Sunday, September 15, 2024

056 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 4, 2023

 056 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 4, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "056 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Ngũ Ma, Devaputta mãra là một trong Ngũ Ma

Deva = Thiên

putta = Tử (con trai)

Mãra = Ma

Devaputta Mãra là Thiên Tử Ma

Maccu Mãra là Tử Thần Ma

Những Mãra họ có năng lực riêng.

Thí dụ như, mình bị bệnh, mỗi một căn bệnh nó có năng lực riêng của bệnh đó, những con virus nhỏ nó có căn bệnh của nó và nó có chức năng có năng lực của nó để nó tấn công khán thể của mình hay tấn công cơ thể của mình.

Cũng vây, trong khi mình tu tập, hay trong đời sống hành ngày của mình bị Mãra tấn công. Chẳng hạn như Phiền não ma (Kilesamāra) tấn công mình thì lúc đó mình gục ngã liền. Tuy nhiên, tổng quát lại hết thì tất cả Mãra không qua được  Pāramī (Ba La Mật).

Do đó, Ma, Ác Ma, Chư Thiên Ma, Tử Thần Ma, Pháp Hành Ma, Ngũ Uẩn Ma (Khandha Mãra), hay là Phiền Não Ma v.v... không đối chọi được Pāramī (Ba La Mật). của mình.

Do đó, khi Bồ Tát (Bodhisatta) ngồi dưới gốc cây Assattha trên cái bồ đoàn. Khi Ngài chưa đắc đạo thì không gọi là cây Bồ Đề, sau khi Ngài đắc đạo mới gọi là cây Bodhi Tree, chỉ dành cho các vị Phật, Bodhi Tree là cây Giác Ngộ của một vị đã chứng đắc Giác Ngộ dưới cội cây này thì cây này mới được gọi là Bodhi Tree còn không thì mình nói là cây đa, cây cổ thụ.

 Thì khi mà Ác Ma cưỡi voi cùng với binh ma tới tấn công Ngài Bodhisatta (Bồ Tát) Ngài đang ngồi dưới gốc cây, tất cả các vị Chư Thiên Dạ Xoa hay các vị thân bằng quyến thuộc hay những người mến mộ Ngài lúc Ngài ngồi tinh tấn tu hành họ bỏ chạy hết, chỉ có Pāramī của Ngài hành trong 22 tăng kỳ ở bên Ngài để mà sống chết với Ngài thôi, chứ không bỏ đi.

Mình nhìn mới thấy, trong khi nguy khốn, trong khi mình khổ sở vì gặp khó khăn không có ai cứu mình bằng chính mình cứu mình bằng năng lực của mình có tu tập mình mới có kết quả, chứ mình cầu nguyện bên ngoài chỉ có một phần nào thôi, có khi được có khi không. 

Đọc lại trong 10 Balamat.

Mười pháp Ba la mật (Dasapāramī) là:

1. Bố thí Ba la mật (Dānapāramī), Bồ tát xả tài với tâm nguyện giải thoát.

2. Trì giới Ba la mật (Sīlapāramī), Bồ tát thu thúc thân hành, khẩu hành trong sạch với tâm nguyện giải thoát.

3. Xuất ly Ba la mật (Nekkhammapāramī), Bồ tát tâm lìa bỏ sự tham muốn trong trần thế, chỉ hướng tâm đến mục đích giải thoát.

4. Trí tuệ Ba la mật (Paññāpāramī), Bồ tát rèn luyện trí sáng suốt, trau giồi sự hiểu biết đúng chân lý nhân quả, với mục đích chứng đắc quả giải thoát.

5. Tinh tấn Ba la mật (Viriyapāramī), Bồ tát năng nỗ lực trong mọi việc, bỏ tâm lười biếng, với mục đích chứng đắc quả giải thoát.

6. Nhẫn nại Ba la mật (Khantipāramī) Bồ tát kham nhẫn với mọi nghịch cảnh, chịu đựng, không nổi giận oán thù, làm như vậy với mục đích đạt đến giải thoát.

7. Chân thật Ba la mật (Saccapāramī) vì mục đích giải thoát, Bồ tát tôn trọng sự thật, nói lời chân thật không giả dối.

8. Chí nguyện Ba la mật (Adhiṭṭhānapāramī), Bồ tát có ý tưởng giải thoát luôn giữ vững, tâm nguyện giải thoát luôn kiên định, không xao lãng.

9. Từ tâm Ba la mật (Mettāpāramī), với mục đích giải thoát, Bồ tát nhiếp phục sân hận, luôn an trú từ tâm đối với mọi loài.

10. Hành xả Ba la mật (Upekkhāpāramī), Bồ tát với mục đích giải thoát giữ tâm bình thản, không dao động trước sự đời khen, chê, vui, khổ, được, mất, vinh, nhục.

Đọc lại 10 Balamat thì có những lúc Ngài được Mẹ của Ngài là một vị Sơn Thành ở trên núi xuống để độ Ngài, giúp đỡ Ngài, những lúc Ngài hoạn nạn, đó là hy hữu may mắn thôi, còn ngoài ra Pāramī của các vị Bồ Tát, của các vị Hành Pháp có tu tập họ mới cứu họ được.

Để bổ túc lại những tuần trước giảng về Tuệ Tu, Tuệ Văn, Tuệ Tư. Nhưng tới Tuệ Tu, Sư nói  Pāramī (Ba La Mật), thì Sư đọc lại quyển tự điển thấy rõ là chỉ có Pāramī (Ba La Mật) cứu mình thôi.

Do đó, trong đời sống hàng ngày các quí Phật tử gặp 1 trong những Ngũ Ma, thì chỉ có Pāramī (Ba La Mật) để vượt qua thôi, nhưng nó linh hoạt, không có cố định một cách thiên kiến hay định kiến nào về một Pāramī (Ba La Mật)  nào, tuy nhiên nền tảng gốc căn bản của người hành Pāramī (Ba La Mật)  là Trí Tuệ.

Mình phải hành Pāramī (Ba La Mật)  không gián đoạn, Ác Ma không chừa ai hết, nó tấn công hết, nó cai quản cả tam giới, Vô Sắc Giới, Sắc Giới, Dục Giới trong tay của Ác Ma.

Ngũ ma (Māra), sự phá hoại, sự đem lại bất hạnh, sự xấu xa:

1. Phiền não ma (Kilesamāra). Phiền não phá hoại thiện pháp và làm cho chúng sanh bị bất hạnh luân hồi nên gọi là ma.

2. Ngũ uẩn ma (Khandhamāra). Ngũ uẩn có thực tính đổi thay biến hoại, luôn là tính chất khổ đau, đem lại sự suy sụp, nên gọi là ma.

3. Pháp Hành ma (Abhisaṅkhāramāra). Nghiệp thiện ác tạo ra quả luân hồi, kết buộc vào vòng sanh tử khổ đau triền miên, nên gọi là ma.

4. Thiên tử ma (Devaputtamāra). Hạng thiên thần nhiều uy lực trong cõi trời dục giới nhưng có tính đố kỵ, hay quấy phá người tu tập hiền thiện, cản trở sự tu tiến của người tu hành, nên gọi là ma.

5. Tử thần ma (Maccumāra). Sự chết luôn cướp đoạt mạng sống và tạo nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho chúng sanh, nên gọi là ma.

Trong Trung Bộ Kinh, bài kinh 50, kinh Hàng Ma Màratajjanìya sutta, nói trong một kiếp quá khứ Ngài Mục Kiền Liên là Ác Ma Dusi phá đệ tử của Đức Phật Kakusandha, Ác Ma Dusi chui vào bụng của Chí Thượng Thinh Văn vị thị giả của Đức Phật Kakusandha, vì thế Ngài Mục Kiền Liên bị đọa nhiều kiếp. 

Do đó, mình phải biết Ác Ma không có chừa ai hết, chỉ có một con đường Ác Ma tha thôi, là sống dưới đời sống Ác Ma là Ác Ma không bắt mình, nếu đi ngược lại với Ác Ma là con đường đó mình bị diệt vong vì Ác Ma không cho.

 Con đường nào đi ngược với Ác Ma ? Là con đường tu, Ác Ma không giải thoát, Ác Ma đắm chìm trong ngũ dục. Còn mình đi ngược lại với Ác Ma, mình ly tham, ly sân, ly si, thoát khỏi lục dục những sự cám dỗ thì Ác Ma tung lưới bắt mình. 

Khi người ta tinh tấn tu tập, họ thắng được Phiền Não Ma, họ tinh tấn tu tập họ thắng được Pháp Hành Ma, họ tinh tấn tu tập họ thoát được Ngũ Uẩn Ma họ không dính mắc vô thân kiến, tuy nhiên lúc bấy giờ Tử Thần Ma bắt người đó đi. Do đó, có những người chết trong khi họ đang tu tập họ cũng còn trẻ, đó là Tử Thần Ma.

Do đó, một là mình không biết được thành quả của mình tu tập Pāramī (Ba La Mật)  của mình có bao nhiêu ? Hai là mình không biết được là tuổi thọ của mình sẽ như thế nào ?

 Còn Phiền Não Ma lúc nào cũng có hết, cái vui cũng là Phiền Não Ma, cái buồn cũng là Phiền Não Ma, cái khổ cũng là Phiền Não Ma, nó là mặt trái và mặt phải mình không để bị lầm, vui buồn sướng khổ là Phiền Não Ma.

Chẳng hạn như bữa cơm mà đầy thức ăn cũng là một Phiền Não Ma, nó sẽ đưa mình vô bẫy sập của nó trong lục dục (sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp).

Mình lo sợ Phiền Não Ma, mình lo sợ Pháp Hành Ma, mình lo sợ Ngũ Uẩn Ma, cái tà kiến về thân của mình trong tâm mình phá mình ghê lắm, nhưng mình không biết Tử Thần Ma gõ cửa lúc nào, cái chết nó đến lúc nào, cái đó mình phải ngừa phòng hết, không giúp gì mình khi mình quay lại nhìn nó, mình chỉ đi tới với Pāramī (Ba La Mật)  của mình thôi, đó là kỹ thuật cao.

Kỹ thuật cao là mình không quay lại dòm ngó coi ai đi với mình hay ai đang theo dõi mình, mình không có thì giờ làm chuyện đó, chỉ có một điểm là đi tới với Pāramī (Ba La Mật)   mình hành, phải trao dồi liên tục, việc thiện nào cũng làm, cho mình cho người, lúc nào mình cũng phải làm với pháp tu tập chân chánh của mình, thì may ra nó sẽ trổ quả thì mới bảo vệ được mình trên con đường tu tập của mình được an toàn thôi, chứ còn không thì không thoát khỏi cái Ngũ Ma, dụ dỗ đủ mọi cách để khống chế mình.

Thế nào là Tối Hành Ma Abhisaṅkhāra Mãra  ?

Abhisaṅkhāra Mãra  là Tối Hành Ma

Abhisaṅkhāra = Tối Hành

Mãra = Ma

Hành có 3:

- Phúc Hành

- Phi Phúc Hành

- Tối Thắng Hành

Hành có 3 nằm ở Vô Minh duyên Hành của Thập Nhị Nhân Duyên hay Liên Quan Duyên Sinh  Avijjã paccaya Saṅkhāra.  

Saṅkhāra (Hành) có 3 mà thành 6

Avijjã paccaya Saṅkhāra

Avijjã = Vô minh 

paccaya = duyên 

Saṅkhāra = hành

Vô Minh duyên Hành.

Vô Minh là bát bất tri (8 điều không biết): 

1) Bất tri khổ đế

2) Bất tri tập đế

3) Bất tri diệt đế

4) Bất tri đạo đế

5) Bất tri nhân đã qua (quá khứ)

6) Bất tri quả hiện tại

7) Bất tri nhân quả liên quan

8) Bất tri Liên Quan Tương Sinh.

Không chỉ là một, mà phải 8 bất tri mới thành một vô minh, 8 điều này mới hình thành một vô minh, chứ không thể nào nói vô minh suông, kể một không đủ mà kể 7 điều cũng không trúng, phải kể đúng 8.

Paccaya là duyên, có 2 duyên làm ra được pháp hành là: Thường Cận Duyên và Dị Thời Nghiệp Duyên. Hai duyên này làm duyên từ Vô Minh ra tới Hành.

Thường Cận Y là cái gì mà nó thường xuyên gần gủi, lân cận, gọi là cận y. Người lân cận gần gủi mình, đó là một mãnh lực, tại vì họ có thể là tác động mình, họ xúi mình mà họ không làm, đó là Thường Cận Y, đó là một mãnh lực duyên, xúc sinh bảo hộ. 

Cái thứ hai là Dị Thời Nghiệp là nghiệp lực quá khứ mình đã gieo trồng  rồi bây giở trổ sinh ra.

