triền Cái, Sân Độc Triền Cái, Hoài Nghi Triền Cái, Trạo Hối Triền Cái, Hôn Thụy Triền Cái. Cảnh đó là Cảnh Triền Cái, thì Tâm của quí Phật tử đang có là cái nào ?

Cảnh Níp-bàn, qua khỏi Triền Cái, qua Khỏi Kiết Sử, qua khỏi Lậu Hoặc là Cảnh Níp-bàn thì có Tâm Đạo

Có Cảnh có Tâm. Tâm nào Cảnh nào, cái nào là quyết định ?

Phải cẩn thận. Khi người ta nói Cảnh có Tâm có, Cảnh quyết định hay Tâm quyết định ? Quí Phật tử lúng túng. Người ta nói thêm, nếu có Cảnh Triền Cái thì Cảnh Triền Cái quyết định Tâm của mình không ?

Thì mình nói Cảnh Triền Cái có Tâm Triền Cái.

- Cảnh Kiết Sử có Tâm Kiết Sử.

- Cảnh Lậu Hoặc có Tâm Lậu Hoặc.

- Níp-bàn có Tâm Đạo.

Cảnh Triền cái là có Tâm Triền Cái

Cảnh Níp-bàn có Tâm Đạo.

Mình nhận định được thì mới tính tiếp được.

Niệm nào vô thì có Tâm đó. Tâm buồn ngủ Cảnh buồn ngủ, có Cảnh buồn ngủ có Tâm buồn ngủ. Trạng thái buồn ngủ, Tâm buồn ngủ. Tôi đang buồn ngủ tôi có Cảnh buồn ngủ, tôi đang có trạng thái hôn trầm thụy miên, Tâm tôi đang hôn trầm thụy miên.

 Mình nhận thức được thì mình Niệm, lấy Tâm Đại Thiện, lấy Tâm Tương Ưng Trí.

Mình có Niệm thì có Pháp, có Pháp thì có Tâm.

Nếu quí Phật tử bỏ Thời Tiết hay Vật Thực vô thì quí Phật tử ở trong trạng thái của Tôi, Ta. Dứt khoát ta không làm nữa, giờ ta biết rồi, ta đang tu nên ta không lập đi lập lại những Cảnh này hoài được.

Như thế thì khi Niệm khởi lên thì mình chỉ coi đó là Sinh / Diệt chứ không có cái Tôi, thì mình Niệm được cái Diệt thì lúc đó là Tương Ưng Trí Tâm này bắt được Cảnh chứ không có Niệm.

Tại sao nó có ? Có lúc nào ? Tại sao cái này ? 

Không phải là tư tưởng, còn triền cái, kiết sử, lậu hoặc, một luồng tâm, một tư tưởng, một suy nghĩ, một nhận thức bắt vô một sát na thôi, và khi nó sinh lên lúc nào mình cũng biết cái gì của nó là chắc chắn nhất cái đó là Thực Tính (Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã), đó là bản chất cố hữu của nó không ai thêm, không ai bỏ vô và không ai tác động được, nó là như vậy, thì tôi có cái đó, thì mới ra, sát na Niệm mà mình  Định được trong đó là sát na Định và sát na Tuệ biết được cái đó là Thực Tính ./. 

-------------------------------------------

[402] Tám pháp cần đoạn trừ (Pahātabbā dhammā):

Đây là tám tà tánh, hay bát tà đạo (Micchattā):

1. Tà kiến (Micchādiṭṭhi), tri kiến sai lầm, sự hiểu không đúng chân lý, như thường kiến, đoạn kiến v.v...

2. Tà tư duy (Micchāsaṅkappo), sự suy nghĩ bất thiện, như ý tưởng tham dục, ý tưởng sân hận ý tưởng não hại.

3. Tà ngữ (Micchāvācā), lời nói bất chính, như nói dối, nói ly gián, nói độc ác, nói vô ích.

4. Tà nghiệp (Micchākammanto), hành động bất chính, như sát sanh, trộm cắp, tà dâm.

5. Tà mạng (Micchā-ājīvo), nuôi mạng bất chính, như làm nghề sát sanh, nghề trộm cướp, nghề lừa đảo...

6. Tà tinh tấn (Micchāvāyāmo), sự siêng năng bất chính, như siêng năng làm cho bất thiện pháp phát sanh.

7. Tà niệm (Micchāsati), sự vọng niệm, nhớ đến những điều mà làm cho ác bất thiện pháp sanh khởi.

8. Tà định (Micchāsamādhi), sự phóng dật, sự trụ tâm không kiên cố, làm cho bất thiện sanh khởi.

-------------------------------------------

Trong Tập Tứ Pháp Siêu Lý trang 17.

12) Tâm Đại Thiện (Mahā-kusala cittas) có nghĩa là Tâm không có tội lỗi và cho Quả an vui, vì thế được gọi là Thiện, và có khả năng sanh nhiều hơn tự bản thân. Tất cả đều là phần mở đầu của Thiền, Thắng Trí, Đạo Quả - như thế mới gọi là "Mahā - Đại". Khi kết hợp cả hai từ ngữ này gọi là Mahākusalacitta - Tâm Đại Thiện".

8 Tâm Đại Thiện  (Mahā-kusala cittas)


đôi thứ nhất

1) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

2) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

đôi thứ hai

3) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Bất Tương Ưng Trí, Vô Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

4) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Bất Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)

đôi thứ ba

5) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

6) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng  Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

đôi thứ tư

7) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Bất Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

8) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Bất Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)


Saturday, February 8, 2025

067 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 22 tháng 7, 2023

                                                      067 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 22 tháng 7, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "067 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Bài nào cũng vậy Sư không bao giờ đi trực tiếp vô, tại vì quí Phật tử chưa đủ mấy bờ thành thì Sư không dám đi thẳng vô, Sư phải bổ túc từ bên ngoài khi quí Phật tử đầy đủ hết các bộ phận đó rồi mình mới lấy cái lõi ra. Trong Trung Bộ Kinh, Kinh Lõi Cây nói rất rõ, có người bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Mình không như vậy, mình phải đi từ ngoài đi vô.

Thì khi mình nói tới Tam Đề Đồ Đạo Maggārammanatika  hay là Đạo Duyên thì phải biết 2 cái là chánh đạo và tà đạo.

Thế thì khi nói tới chánh đạo và tà đạo, cái đúng và cái sai, là do ở tri kiến của mình.

  Khi quí Phật tử nói tôi đang đi chánh đạo, bà này đi tà đạo thì trong lời nói đó có tri kiến của mình, nên Đức Phật Ngài nói Trung Đạo Majjhima Magga. Đứng bên ngoài mình nhìn vô chỉ có Chánh Đạo và Tà Đạo. Nhưng đối với Đức Phật Ngài xuyên suốt mới có Trung Đạo, mà con người mình không chịu học, mình ôm được Chánh Đạo là mừng rồi. 

Thí dụ như cô ra ngoài chợ mua hàng đúng hiệu đúng chất lượng thì mình mừng rồi, còn người nào mua sai hàng không đúng chất lượng thì họ lo. Thì trong 2 cái đó đều rớt vô cái bẫy của họ. Nó không trung tính, nó có một là đúng, hai là sai

Tàm (Hiri) và Quí  (Ottapa) Ngài còn nói black dhamma pháp đen và white dhamma pháp trắng, không có trạng thái pháp xám (pháp trung), chỉ trắng hay đen thôi. Nhưng trong cả hai cái đó đều có cái "Tôi".

Do đó, đối với Đức Phật Ngài Trung Đạo Majjhima Magga, tức là con đường này xa lánh cực đoan và xa lánh tiêu cực của thái quá bất cập của nó, một bên là khổ hạnh, một bên là lợi dưỡng, đi con đường Trung Đạo.

Thì khi lấy con đường Trung Đạo để đi, mình không đi Chánh Đạo hay Tà Đạo mà đi con đường Trung Đạo là mình lấy Pháp Thực Tính hay Pháp Chân Đế thì mới ra con đường tu tập. 

Chánh Kiến nếu không phải là Thánh Kiến thì vẫn Chánh Kiến là của tôi. Thánh Kiến là pháp.

