Thursday, November 14, 2024

061 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 3 tháng 6, 2023

  061 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 3 tháng 6, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "061 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh


Namo Buddhaya

Minh Hạnh


TỔNG HỢP NỘI DUNG VÔ TỶ PHÁP

Tập 1 - Chương (I-II-III-IV)

Trang 286

21 CẢNH QUẢNG NGHĨA

1. Cảnh Dục Giới (Kāmārammaṇa) Chi Pháp đó là 54 Tâm Dục Giới, 52 Tâm Sở, 28 Sắc Pháp, được 6 Cảnh.

2. Cảnh Đáo Đại (Mahaggatārammaṇa) Chi Pháp đó là 27 Tâm Đáo Đại, 35 Tâm Sở, được 1 Cảnh là Cảnh Pháp.

3. Cảnh Níp Bàn (Nibbãnārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Níp Bàn, được 1 Cảnh là Cảnh Pháp.

4. Cảnh Danh Pháp (Nãmãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Níp Bàn, được 1 Cảnh là Cảnh Pháp.

5. Cảnh Sắc Pháp (Rũpärammaṇa) Chỉ Pháp đó là 28 Sắc Pháp, được 6 Cảnh

6. Cảnh Hiện Tại (Paccuppannārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp hiện đang sinh khởi, được 6 Cảnh.

7. Cảnh Quá Khứ (Atītārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp đã diệt đi rồi, được 6 Cảnh.

8. Cảnh VỊ Lai (Anāgatārammaṇa) Chi Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp sẽ sinh, được 6 Cảnh.

9. Cảnh Ngoại Thời (Kãlavimuttärammaṇa) Chi Pháp đó là Níp Bàn, Chế Định, được 1 Cảnh là Cảnh Phá;

10. Cảnh Chế Định (Paññattiārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Thinh Danh Chế Định, Nghĩa Lý Chế Định, được 1 Cảnh là Cảnh Pháp.

11. Cảnh Siêu Lý (Paramatthärammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp, Níp Bàn, được 6 Cảnh.

12. Cảnh Nội Bộ (Ajjhattãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp, sinh khởi bên trong bản thân, được 6 Cảnh.

13. Cảnh Ngoại Bộ (Bahiddhãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp sinh khởi ở tha nhân, và Sắc Vô Hữu Sinh Mạng, Níp Bàn, Chế Định, được 6 Cảnh.

14. Cảnh Nội Ngoại Bộ (Ajihattabahiddhãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp sinh khởi cả nội bộ và ngoại bộ, được 6 Cảnh.

15. Cảnh Ngũ (Pañcārammaṇa) Chỉ Pháp đó là 7 Hành Cảnh Sắc, được 5 Cảnh

16. Cảnh Sắc (Rũpārammaṇa) Chỉ Pháp đó là các màu sắc.

17. Cảnh Thỉnh (Saddãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là các âm thanh.

18. Cảnh Khí (Gandhãrammaṇa) Chỉ Pháp đó là các khí hơi.

19. Cảnh Vị (Rasārammaṇa) Chỉ Pháp đó là các mùi vị

20. Cảnh Xúc (Photthabbārammaṇa) Chi Pháp đó là lạnh nóng, cứng mẻm, lỏng, căng.

21. Cảnh Pháp (Dhammārammaṇa) Chỉ Pháp đó là Tâm, Tâm Sở, Sắc Thanh Triệt, Sắc Vi Tế, Níp Bàn, Chế Định.

-----------------------------------------------

Quảng Nghĩa là giải rộng ra

Cảnh Quảng Nghĩa là cảnh giải rộng ra.

 Quyển Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp là bản Chánh Tạng gốc, còn quyển tóm tắc là ngài Tịnh Sự vắn tắt lại. Quyển tóm tắt Nội Dung Vô Tỷ Pháp, mục đích của Ngài để trên đầu nằm của mình, mình hành hay mình học, cái gì mình thắc mắc, tâm biết mấy cảnh, cảnh có mấy tâm biết, mình mở ra coi.

Trang 16, (Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp - quyển tóm tắt)

                                      TÂM BIẾT MẤY CẢNH 

1) 3 Tâm Vô Sở hữu biết 3 cảnh là Cảnh Pháp, Chế Định và Ngoại Thời.

2) 15 Tâm Sắc Giới, 3 Tâm Không Vô Biên biết 4 cảnh là Cảnh Pháp, Chế Định,  Ngoại Thời, Ngoại Phần.

3) Thức Vô Biên và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng biết 6 cảnh là cảnh Nội Phần, Quá Khứ, Đáo Đại, Cảnh Pháp, Danh Pháp  và Siêu Lý.

4) Tâm Siêu Thế biết 6 cảnh là Cảnh Níp-Bàn, Siêu Lý, Ngoại Thời, Ngoại Phần, Cảnh Pháp và Danh Pháp.