Chẳng hạn mình không biết Khổ Đế, rồi mình làm hành động Khổ Đế do bởi Tập Đế thì ra Dị Thời Nghiệp. Dị Thời Nghiệp sẽ đưa ra hành động hôm nay mình có.

Saṅkhāra là Hành động, có 6 pháp hành:

1) Thân hành

2) Ngữ hành

3) Ý hành

Không biết cũng nói, không biết cũng nghĩ, đó là Vô Minh duyên Hành, do đó, mình phải cẩn thận, hành động đó, hành động về thân, hành động về lời, hành động về ý của mình, coi chừng có mãnh lực của Dị Thời Nghiệp bởi Vô Minh tạo ra 

4) Phúc Hành (là làm việc thiện mà mình không biết)

5) Phi Phúc Hành (là làm việc bất thiện mà mình không biết)

6) Tối Thắng Hành (là tu tập Thiền Sắc Giới, Thiền Sắc Giới, Thiền Vô Sắc Giới mà mình không biết)

Họ thao tác ra họ sinh về trời Sắc Giới, Vô Sắc Giới, mà họ không biết những gì mình làm, đó cũng thuộc một pháp hành do bởi Vô Minh tạo tác.

Cái đó, có những người họ sinh về Sắc Giới, họ sinh về Vô Sắc Giới, họ an trú trong đó như Phạm Thiên Baka. Sơ Thiền Sắc Giới chỉ có một Đại Phạm Thiên thôi, và có 1000 Phạm Phụ Thiên và Phạm Chúng Thiên vô số. 

Những người tu tập Thiền Sắc Giới  chứng đắc Sơ Thiền thì có khi là Phạm Chúng Thiên là hàng dân chúng. Phạm Phụ Thiên là hàng quan, Đại Phạm Thiên là hàng vua. Mà cõi Đại Phạm Thiên cõi Sơ Thiền Sắc Giới chỉ có một Đại Phạm Thiên thôi.

Thì Baka là Đại Phạm Thiên cõi Sơ Thiền Sắc Giới, Ngài ở đó rất lâu, các vị Phạm Thiên kia đi tục sinh hết rồi, thì Đức Phật Ngài phải lên độ vị Đại Phạm Thiên Baka, Đức Phật Ngài dùng trí tuệ (trong bài kệ Cảm Thắng Ma Vương ở câu thứ 8, Ác Ma cũng đi theo phá.

 Quí Phật tử coi lại bài kinh 49 quyển Giáo Án Trung Bộ Kinh. Kinh Phạm Thiên Thỉnh Cầu. 

Phạm Thiên Baka khởi sinh ác tà kiến

Bài kinh 50 trang 267 là kinh Quở Trách Ác Ma.

 HT Minh Châu gọi là Kinh Hàng Ma, không có hàng ma, Đức Phật Ngài không có hàng phục ma mà Ngài chỉ quở trách, anh làm sai tôi quở trách anh, lúc đó là Ngài Mục Kiền Liên là Ác Ma trong bài kinh này, quí Phật tử đọc bài kinh này rất là hay, hay hơn kinh Nhật Tụng.

Bài kinh 49 là Phạm Thiên Baka khởi sinh ác tà kiến là ông thấy ông sống lâu, thì bắt đầu ông nghĩ ông đắc Nip-bàn rồi, ông đắc đạo quả rồi, Đức Phật nói không, Phạm Thiên Baka chưa có Níp-bàn, chưa đắc đạo quả, vẫn còn là phàm chưa là thánh.

Ở đây, không sanh không già không chết, ông sống lâu, ông nghĩ.

Trong phần Chánh Kinh trang 261.

I. Đức Phật liễu tri Phạm Thiên Baka khởi sanh Ác Tà Kiến.

Khi Đức Phật trú ngụ tại gốc cây Tàla trong rừng Subhagavana, ở tại Ukkatthà, với tự Tâm của Ngài biết được Tâm của Phạm Thiên Baka khởi lên Ác Tà Kiến (ditthigata) như sau "Cái này (Idam) là thường hằng, là thường tại, là toàn diện, không biến hoại, không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, và ngoài cái nầy ra thì không có sự giải thoát (Nissarana) nào khác hơn".

Phần II Ác Ma hiện bày việc ngăn cản với Đức Phật. (trang 262)

Ác Ma lên tới Sắc Giới luôn để ngăn cản Đức Phật không cho Đức Phật đi độ, nhưng Ngài có tâm từ.

Phần III. Đức Phật thuyết giảng cho Ác Ma: (trang 262)

- Nầy Ác Ma, ta biết ngươi. Chớ có nghĩ rằng ta không biết ngươi. Ngươi là Ác Ma.

- Nầy Ác Ma, phàm là Phạm Thiên, Phạm Thiên Chúng, Phạm Thiên quyến thuộc, tất cả đều nằm trong tay của ngươi, tất cả đều nằm trong quyền lực của ngươi.

- Nầy Ác Ma, và ngươi không nên nghĩ rằng Ta nằm trong tay của ngươi, không nên nghĩ rằng Ta nằm trong quyền lực của ngươi.

Đức Phật giảng cho Ác Ma làm những điều đó, đó là Phi Phúc Hành, anh làm những điều đó không có phước đâu.

Ông Baka nằm ở trong Tối Thắng Hành bởi vô minh, ông hưởng mà ông không biết. Còn Ác Ma cản Đức Phật đừng có độ Phạm Thiên Baka là Phi Phúc Hành. Những cái đó mình phải biết, đừng có bao giờ lọt vô cái sai lầm đó, đó gọi là ác tà kiến.

Một người nằm trong Tối Thắng Hành thì họ cũng lọt hết vô trong Bát Bất Tri không hiểu nhân quả, họ ở trong đó thì tà kiến sinh lên, ông khởi sinh tà kiến, ông nói ông không già không chết, ông không thấy được Khổ Đế, ông đang ở trong Tập Đế mà không biết, ông không thấy con đường ra Diệt Đế, ông chưa có Níp-bàn, và ông không biết Bát Chánh Đạo, ông ngồi với Pháp Hành của Sắc Giới mà ông lên cõi Phạm Thiên thôi.

 Rồi Ngài thuyết pháp độ Phạm Thiên Baka, rồi Baka nêu lên quan điểm tà kiến của mình. Rồi Đức Phật thể hiện thần thông. Rồi Ngài nói nếu như Baka là Alahan rồi Níp-bàn rồi thì biến mất đi, Như Lai biến mất, ngươi cũng biến mất, và Đức Phật biến mất ông chỉ nghe âm thanh của Đức Phật thôi, ông tìm Đức Phật không thấy, Đức Phật nói: "này Baka thấy Như Lai không ?".  Ông tìm không thấy, tại vì Alahan có lục thần thông, mà cái đó là iddhi-vidha thần túc thông, chỉ vị Alahan mới hiện bày ra iddhi-vidha thần túc thông được, mới biến mất được, khi đó Baka mới biết mình sai rồi.

Đức Phật muốn độ Baka Ngài phải dùng trí toàn giác của Ngài. Trí toàn giác mới dẹp được vô minh mới chỉ ra được Pháp Hành của họ sai, tức là bẻ gãy được Vô Minh thì Hành mới gẫy. 

Vô Minh diệt, Hành diệt, Hành diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt.

Rồi Ác Ma thuyết phục Đức Phật đừng độ Baka. Đức Phật bác bỏ sự thuyết phục của Ác Ma.

Phần Kết Luận trang 266. Ác Ma thất bại không thể thuyết phục được Đức Phật.

Như vậy, vì Ác Ma đã thất bại không thể thuyết phục được Đức Phật, và vì có lời thỉnh cẩu của Phạm Thiên, Do đó Pháp Thoại này cũng được gọi là Phạm Thiên Thỉnh Cầu.

Thì bài kinh đó, như có Phật tử hỏi thế nào là Tối Thắng Hành ? 

- Là người về chỗ Sắc Giới, họ tưởng là họ Níp-bàn rồi, nhưng cái đó là Tối Thắng Hành của Vô Minh, họ chưa giải thoát, họ hiểu lầm, do đó, cái con đường đi về cõi trời Sắc Giới, Vô Sắc Giới là con đường đó còn trong luân hồi, vẫn còn ở trong cõi phàm phu, chưa là Thánh, chưa diệt được kiết sử mà lọt trong bẫy sập của Liên Quan Tương Sinh.

Trong kinh Quở Trách Ác Ma.

Thì lúc bấy giờ Bài kinh này thuật lại câu chuyện ác nghiệp mà tiền thân Moggallana đã tạo ra 

Trang 267

B. Duyên Khởi:

Pháp Thoại nầy là Đại Trưởng Lão MahaMoggallana thuật lại câu chuyện quả Ác Nghiệp mà tiền thân của Ngài đã tạo ra khi còn là Ác Ma, để giải thích Ác Ma đang tạo Ác Nghiệp trong người của Đại Trưởng Lão.

Lúc có một kiếp Ngài Mục Kiền Liên là Ác Ma chui vô bụng của thị giả của Đức Phật Kakusandha Sau đó Ngài bị rớt xuống địa ngục. 

Đức Phật Kakusandha  là Phật Câu Lưu Tôn là một trong 5 vị Phật ở trong địa cầu này.

3. Đức Phật Kakusandha khuyên giáo Chư Tỳ Khưu thoát khỏi phiền nhiễu bởi Ác Ma Dùsi  (trong quá khứ Mục Kiền Liên là Ác Ma Dùsi ).

 Đức Phật Ngài nói có 2 hạng Phật tử đến với chùa, 2 hạng Phật tử này là Ác Ma Dùsi là tiền thân của Mục Kiền Liên đã làm ra, một hạng Phật tử tới chùa họ kich thích Ác Ma Dùsi nhập vô trong các Phật tử, họ kích thích tới cúng dường tán thán khen ngợi Chư Tăng, để Chư Tăng quên đường tu tập mà tự mãn sinh lên.

 Thứ hai, hạng người thứ 2 tới chùa để chửi mắng, công kích, phỉ báng Chư Tăng, để Chư Tăng phiền não lui sụt tu tập. 

Hai hạng người đó, Đức Phật Ngài trong Buddhavamsa Biên Niên Sử Chư Phật giải bày cho Chư Tăng thoát khỏi cái lưới của Ác Ma nhập vô trong các Phật tử để chinh phục phá quấy đời sống tu tập của Chư Tăng. Họ tới cúng dường, người tu phải chánh niệm tỉnh giác để không lọt vô, họ tới phỉ báng chửi mắng mình, nhà Sư cũng phải chánh niệm tỉnh giác đừng để rơi vô âm mưu của họ.

Trang 269 

4. Ác Ma lại tạo ra Ác Nghiệp với đệ tử của Đức Phật.

a. Ác Ma Dùsi lại khởi lên suy nghĩ như sau "Ta không biết chỗ đến và chỗ đi của các vị Tỳ Khưu có giới hạnh và Thiện tánh nầy. Vậy ta hãy nhập vào hàng Bà La Môn gia chủ và xúi giục để đi đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ và cúng dường các vị Tỳ Khưu có giới hạnh và Thiện tánh. Do xúi giục đi đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ và cúng dường các vị Tỳ Khưu có giới hạnh và Thiện tánh, thì các vị Tỳ Khưu nầy đổi tâm và như thế Ta mới có dịp để chi phối chúng".

b. Ác Ma Dùsi nhập vào hàng gia chủ Bà La Môn và đi đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ và cúng dường các vị Tỳ Khưu.

5. Đức Phật Kakusandha khuyến giáo Chư Tỳ Khưu thoát khỏi phiền nhiễu bởi Ác Ma Dùsi.

- Nầy Chư Tỳ Khưu, những vị gia chủ Bà La Môn đã bị Ác Ma Dùsi nhập vào và tạo ra Ác Nghiệp phiền nhiễu đến các người. Vậy các người hãy sống quán tưởng bất tịnh trên Thân, quán tưởng vì nghịch với vật thực, quán tưởng bất khả lạc với tất cả thế gian, quán tưởng Vô Thường đối với tất cả Hành.

Đức Phật Ngài chỉ các Pháp Hành để Phật tử ngừa, nhưng Ác Ma nhập vô người Phật tử để quấy rồi thì nhà Sư được Đức Phật Ngài dạy để mà tránh, khen cũng không được, phỉ báng cũng không được, cả hai lãnh vực đó tốt nhất đóng cửa chùa tịnh cư thiền định. Nên ngày xưa Ngài Tịnh Sự đóng cửa chùa ngày đêm, Ngài không cho ai vô để Ngài dạy Sư, nghèo khổ cũng được để sống thanh bình lạc đạo, vậy mà thoát khỏi bẫy sập này. Họ tới cúng dường cũng là một cái lưới, mà họ tới chửi mắng cũng là một cái lưới, hai cái đó mình phải giữ tâm không để bị chi phối, không để bị tác động. Khi được cúng dường nhiều quá mình lấy cũng tạo ra tội, khi bị chửi mắng buồn phiền nghĩ quẩn cũng tạo ra tội.