Chánh Kiến và Thánh Kiến là sao ? Tứ Đế mà mình nói là Khổ Đế của tôi là mình có Chánh Kiến thì không phải là Thánh Kiến của Khổ Đế, nó khác nhau. 

Do đó, khi nhìn thấy Pháp, muốn biết được là mình phải giữ được trí tuệ của mình nhìn thấy được Pháp còn không thì không được. Vậy thì khi mình nói tôi thấy Khổ, Tập, Diệt, Đạo, tôi biết được Khổ, Tập, Diệt, Đạo, và tôi đang hành Khổ, Tập, Diệt, Đạo, thì mình có Chánh Kiến này là mình đang có cái "Tôi" của mình không rời.

Ông Sư ở chung chùa của người ta hay ở chung với tập thể Tăng đoàn của người ta thì ông có tập thể, ông ở trong tập thể đó. Nhưng sau một thời gian ông tách ra sống một mình, ông có chùa, ông có trú xứ, ông có cái "Tôi" của ông, cho dù ông đúng, ông cũng ở trong đó.

Chứ không như Đức Phật khi ông Cấp Cô Độc cũng dường chùa Kỳ Viên Tự Ngài cũng ra đi về núi Linh Thứu. Khi bà Visakha cúng dường Đông Phương Tự Pubbārāma Ngài cũng về núi Linh Thứu. Khi vua Bình Sa Vương cúng dường Trúc Lâm Tự Ngài cũng về núi Linh Thứu. Ngài có nhận, Ngài có ở, Ngài có hành đạo, Ngài có chỉ dẫn tu tập, Ngài giải đáp tất cả các Pháp ở đó, 19 năm ở tại Kỳ Viên Tự, 7 năm tại Đông Phương Tự Pubbārāma, Nhưng Ngài vẫn lấy núi Linh Thứu làm trú xứ, nhưng ở đó không có phòng, không có mái che, không có vách tường. Thì mình phải cẩn thận, làm sao mình tách cái "Tôi"  đó ra.

Có một người Ba La Môn tới nói với Đức Phật : "Bạch Đức Thế Tôn, con tất cả các Pháp sinh lên trong tâm con."

- Không, Sunata, chính cái đó đã có.

Ông giựt mình, trước nay ông nghĩ là đúng.

Không phải là mình giữ cái khói, khói bay tới mình lấy tay chụp nhưng nó bay qua luôn, Pháp không phải như vậy, không ai giữ được khói  giữ được làn hơi.

Nên mình mới thấy Đức Phật Ngài có, rồi không liền.

Còn mình đây nếu có mà đúng mình giữ, không sai, nhưng mình mới chỉ là bắt đầu thôi, mới chỉ là sơ học giả đang đi trên con đường buông bỏ, chứ chưa phải là người đã bỏ, mình đang học buông bỏ, chứ chưa phải là người đã bỏ. Hai cái đó khác nhau.

Có người học sống buông bỏ hay lắm, "cái này không phải của tôi",  buông liền. Nhưng khi người ta khen mình, "cái này là tôi làm như vậy mà" "Tôi đã cố gắng làm cái này tới nay tôi mới có, mình giữ lại, chưa buông cả 2; khen và chê.

Và chính cái đó quân ma chụp mình liền. Nên quí Phật tử nhớ con đường tu của mình không phải mình chạy nghiệp, không phải mình chạy phiền não ma, mình còn dính với đội quân ma nữa mà nó âm thầm đi theo, ngay cả Đức Phật Ngài đắc đạo rồi nó vẫn đi theo Ngài. Còn không đi theo được, bắt không được, như một tảng đá trơn chu, không có vật thể nào trên tảng đá này, ta tìm hoài không có một cái gì trên tảng đá khô khan này ta mới bỏ đi, ác ma nói với Đức Phật ta đi theo 7 năm ta không tìm thấy một cái gì lợi ích trên tảng đá khô khan này hết nên ta bỏ đi. Thì Đức Phật Ngài sống như vậy đó, ác ma buông bỏ đi, rồi nó chạy tới đệ tử của Ngài người nào cũng có, người phàm cũng có người xuất gia cũng có người tại gia có, thì nó mới bắt được. Nó nói Đức Phật như tảng đá ta theo dõi suốt 24/24 không thấy từ ý, từ lời, từ hành động, không thấy Ngài có một sơ hở nào hết, không tìm ra được cái gì hết.

Như con dã can không tìm ra khe hở nào trong cái mai của con rùa nên nó không xé con rùa ra được thì nó bỏ đi thôi.

Thì quí Phật tử tu mà mình tìm được mấy cái đó là mình đang có một lộ trình đi thẳng vô đó và không có quanh co lạc lối lạc đường.

Cho dù câu ngạn ngữ của người Miến Điện "anh đi lạc đường anh càng có nhiều gạo" thì không phải tìm gạo mà mình đi lạc đường. Đọc câu ngạn ngữ này, bây giờ mình đi lạc đường để mình có nhiều gạo, không phải, mình cố gắng làm sao đừng có cả 2 luôn, không bị lạc đường mà không cần có nhiều gạo nữa, làm đúng nhiệm vụ của mình thôi, đi đúng đường, trở về đúng giờ, có đủ để mà sài, chứ không có theo. 

Những cái đó là chuyện mình phải biết, đó là lương tâm chơn chánh của mình chứ không thể nào nói được, mà lương tâm chơn chánh này chỉ có mình biết thôi và 2 người khác biết được đó là Chư Thiên và ác ma, 2 người đó luôn luôn theo lương tâm của mình, không thể nào thoát.

Hồi xưa Mẹ Sư nói: "Con làm gì làm nhưng con không chạy thoát được tòa án lương tâm của mình, nó xét xử rất công bằng, chính sự công bằng đó nó mới dạy cho con nên người được, chứ còn không thì con không thành người tốt được."

Che dấu người này che dấu người kia, trốn chỗ này trốn chổ kia, nhưng  lương tâm và Chư Thiên và ác ma biết được hết. Mình không che dấu được 3 điều đó. Mình có 3 phần; Lương Tâm, Chư Thiên, Ác Ma.

Thiền sinh hỏi: về Chánh Tư Duy.

Đức Phật Ngài nói trong mỗi vấn đề mình phải dùng trí tuệ. Nếu nói đi vô chi tầm: Ly tham, ly sân, ly oán hận. Vừa thấy mình nhảy vô liền, đó là mình chưa ly tham. Mình không được thì mình sân, đó là ly sân chưa được. Ly oán hận mình buồn tủi trách móc, cũng chưa được, hay là chưa hưởng được Pháp này. 

Cái đó không phải, cái trước là Chánh Kiến, cái này là Chánh Tư Duy. Do đó, trước một cái pháp mà mấy cô lấy Tư Tiền, Tư Hiện, Tư Hậu, hay là có tư duy ly tham, ly sân, ly si, trước một pháp mình lấy Tuệ Văn, Tuệ Tư, Tuệ Tu, chứ không đi 3 cái đó.

Không đi tác ý và mình không đi tư duy, đã có Chánh Kiến rồi, thì trước một pháp mình phải Văn, Tư, Tu, chứ không phải ly tham, ly sân, ly oán hận. Không có, cái cửa ngõ nó đi như vậy.

Tuệ Văn chỉ là pháp.

Tuệ Tư chỉ có pháp. Ly tham là còn cái "Tôi"

Tuệ Tu là mình phải tu tập, mình phải sửa.

Có 3 cái đó thôi, thì Chánh Tư Duy không còn gì phải lo.

Trong cái kia có Tuệ Tư rồi thì anh này mới dạy cái này.

Thì Tuệ Tu của Chánh Kiến sẽ dạy Chánh Tư Duy của Tuệ Tư nó dẫn dắt.

 Lúc nào cũng phải Văn, Tư, Tu, có trạng thái mình có biết không và mình có tư duy đúng không, và mình có thật sự tu tập không.