 Hai cái đó Đức Phật Ngài không quở trách các vị Tỳ Khưu, nhưng Ngài quở trách tâm Ác Ma phá đệ tử Đức Phật cho không có con đường giải thoát được.

Sau khi học hết Paṭṭhāṇa xong Sư giảng xen kẽ qua kinh Nikaya. Trung Bộ Kinh có 152 bài, Trường Bộ Kinh có 34 bài. Mỗi bài có ý nghĩa Pháp Hành để mình tu tập.

Trong đời sống mình không biết, chính cái đó mình chỉ còn cái tốt nhất là giữ Tâm, tại vì Ác Ma nhập vô nếu mình không giữ Tâm mình, nhất là mình tu hành mà có một số thành quả rồi dễ bị tấn công, phải cẩn thận không được khinh xuất, không thể nào dễ dui được.

Câu di huấn tối hậu trước khi Đức Phật Ngài viên tịch: "Này Chư Tỳ Khưu, các Pháp là Vô Thường chớ nên phóng dật dễ dui mà phải tinh cần nỗ lực tu tập."

Phải cố gắng nỗ lực cho tới ngày mình viên tịch hay mình đạo quả mới thôi. Ngài Paṇdita nói ít nhất Sotàpatti Thất Lai chứ đừng để rớt xuống 4 đường ác đạo. 

Mình đi trên đường giống như đi qua một cái cầu khỉ bên dưới là hầm hố, thú dữ rồi sóng to gió lớn mà cái cầu đi rất bấp bênh nếu không đi cẩn thận lọt xuống thì mạng vong. Do đó, mình phải ráng lo tu tập. Mà cái tu tập này không có gì bằng Pāramī (Ba La Mật) chứ mình không đi thông thường được.

Trong quyển Chính Thị Kim Sinh, Ngài Paṇdita dẫn chứng trường hợp  Sumedha là người dâng thân này nằm xuống cho Đức Phật Dipankara Phật Nhiên Đăng đi ngang qua, tại vì Ngài không làm kịp con lộ đó thì phải hiến thân luôn thì Sư dẫn chứng lại trong bài kinh. 

Trường hợp Subhadda rất là hy hữu, Ngài Subhadda là một vị Bà La Môn ở một đẳng cấp cao quí trong xã hội thời đó, ông ở ngay tại Kusinara. Khi Đức Phật Ngài về Kusinara viên tịch, ông nghe được ông tới để thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp, thì Ngài Ananda là thị giả của Đức Phật từ chối nói là không được vì Đức Thế Tôn mệt lắm rồi. Thì ông xin lần thứ 2, lần thứ 3, Ngài Ananda đuổi ông đi về. Lúc đó Đức Phật nằm nghỉ trên tảng đá nghe được Ngài gọi cho Subhadda vào, 

Subhadda vào và hỏi: Có giáo pháp nào ngoài giáo pháp của Đức Thế Tôn ra mà đưa đến đạo quả Thánh nhân không ?

Đức Phật nói 2 câu: "Như Lai không còn thì giờ để giải thích, nhưng Như Lai tuyên bố ngoài Giáo Pháp của Như Lai ra không có đệ nhất Sa Môn, đệ nhị Sa Môn, đệ tam Sa Môn, đệ tứ Sa Môn, Ngài khẳng định chỉ có con đường Bát Chánh Đạo của Giáo Pháp của Đức Phật mới có con đường của Thánh nhân".

Đệ nhất Sa Môn là Thất Lai, đệ nhị Sa Môn là Nhất Lai, đệ tam Sa Môn là Bất Lai, đệ tứ Sa Môn là Vô Sinh. 

Thì Subhadda xin xuất gia, Đức Phật Ngài mới phá lệ, tại vì người ngoại đạo hay người ngoài giáo pháp thì phải qua 6 tháng thử thách làm giới tử, Nhưng Ngài ngoại lệ cho Subhadda xuất gia. 

Ananda mới đem ra ngoài cạo râu cạo tóc rồi truyền Pháp Vô Thường rồi dắt trở vô Đức Phật cho đề mục, thì Subhadda lấy đề mục đó đi kinh hành ngay ngày hôm đó đắc quả Alahan và viên tịch ngày hôm đó.

Khi một người xuất gia với Đức Phật đểu được Ngài cho đề mục của tập khí của mình để mà tu tập. Bà Pajapati Gotami dì mẫu của Đức Phật cũng được Đức Phật cho đề mục để tu tập mang đến đạo quả.

Sư có ghi lại hết tích chuyện đó trong quyển Chính Thị Kim Sinh. Thì bà Mẹ Kế Mẫu Gotami sau khi Hoàng Hậu Maya mất sinh về cung trời Tusita thì người dì mẫu Gotami đem về nuôi, mà cùng một ngày sinh ra với Hoàng Hậu Maya sinh Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thì dì mẫu Gotami sinh Nanda. Khi Hoàng Hậu Maya mất thì bà dì mẫu đem về nuôi với bầu sữa của di mẫu để dành cho Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thôi, còn con ruột của mình là Nanda phải mượn bà vú nuôi cho uống sữa, bà dành hết tình thương cho Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) nên Đức Phật Ngài mới thương, sau khi vua Tịnh Phạn mất thì trong hoàng cung buồn lắm, tại vì khi vua Tịnh Phạn mất 3 điều xảy ra; Đức Phật đi, cháu nội là Rahula (La Hầu La)  cũng đi, rồi tới vua Tịnh Phạn cũng mất, trong hoàng cung chỉ còn phụ nữ, những người đàn ông đi hết, luôn cả người thợ cắt tóc là Upali cũng bỏ đi tu theo Đức Phật. 

Thì mấy người phụ nữ cũng rủ nhau đi xuất gia nhưng bị Đức Phật Ngài từ chối, tại vì người nữ mà đi tu thì Giáo Pháp Như Lai sẽ bị cắt thành nửa, Ngài Ananda xin Đức Phật Ngài cho nữ giới vô tu. Đức Phật nói người nữ phải thọ 8 điều (bát kinh pháp) thì mới cho. Bà Dì Mẫu được nhận vào tu.

Bát Kỉnh Pháp

1 Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giới Cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.

2- Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.

3- Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo được quyền cử tội Tỳ kheo ni.

4- Muốn thọ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo

5- Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa) trong thời gian nửa tháng.

6- Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầu dạy bảo.

7- Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.

8- Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi.

Thì vô tu bà làm bộ y cúng dường Đức Phật, Đức Phật Ngài không nhận và nói cúng dường cho Chư Tăng.

Trong tiền kiếp quá khứ bà Dì Mẫu Gotami đã từng cúng dường 5 vị Độc Giác Phật y áo. Tức là khi bà ra đời sống bà đều cúng dường y cho các vị Độc Giác Phật, do chủng tử đó bà mới được làm Dì Mẫu của bậc Chánh Đẳng Giác kiếp chót. Rồi kiếp chót này bà cũng làm bộ y nhưng Đức Phật không nhận lời mà kêu cúng dường cho Chư Tăng thì phước lớn hơn, đó là tác ý. 

Mới đầu khi nghe như vậy thì bà buồn. Đức Phật mới dạy cho Ananda để nói lại cho Dì Mẫu Gotami là khi cúng dường cho Đức Phật đó là cá nhân tuyển thí, Tăng đoàn tuyển thí phước lớn hơn.

Do đó, Ngài muốn phá sai lầm của tập khí mà mình tu hay mình ở ngoài đời cũng vậy, mình sống cái gì cũng làm theo tập khí của mình, không bao giờ mình nhìn thấy pháp hết. 

Khi Tăng đoàn xả thí thì lúc đó mình mới diệt thân kiến, diệt cố chấp hay tập khí của mình, tôi thương tôi thích thì mới cũng, còn không thương không thích tôi không cúng, cái đó là cá nhân tuyển thí mà trong tập khí của mình đã lựa chọn là sai.

Tăng đoàn tuyển thí là mình sống trong trạng thái Pāramī (Ba La Mật) . Còn quả báo của họ, họ cần, còn chuyện mình quả phước mình có, nhiều khi mình mượn họ để mình làm được. Đừng có đắn đo, chắc chiu suy nghĩ. Mình đi một cách rất an lạc.

Bài kinh Phạm Thiên Baka suy nghĩ tà kiến, suy nghĩ sai, ông nghĩ ông đắc đạo quả, thật ra không có. Thì lúc bấy giờ ông đang ở trong Tối Thắng Hành của sắc giới mà ông Baka đang có đang hưởng quả vị Đại Phạm Thiên cai quản cõi trời Sắc Giới, thì cái đó là Vô Minh duyên Hành ở trong phần Abhisaṅkhāra Mãra  là Tối Hành Ma.

Năng lực của Mãra kinh khiếp, ở đâu họ cũng có mặt, và ngay cả vị đại đệ tử của Đức Phật Kakusandha đang đi theo Đức Phật.

Trang 267 

C. Chánh Kinh: 

1. Ác Ma tạo ra Ác Nghiệp với Đại Trưởng Lão MahàMoggallàna.

Đại Trưởng Lão MahàMoggallàna đang đi kinh hành ngoài trời, và Ác Ma đi vào bụng và ở trong bao tử của Ngài. Đại Trưởng Lão khởi Tâm suy nghĩ "nay sao bụng của Ta lại nặng nặng như có cái chi chất chồng quá đầy". Thế rồi, Đại Trưởng Lão từ chỗ kinh hành bước xuống, đi vào Tự Viện, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Đại Trưởng Lão tự chánh tư niệm và thấy được Ác Ma, liền thốt lên lời "Hãy đi ra, Ác Ma ! Hãy đi ra, Ác Ma ! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài".

Nhưng Ác Ma lại nghĩ rằng Đại Trưởng Lão MahàMoggallàna không thấy và không biết. Như vậy, Đại Trưởng Lão lại nói với Ác Ma "Nầy Ác Ma, ta biết ngươi. Chớ có nghĩ rằng Ta không biết ngươi. Ngươi là Ác Ma. Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài".

Khi rõ biết rằng Đại Trưởng Lão liễu tri sự việc, Ác Ma đã từ miệng của Đại Trưởng Lão MahàMoggallàna bước ra.

Rồi Trưởng Lão Mục Kiền Liên mới kể lại chuyện thời gian Ác Ma hiện bày phá đệ tử Đức Phật.

Trong bài kinh này Đức Phật dạy cách ngự phòng Ác Ma chinh phục mình, không riêng cho người xuất gia, người tại gia cũng có, nên mình phải cẩn thận, lúc mình vui mình buồn mình khổ, mình bất toại nguyện, cái đó đang là Ác Ma nhập vô, có cơ hội là nhảy vô liền.

Do đó, mình phải cẩn thận, cái đó đều là Vô Minh duyên Hành bởi 2 duyên Thường Cận Y và Dị Thời Nghiệp Lực, 2 mãnh lực này đứng giữa làm duyên cho hành, mình không biết mình vẫn hành, đó là mãnh lực của Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y, 2 cái đó thường xuyên.

Có 3 điều, 3 điều này là một vị Giáo Thọ hay một vị Thiền Sư chỉ dạy cho người ta về vấn đề tâm linh về mặt tinh thần tu tập thì phải có 3 điều mình có rồi mình mới nói được người ta, không có không được.

1) Thứ nhất là mình phải linh xảo, tức là mình thuần thục trong vấn đề mình biết, mình phải linh xảo, sắc bén, khôn khéo trong mọi vấn đề mà người ta đang đề cập tới, mình có vấn đề đó trong việc mà kiến văn của mình linh xảo.

2) Thứ hai là mình phải có tri thức, lý luận phù hợp với kinh điển, phải kiên cố và xác thực chính xác với kinh điển, phải có một tri thức, kiến thức. Theorical là lý luận chứ không phải là lý thuyết, là lý luận là những cái mà mình biện luận một cách hợp lý và kiên cố (solid) mà xác thực đúng theo văn bản kinh điển, chứ không phải nói theo tư kiến của mình thì mới làm được.

Solid  <---- Sound theorical knowledge of the scriptures (kiến thức lý thuyết vững chắc về kinh điển)

3) Điều thứ Ba, mình phải có lòng từ bi và lòng trắc ẩn (loving kindness và compassion) thì mình mới làm được điều đó. Lòng từ bi và lòng trắc ẩn phải chân thật.

Tóm tắt 3 điều: 

- Thứ nhất, việc làm của mình, sự tu tập của mình hay là sự tu hành của mình phải thật sự hết sức linh xảo, khéo léo mình mới có. 

- Thứ hai, tri thức, lý luận của mình phải kiên cố và xác thực, chứ không hư ngụy giả tạo, lời nói của mình có điểm chính logic chứ không uống nắn như con lươn theo kiểu như là ngụy biện kiến, người ta đụng chỗ này mình né, người ta đụng chỗ kia mình né, để mình nói ta đây mình biết kiến thức, nhưng mà sai lầm, mình đang Vô Minh duyên Hành ở trong ngữ hành bởi vô minh, và phải nằm ở trên góc độ Kinh Điển, chứ không phải ngoài kiến thức của mình, căn bản Phật có dạy, kinh có nói và có sách lưu lại thì cái đó mới an toàn

- Thứ ba, phải có lòng từ bi và lòng trắc ẩn

Bài 3 điều này là Ngài Paṇdita  Ngài kiến nghị các vị Giáo Thọ.

Những người nào có khát vọng để trở thành vị giáo thọ thì họ phải luyện tập 3 điều, nếu có đủ 3 điều này.

1) cái sự tu tập của mình phải linh xảo

2) Cái tri thức phải kiên cố và xác thực.

3) Phải có lòng từ bi và lòng trắc ẩn

Thì mình mới trở thành một vị Giáo Thọ

Khi một vị Giáo Thọ tôn giáo (a teacher spiritual),  đặc trách về vấn đề giáo nghĩa giáo học, hay một vị Thiền Sư thì người ta phải đủ 3 điều kiện này, nếu mình chưa đủ 3 điều kiện này, nhất là điều kiện thứ 2, kiến thức mình không có đầy đủ trong văn bản Kinh Điển thì mình sẽ rớt trong tư kiến là biên kiến hay là định kiến hay là một cái tà kiến trong lời lẽ của mình nói ra, thứ hai nữa mình phải có lòng từ bi và lòng trắc ẩn loving kindness và compassion).

Ngài Paṇdita nói trước tiên tối trọng yếu (First and foremost) là mình phải thực hành có kết quả thì mình mới dạy người ta được, cũng như những bài kinh hồi đầu giờ Sư chia xẻ với quí Phật tử ráng đọc để cầu nguyện thì Sư trải nghiệm rồi là có kết quả, Sư có nghiệm rồi so với các văn bản kinh điển thời Đức Phật có xảy ra thì Sư mới chia xẻ với quí Phật tử được, với tâm từ và bi của Sư mới chia xẻ ra được, giờ quí Phật tử chỉ lấy đó áp dụng mới có kết quả, rồi từ đó mình cũng có, giờ mình áp dụng rồi mình chuyền cho thân bằng quyến thuộc của mình.

Ác Ma không buông tha ai hết, mà không phải chỉ Thiên Tử Ma mà Phiền Não Ma, Ngũ Uẩn Ma, Tử Thần Ma cũng tấn công mình được. Mình đang có bao nhiêu dự án cần thực hiện thì Tử Thần tới rước mình đi, coi như bỏ hết tất cả lại, sự nghiệp hay kế hoạch của mình buông bỏ lại hết. Do đó mình mới tìm ra 2 chủ đề.

Đây là Pháp Hành của mình để mình tiếp nối bài học tuần trước.

Trong Ngũ Ma:

1. Ngũ Uẩn Ma

2. Phiền Não Ma

3. Tối Thắng Ma hay Pháp Hành Ma 

4. Tử Thần Ma 

5. Thiên Ma

Cái nào là hiện hữu, cái nào không hiện hữu. Cái nào hiển lộ, cái nào ẩn tàng. Cái nào mình thấy, cái nào mình không thấy.

Trong đời sống hàng ngày của mình 5 loại ma này cái nào thường hiển lộ ?

Ngũ Uẩn Ma là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Phiền Não Ma là tham, sân, si. Thiên Tử Ma là có hiện tượng ma hiện bày.

Khi đã gọi là Ma (māra) là mình không biết được. Mình nói là mình biết Phiền Não Ma là có, tham sân si mình thấy rõ, nhưng mà thật ra mình đã biết rõ rồi mà tại sao mình còn tham, sân, si, mình vẫn tham, sân, si, mình vẫn sống trong trạng thái Māra của mình chi phối.

Do đó, đối với Ngũ Ma mình không biết được, rồi người ta nói mình mới thức tỉnh nhẩy ra. Thấy nó hiển lộ chứ thực ra không phải, cái đó là cái tập khí của mình chứ không phải là māra. Mình đang sống trong tập khí của mình chứ không phải bị māra chinh phục, chứ không phải māra đang ở trong  tâm mình.

Māra không ai biết được, còn cái biết của mình là do tập khí, là cái kiến chấp của mình, và mình phải thận trọng. Lúc mà nó hiển lộ ra mình tỉnh, mình trí mình có biết thì mình nhận diện được nó, còn không là mình ở trong nó, mình sập bẫy nó rồi, không thoát ra được.

Cái bẫy của māra, vô phương, đệ tử của Đức Phật Kakusandha  vị thị giả của Đức Phật Kakusandha mà còn bị Ác Ma chui vào bụng, và ngay cả Ngài Mục Kiền Liên có thần thông mà còn bị Ác Ma chui vào bụng, tại sao Ngài bị Ác Ma chui vào bụng ? không biết được, thì cỡ như mình là chịu thua.

Mình không xác định được tính chất của māra. Phiền Não Ma là chính cái phiền não là māra đang nhiếp phục cái tâm mình, mình không thấy trong khi đó hay là mình đang nuôi dưỡng tập khí của mình lâu dài cái Dị Thời Nghiệp của Vô Minh duyên Hành đang hiện bày ra, mình không biết, phải cẩn thận.

Hai điều mà quí Phật tử cần nhớ, trong bài kinh Māra mà Sư viết ra, Sư để trong quyển Chính Thị Kim Sinh (in this very life) thì

 3 cái; Ngũ Uẩn Ma, Phiền Não Ma, Pháp Hành Ma là chủ quan trong quan điểm của mình cố chấp dữ lắm, và 

2 cái; Tử Thần Ma và Thiên Tử Ma là khách quan.

Người có kiến thức trên lý luận của văn bản Kinh Điển họ mới gỡ kiến chấp của mình thì mình mới bẻ gãy được cái đó ra.

Vậy thì: 

- Khi nói tới Ngũ Uẩn Ma: Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, mình không biết, Sắc hoại diệt theo Pháp chứ không phải theo của Māra hay là theo của mình, mình không biết được.

- Khi nói tới Phiền Não Ma: Tham, Sân, Si, nó đi theo Pháp hay là Māra, mình không biết được

- Khi nói tới Pháp Hành Ma: Thân Hành, Ngữ Hành, Ý Hành, mình không có bao giờ mình ngờ, nghĩ, và mình không biết được hành động của mình tạo ra cho tới khi mình thức tỉnh ra "ủa, tôi như vầy mà tôi làm như vậy sao" thì việc đã xảy ra rồi, Thân Ngữ Ý rồi, phải cẩn thận.

- Khi nói tới Tử Thần Ma: Quí Phật tử không bao giờ nói rằng khi cái chết nó đến thì quí Phật tử mới thấy được Tử Thần Ma đối diện. Đức Phật nói "Hơi thở vô, hơi thở ra, là một Tử Thần Ma, đó là người có Chánh Niệm." Chứ không nói tới trạng thái sự chết đến với người đó, người đó mới có Tử Thần Ma hiện hữu. Trong hành động thân, ngữ, ý mà thiếu chánh niệm mình đã chết một lần với Tử Thần Ma. 

Mình chết một lần với Thiên Ma, bẫy sập.

Do đó, phải cẩn thận với sở hành của mình, trong hành động của mình, Thân, Ngữ, Ý của mình.

Như vậy thì, trong phần Hành:

-  8 bất tri duyên Thân Hành, trong Thân Hành có 3: Phúc Hành, Phi Phúc Hành, Tối Thắng Hành.

- 8 bất tri duyên Ngữ Hành: Phúc Hành, Phi Phúc Hành, Tối Thắng Hành

- 8 bất tri duyên Ý Hành: Phúc Hành, Phi Phúc Hành, Tối Thắng Hành.

Do đó, 3 cái Thân Hành, Ngữ Hành, Ý Hành = 9 cái Phúc Hành, Phi Phúc Hành, Tối Thắng Hành, phải nắm bắt được, đường nào mình cũng bị lọt vô trong đó hết.

Trong 8 cái bất tri này, trong 9 cái với 3 Pháp Hành; Thân, Ngữ, Ý mà nó nằm ở trong cái Pháp Hành, trong Ngũ Uẩn Ma thì nhân ra được.

8 Bất Tri, trong 9 Pháp Hành Thân, Ngữ, Ý, nằm trong Phúc Hành, Phi Phúc Hành, trong Ngũ Uẩn Ma thì nhân ra được.

Phúc Hành có 5

Phi Phúc Hành có 5

Tối Thắng Hành có 5.

Mình ở trong một cái lưới. Một câu hỏi của một Phật tử về Tối Hành Ma, mà nó ra một cái lưới như vậy.

Trước một cái lưới đan chặc chẽ như vậy mà còn ma quái mù mịt mình không biết được, mình ưu tư, mình lo lắng sợ hãi thì mình đang sống trong bẫy sập của Phiền Não Ma, mình đang sống trong bẫy sập của Pháp Hành Ma tung lưới ra mình lọt vô trong đó, rồi mình chết đi sống lại trong Tử Thần Ma, rồi Thiên Ma đang sai khiến Tâm của mình làm mình mất đi cái hướng của mình. Không có để nó xảy ra như vậy, mình ở trong Pāramī (Ba La Mật) của mình, đừng để cho nó chi phối, đừng để cho nó tác động, đừng để cho nó dẫn dắt mình.

Như vậy thì mình nói cho ta cho người.

Ta                                        Người

Thân                                    Thân

Ngữ                                      Ngữ

Ý                                          Ý

2 loại này gọi là Sasaṅkhāra là hữu dẫn, hữu trợ. Cái này là Sasaṅkhāra thân, ngữ, ý ta, trợ dẫn ta, Sasaṅkhāra thân, ngữ, ý ta, trợ dẫn người. 

Tâm đó là Tâm gì ? Tâm thứ hai, thứ tư, thứ sáu, thứ 8 là những tâm Sasaṅkhāra, mà những cái Tâm trước đó là asaṅkhāra tức là không có hữu dẫn. Do đó, với 2 cái đó nó có pháp nghịch lại. Về Pháp thì mình sài Đại Thiện Tương Ưng Trí vô dẫn, vô trợ, chứ không sài trạng thái hữu trợ, trạng thái đó sẽ bị dễ Sasaṅkhāra

Sasaṅkhāra là hữu dẫn, hữu trợ

asaṅkhāra là không hữu dẫn, không hữu trợ

Trong đời sống hàng ngày của mình sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí Vô Trợ, chứ không để asaṅkhāra để bị chinh phục bởi saṅkhāra (Hành) ./.

 

------------------------------------

Vô Minh là bát bất tri (8 điều không biết): 

1) Bất tri khổ đế

2) Bất tri tập đế

3) Bất tri diệt đế

4) Bất tri đạo đế

5) Bất tri nhân đã qua (quá khứ)

6) Bất tri quả hiện tại

7) Bất tri nhân quả liên quan

8) Bất tri Liên Quan Tương Sinh.

----------------------------------------------------

[104] Ba thắng hành (Abhisaṅkhāra), pháp hành tạo tác, pháp làm nhân tạo quả dị thục:

1. Phúc hành (Puññābhisaṅkhāra), hành vi thiện tạo quả tốt làm thành thức tục sinh cõi vui hữu sắc. Ở đây chi pháp là Tư tâm sở tương ưng thiện dục giới và sắc giới.

2. Phi phúc hành (Apuññābhisaṅkhāra), hành vi bất thiện tạo quả xấu làm thành thức tục sinh cõi khổ. Ở đây chi pháp là Tư tâm sở tương ưng tâm bất thiện.

3. Bất động hành (Āneñjābhisaṅkhāra), hành vi thiện vi tế tạo quả thức tục sinh cõi vô sắc. Ở đây chi pháp là tư tâm sở tương ưng thiện vô sắc.

Ba loại hành này là nghiệp luân quá khứ hình thành do duyên vô minh, là chi Hành (Saṅkhāra) trong y tương sinh (Paṭiccasamuppāda).

----------------------------

Bát Kỉnh Pháp

1 Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giới Cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.

2- Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.

3- Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo được quyền cử tội Tỳ kheo ni.

4- Muốn thọ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo

5- Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa) trong thời gian nửa tháng.

6- Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầu dạy bảo.

7- Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.

8- Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi.

------------------------------------------------------

Năm thứ ma (Māra), sự phá hoại, sự đem lại bất hạnh, sự xấu xa:

1. Phiền não ma (Kilesamāra). Phiền não phá hoại thiện pháp và làm cho chúng sanh bị bất hạnh luân hồi nên gọi là ma.

2. Ngũ uẩn ma (Khandhamāra). Ngũ uẩn có thực tính đổi thay biến hoại, luôn là tính chất khổ đau, đem lại sự suy sụp, nên gọi là ma.