Sư vẫn nói đời sống của mình là một trường thi, và trường thi này cho mình 2: một là thi đậu, hai là thi rớt. Và quí Phật tử có thể thi rớt nhiều lần hơn là thi đậu, hay có thể thi đậu nhiều hơn thi rớt là do nơi mình tu tập. Có nhiều người tu rớt hoài, cả người xuất gia họ cũng tu rớt, mà có khi những người tại gia họ tu đậu

Thời Đức Phật có vị cư sĩ tên là Citta, là một người cư sĩ hộ Tăng Anagarika cho chùa mà vị trụ trì là đệ tử của Đức Phật mà không biết gì hết, tất cả việc trong chùa lớn nhỏ gì cũng phải hỏi ông Citta là một cư sĩ tại gia chỉ đến chùa nghe Pháp Đức Phật rồi đi về, nhưng ông đắc quả Thánh và ông chỉ dẫn vị trụ trì. Đó là vị trụ trì tu mà thi rớt, còn ông Citta là người cư sĩ tại gia tu mà thi đậu.

Do đó, khi mình nói tới thì mình thấy Tầm đi xuống xa quá rồi. Tại vì Tầm là nhắm trúng mục đích, Chánh Tư Duy là nhắm trúng mục đích của mình. Mục đích của mình là cái gì ?

Chánh Tư Duy - Right resolve

                            -     Goal  (mục tiêu)

                            -     Destination (điểm đến)

Đầu tiên mình vô Chánh Tư Duy là mình nhìn thấy Pháp đang có sắc, thinh, khí, vị, xúc, mình nhắm trúng là mình không bắt cảnh nào khác hơn.

Giống như có một vị thầy dạy học trò lấy tay chỉ mặt trăng, học trò nhìn lên mặt trăng nhưng nhìn thấy có nhiều sao chung quanh mặt trăng, thì người học trò không nhắm trúng vì vừa thấy mặt trăng mà vừa thấy các vị sao nữa.

Vậy thì khi nhìn vô cảnh sắc phải nhìn đúng pháp cảnh sắc chứ không nghe không thấy gì cảnh sắc mình đang bắt. Cũng như hành giả niệm hơi thở vô ra phồng lên và xẹp xuống thì hành giả phải nhắm trúng khi phồng lên khi xẹp xuống, là không bắt hụt. Nếu hành giả nhìn vô khi phồng lên sao thấy chưa rõ, hay là bữa nay mình thấy nó yếu là mình nhắm lệch rồi, chỉ nhắm trúng cái phồng lên xẹp xuống thôi, trong vị trí đó, trong bao tử mình hay trong lồng ngực của mình khi nó phồng lên xẹp xuống, đó là nhắm trúng, mà hành giả lệch một cái là không trúng mục tiêu của mình.

Như thế thì khi mình ngắm trúng mục đích, cái phồng cái xẹp thì cái đó phải là goal (mục tiêu) của mình đi tới. Như vậy thì hành giả tu Vipassana là mình đi tìm cái phồng cái xẹp này thì là không phải mục tiêu của mình. Thì khi hành giả chưa đi tới mục tiêu thì cũng chưa đến điểm đến cuối cùng (Destination).

- Khi mình nhắm trúng mục đích rồi thì mình sinh trở lại làm người.

- Mình đạt được mục tiêu này thì mình sinh về thiên.

- Điểm đến cuối cùng là đi tới Níp-bàn.

Nhưng người không hiểu, người không có Tuệ Văn, thì nghĩ tôi nắm đúng mục tiêu rồi, tôi nắm đúng mục đích, mà cái mục đích này không phải tôi làm ra cái tác ý của mình muốn có. Mình phải coi lại, vì chưa đủ.

Nên Chánh Tư Duy chưa đủ, phải có Chánh Kiến dẫn đường. Nếu hành giả đi đúng mục tiêu, giữ điểm đích mà không có Chánh Kiến dẫn đường. Chánh Kiến là người dẫn đường cho mình đi. Thì Chánh Tư Duy sẽ bỏ vô Chánh Ngữ, sẽ bỏ vô Chánh Nghiệp, bỏ vô Chánh Mạng trong Giới Đạo làm theo cái đó rồi xong xuôi thì bỏ vô phần Định Đạo (Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định) theo Tư Duy, mất phần Chánh Kiến dẫn đường.

 Chánh Tư Duy không phải là người dẫn đường.

Chánh Kiến là người dẫn đường.

Chánh Tư Duy phải lệ thuộc vô Chánh Kiến. Chánh Tư Duy mình nó thì không được phải có Chánh Kiến dẫn đường.

Final Goal là mục đích tối hậu. 

Mục đích tối hậu = chân lý tối hậu (Ultimate reality) của pháp, không phải của mình, mình không có trong đây thì mới được, nếu không là mình đi hoài không ra.

Nên Đức Phật Ngài trong Bát Chánh Đạo hay Bát Thánh Đạo Ngài đặt Chánh Kiến  Chánh Tư Duy thuộc phần Tuệ Đạo đứng đầu, xong phần Tuệ rồi qua phần Giới rồi mới qua Định. Nếu mình không có Tuệ thì Giới không được, Định không làm được.

Trong Bát Chánh Đạo: Tuệ Đạo, Giới Đạo, Định Đạo.

Tuệ Đạo nằm đầu trong Bát Chánh Đạo, có 2 chi là Chánh Kiến và Chánh Tư Duy. Chánh Kiến chỉ dẫn cho Chánh Tư Duy con đường. Rồi Chánh Tư Duy mới giữ cho Giới hoàn thành. Rồi Giới kèm Chánh Định không để lung lay hay bị phóng dật.

Đức Phật Ngài tìm ra đã có từ trước từ 20 tăng kỳ trước, đã có từ trước dạy cũng như Sư, nhưng Sư nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác bây giờ trong kiếp này Sư đang nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác, Sư đang thừa hưởng Bát Chánh Đạo của Đức Phật Thích Ca, thì tới ngày Sư tu Sư thành Phật thì lúc bấy giờ Sư ôn lại cái này thôi, và Sư không đi con đường nào khác nữa, và Sư không lập ra con đường nào khác nữa, đi con đường này là đã thành rồi, không có pháp nào của Sư, con đường đó chỉ là nối tiếp thôi, và các Ngài đã thành rồi.

Do đó, mình mới thấy là Ngài đặt Tuệ trước. Nếu như mình không có Tuệ thì đi tu không được. Giới và Định là 2 phần tu, còn Tuệ là mình phải có mới tu được, tu mà không có Trí Tuệ không tu được, tu là sửa, nhưng mình không có Trí Tuệ làm sao sửa.

Thí dụ như một cái máy bị hư hay xe hư, hay dụng cụ hư mà mình không có kiến thức để sửa thì làm sao mình sửa.

Do đó, phần Tuệ là đỉnh cao để dạy phần Giới và Định. Trong sự tu mình phải có Trí Tuệ mới tu được, chứ không tu ngang được, không tu theo ý kiến hay kiến thức của mình được. Các vị Bồ Tát cũng vậy cũng đi theo truyền thống, thời Đức Phật Gotama khi còn là Sĩ Đạt Đa Ngài đi ra ngoài kinh thành đi theo Alarama Kalama và Uddaka Ramaputta sống cuộc sống khổ hạnh, ép xác, không ăn, nhịn đói, rồi đưa lưỡi lên nóc họng để nín thở, Ngài ngất xỉu. Sau đó Ngài tỉnh dậy bỏ đi. Cây đờn 3 giây này căng quá nên giây bị đứt, giây trùng quá đờn không được, phải căng vừa khéo. Ngài xuống con suối gần đó tắm rửa, tắm xong thì phước Ngài trổ sinh, bà Sujata cúng dường Đức Phật bát cháo sữa.

Sau khi thọ thực Ngài ngồi thiền trở lại Ngài mới thấy Thiên Nhãn Minh là trí tuệ đầu tiên là kiến giải Dassanena, kiến chấp của mình không bằng kiến giải, kiến giải mới phá được kiến chấp Dassanena Pahàtabba Kiến Giải Phóng Khí hay là Kiến Giải Đoạn Trừ. Mình kiến chấp mình tu không được.

Tu Giới mà không có trí tuệ thì là giới kiến chấp, là giới cấm thủ chấp giữ mà khư khư nói mình đúng, là giới cấm thủ Sìlabbatupàdàna là giới chấp này không trong sạch không cao thượng, nhưng vì không biết mình cứ giữ.

Thời Đức Phật, Ngài đi tới các vị Bà La Môn họ sống trong trạng thái giữ giới, những vị tu sĩ Bà La Môn sống lỏa thể, những tu sĩ sống trong trạng thái kiến chấp của họ, không ăn không uống đứng giữa trời, đứng một chân, đứng ngoài nắng v.v... Ngài nói cái này không đúng, họ đang giữ giới, họ không làm điều ác. Trong khi đó từ trong kiến của họ nhìn ra nói ta không được làm điều ác trong vòng do tuần, hay là mấy dặm, đó là ta giữ giới, còn qua khỏi đó ta làm không sao, ta vẫn trong sạch. Thì những cái đó, Đức Phật nói như vậy không đúng. Cũng như mình thôi. Giới này là không phải, giới kiến chấp. 

Nên khi Thiên Nhãn Minh, cái đầu tiên của Ngài, Ngài thấy được là kiến giải diệt được kiến chấp, mà kiến giải này là được nhìn ở trên trạng thái sinh diệt chân thực tính của tất cả các pháp.

Chân thực tính nghĩa là bản chất, Ngài Tịnh Sự dịch là thực tính, cái tính thực của nó, bản chất của nó có cái  "Tôi" của nó.

Khi nhìn thấy được chân thực tính của nó thì mới thấy kiến chấp của mình sai, mình không làm chủ được chân thực tính. 

Thiên nhãn của Ngài thấy rồi là kiến giải của Ngài phá được kiến chấp. Qua được phần Túc Mạng Minh, minh thứ 2 Ngài nhìn là do con người mình đi trôi lăn nhiều kiếp này qua kiếp kia. Giống như cục đá lăn lóc ngoài trời thì rong rêu cát bụi sẽ bám vào càng ngày càng dầy lên, nguyên thủy của cục đá không có, nếu mình gột rửa rong rêu cát bụi trên cục đá thì bản chất nó không có, nó chỉ có sinh diệt của nó là đủ rồi, nhưng mình còn bỏ vô hỉ nộ ái ố, thất tình lục dục, những lậu hoặc của mình thì nó bị biến chất. Nên canh hai Ngài nhìn thấy Túc Mạng Minh. Thì tại sao trôi lăn lóc vậy ? Thì tại vì nó chìm lâu quá. Canh ba Ngài đạt Lậu Tận Minh  Ngài mới diệt lậu hoặc, cũng do Trí Tuệ của Ngài chứ không có kiến chấp nào.

Do đó, khi mình nhìn Pháp, mình có thể kình cãi, bình luận trao đổi và thảo luận với kiến chấp, nhưng với một Chân Thực Tính thì mình chỉ có kiến giải và lý giải hay hiểu biết thôi. Khi nhìn được chân lý tối hậu thì mới ra được. 

Ngay cả khi cái phồng và cái xẹp lên theo hơi thở của mình, mình nhìn thấy nó như vậy nhưng mình chưa hiểu được cái thật của nó là cái gì nữa. Hành giả nhìn phồng thấy đúng, nhìn xẹp thấy đúng, nhưng mình chưa hiểu phồng cái xẹp là cái gì, mình mới Thiên Nhãn, mình chưa hiểu được Túc Mạng, và chưa lậu tận trong cái phồng cái xẹp đó, đi 3 bước.

 Như vậy thì khi mình đi tới phân tích, một nhà phân tích, Sư chưa nói tới vị chứng tri vị chứng đắc. 

Một nhà phân tích. Thì cái phồng cái xẹp này mình thấy đúng, nhưng cái phồng cái xẹp này nó không có nghĩa của nó, nó có tác nhân của nó và nó có những điều kiện của nó. Mình nhìn được tác nhân và điều kiện của nó không ? Không nhìn được mấy cái này thì chưa được. Mình chỉ đứng ở cái phồng xẹp thôi, chứ mình chưa nhìn được tác nhân và phụ thuộc điều kiện của nó. Cái phồng cái xẹp này đơn thuần của nó vậy thôi. Do đó, người hành giả cứ ngồi thấy phồng xẹp thôi.

Khi tới Pa Auk, Ngài Sayadaw Pa Auk, Ngài nói  Không chứng đắc được Thiền Chỉ tôi không dạy Vipassana cho. Qui ước của Pa Auk thiền viện là người thiền sinh phải qua 2 bước, phải Thiền Chỉ xong mới dạy Thiền Quán, Samadhi xong mới dạy Vipassana, chưa qua được Samadhi không qua được Vipassana.

Thế thì đi qua Samadhi thì qua Sắc Giới hay Vô Sắc Giới, Sơ Thiền hay Tứ Thiền, hay Tứ Thiền Sắc Giới, Tứ Thiền Vô Sắc Giới, thì quí Phật tử đi Vipassana qui ướt nào qui luật nào. Những người họ lý giải họ nói Ngài Upatisa ngày xưa đến gặp Ngài Assaji đâu có Samadhi đâu nghe một câu là chứng đắc rồi, còn Kolita được nghe Ngài Upatisa lập lại ông chứng đắc liền chứ không có Samadhi sao bây giờ lại có qui luật đó, đó là mình có kiến chấp rồi. Mà có kiến chấp là mình có lậu hoặc và khư khư như vậy, qui ước của tôi là vậy, quyết định của tôi là vậy, và cái đó là bất di bất dịch. Nó có những ngoại lệ, chứ không phải một chiều như vậy. Tại vì mình có quyền, mình là thầy mình dạy như vậy đó, nghe thì nghe, không nghe thì ráng chịu, nói như vậy người ta sợ người ta nghe thôi, nhưng mà không đúng, không cho người ta có ý kiến, thì cái đó là không được.

Thì bây giờ anh đi qua được phồng xẹp chưa ? tôi nói là anh chỉ có Samadhi thôi, anh không mất niệm, anh giữ đúng niệm, và anh không có phóng dật anh có chánh niệm, có trú niệm, có sự hiểu biết, anh không có hôn trầm, anh không có triền cái, anh đang ở trong tầm tứ. Mình suy nghĩ lại.

Nhưng tới khi mình tìm được nguyên nhân (tác ý và nguyên nhân)  qua chức năng phồng xẹp thì hành giả mới thấy mỗi pháp sinh lên có cái Duyên, chính Duyên hiện bày các Pháp, mình tìm ra được tác nhân của nó rồi.

Khi Đức Phật Ngài đắc đạo quả Ngài thốt lên câu kệ mà Ngài nói là chánh trí : "Ta nên tìm người xây căn nhà này, và người xây căn nhà đó ta phá người xây căn nhà này, thì gui mè cột kèo căn nhà này mới xụp đổ được". 

Thì tìm được người xây căn nhà, thì không phải tìm được người có phồng có xẹp, mà tìm ra người xây căn nhà, và người xây căn nhà này nó có nhân nào làm ra nó thì ra được phần mà cái đó mới là chính.

Tới canh ba Ngài chứng đắc Lậu Tận Minh, tại vì Ngài ở trong cái lậu, Ngài không có giác ngộ, và khi Ngài thấy các pháp lậu thì Ngài mới giác ngộ, thì Ngài mới thoát ra khỏi chìm đắm này.

Do đó, tất cả các Ngài nói; khi hành giải ngồi Định lâu thì sẽ sinh ra hôn trầm chứ không phải Định lâu mà sinh trí tuệ.

Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, khi Sư nói về tà đạo với chánh đạo, thì giữa 2 cái đó là trung đạo, giống như Đức Phật đi con đường trung đạo, Sư cho một thí dụ như Chánh Kiến thấy được Tứ Đế. Nhưng Sư nói cái đó chỉ là Tứ Đế thôi chứ không phải là con đường trung đạo mà Đức Phật đi là sao ? con không hiểu. Thì ngay con đường Chánh Kiến đó tại sao có con đường trung đạo nữa

HT trả lời: Mấy cô biết không, khi mình nói chữ Trung Đạo là ra khỏi Tà Đạo và Chánh Đạo. Bây giờ mình nói Tứ Đế.