3. Pháp Hành (Abhisaṅkhāramāra). Nghiệp thiện ác tạo ra quả luân hồi, kết buộc vào vòng sanh tử khổ đau triền miên, nên gọi là ma.

4. Thiên tử ma (Devaputtamāra). Hạng thiên thần nhiều uy lực trong cõi trời dục giới nhưng có tính đố kỵ, hay quấy phá người tu tập hiền thiện, cản trở sự tu tiến của người tu hành, nên gọi là ma.

5. Tử thần ma (Maccumāra). Sự chết luôn cướp đoạt mạng sống và tạo nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho chúng sanh, nên gọi là ma.


Sunday, September 1, 2024

055 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 15 tháng 4, 2023

 055 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 15 tháng 4, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "055 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Tuệ Văn                                Tuệ Tư                        Tuệ Tu

1. Tứ Đại

2. 32 Thể Trược                    Thực Tính

3. 10 Bất Tịnh                        Thực Tướng

4. Hơi thở (Anàpànasati )

5. Biết mình

6. 4 Oai Nghi (Hành, Trụ, Tọa, Ngọa)

Mấy cái đó, thật ra chỉ là Tuệ Văn thôi.

Sư mở cửa thứ 2, là mình phải nói thực tính, thực tướng.

Nếu như người học mà nghe bài của Sư nói vừa rồi nghiệm lại, họ không tìm ra cách nào tu được, khẳng định như vậy. Khi Sư giảng xong rồi Sư đi về, còn các quí Phật tử đi về, Sư biết là một tuần lễ quí Phật tử mở ra đọc những  ghi lại lời Sư giảng rồi nghe lại video mà không ra được.

Tại vì mấy cô không thể nào tu trên Tứ Đại được, mấy cô không thể nào tu trên 32 Thể Trược được, cũng không thể nào tu trên 10 Bất Tịnh được, hay là tu trên hơi thở Anàpànasati vô và ra được, chỉ là kiến văn thôi, Dassanena thôi. Nhưng trong mỗi cái nó có Thực Tính. Rồi trong mỗi cái Thực Tính nó có Thực Tướng.

Bữa trước Sư có nói sắc thân này thực tính của nó là hoại diệt. Cái đó là Tư, mình phải tư duy: "Nếu đối tượng này mình phải có suy nghĩ đối tượng này thực tính của nó là cái gì ?" . Và Sư nói tuần tới Sư sẽ nói qua Thọ, nhưng mấy cô chưa rõ vấn đề Tuệ Văn, Tuệ Tư, Tuệ Tu mà Sư giảng qua Thọ qua Hành thì không được, do đó, mình đi từ từ.

Thì Thực Tính của Tứ Đại, 32 Thể Trược, 10 Bất Tịnh, Hơi thở chỉ là Hoại thôi, Thực Tính của nó chỉ là Hoại thôi. Còn Thực Tướng của nó, nhưng chỗ mà Sư nói nó chỉ có Khổ Đau mà thôi, còn Vô Thường và Vô Ngã là do mình tìm ra.

Mấy cô coi lại bài giảng của Sư tuần trước rồi nghiệm lại.

Hồi đó Sư học của Ngài Tịnh Sự là Tuệ Văn, Sư Tư duy liền và Sư Tu liền, và Sư hỏi.

Cái cửa ngõ Tuệ Tu là điểm mình cần. Nếu không có Tuệ Văn, Tuệ Tư, thì Tuệ Tu không tới được.

Tứ Đại là có 4: Đất, Nước, Lửa, Gió. Mình thấy rõ ràng trong sắc thân Tứ Đại này, Sắc Hữu Tri, Sắc Vô Tri. Con người mình là Sắc Tứ Đại Hữu Tri có sự hiểu biết. Cái bàn, cái ghế, cái tủ, cái giường là Sắc Tứ Đại Vô Tri. 

Con người là Sắc Tứ Đại Hữu Tri có sự hiểu biết, nhưng sự hiểu biết của mình dựa trên Kiến Văn, hay trong Tư Duy, hay trong Tu Tập mình biết. Do đó, các vị Thiền Sư dạy các vị Thiền Sinh trong những khóa tu retreat, các Ngài nói trải nghiệm và chứng tri chứ không phải trên kiến văn hay trên tư duy, nếu như không qua trải nghiệm thì mình đứng trong trạng thái là một thụ giác, sẽ bị sai lầm, thấy sai hiểu lầm.

Thành ra Tuệ Tu là do sự trải nghiệm chứ không phải trong kiến văn mình có.

Khi trải nghiệm đó là quá trình tu của người hành giả mới có kết quả chứ không phải suông mà mình có được, có gieo trồng mới có gặt hái. nên Tuệ Tu của mình phải nói đời trước mình có Pāramī (Ba La Mật) thì mình mới có trải nghiệm Thực Tính của Tứ Đại, 32 Thể Trược, 10 Bất Tịnh, sự Hô Hấp (hơi thở) này mình mới lãnh hội từng mỗi giai đoạn mình hành Pāramī thì những giai đoạn đó có để lại trải nghiệm. Trải nghiệm đó trong tu tập này nó cho mình là một sự ứng hợp, nó sẽ là hữu dụng, chứ không phải trên trạng thái mình niệm Tứ Đại thấy được Thực Tính để Tu mà ra, không có được, mà phải trải nghiệm qua sự tu tập của mình.

Thì trải nghiệm đó sẽ đưa đến Thực Chứng. Hai cái Thực Tính và Thực Tướng sẽ đưa đến Thực Chứng qua trải nghiệm. Phải qua trải nghiệm đó mới được, chứ không có nói suông.

Đó là bài toán mình phải giải quyết nó, nó có phép tính (operation) và phép giải (resolution) hai cái đó mình phải phối hợp thì mới ra được. 

Đề tài Thân Niệm Xứ mình thấy Tuệ Văn, Tuệ Tư, Tuệ Tu. Trong thực tế mình tu mình có cọ vô Tứ Đại, trong thực tế mình tu mình có cọ vô 32 Thể Trược, trong thực tế mình tu mình có cọ vô 10 cái Bất Tịnh, trong thực tế mình tu mình có cọ vô Hơi Thở không ? Mình phải coi.

Những cái biết mình 6 pháp (Tứ Đại, 32 Thể Trược, 10 Bất Tịnh, Hơi thở, Biết Minh, 4 Oai Nghi)  mình bắt đầu nói trong cái Tu, trong thực tế.

Giờ Sư hỏi quí Phật tử trong khi đang hành thiền; 4 oai nghi; đi, đứng, ngồi, nằm (hành, trụ, tọa, ngọa), nó có cọ vô tứ oai nghi của mình không ?

Trong mỗi cái như vậy, trong 4 oai nghi Hành, Trụ, Tọa, Ngọa này, thì khi mình tách nó ra  Hành / Trụ / Tọa / Ngọa, thì cái Tu của mình có trải nghiệm phần nào trong 4 oai nghi này trong phần nào trong cái Biết Mình, trong phần nào trong Hơi Thở, trong phần nào trong Tứ Đại, trong 32 Thể Trược, trong  10 Bất Tịnh.

Có 2 trường hợp xảy ra:

1) Đời sống thường nhật

2) Trong khóa tu

Mình có Văn rồi, bây giờ tới Tu, mình ghi xuống:

1. Trong đời sống hành ngày mình có Tu về Tứ Đại Không ? Mình  có, trong đời sống hàng ngày mình có để ý tới Tứ Đại. thì ghi số 1

Sư gợi ý thêm, trong đời sống hàng ngày khi mình ngủ thức dậy tới tối mình trở về giường nằm ngủ, đi đứng nằm ngồi trong suốt 4 oai nghi đó, một ngày mình thấy có sự xáo trộn nó có sự bất hòa nó có trạng thái không ổn định, đó là mình coi Tứ Đại đang xáo trộn.

Trong đời sống hàng ngày mình không có để ý thì coi như bỏ, thì vô khóa tu mình mới làm lại, bắt đầu vô tu mình mới làm lại, thì thời gian mà trải nghiệm không có, nó phải có một chuỗi dài nối tiếp nhau liên tục chứ không gián đoạn, nếu gián đoạn thì kiết sử của mình sẽ xen kẽ vào.

1. Tứ đại này có mỗi ngày nếu như mình có Tu là có sửa thì mình mới thấy, mình có tu tập mình có sửa đổi hay có chú ý tới thì mình mới thấy được, còn không thì cái "Tôi, Ta" mình hiện lên.

2. Thể Trược, hàng ngày trong đời sống mình có để ý tới nó không ? 32 thể trược, thí dụ như, uống trà vô thấy khỏe liền, ăn oatmeal sẽ nhuận trường. Đó là 32 thể trược của mình mà mình trôi lăn, mình không để ý tới, nhưng thật ra đó là Pháp, không cần phải đi xa. 32 thể trược không phải mình đi tìm ra mà tim, mật gan, phổi, phèo, nước dãi, mồ hôi, cái đó thuộc về 32 thể trược, nhưng mình không có Tu trong hàng ngày thì mình vô trong khóa tu thì mình làm lại từ đầu, coi như làm mới lại, còn nếu đều đều lúc nào cũng có Niệm và Tỉnh Giác từ Văn, Tư, Tu trong cái suy tư cái thấy cái biết phối hợp 2 cái Niệm và Tỉnh Giác.

Cái Tư là phối hợp với Văn với Tu thành một khối thì lúc bấy giờ mình có cái trải nghiệm. Còn nếu không phối hợp 3 cái, Tư không phối hợp với Văn với Tu, mình không có trải nghiệm thì tất cả những cái đó đểu là con số không trong trải nghiệm của mình.

3. 10 Bất tịnh, mình có bất tịnh không ? 

Mình không có tư duy về cái biết của mình để mình tu để mình thực chứng mình trải nghiệm, mình chỉ phớt qua, thành ra cuộc đời của quí Phật tử ngày qua ngày mất hết, không có kết quả, cái đó gọi là Pāramī (Ba La Mật) . Pāramī (Ba La Mật) là làm cái gì cho hoàn thiện, cái Tu của mình phải hoàn thiện, cái Tư của mình phải hoàn thiện, cái Văn phải hoàn thiện, chứ không phải nói suông. Pāramī (Ba La Mật)  là cái hoàn thiện thì Văn mình phải hoàn thiện, Tư mình phải hoàn thiện, Tu mình phải hoàn thiện thì mình mới có hữu ích hữu lợi hữu dụng nữa, chứ còn suông thì không có kết quả, mình cứ nghe mới lại hoài, rồi mình thấy mình phải tu tập lại.

4. Hơi Thở. Hơi thở đến với mình từng mỗi phút giây, nhưng mà nó gãy, không có hơi thở coi như chết. Đức Phật Ngài nói thế nào là chết ?. Người ta nói chết là bỏ xác thân này, chết là hết tuổi thọ. Nhưng Đức Phật nói: Hơi thở vô, hơi thở ra, đó là hiện tượng chết đến. Nhưng mà mình đâu có bao giờ để ý tới nó.

Thế thì cái tư duy của mình không nằm ở trong sự tu tập của mình, mình để tư duy của mình phóng túng, mình chạy theo nó, mình nghĩ đến chuyện người ta, nghĩ đến chuyện người này chuyện người kia, mình không thấy cái tu tập của mình, cái thời gian đó mình bỏ mất hết, và từ đó nó tạo cho mình có một cái khuôn khổ dắt mình đi, tư duy không bỏ trống, mà cái này mình bỏ trống.

Do đó, cái Tư phải kết hợp với cái Văn và cái Tu nó mới có cái trải nghiệm.

5. Biết mình. Có khi nào quí Phật tử hỏi: "Sáng này tôi đã ăn chưa ? 

Thì trạng thái không biết mình. 

Cái câu Sư thường hay nói "Ai cấm mình quên", chuyện quên là tập khí của mình.

Trong 4 oai nghi. Có tư duy trong 4 oai nghi; đi, đứng, nằm, ngồi mình có tư duy không ? 

Bốn oai nghi đó, nó với ta từ sáng thức dậy, từ trên giường bước xuống cho đến tối trở về giường nằm xuống thì 4 oai nghi này thay đổi liên tục, đi, đứng, nằm, ngồi, mình có tư duy về nó không ?

Mình té (ngã)  - về thời gian; dài, ngắn, nhanh, chậm.

Lúc đó Pháp hiện bày ra sao, và cái Tu của mình sẽ phối hợp với trạng thái té đó trong cái Niệm mình có trải nghiệm không hay thời gian quá ngắn quá nhanh và mình không kịp, và những cái đó mình bị vuột mất thì sao. Nhanh hay chậm cũng vậy, quá nhanh, như mình đang đi người ta xô mình té liền là quá nhanh. Thì thời gian mình sẽ tìm ra được. Khi Sư hỏi té như thế nào, thì mình tìm ra được thời gian.