Tà Đạo                        Trung Đạo                      Chánh Đạo 

Lạc                              Khổ                                Khổ


Thì Trung Đạo Tứ Đế về Khổ, 

thì người Chánh Kiến thấy Khổ là Khổ, 

còn  người Tà Kiến thấy khổ là lạc.

Người Tà Kiến thấy ngược lại với người Chánh Kiến, vui thì thấy khổ, mà khổ thì thấy vui.

Người có Chánh Kiến nhìn thế gian này là khổ đau, nhưng người tà kiến họ nói : "Người nhìn thế gian này là khổ đau là người tiêu cực, tôi không nhìn thấy gì là khổ. Khổ sướng buồn vui là do mình, mình làm chủ nó mà, anh tiêu cực anh mới nói thế gian là khổ đau." Thì họ có kiến chấp của họ, có khi họ nói thế gian này màu hồng.

 Còn người có Chánh Kiền nhìn thì thấy thế gian này chỉ có pháp đen chứ không có pháp trắng. Người Chánh Kiến thấy thế gian này là khổ, sinh ra đã là khổ, bệnh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sinh tử biệt ly là khổ. 

Còn người tà kiến nói thế gian này không có gì khổ, khổ sướng là do mình, chứ không ai làm cho mình khổ, anh là người tiêu cực, anh thủ anh giữ đi, 

Nếu nhìn ra được thì mới thấy là người Tà Kiến đi ngược lại với Chánh Kiến. 

Thì cái khổ người có Chánh Kiến thấy đúng, họ đứng lại họ không đi. Còn người Trung Đạo nhìn thấy họ đi tiếp tục, Khổ mình đi tới Tập, người Trung Đạo đi tiếp tới 3 bước. Còn người Tà Kiến thì ôm cái khổ mà cho là Lạc.

Người Trung Đạo là đi tới 3 bước ; tôi có Chánh Kiến, tôi có mục đích, tôi phải đi đến điểm đích.

Người Chánh Kiến đứng lại không đi tiếp. Như trong võ lâm chánh phải là họ đứng lại họ hưởng, tà phái lăn xăng đánh chính phái tại chánh phái đứng một chỗ.

Khi mình có Chánh Kiến mình hoan hỉ không ? Mình hoan hỉ vì mình có Chánh Kiến, mình nhìn qua người Tà Kiến mình mừng vì mình có Chánh Kiến.

Do đó, người Trung Đạo là không ở bên Chánh, không đứng bên Tà, mà họ đi tới mục tiêu (goal), họ Trung Đạo, họ không đứng lại. Người Chánh Đạo họ đứng lại, Tà Đạo cũng đứng, chỉ người Trung Đạo là đi tới mục tiêu tối hậu. 

Hai cái đó nó khác, phải cẩn thận, đừng có sai và đừng có đi trật đường.

Như vậy thì mình đứng chỗ nào ? Mình là người Chánh Đạo, hay người Trung Đạo ? 

Do đó, mình thấy mình nói: "oh, tôi có Chánh Đạo chưa đủ, tôi phải đi Trung Đạo."

Người đi Chánh Đạo họ tự hào tự mãn, còn người Tà Đạo đi qua tiêu cực, người Trung Đạo tôi đi chưa đến mức tôi còn phải đi.

 Do đó, Đức Phật Ngài dạy Trung Đạo, là không thái quá và không cực đoan, không có cái nào tiêu cực và yếm thế, lúc nào mình cũng cố gắng đi tới hoàn thành và chấm dứt lập nguyện của mình.

Cho dù mình có Chánh Kiến, cho dù mình thấy được Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) thì mục tiêu của mình là Trung Đạo là phải đi tới mục tiêu tối thượng.

Khi quí Phật tử giàu rồi, đâu muốn làm nữa. Khi  nghèo mình làm hoài mà cũng không giàu được. Biết đủ là được là đi tới mức rồi. Người giàu họ đứng lại, người nghèo họ lò mò đi hoài, còn người biết đủ thì họ biết cái gì họ cần.

Người Trung Đạo là người phải đi tới mục đích, người Chánh Đạo đứng lại trong sự hiểu biết của mình, người Tà Đạo chết trong sự kiến chấp sai lầm.

Hành giải thấy phồng xẹp rồi nhưng chưa đủ, phải đi tìm nhân nào mà có phồng xẹp này, điều kiện nào mà có mà biết phồng xẹp này, cả 2 luôn. Rồi khi tìm được nhân đó thì mới tìm ra được căn gốc của nó thì mình mới bạt khởi cái căn của nó được, còn không thì không có đúng. Mỗi pháp nào nó đều có sự liên đới của nó có sợi dây liên kết.

Thí dụ như pháp cha con, vợ chồng, của cải tài sản đều có sự liên kết. Tại sao người ta nói có sự liên kết giữa cha và con, giữa chồng và vợ, nó có sợi dây liên hệ của nó, rồi mới tìm dây liên hệ đó, tìm ra được cái pháp của sự tạo ra giây liên hệ này, đó là điều quan trọng nhất.

Thiền sinh hỏi: Cái đó có phải là nói về 24 Duyên Hệ không ?

HT trả lời : Không, 24 Duyên Hệ đó là những cái keo (glue)  thôi, và những cái gạch những nối mà keo (glue) này gắn vô mình chưa tìm ra. Cái gạch nối của 24 Duyên này là Thập Nhị Nhân Duyên, Liên Quan Tương Sinh : 

1. Vô Minh duyên cho Hành (avijia-paccaya sankhara)

2. Hành duyên cho Thức (sankhara-paccaya vinnanam)

3. Thức duyên cho Danh Sắc (vinnanam-paccaya nama-rupam)

4. Danh Sắc duyên cho Lục Nhập (nama-rupam-paccaya salayatanam)

5. Lục Nhập duyên cho Xúc (salayatanam-paccaya phasso)

6. Xúc duyên cho Thọ (phassa-paccaya vedana)

7. Thọ duyên cho Ai (vedana-paccaya tanha)

8. Ai duyên cho Thủ (tanha-paccaya upadanam)

9. Thủ duyên cho Hữu (upadanam-paccaya bhavo)

10. Hữu duyên cho Sanh (bhava-paccaya jati)

11. Sanh duyên cho (jati-paccaya)

12. Lão Tử (jara-maranam)

Bây giờ mình nói Vô Minh duyên Hành thì có 2 Duyên là Thường Cận Y Duyên và Dị Thời Nghiệp Duyên, hai cái đó,  Thường Cận Y Duyên và Dị Thời Nghiệp làm Vô Minh duyên Hành, thì mình biết cái này là cái sợi giây liên kết (link), nhưng Duyên cho minh không có, Hành không có, vậy mình thiếu Vô Minh như thế nào, thiếu Hành như thế nào, bỏ 2 cái keo (glue) này vô, loại này sài keo này vị trí này, cái đó 24 Duyên mình mới tìm ra được những vật liệu để mà tìm ra kết nối của cái giây liên kết này thôi. Mà chưa.

Người ta mới nói: nếu như cô biết được 24 Duyên, tại sao 24 Duyên không đứng lại. 

24 Duyên còn 4 Pháp nữa ; Pháp thuận, pháp nghịch, pháp thuận nghịch, pháp nghịch thuận.

Rồi trong 24 duyên đó đâu có phải đứng ở đó đâu. Nó có 22 Tam Đề trong đó, mỗi một Tam Đề có 3 đề trong đó nó liên kết với nhau.

Như vậy thì tìm được 24 Duyên hay là tìm được 12 Liên Quan Tương Sinh.

Bây giờ Sư chỉ  cách nhìn của Paṭṭhāṇa. Sư ngồi đây có mấy Duyên ?

Quí Phật tử ngồi trong lớp học này do bao nhiêu Duyên ? Thì trong 24 Duyên quí Phật tử nhìn vào sẽ thấy mình ngồi đây do bao nhiêu Duyên. Rồi người ta bẻ gãy 24 Duyên của quí Phật tử phải biết rồi.

Ở bên Phra Thai Ngài Tịnh Sự nói; trong một hội diễn đàn Chư Tăng, 2 vị cao Tăng, một vị hỏi: Ngài ngồi đây Ngài có bao nhiêu đế ? 

Vị kia nói: "Tôi ngồi đây tôi có 2 đế."

 Vị này hỏi: "Đế gì ?"

Vị kia nói : "Khổ Đế và Tập Đế."

Thì mình biết vị đó đạt được vị trí nào.

Còn thí dụ như người ta nói tôi ngồi đây tôi có 2 đế. Đế gì ? Đạo Đế và Diệt Đế.

Thì mình hiều người ngồi đây mà có 2 đế là Đạo Đế và Diệt Đế thì người này là người Thánh. 

Đó là vượt qua khỏi duyên rồi, người ta nói tới Đế rồi, Đế cao hơn Duyên.

Còn hỏi ngồi đây có bao nhiêu Xứ, ngồi đây có bao nhiêu Giới, bao nhiêu Quyền, người ta nói Pháp chứ không nói "Tôi" Ta", không có bản ngã nam nữ.

Anh ngồi đây có bao nhiêu Giới ? Thập bát Giới

Anh ngồi đây có bao nhiêu Xứ ?  Thập nhị Xứ

Bắt đầu tính ra là ra liền 

Anh ngồi đây có bao nhiêu Quyền ? Thập nhị Quyền.

Đó là người nói Pháp chứ không nói "Tôi" Ta"

Đó là những cái link liên Kết những cái gạch nối.

Mà quí Phật tử không có nói. Nếu như nói những cái đó là mình không có cái "Tôi" "Ta", không có bản ngã không có một cái gì là Pháp hết đó.

Ở đây tôi có Xứ, có cảnh Thinh, rồi tôi có Nhĩ, tôi có phần Pháp Xứ, tôi biết được cái nghe, thì cái đó bắt đầu tìm ra được.

Sư ngồi đây có bao nhiêu duyên ? Sư ngồi đây có bao nhiêu Xứ ? Không biết.

Sư ngồi đây có bao nhiêu Giới ? Không biết 

Sư ngồi đây có bao nhiêu Quyền ? Không biết

Sư ngồi đây có bao nhiêu Đé ? Không biết.

Thì nếu như 4 pháp đó : Xứ, Giới, Quyền, Đế. Quí Phật tử không biết thì nói toàn là chế định.

Bây giờ mình cũng vậy, thí dụ Phật tử ngồi ăn. Người ta hỏi: 

- Trong khi bạn ăn bạn có bao nhiêu Xứ ? 

- Trong khi bạn ăn bạn có bao nhiêu Giới ?

- Trong khi bạn ăn bạn có bao nhiêu Đế ?

- Trong khi bạn ăn bạn có bao nhiều Quyền ?

Trả lời : Tôi không biết.

Chính cái đó mình phải thấy mình sống trong trạng thái lậu hoặc của mình, mình chìm trong đó không bao giờ mình ra.

Như vậy, khi quí Phật tử ngồi thấy phồng và xẹp mà trả lời là tôi thấy phồng và xẹp thì vị Thiền Sư đã đồng ý chưa ? 

Cũng như vậy, khi người ta hỏi khi bạn ngồi đây bạn có bao nhiêu Duyên, bao nhiêu Giới, bao nhiêu Đế, bao nhiêu Xứ, bao nhiêu Quyền ? Mà người ta nói tôi ngồi đây tôi có phồng xẹp thì mình biết người ta chưa có cái gì.

Mục đích mình nhắm tới không phải là Pháp, mục đích mình nhắm đây là cái "Tôi" mình đang có, như là mình lấy tấm gương xoi mình thấy tôi có cái này, tôi có cái này, chứ không nhìn thấy Pháp.

Vậy thì khi quí Phật tử tìm ra được không ngoài Duyên nữa, mà tìm ra ngoài Thập Nhị Nhân Duyên, 12 Liên Quan Tương Sinh.

Nếu nói tới Liên Quan Tương Sinh. Sư hỏi quí Phật tử ngồi đây có bao nhiêu Liên Quan Tương Sinh ? 

Quí Phật tử nói có 2 là Vô Minh và Ái Dục. 

Sư hỏi thế nào là Vô Minh mà cô ngồi đây ?

Thế nào là Ái Dục mà cô ngồi đây ?

Cũng nói không được.

Quí Phật tử ngồi đây cô có Thức, có Xúc, có Ái, có Thọ. Thì thế nào là Xúc, thế nào là Thức, thế nào là Ái, thế nào là Thọ ?  Sai liền, cái đó mấy cô nhìn đi, cái Pháp là vậy đó.

Pháp tu trong khi thiền và cái pháp sống ngoài đời giống hay khác, có hai hay một ? Có một người mình hay là có 2 người mình ?

Thí dụ: Như một ông sư mà có người nói khó tính, và có người nói ông Sư thấy dễ thương. Một người nhìn thì thấy ông Sư khó tính, và một người khác nhìn thì thấy ông dễ thương. Như vây là ông có 2 rồi.

Tại sao cũng một ông Sư mà có 2 lời phê bình ? Đó là tại họ để ý kiến họ vô, mỗi người đều có ý kiến riêng của họ (tư kiến). 

Bây giờ bỏ tư kiến, bỏ kiến chấp, không thương không ghét, thì chỉ thấy ông Sư là ông Sư.

Những cái đó là những sự thật mà quí Phật tử không thấy con người của mình.

Do đó, khi mình nói cái này rồi mình nhận xét cái kia rồi mình nhìn pháp mình đâu có ngừng, không có, mình thua rồi, làm sao mình nói chuyện tu của mình, làm sao mình sửa được, mà tới phút cuối nữa là ông Sư không thương, không ghét, ông Sư là ông Sư. Hỏi tới ông Sư này như thế nào ? Ông là ông Sư, không nói được, nói cái nào cũng trật hết nên không nói.

Vậy đó, một cái phồng và một cái xẹp, cái tu của mình thì quí Phật tử đứng lại trong góc độ nào và cô đạt góc độ nào ? Mình phải trăn trở, mình đứng lại góc độ nào và mình đã đạt được những gì đã đạt trong việc tu của mình, một ngày thôi, thì mình mới có hiệu quả được, mình mới kiểm nghiệm được. Những cái đó là cơ bản và cái đó là phổ thông mà mình không bao giờ nghiệm ra.

Thế thì mình ngồi mình có niệm không, có niệm, hay là mình có phồng xẹp, 

- Tôi ngồi trong đời sống hàng ngày, tôi luôn luôn sống trong cái niệm và tôi không sống trong phóng dật, thân, ngữ, ý tôi luôn luôn kiểm soát, tôi không cần đến những gì bất thiện, con người của tôi mỗi ngày mỗi một cầu tiến, mỗi ngày mỗi cái thay đổi. Vậy mình tốt chưa, mình đạt được chưa, mình nói như vậy đó.

- Còn mình nói, một ngày tôi chưa được tốt, một ngày tôi còn những khiếm khuyết, một ngày tôi còn tạo ra những lỗi lầm, tôi còn chưa sửa đổi được.

 Cả hai.

Sư kể câu chuyện để làm dẫn chứng.

Có 30 vị thanh niên thuê một cô gái kỹ nữ đi vào rừng cắm trại, nhưng cô kỹ nữ này trong thời gian 30 thanh niên dựng lều để sinh hoạt thì ăn cắp tiền rồi bỏ chạy. Khi họ phát hiện cô này ăn cắp tiền của mình thì họ đi tìm. Lúc đó có một vị tu sĩ đi ngang qua vị tu sĩ nhìn thấy cô kỹ nữ chạy ra, cô kỹ nữ nhìn thấy vị tu sĩ cô cười xã giao, vị tu sĩ thấy cô cười vị tu sĩ gật đầu chào rồi đi tiếp. Một lúc sau 30 thanh niên phát hiện cô kỹ nữ biến mất cùng với vàng bạc của mình mới chạy ra thì lúc đó ông sư đang đi tới bèn hỏi: Ngài có thấy một người con gái chạy ra đây không ?  Ông Sư trả lời: Ta không thấy cô gái nào mà ta chỉ thấy hàm răng thôi.