Té (ngã) có trải nghiệm - chưa từng có - đã từng có.

Những trải nghiệm đó là mình có trải qua rồi mình có kinh nghiệm, và trạng thái đó mình có nhận thức và không nhận thức.

Thì ngay khi Pháp đến. Cái té này nó nằm trong loại nào của 6 Pháp về thân ? 1) Tứ Đại, 2) 32 Thể Trược,  3) 10 Bất Tịnh , 4) Hơi thở, 5) Biết mình, 6.) 4 Oai Nghi (Hành, Trụ, Tọa, Ngọa).

Thiền sinh: Thưa Sư, con đi xe đạp xuống dốc, một tay cầm cellphone để quay phim, còn một tay cầm tay lái, con thấy xe đang xuống dốc là nhanh lắm, con biết, tay kia đang cầm cellphone thì con bỏ vô cái giỏ ở phía trước, con vừa bỏ được cellphone vào giỏ thì con thấy xe xuống dốc quá nhanh mà con gần đụng vào xe của chị ở phía trước, con bóp thắng lại, khi con biết xe chạy nhanh thì con phải giảm nên con bóp thắng từ từ, nhưng con thấy bay lên trên, lúc đó con thấy tứ đại rồi, tại vì con có cái tỉnh giác trong đó thì con biết là con đang té. Nhưng khi thân con rớt xuống đất là con thấy con nằm dưới đất rồi. Bây giờ con kể lại nó là một tiến trình trải nghiệm.

HT trả lời:

Trường hợp một Pháp đang hiện bày, mình đang nói về  té này thuộc về Thân, trong khi đó mình có Tư Duy, mình có Văn biết sự việc xảy ra, nhưng cái Tu của mình không có, mình cho nó chạy theo, mình không có một cái lãnh hội, nếu mình có lãnh hội thì mình khác rồi.

Cái trải nghiệm khi té là trải nghiệm ngay hiện tại hay là sau đó ?

Sư chỉ nói cái thường nhật trong đời sống hàng ngày mà mình đang bị té chưa nói đến khóa tu, khóa tu là mình cắt hết những sự hệ lụy của nó.

Cái trải nghiệm của cô ngay hiện tại mà cô có cái tu, khi té rồi nằm dưới đất là sau đó 

Cái trải nghiệm có 3, trải nghiệm ngay hiện tại hay là trải nghiệm sau đó, hay là trải nghiệm hiện tại sau đó cái trải nghiệm đưa tới sau đó mình có trải nghiệm.

Cái thực chứng của Tuệ Tu là nó đứng ngoài kiết sử mà nó chỉ có Pāramī (Ba La Mật)  là một chuỗi dài đã tu tập làm nền tảng rồi thì mới có thực chứng này với Pháp chứ không có kiết sử xen vô được. Chứ không thì lúc bấy giờ cái Tu không có Pāramī (Ba La Mật)  mình đang đối diện với cái Pháp thực tế xảy ra.

Khi cô niệm được thấy bay lên rồi rớt xuống. Nhưng khi bay lên mình hành xả tuệ Balamat thì ra cái tu.

Khi phân tách ra vị Thiền Sư nghe và nói "anh có Niệm nhưng không có Pāramī (Ba La Mật) , anh niệm cái thực tính của anh nhưng chưa có Pāramī (Ba La Mật) ".

Khi muốn lên cái tu này là mình đi liền với Hành Xả Balamat. Cô đọc lại Hành Xả Balamat nó vượt qua khỏi Từ Ái, mà Từ Ái dính vô 3 cái ái là từ ái nam nữ, luyến ái mẹ con, từ ái với Pháp - 3 cái này là Tập Đế, 3 cái ái này vượt qua rồi mới tới Hành Xả - Diệt Đế - giai đoạn này là mình đang tu chứ không có Niệm.

Từ Ái                                 Hành xả

Tình Ái

Luyến Ái                            Xả

Từ Ái

--------------                       ---------------

Tập Đế                              Diệt Đế

Trong đời sống thường nhật mình đã thiếu Tuệ Tu.

Do đó, trong cái thường nhật mà không có một chuỗi nối tiếp liên tục thì trong khóa tu này quí Phật tử làm lại từ đầu. Có khi mình không đủ Văn, Tư, Tu, thì từ đầu của khóa tu không có kết quả gì hết, mất thời gian.

Do đó, khi xảy ra mình không có Balamat, mình có Văn, Tư của mình hay  kiết sử của mình, tại vì trong hàng ngày mình không có Văn 

Đứng vào thực tế là mình có Văn, có Tư, nhưng không có Tu, đụng chuyện là biết liền. Nhà Sư cũng vậy, người tu hành cũng vậy, đụng chuyện cũng la, cũng không chịu nổi.

 Do đó, khi Đức Phật Ngài bị ông Đề-bà-đạt-đa, Sư đang viết tới phần ghi  ông Bà-la-môn té xuống khe hở của hang núi được khỉ chúa cứu lên rồi ông Bà-la-môn lấy cục đá đập vô đầu khỉ chúa, thì Đức Phật nói: không phải bữa nay Đề-bà-đạt-đa lăn đá làm chảy máu chân Như Lai đâu, ngày xưa ông cũng lấy đá đập đầu Như Lai. Ông còn nói ông không biết đường ra khỏi rừng, rồi nhờ máu của khỉ chúa nhỏ xuống để dẫn đường ông đi ra. Vậy thì lúc đó cái Tu của Ngài là Tu Balamat, chứ không thể nào Ngài Tu cái Tư, Văn của Ngài được.

Bây giờ mình nói người ta đập đầu mình hay làm mình bị đau bị thương . Mình không bằng Balamat của Ngài. Mình phải nhìn vô cái tu của mình. Nói chứ mình chỉ Tu không thực tế, mình có Văn, có Tư, nói tới đâu mình trả lời được hết, nói tới đâu mình cũng biết hết, nhưng vào thực chứng thực tế hay thực hành mình không có.

Như vậy khi mình bung lên mình có cái Niệm, mình biết làm với cái Văn này, mình có cái Tư về cái bung lên này, té xuống mình có cái Niệm có cái Tư này, nhưng cái Tu mình không có áp dụng được, mình chỉ theo nó thôi, mình niệm theo nó thôi và mình biết thôi, rồi mình xác định là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.

 Pāramī (Ba La Mật)  mới ra thực tướng này.

Do đó, khi vô trong cái Tư rồi là bắt đầu cửa ngõ tới là chỉ có Pāramī (Ba La Mật)  thôi chứ không còn cửa ngõ nào khác thì mình mới Tu được, còn nếu tới Tuệ Tư mà mình không có chuẩn bị thì Tu không có kết quả.

Như vậy, ngay cái Tư này mình quán 4 oai nghi và mình Tu, 3 bước, cái Văn là Pháp, Tư Duy là Chánh Tư Duy là ly tham, ly sân, ly oán hận Pāramī (Ba La Mật) mới ra được.

Cái Tư Duy của mình, nếu mình nhìn đây là Pháp thì mình mới ly tham, ly sân, ly oán hận được, nếu mình nhìn không có Pháp mà với kiết sử của mình thì ở đây mình không có Tư Duy mình không có Pāramī (Ba La Mật) được.  Tư duy của mình là gì, lúc đó mình không có tham, không có sân, không có oán hận. Có 3 bước vậy đó, mình chuẩn bị sẵn sàng thì mình tiếp tục mình đi.

Nếu như được cái đó thì tiến trình Thuận Tùng, Cận Hành, Chuyển Tộc mình mới suôi theo mới được chứ không thì bị khựng. Cái hành xả mà mình không qua được thì mình bị khựng ở chỗ đó.

Như vậy, khi cô bay lên thì cô niệm trạng thái bay lên hay lúc đó cô niệm cái Pháp đang có. Với trạng thái đi lên của mình rồi bị rớt xuống mình có nhận xét cái đó với trạng thái cái tu của mình hay là theo trạng thái mình đang thấy.

Vậy thì khi với trạng thái hành xả thì người ta hành hành xả Balamat hay là lúc đó cô đang Pāramī (Ba La Mật) nào.

Khi đang rớt xuống là cô đang đi Pāramī (Ba La Mật), đây là cơ hội để mình Tu, không còn Văn, Tư nữa, mình phải Tu, mình bỏ kiết sử liền, mình sống trong Pháp liền, lúc đó mình đi Pāramī (Ba La Mật) nào.

Lúc bấy giờ cái thuần thục của mình nó mới bộc ra, nếu mà mấy cô không có.

Thí dụ:  Khi mình bị té (ngã), thì:

Té (ngã)  - thời gian, dài, ngắn, nhanh, chậm

Té (ngã)   - có trải nghiệm - chưa từng có - đã từng có.

Thời gian rất là quan trọng, và cái trải nghiệm rất là trọng yếu. 

Nếu quí Phật không có trải nghiệm không xử lý kịp, người hay người giỏi gì cũng vậy. Phải cẩn thận, nên cái Tu nó không đòi hỏi mình là trạng thái biết qua Văn, Tư, Tu, nó đòi hỏi mình phải thực chứng trong liên tục không được gián đoạn, cái Tu này không được gián đoạn, nếu quí Phật tử gián đoạn là hỏng, là không có kết quả, đừng có mong là thực chứng có kết quả đâu. Đến thứ Bảy mình mới học, còn 6 ngày kia mình không có Tu là không liên tục. Đến thứ Bảy mình vừa ôn, vừa học và áp dụng, rồi tuần tới mình lại ôn, rồi áp dụng thì mới được.

Do đó, mình kiểm lại, mình ôn lại, mình nhắc nhau lại, thực ra mình có nhiều kẽ hở lắm.

 Như vậy, ở trong góc độ Tuệ Tư này là mình phải có Văn với Tư và mình phải có Tu,  Tư, Văn của Tư là 3 Pháp, và Tu của Tư là Hành 3 Pháp này thì mình mới có Tuệ Tư mới có Tuệ Tu. 

Văn của Tuệ Tư là 3 Pháp ly tham, ly sân, ly oán hận.

Và mình hành 3 Pháp ly tham, ly sân, ly oán hận này mình mới có Tuệ Tu với Pāramī (Ba La Mật).

Như vậy, khi Pāramī (Ba La Mật), mình nó hiện bày ra với 3 Pháp của Tuệ Tư (ly tham, ly sân, ly oán hận) này chứ không có tư kiến của mình mới được.

Như vậy, đứng trước Pháp của Tuệ Tư, chứ không phải đứng trước Pháp của Tuệ Văn.

Tứ Đại là một Pháp, 32 Thể Trược là một Pháp, 10 Bất Tịnh là một Pháp, Hơi thở (Anàpànasati ) là một Pháp, Biết mình là một Pháp, 4 Oai Nghi (Hành, Trụ, Tọa, Ngọa) là một Pháp. Thì lúc bấy giờ nhìn Pháp mình có Tuệ Tư. Và nhờ có Tuệ Tư thành Pāramī (Ba La Mật). chứ không có dính mắc trong này

Bài tuần vừa rồi khi Sư trình bày một chút, bữa nay Sư bắt đầu đi vô tập cho các quí Phật tử nghe để biết là thế nào là Tuệ Văn, thế nào là Tuệ Tư, thế nào là Tuệ Tu và áp dụng trong mỗi một Pháp mình có cái đó ngay cả 37 Phẩm Trợ Đạo mình cũng phải có 3 Tuệ Văn, Tuệ Tư, Tuệ Tu trong đó.

Khi quí Phật tử đứng ở góc độ Pháp của Tuệ Tư trước mỗi một cái Pháp đến thì phải cần có tư duy, mà tư duy này phải có kiến văn để tư duy cho đúng và mình hành cho đúng với cái Pháp mà mình tư duy, chứ còn không mình có tư kiến cái tôi cái ta của mình tôi đúng anh sai.

Thân xả thí mình có Văn, Tư, Tu. Cái thân mình hành xả thí, thế nào là thí Văn, thế nào là thí Tư, thế nào là thí Tu.

Từ mỗi Pháp mình làm thì sẽ có trải nghiệm của nó.

Thí , Tuệ Văn 

Có 2 loại là: 

- Hữu lậu - hiệp thế

- Vô lậu - siêu thế 

Thí hữu lậu là thí thiện, là thí hiệp thế, còn đi luân hồi 3 giới 6 đạo (3 cõi 6 đường)

Thí vô lậu là thí toàn thiện, là siêu thế, vô vi Níp-bàn.

Thí Tài. Thí Pháp. Trong 2 cái này kết hợp vô là Vô Úy Thí. Thí tài vô úy. Thí Pháp vô úy. Những cái này gọi là Thí.