 Ông Sư đó nói thấy hàm răng chứ không thấy người, vậy ông Sư đó có nói láo không ? 

Vậy thì mình lấy cái Pháp đó và mình hiểu được cái hiểu của mình. Đầu tiên  nghe câu chuyện đó quí Phật tử suy nghĩ tại sao ông Sư thấy hàm răng thôi, và mình có trạng thái như ông Sư nếu mình thấy người con gái đó không ? Mình ngồi nghiệm lại liền. 

Thì đó là pháp suy luận mà Ngài Paṇḍita dạy. Khi mình nhìn thấy một pháp mình phải coi các bậc Thánh nhân họ chứng đắc như vậy, mà tại sao họ chứng đắc. Đó là pháp suy luận mà Ngài Paṇḍita dạy.

Khi mình nhìn thấy một cái pháp mình phải coi các bậc Thánh nhân họ chứng đắc như vậy mà tại sao họ chứng đắc được mình có suy nghĩ như Ngài không ? để mình có con đường đi tới như Ngài không ? Chứ không phải mình nói theo kiểu mà nói suông như vậy được, hay là mình hiểu suông như vậy được. 

 Nếu như mình là ông Sư mà thấy một cô gái chạy ra, rồi một chút nữa có 30 thanh niên hỏi thì mình sẽ trả lời tôi thấy một cô con gái chạy ra. Cô ấy ra sao, rồi bắt đầu tả....

Do đó, thì ông Sư nói tôi thấy hàm răng. Mà 30 thanh niên đó đồng ý với câu trả lời đó. 

 Một câu chuyện nữa, Đức Phật Ngài đi tới thấy 30 người thanh niên đi tìm cô kỹ nữ, Ngài nói: "Tìm cái gì người con gái đó. Tìm chính mình mới là thiết thực" Nghe như vậy 30 người thanh niên đứng lại.

Khi Đức Phật Ngài nói cái đó phá mê liền. Tức là ta không đi tìm sự oan trái mà ta đi tìm cái nghiệp báo của mình mà ta trả về. Cái đó là cái điều kiện, là pháp điều kiện, chứ không phải là Liên Quan Tương Sinh, không phải là duyên, tìm được cái điều kiện. Tại sao mình đi tìm cái đó nếu mình có oan trái cái nghiệp nó tới giờ mình đi tìm thì nó vẫn còn oan trái, mình tìm cái nghiệp của mình đứng lại. 

Cũng như Đức Phật nói với Aṅgulimāla: "Như Lai đã đứng lại còn ngươi chưa đứng lại thôi"

Ông Sư trả lời thấy hàm răng, Đức Phật trả lời tìm gì người con gái. Hãy tìm lại chính mình. Hãy tìm lại cái nghiệp chính mình đi. 

Hai cái đó quí Phật tử dùng cái nào ?

Trả lời theo Đức Phật.

Thế thì quí Phật tử nói trả lời theo Đức Phật: Tìm gì cái người mình đi tìm, mà nhìn lại chính mình đi. Chính mình là đáng đi tìm thôi, vậy thì mình nhìn gì ở mình ? 

Còn câu Như Lai đã đứng lại, còn ngươi chưa đúng lại. Thì Aṅgulimāla nói: Sa Môn đừng nói láo, ta rượt ba do tuần không đụng đến chéo y thì làm sao đứng lại ?

- Ta đứng lại từ thân, từ ngữ, từ ý, còn ngươi chưa đứng, chính cái đó ngươi đang chạy.

Thì Ngài nói cái đó là cái Pháp chứ Ngài đâu nói Chế Định, Ngài sống với Pháp Chân Thực Tính, chứ không phải là cái "Tôi" cái "Ta" của Ngài. Còn cái chạy cái đi là cái "Tôi" cái "Ta" của mình hiện bày.

Mình nhìn cái gì ? Và chính cái nhìn đó mình có hiểu cái nhìn của mình không ?

Có 3 điều, nếu nói Aṅgulimāla Đức Phật Ngài nói ta đã dừng lại rồi, tức là Ngài không có tạo. Còn câu hỏi mình nhìn cái gì, mình không có ngừng lại, mình còn tạo, mình còn nhìn. 

Thì khi mình còn nhìn thì mình sẽ có 2 câu mình đi tìm. 

- Thứ nhất, mình nhìn lại chính mình, đừng nhìn người khác.

- Thứ hai, chỉ thấy pháp thôi, chứ không thấy cái "Tôi" cái "Ta" của người.

Như vậy mình có 3 câu trả lời:

- Thứ nhất, Không nhìn

- Thứ hai, mà có nhìn thì nhìn chính mình.

 - Thứ ba, mà có nhìn thì nhìn Pháp thôi, không có riêng tư, không có chi tiết

Aṅgulimāla không nhìn, không tạo, và ngừng. Ta đã đứng lại rồi; thân ta đứng, ngữ ta đứng, ý ta đứng, chỉ có ngươi chạy. 

Rồi 30 thanh niên đi tìm, Đức Phật nói; tìm gì, tìm chính mình. Thì 30 thanh niên dừng lại.

Rồi ông Sư nhìn thấy hàm răng chứ không thấy con người.

 Đó là pháp tu.

Giờ tôi không nhìn, mà có nhìn thì nhìn thế nào ? Trong vị trí nào nhìn và trong khi mình nhìn mình có pháp nào ?

Khi vế 1, vế 2, bất cứ lúc nào nó có nguyên nhân của nó mà Ngài mới nói pháp đó, chứ không phải mình có trong đó mình trả lời mình có cái này có cái kia, chưa biết, tới khi có mình mới biết trả lời chứ bây giờ mình có nhìn đâu. Chính quí Phật tử vẫn còn rớt trong cái "Tôi"

Với Aṅgulimāla thì Ngài mới nói như vậy. Ta đã đứng lại rồi; thân ta đứng, ngữ ta đứng, ý ta đứng, chỉ có ngươi chạy. 

Với 30 thanh niên thì Ngài mới nói như vầy: tìm gì người con gái. Hãy tìm lại chính mình. Hãy tìm lại cái nghiệp chính mình đi. 

Và ông Sư trả lời khi thấy cô gái chạy từ trong rừng ra : nhìn thấy hàm răng chứ không thấy con người.

Còn mình không nhìn thì mình không nói gì hết, nhưng mình biết vì trong kiến văn mình đã được nghe, hay được đọc, chứ mình không có ở trong những trường hợp này

Tôi không phải là  Aṅgulimāla mà Đức Phật Ngài nói với tôi.

Tôi không phải là 30 thanh niên đi tìm cô gái mà Đức Phật Ngài nói với tôi.

Tôi không phải ông Sư nhìn thấy hàm răng của cô kỹ nữ đâu.

Tôi không có ở trong 2 trường hợp này.

 Và trường hợp nào tôi biết 2 điều này, là do tuệ văn của tôi đã đọc qua.

Thì quí Phật tử mới nhìn ra đó là Trung Đạo. Hễ có Khổ Đế, thì có Tập Đế. Mà có thấy Tập Đế cũng không phải đứng lại, vì Tập Đế còn có Đạo Đế để diệt nó. Có Đạo Đế rồi cũng chưa đứng lại, phải có Diệt Đế mình mới tới Đạo được.

Hai cái đó là Tuệ Văn của mình.

Có Khổ Đế rồi thì phải có Tập Đế, rồi từ Tập Đế phải có Đạo Đế, có Đạo Đế rồi phải có Diệt Đế. Đó gọi là Trung Đạo.

Còn cái kia chỉ có Chánh Kiến Chánh Đạo thôi.

Không nhìn để không sinh chuyện, có nhìn thì chỉ nhìn chính mình thôi không nhìn ai hết 

Tôi tự khắc kĩ trong lòng là không nhìn ai, mà có nhìn thì nhìn chính tôi, thì không có sinh chuyện, mà có nhìn thì nhìn đúng nó như vậy chứ không thêm bớt gì hết.