Thí Tài là thí vật chất. Trong thí tài có:

 - Thiện, có Hữu Lậu, có Hiệp Thế

 - Toàn Thiện,  có Vô Lậu,  có Siêu Thế

Thí Pháp là thí tri kiến. Trong thí Pháp có:

- Thiện, có Hữu Lậu, có Hiệp Thế.

- Toàn Thiện, có Vô Lậu, có Siêu Thế.

Do đó, những cái này 

Áp dụng trong việc xả thí này, quí Phật tử làm Thân Niệm Xứ như sau:

Xả Thí --> Thân Niệm Xứ: Thí Tài:  - Thiện, có Hữu Lậu, có Hiệp Thế

                                                       - Toàn Thiện,  có Vô Lậu,  có Siêu Thế

Khi quí Phật tử xả thí cái thân này niệm xứ là quí Phật tử đang tài thí, buông vật chất này ra thì quí Phật tử có tứ đại, có 32 thể trược, có 10 bất tịnh, Hơi thở (Anàpànasati ), có trạng thái Biết mình, có 4 Oai Nghi (Hành, Trụ, Tọa, Ngọa). Là đang Thân Niệm Xứ trong cái Thí. Làm thường nhật mỗi ngày.

Rồi trong cái đó lúc đang xả thí ra mà quí Phật tử có Thân Niệm Xứ là đang có Khóa Tu.

Trong cái Thí dù là Thí Tài hay là Thí Pháp quí Phật tử có Thân Niệm Xứ. Rồi trong đó có Văn, Tư, Tu

 Cái hành động xả thí là đang làm Thân Niệm Xứ. Trong Thân Niệm Xứ có 6 Pháp và có áp dụng trong đó, cái niệm của mình đang xả thí trong trạng thái có Tứ Đại, có 32 thể trược, có 10 bất tịnh, Hơi thở (Anàpànasati ), có trạng thái Biết mình, có 4 Oai Nghi (Hành, Trụ, Tọa, Ngọa). Thì lúc bấy giờ có Văn, Tư, Tu.

Trong khi đó nếu đang Thí Tài, đi Hữu Lậu là đi Hiệp Thế, đi Vô Lậu là đi Siêu Thế.

Toàn thiện là Pāramī (Ba La Mật)

Hữu Lậu 8 thiện 

Hiệp thế - Nhân / Thiên / Phạm Thiên

Siêu Thế - Rỗng không / Vô nguyện / Vô Tướng.

Cái Tu cũng là một Pháp để mình hành 

Thí cũng là một Pháp để mình hành.

Như vậy thì, khi mình té mà mình ở trong trạng thái hữu lậu, hiệp thế, hay là vô lậu, siêu thế, mình tu sẽ ra trải nghiệm.

Những cái đó khi mình ráp lại mà mình hiểu được Pháp mình nhìn toàn diện được thì Pháp đó là con đường mà mình Văn, Tư, Tu.

Thí dụ xả thí. Quí Phật tử đang xả thí, qúi Phật tử  đang làm cái gì ? Thân Niệm Xứ.

Quí Phật tử đang xả thí với Tâm Niệm Xứ, xả thí với Pháp Niệm Xứ, xả thí với trạng thái Thọ Niệm Xứ.

Té với Pháp Thân Niệm Xứ.

Té với Pháp Thọ Niệm Xứ.

Té với Pháp Tâm Niệm Xứ.

Té với Pháp Pháp Niệm Xứ.

Những cái Thí hay cái Té hay cái Pháp mình đang sống Hữu Lậu, Vô Lậu, Hiệp Thế, Siêu Thế, đi trong đó.

Như vậy thì trong Thân Niệm Xứ này, cũng như trong phần Thân Niệm Xứ Xả Thí từ mỗi một Pháp về cái thân quí Phật tử có Niệm có Tỉnh Giác thì Văn, Tư, Tu, sẽ dắt đi theo cái đó.

Thân Niệm Xứ (trong việc Xả Thí) bất cứ Pháp nào đến đều có Văn, Tư, Tu, quí Phật tử làm Thập Ba La Mật, làm Thập Thiện, Thập Phúc Hành Tông phải có Văn, Tư, Tu trong thân thì đang kết nối với sự tu tập.

 Cũng như quí Phật tử tách ra, khi làm Thập Thiện, Thập Phúc Hành Tông, Thập Ba la mật không liên quan gì đến Tứ Niệm Xứ này thì tách ra.

 Còn bây giờ kết hợp vô Thập Phúc Hành Tông, Thập Thiện, Thập Ba la mật kết hợp với Thập Phúc Hành Tông với Thân Niệm Xứ thì sẽ ra.

để hình 055 - 1.26.23



Trong Thập Phúc Hành Tông:

1. Thí

2. Giới

3. Tu tập

4. Cung Kỉnh

5. Phụng Hành

6. Thính Pháp

7. Thuyết Pháp

8. Tùy Hỉ

9. Hồi Hướng

10. Chân Tri Chước Kiến.

Mỗi một cái trong Thập Phúc Hành Tông đều áp dụng Tứ Niệm Xứ. Và mỗi một cái áp dụng Tứ Niệm Xứ này với Pháp Thập Toàn Thiện tùy mình: 

1. Thí

2. Giới 

3. Ly Dục

4. Trí Tuệ

5. Tinh Tấn

6. Nhẫn Nại

7. Chân Thật

8. Chú Nguyện

9. Từ Ái

10. Hành Xả

Vậy thì khi Xả Thí mình có Tứ Niệm Xứ và đang hành Ba La Mật 

Khi thọ giới mình có Tứ Niệm Xứ và hành Ba la mật.

Mình đang Tu Tập, mình có Tứ Niệm Xứ và mình đang hành Ba la mật

Như vậy thì:

 - Thập Phúc Hành Tông là Văn,

- Tứ Niệm Xứ là Tư, 

- Thập Toàn Thiện là Tu

Và không bỏ qua một cái nào khác, và không có đánh mất một cơ hội nào hết, cái nào mình cũng có hành, và có thực tập có tu tập hết mới được.

Do đó, một cái Thí thôi mà quí Phật tử đang thí tài hay đang thí Pháp tất cả quí Phật tử không có Tứ Niệm Xứ. Như vậy Tứ Niệm Xứ không phải là trạng thái chỉ có trong khóa tu thôi mà có trong đời sống hàng ngày của mình. Đức Phật Ngài tới xứ Kuru, người dân xứ Kuru sống hàng ngày trong Tứ Niệm Xứ chứ không phải trong khóa tu nên Ngài mới nói bài Pháp satipaṭṭhāna - kinh Niệm Xứ, mà Ngài không nói người ở thành phố Kapilavatthu, và không nói với người ở thành phố Vesali, Ngài nói với người dân ở xứ Kuru bài Pháp satipaṭṭhāna, tại vì người dân xứ Kuru sống hàng ngày với Tứ Niệm Xứ. Và khi Ngài nói Tứ Niệm Xứ thì người xứ Kuru đã sống với Thập Phúc Hành Tông và họ đã sống trong Balamat thường xuyên và bài Tứ Niệm Xứ này áp dụng được ngay lúc đó.

Thiền sinh: bây giờ lấy thí dụ của Xả Thí thì mình làm có Tư Tiền, Tư Hiện và Tư Hậu. Thì trong Tư Tiền mình làm trong Thập Phúc Hành Tông. Thì trong thời Tư Hiện mình làm mình biết là mình có vật xả thí và mình có tác ý xả thí, khi mình bước qua Tư Hiện thì Tư Hiện đó mình biết là mình làm với tâm tịnh tín của mình thì tâm đó là Tứ Niệm Xứ là về Tâm Niệm Xứ, lúc mình làm như vậy là có Thân Niệm Xứ và Tâm Niệm Xứ. Thì khi đó Pháp Niệm Xứ nó cũng xảy ra trong cái thời 

HT trả lời: Tư Tiền, Tư Hiện, Tư Hậu chỉ là thời thôi. Tư Tiền - Trước hoan hỉ, Tư Hiện - Hiện tịnh tín. Tư Hậu - Sau hoan hỉ. Cái đó là về thời. Tam Tư 3 thời.

Còn mình nói về Hành Pháp là Ly Tham, Ly Sân, Ly Oán Hận. Áp dụng vào Tứ Niệm Xứ. Và Sư đang nói về Thân Niệm Xứ chưa qua tới Thọ Niệm Xứ.

Như vậy, khi làm Thập Phúc Hành Tông. Sư không nói về Bất Thiện. Mình qui ước với nhau là mình tu mình không nhìn về Bất Thiện và không nhìn người, mình chỉ nhìn Pháp thôi, và mình chỉ muốn làm Thiện thôi, và mình lo tu cái Thiện thôi.

Vậy thì khi nói tới Tam Tư mà về Thời thì tùy Hiện, Hậu.

 Khi nói tới Tam Tư mà về Hành Pháp thì Ly Tham, Ly Sân, Ly Oán Hận. Đó là Chánh Tư Duy.

Đối tượng của Tư là Hữu Lậu, Vô Lậu, Hiệp Thế, Siêu Thế.

Bây giờ ngó qua phần Thập Phúc Hành Tông, mình nói về xả thí, thì có người xả thí, có người thọ thí. Mình là người xả thí hay là người thọ thí ?

Tài Thí là cho về vật chất, là cho sự an vui đầy đủ cho họ, họ thiếu về vật chất mình cho họ được đầy đủ là Tài Thí.

Pháp Thí là cho về tinh thần. Cho một lời khuyên là Pháp Thí. Nếu tinh thần của họ thiếu thốn thì cho Pháp Thí.

Như vậy thì, mình nói cái đó thì Sư hỏi trong cái xả thí đó, nói về Pháp thôi, mình là xả thí nhân hay là thọ thí nhân ?

Chính cái đó, cái tu của mình phải cho chính xác, còn không thì không ra chuyện gì hết.

Đức Phật Ngài đi tới ông Bà la môn đang phát vật thực cho mấy ông tá điền những người làm ruộng cho ông Bà la môn, khi Đức Phật đi tới ông nói với Đức Phật đi cày ruộng đi thì có vật thực.

 Đức Phật nói: Ta đã cày rồi, giờ ta chỉ gặt hái thôi.

Như vậy là ngày xưa Đức Phật đã xả thí rồi bây giờ Ngài là người thọ thí.

Vậy thì Ngài đứng trong 2 vế Xả Thí và Thọ Thí, Ngài ở trong vị trí nào ?

Làm sao quí Phật tử thọ được mà hưởng được nếu gieo trồng chứ không tư duy đúng thì không có kết quả.

Khi xả thí này, người ta hỏi quí Phật tử là người xả thí hay là người thọ thí ? Thì mình phải hỏi: Khi tôi xả thí này, tôi là xả thí nhân là loại nào, tôi là thọ thí nhân loại nào. Thì mình mới ra, nếu không thì không có kết quả.

Như vậy thì, người ta hỏi xả thí nhân là người đang xả thí ra, thọ thí nhân là người đang thọ vô.

Tôi đang hành Balamat và tôi sẽ thọ Balamat, thì mình có được cả hai.

Còn xả thí tài, xả thí pháp mà hành thiện thì mình có trạng thái xả và mình có thọ quả của cái đó.

Do đó, hai cái Xả Thí và Thọ Thí phải phân biệt, Xả Thí có nhân, Thọ Thí có quả.

Vậy thì, có xả thí ra là đồng nghĩa đồng sinh là đang có thọ một cái Pháp.

Quí Phật tử là thọ thí nhân, quí Phật tử thọ quả ---> Tứ Niệm Xứ --> Thân Thí, Thọ Niệm, Tâm Ý, Pháp chứng.

Tứ Niệm Xứ:

Thân có Thí, Thọ có Niệm. Tâm có Biết. Pháp thực chứng. Không có tách ra thì quí Phật tử mới ra được.

 Thọ Niệm mình chưa học tới, khi nào tới phần Thọ mình sẽ thấy.

Quí Phật tử đang Thân Niệm Xứ về xả thí thì có Thọ Niệm Xứ về cái thọ pháp này.

Xả là tác nhân, người Thọ là nhận kết quả. Nếu người Thọ này mà quá khứ họ không có gieo thì bây giờ họ không đón nhận cái thọ này. Nên Đức Phật Ngài nói: "Như Lai đã gieo rồi giờ Như Lai thọ" là khi Ngài thân thí rồi và bây giờ Ngài thọ quả.

Đó là Tỉnh Giác của Niệm còn nếu không mình không biết, mình cứ đi tìm hoài.

Bây giờ nói đến Hơi Thở.

Thân Niệm Xứ 

Thọ Niệm Xứ 

Mình đi Hơi Thở thì mình có Thân Niệm Xứ không hay là tách rời nó ra ? 

Khi hít vô là Thân Niệm Xứ, có Thọ không ? Là đi suốt Thân Niệm Xứ ?

Còn nếu đi Thân Niệm Xứ, hít vô Niệm rồi thở ra thì không có Niệm có Thọ, mình đang đi theo cái hơi thở.