Chính cái đó. Trong khi Đức Phật Ngài ngồi dưới cội cây Ngài đang đi tìm đạo đêm đó Ngài đắc đạo quả tới sáng ngày hôm sau Ngài là Chánh Đẳng Chánh Giác, đầu tiên là Thiên Nhãn Minh, tiếp sau là Túc Mạng Minh, thứ ba là Lậu Tận Minh. Thì Ngài có Thiên Nhãn Ngài thấy sinh rồi tử, tử rồi sinh, và Ngài không nhìn chính mình, và Ngài không nhìn thấy pháp của nó đang có mà Ngài nhìn thấy được cái bản chất thực của cuộc sống.

Vậy thì khi đứng 3 vị trí này - Thứ nhất, Không nhìn, Thứ hai, mà có nhìn thì nhìn chính mình. Thứ ba, mà có nhìn thì nhìn Pháp thôi, không có riêng tư, không có chi tiết. Chính những điều này đặt con người mình trong trạng thái đang tu, thì mình phải biết việc làm của mình.

Mà trong việc tu mình đi con đường Trung Đạo thì tất cả mọi pháp này sinh lên thì mình phải biết là nó có sự thật của nó.

 Do đó, Đức Phật Ngài nói có 3 Pháp, mình phải thấy 3 Pháp:

1 - Vị ngọt.

2 -  thì nó có sự nguy hiểm của nó

3 -  và có sự thoát ly

Bất cứ một pháp nào lên, đó là bản chất của Pháp Thế Gian. Không có Pháp nào mà không có vị ngọt, nếu đầu tiên vô nói Pháp này có vị đắng, vị cay, vị mặn, vị chua, thì không phải. 

Pháp nào cũng có pháp vị ngọt của thế gian, và trong pháp vị ngọt của thế gian nó có sự nguy hiểm của nó móc ở trong đó "Cá không được cắn câu, cá cắn câu cá rồi đời" Do nhận thức đó mình thoát ly.

Vậy thì khi cô nhìn thấy Khổ Đế (sự thật của khổ) Tập Đế (sự thật của những nguyên nhân). Đứng ở Khổ, Tập là có nhìn. Đứng ở Đế là có kiến thức.

Thấy Khổ Đế, mình chỉ nhìn thấy Đế thôi, đừng nhìn Khổ, thì mình mới ra. Thấy Tập Đế, mình chỉ nhìn thấy Đế thôi, chứ mình không có Tập, không bỏ mình vô trong Tập, không bỏ mình trong Khổ.

 Bát Chánh Đạo; Đạo Đế thấy có sự thật chứ không thấy con đường đi thì lúc đó mình Diệt Đế mình thấy Đế thì mình mới Diệt. Hai pháp đó quí Phật tử phải biết tách ra.

Khổ Đế có 3 :

1. Khổ Khổ có 8: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn.

2. Hành Khổ là nó luôn luôn vận hành, nó không đứng yên.

3. Hoại Khổ là nó luôn luôn hoại diệt, nó không có tồn tại.

Đế là sự chân thật, quí Phật tử đứng trong sự thật này để nhìn thì không lọt vô trong cái khổ của nó đang hiện bày một sự thật. Quí Phật tử đứng trong sự thật này nhìn thì không lọt vô cái khổ hiện bày một sự thật.

Vậy thì khi sinh là khổ hay là sự thật, thì quí Phật tử đứng chỗ nào ?

Sinh là Khổ Đế, nhưng đứng trong cái Khổ này thì bị chi phối trong 2 cái không nhìn và nhìn. Nhưng nếu nhìn thấy đó là sự thật, đó là bản chất thì  không rớt vô đó.

 Sinh là khổ là sự thật, thì mình sợ khổ trong cái sinh này không ? 

Sinh là khổ có là sự thật không ? Vậy có sợ khổ trong cái sinh này không ?

Sinh là khổ, mình biết, và mình không sợ sự thật này. Tôi không sợ sinh và tôi không sợ khổ, tôi chỉ biết đó là sự thật và tôi không muốn đi con đường này, tôi có con đường để tôi đi, đó là Đế. Đế của Pháp mà mình đang đi chứ không phải Đế của Pháp mà mình đang biết.

 Phải biết đó là Đế, Đế là tôi phải đi, chứ không phải Đế là tôi phải biết và tôi biết tôi không phải cái đó, tôi phải đi. 

Đối với bậc Thánh nhân sau khi sinh đã tận, phạm hạnh đã thành là các Ngài biết con đường các Ngài đi.

Còn mình ở đây cái gì mình cũng sợ, cái gì mình cũng lo cũng nghĩ, mà cái gì mình cũng biết hết, nhưng mình không có đi, và mình không có biết.

Tôi biết sinh là khổ và con đường tôi đi là tôi phải đi, chứ tôi không đi vào con đường tôi biết khổ để tôi khổ.

Do đó, khi Đức Phật Ngài cũng như các bậc Thánh nhân thấy được thế gian này Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, các Ngài không có sợ nhưng Ngài phải đi để đi qua con đường Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã này và không lập lại trong đời sống hàng ngày đây là kiếp chót của các Ngài.

Còn mình đây thấy thế gian này Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, thì mình làm gì ? Mình không có đi, mình nói thôi, và mình không có kết quả, mình không giải thoát được trạng thái Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, đã biết nhưng mình không ra được.

 Biết Đế là sự thật và mình không sợ, và mình phải đi. Tôi không có trong cái đó và tôi không sợ cái đó, tôi biết đường tôi đi.

 Thì cái sinh không làm cho mình bị dừng lại, cái già không làm cho mình dừng lại, cái chết không làm cho mình dừng lại, cái bệnh không làm cho mình dừng lại, mình vẫn phải đi. Ái biệt ly không làm cho mình dừng lại.

Bây giờ mình nói Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, mình biết nhưng mình không đi, mình chỉ nói thôi và mình không có ra. Mình phải đi.

Vậy thì biết sinh là khổ không ? có sợ không ?

Do đó, mình không có trong "không nhìn" và mình không có trong "có nhìn" thì trong Khổ Đế các bậc Thánh nhân nói "sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn là khổ." Thì mình ngẫm và biết rồi. 

Do đó, khi người ta nghe pháp Phật mà nghe nửa câu người ta đắc đạo quả là gì ? Họ không có trong "không nhìn" và "có nhìn" .

Còn mình đây mình nghe mình nói Đức Phật nói đúng rồi, mình có trong đó.

Cái Khổ Đế biết không ? Có sợ không ? Không sợ, biết thôi, tới mình biết nó là như thế. 

Hành Khổ biết không ? Có sợ không ? Biết thôi, không sợ

Hoại Khổ có biết không ? Có sợ không ? Biết thôi, không sợ

Khi nói câu nào thì có cái nghiệp của nó liền. Khi sợ nó thì đang ở trong Tâm Sân Đổng Lực của lộ trình tâm, trả lời trong trạng thái câu nói của người ta là mình dính vô cái nghiệp đó liền.

Sợ là Tâm Sân, còn cái biết là Đại Thiện Tương Ưng Trí, không có tạo ra nghiệp của giòng sinh tử.

cái key là chỗ đó, quí Phật tử rớt trong cái nghiệp của mình liền, và mình tạo mình không hay. Người ta chỉ gài mình một câu thôi là lộ ra liền, tôi không sợ thì tôi không tạo tâm sân, tôi có trí tôi làm ra là Đại Thiện Tương Ưng Trí, tôi không tạo ra nghiệp báo cho tôi, thì đâu có gì mà sợ.

Với bậc Thánh là ta giữ cái trí do đó Ngài không rớt vô trạng thái của nghiệp báo, còn mình đây không có trí mình tạo cái nào cũng có nghiệp báo, dù là nghiệp thiện, đừng nói tới nghiệp bất thiện.

Do đó, quí Phật tử thấy Tuệ mà có thì Giới mình giữ được, không nói tà ngữ, không nói sai sút một câu nào hết, và không có nghiệp báo nào hết trong lời nói của mình, lời nói mình chuẩn bị cho tạo tác nghiệp, và tôi sống trong Định, tôi có Chánh Niệm, tôi không rớt vô trạng thái tinh tấn sai lầm, mau mắn trả lời cũng là tinh tấn nhưng tinh tấn này không có niệm. Im lặng không trả lời là Chánh Niệm./.