Khi hít vô là:

-  Thân Niệm Xứ (Hít), 

- và có Thọ Niệm Xứ (Thọ), 

- có Tâm Niệm Xứ (Biết)

- có Pháp Niệm Xứ (Chứng)

Cái thân này, mình hít vô một cái là có thọ, tâm biết và có pháp hiện bày (chứng). Nếu không thì làm lại từ hơi thở.

Mình ngắt cái Thọ, ngắt cái Tâm, chỉ còn Thân Niệm Xứ: Vô, Ra, Phồng, Xẹp, rồi mình thấy Pháp phiền não, đó là không đi Tứ Niệm Xứ.

Đức Phật Ngài nói: Như Lai đã gieo trồng rồi giờ Như Lai thọ, thì Ngài đi luôn không ngừng, còn mình thì ngừng, mình đợi kiếp sau mình mới thọ kiếp này mình gieo thôi.

Một Pháp thôi, một hơi thở vô thôi. Thân làm, Thọ biết, Tâm Biết, Pháp chứng, có liền, thì có Phala, không có Vipāka

Thí dụ: Một Hơi thở vô: 

- Thân, Hít hơi thở vô mình có Niệm, có Tỉnh Giác

- Thọ, Khổ Lạc, mình có Niệm, có Tỉnh Giác

- Tâm,  Đổng Lực, mình có Niệm và có Tỉnh Giác

- Pháp, Thất Giác Chi, Bát Thánh Đạo / Ngũ Triền Cái,Ngũ Thủ Uẩn

Chỉ một hơi thở thôi trong cái đó.

Để hình 055 - 1.57.15



Niệm ---> Văn ---> Tư (Tỉnh Giác)---> Tu

Để hình 055 - 1.59.03



Khi hít vô Tuệ Văn lên mình biết đây là Thân Niệm Xứ. Kiến Văn mình có khi hít vô mình biết đây là Thân Niệm Xứ. Tư Duy của mình là Hành Pháp. Tu của mình là Balamat.

- Một hơi thở qua Thọ mình có Văn Tư Tu  qua phần Hành Pháp. 

- Qua phần Tâm Văn Tư Tu. 

- Qua phần Pháp Văn Tư Tu. 

Hit hơi thở vô ta có:

- Tuệ Văn về Thân Niệm Xứ 

- Tuệ Tư khởi sinh nhận thức,(trạng thái đây là Pháp Niệm Xứ), bắt đầu phát sinh ly tham / ly sân / ly oán hận.

- Tuệ Tu nối tiếp theo Hành Xả Balamat, chứng tri Pháp Giác Chi, Pháp Chánh Đạo.

Hit vô ta có Tuệ Văn, Tuệ Tu khởi sinh lên nhận thức được, nó chỉ là Pháp thôi. Qua Tuệ Tu nối tiếp theo mình Hành Xả Balamat, hay là Trí Tuệ Balamat. Mình thấy được Pháp Giác Chi hay mình thấy được Pháp Chánh Đạo. Chứ không đi qua con đường Ngũ Triền Cái và Ngủ Thủ Uẩn.

Trong đời sống hàng ngày mình không tu về các Pháp Thiện để ngăn ngừa đừng sinh Pháp Bất Thiện, thì trong khi niệm Tỉnh Giác quí Phật tử khó lọc được Ngũ Triền Cái và Ngũ Thủ Uẩn. Nếu trong Pháp Thiện thôi, đừng nghĩ tới Pháp Bất Thiện, đừng nghĩ Tham Sân Si, thì lúc nào mình cũng giữ tâm trong Pháp Balamat trong Pháp Thiện thì Pháp đó ngăn ngừa được Triền Cái, ngăn ngừa kiết sử của mình, ngăn ngừa được Tư Duy của mình không Tham, Sân, Oán Hận. Nếu như không biết tu tập mà cứ để Thiện cũng có, Bất Thiện cũng có, không có Tỉnh Giác để lọc, không có Tỉnh Giác để mình giữ được việc tu của mình thì kiết sử nó lên.

Thiện chỉ tới Toàn Thiện.

Bất Thiện đi tới Triền Cái (5 triền cái là:tham dục, sân hận, hôn trầm-thụy miên, trạo cử-hối quá, hoài nghi) và Bất Thiện đi tới Kiết Sử.  Do đó, đừng để cho nó sinh lên và cố gắng đừng để nó len lỏi vô. Và chỉ có Tỉnh Giác mới làm được và mình sống trong Thiện thì mới làm được. Còn nếu mình sống mà Thiện cũng có, Bất Thiện cũng có, kiết sử cũng có, triền cái cũng có và Ba la mật cũng có, Thập Phúc Hành Tông cũng có, thì khó mà lọc.

Thí dụ: 

Giao hữu ----> người tốt ---> có pháp đi theo, tâm mình hướng về thiện thì có pháp thiện

               ----> người xấu ---> có pháp đi theo, tâm mình hướng về bất thiện thì có pháp bất thiện.

Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.

Giao hữu là mình giao lưu, mình tiếp cận. Thì tâm mình cũng vậy, nếu mình để tâm mình tiếp cận hoài thì nó có "Tôi, Ta", có kiết sử của mình. Còn nếu như tâm mình tiếp cận với Thiện với Toàn Thiện thì mình có hướng đi của mình.

Cái quan trọng nhất của việc tu là không nên để tâm không làm việc thiện, Đức Phật Ngài Ngài nói tâm mình không làm việc Thiện thì nó sẻ trở lại Bất Thiện liền.

Do đó, trong khi mình hít thở vô mình đi đúng Thân, Thọ, Tâm, Pháp một hơi thở thôi, tôi hít vô tôi có thọ, tôi có tâm, tôi có pháp, thở ra tôi có thọ, tôi có tâm, tôi có pháp, vậy là đủ rồi.

Còn không quí Phật tử cắt cái Thân, Thọ, Tâm, Pháp này đi, mà chỉ theo dõi hơi thở, hít vô theo dõi, thở ra theo dõi, chỉ một Pháp thôi.

Rồi bây giờ áp dụng tiếp nữa, hít vô cái này là thiện, thở ra là toàn thiện, hít vô là tâm thiện, thở ra là xả thí Balamat, là hành xả Balamat, trí tuệ Balamat.

Giờ mình Tu là, một hơi thở vô là Thân Niệm Xứ, mình có Thọ hiện bày, mình có Niệm và có Tỉnh Giác liền, thì nó có cái Tâm. Tâm mình có cái Niệm và mình có Tỉnh Giác liền thì mình có Pháp và mình nhận thức liền. Trong một hơi thở.

Hơi thở vô mình có:

Thân Niệm Xứ --> hít hơi thở vô, mình có Niệm và Tỉnh Giác, 

Thọ hiện bày ra mình có Niệm và có Tỉnh Giác thì mình có cái Tâm

Tâm mình có Niệm và Tỉnh Giác liền thì mình có Pháp và mình nhận thức liền. Trong một hơi thở. Như vậy gọi là Văn --> Tư --> Tu.

Hít vô là có Niệm.

Tỉnh Giác là có Tư

và Tu của mình là mình thấy Pháp 

Thân Niệm Xứ:

 Hơi thở 1 ---> hít vô --> có Niệm ---> có Tỉnh Giác 

                      ---> thở ra  -----> có Niệm  ---> có Tỉnh Giác

  Hơi thở 2 ---> hít vô ----> có Niệm ----> có Tỉnh Giái

                 ---> thở ra ---> có Niệm ----> có Tỉnh Giác

                             -------------------------------

  Hơi thở 1 --> hít vô --> có Thân ---> có Thọ --> có Tâm --> Có Pháp

                 --> thở ra ---> có Thân --> có Thọ --> có Tâm --> có Pháp

Thọ có Pháp Thân, Tâm có Pháp của Thọ, Pháp có Pháp Tâm và có Pháp hiện bày.

hình 55 - 2.11.36



Vậy thì 'Té' là có:  Niệm vô --> phát sinh (Sinh)

                             Niệm ra --> chấm dứt (Diệt)

hay là  'Té' --> Thân -->Thọ --> Tâm --> Pháp 

Bây giờ trở lại chủ đề hồi đầu giờ buổi học Té, Té Vô, Té Ra, cái sinh rồi cái diệt, nó phát sinh lên rồi chấm dứt, cái Té  niệm hết, và Tỉnh Giác. 

Hay là khi té là cô niệm cái Thân, niệm cái Thọ, niệm cái Pháp mà té đó thân đang hiện bày, cái thọ của cái thân đó cái tâm biết cái thọ rồi cái Pháp biết cái tâm đó, thì cô đi cái nào ? 

Vậy thì cái hơi thở cô hít vô, cô không theo kịp Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Hơi thở cô hít vô mà không niệm Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì cô không có Văn, Tư, Tu.

Như vậy thì, khi hít hơi thở vô một cái thì Niệm Thân, Thọ, Tâm Pháp theo ngay khi hít vô. 

Hơi thở vô,  mình niệm Thân và mình có Tỉnh Giác.

Tôi thấy rõ hơi thở vô dài, hơi thở vô ngắn tôi biết, hơi thở vô nhanh tôi biết hơi thở vô chậm tôi biết, đó là Tỉnh Giác.

Hơi thở ra dài tôi biết, ngắn tôi biết, nhanh tôi biết, chậm tôi biết, cái hơi thở là quí Phật tủe đang đi Tỉnh Giác, và không có Thân, Thọ, Tâm, Pháp. 

 Hơi thở hít vô thì Thọ có Khổ Lạc.

Cái thân vô thì nó có cái thọ 

Pháp sinh ra cái thọ, cái thọ sinh ra cái tâm , không phải, 

Cái thân này nó có cái Pháp của nó, cái Thọ niệm cái Pháp này thì nó có cái thọ 

Cái Pháp của cái thân hít vô đó là cái thọ là khổ lạc của cái thân, cái tâm của nó là Tâm Đổng Lực mà chắc chắn là đừng có cho bất thiện, chỉ cho thiện thôi. Tâm Đổng Lực này là Thiện thì Pháp lúc bấy giờ nó chỉ có Thất Giác Chi. Nếu mà Tâm Đổng Lực có Bất thiện thì Pháp nó ra Ngũ Triền Cái và Ngũ Thủ Uẩn.

Cái khôn khéo của mình là phải biết hướng cái tâm mình đi chứ còn không là trật lất.

Khi mình niệm một cái hơi thở vô Thân có Pháp, Thọ có Pháp, Tâm có Pháp, Pháp có Pháp. Xong, quí Phật tử chứng một cái, tức là nhận xét được một cái. Xong mình thở ra, Thân có Pháp, Thọ có Pháp, Tâm có Pháp, Pháp có Pháp.

Thân Niệm Xứ, thở vô, niệm tỉnh giác. Thở ra, niệm tỉnh giác, cứ đi theo hơi thở ra vô.

Khi mình học Tứ Niệm Xứ thì mình phải hiểu nó liên kết với nhau và không có tách rời, còn nếu mà mình tách rời, nó là kiết sử của mình muốn tách và mình tạo ra và mình đi theo cái đó thì mình đi theo Pháp Niệm Xứ.

Còn nếu không hơi thở vô tôi có Niệm và Tỉnh Giác, hơi thở ra tôi có Niệm và Tỉnh Giác. Cái nào là Thọ, cái nào là Tâm, cái nào là Pháp.

Rồi quí Phật tử ngồi suy nghĩ lại thì lúc bấy giờ chạy theo ý của mình, vừa vô cái niệm Thân có Thọ, Tâm, Pháp. Sau khi mình ngồi suy tư cái mình biết rồi ./.

--------------------------------

10 Kiết Sử: 

 Mười kiết sử (Saṃyojana, saññojana), theo kinh tạng:

1. Thân kiến (Sakkāyadiṭṭhi), sự chấp sai về thân ngũ uẩn với bản ngã.

2. Hoài nghi (Vicikicchā), sự không tin Phật, Pháp, Tăng, không tin có quá khứ vị lai, không tin nguyên lý y tương sinh.

3. Giới cấm thủ (Sīlabbataparāmāsa), chấp thủ những hạnh tu sai lầm, vô ích.

4. Dục ái (Kāmarāga), tham muốn ngũ dục sắc, thinh, hương, vị, xúc.

5. Sân hận (Paṭigha), phẫn nộ, tức giận, hiềm hận, âu lo.

6. Sắc ái (Rūparāga), tham luyến trong cảnh thiền hữu sắc, ái tham cõi sắc giới.

7. Ái vô sắc (Arūparāga), tham luyến cảnh thiền vô sắc, ái tham cõi vô sắc.

8. Ngã mạn (Māna), kiêu hãnh cống cao.

9. Phóng dật (Uddhacca), tâm lao chao tán loạn.

10. Vô minh (Avijjā), sự si mê, thiếu hiểu biết, không biết cái đáng biết.