5) Ngũ Song Thức biết 8 cảnh là Cảnh Sắc, Cảnh Hiện Tại, Dục Giới, Siêu Lý, Sắc Pháp, Nội Phần, Ngoại Phần, Cảnh Nội và Cảnh Ngoại Phần.

6) Còn Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc theo mỗi đôi Thức.

7) 3 Tâm Ý Giới biết đặng 13 Cảnh là Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, Cảnh Ngũ, Siêu Lý, Dục Giới, Sắc Pháp, Hiện Tại, Nội Phần, Ngoại Phần, Nội và Ngoại Phần.

8) Tâm Na Cảnh và Tiếu Sinh biết 17 cảnh là (trừ Níp-Bàn Chế Định, Đáo Đại và Ngoại Thời )

9) Tâm Bất Thiện, 4 Đại Thiện và 4 Đại Tố bất tương ưng biết đặng 20 cảnh ( trừ Đạo Quả và Níp-Bàn )

10. Tâm Thông, Khai Ý Môn, 4 Đại Thiện và 4 Đại Tố tương ưng biết đặng 21 cảnh tùy trường hợp.

-----------------------------------------

Đây trong quyển Chánh Tạng có chia làm 2 loại là biết cảnh Nhất Định và biết cảnh Bất Định. 

Trong quyển tóm tắt Nội Dung Vô Tỷ Pháp của Ngài Tịnh Sự chỉ nói tâm biết mấy cảnh thôi không nói cảnh Nhất định và Bất định, lúc dạy Ngài mới cắt nghĩa, Ngài mới giảng rộng ra. Nhưng trong quyển của Ngài Jotika có nói, thì Sư dịch ra. Nên mình phải biết là có khi Bất Định có khi Nhất Định không phải là chỉ biết suông như thế thôi.

 Như vậy mình nhớ lại có 21 cảnh, có 30 tâm biết, rồi tâm biết bao nhiêu cảnh, cảnh có bao nhiêu tâm biết, ở trong quyển tóm tắt  trang 2 trang 16.

Trong tuần rồi Sư trả lời câu hỏi của Phật tử là  Sư mới hướng dẫn sơ qua thôi, tại vì lớp học của mình đây mới tới Chương II, vừa xong phần Tâm Sở, Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp Chương III về Cảnh, về Biệt Cảnh.

 Giờ câu hỏi tới thì mình cũng giải, Sư giải theo Lộ Trình Tâm cittavithi thuộc về chương IV, ở bên VN họ học giỏi quá họ đi trước mình. Nhưng Sư không muốn quí Phật tử bị trạng thái hụt hẫn với những câu hỏi mình chưa học tới nên Sư nâng lên giải thích một cách tổng quát trước, bữa nay Sư giảng câu hỏi vô chi tiết hơn. 

Tâm Sở biết mấy cảnh.

Giải thích Tâm Tiếp Thâu có 2 cảnh. Tâm Bất Định, tập hợp các Tâm,

Những cái này nói đầy đủ chi tiết là cho các học viên học ở trường lớp bên Thái Lan người ta dạy như vậy, nhưng quyển tóm tắt Nội Dung Vô Tỷ Pháp của Ngài Tịnh Sự là quyển chỉ nam dành cho các vị Giáo Thọ đem theo giảng lướt qua rồi học viên ở nhà phải đọc thêm.

Câu hỏi 1 của Phật tử: Trong lộ trình tâm, Lộ Ý Môn Đổng Lực Dục Giới bắt cả 6 cảnh (cả 5 cảnh ngũ hiện tại) hay chỉ biết cảnh pháp ? (tức là 1 trong 6 cảnh đó thôi)

Họ hỏi Tâm Khai Ý Môn, thì bắt đầu mình coi Tâm Khai Ý Môn biết bao nhiêu cảnh, coi trong quyển sách tóm tắt Nội Dung Vô Tỷ Pháp của Ngài Tịnh Sự soạn.

Trang 16.

10) Tâm Thông, Khai Ý môn, 4 Đại Thiện và 4 Đại Tố tương ưng biết đặng 21 cảnh tùy trường hợp.

Tâm Thông là Tâm Thắng Trí, 2 Tâm Thắng Trí là Thiện Thắng Trí và Duy Tác Thắng Trí là 2 tâm hiện bày năng lực phi thường sau khi qua Ngũ Thiền thì có Thiện dành cho phàm và tam quả. Còn Duy Tác Thắng Trí dành cho các bậc Alahan vô sinh hiện bày Thắng Trí. Thì ở đây Ngài để là Tâm Thông, Khai Ý Môn, 4 Đại Thiện và 4 Đại Tố Tương Ưng biết đặng 21 cảnh tùy trường hợp.

Như vậy mình trả lời câu hỏi Tâm Khai Ý Môn biết bao nhiêu cảnh là biết 21 cảnh. Nhưng Tâm Khai Ý Môn biết cảnh là biết cảnh Pháp.

Nhãn biết cảnh sắc, nhĩ biết cảnh thinh, thiệt biết cảnh vị, tỷ biết cảnh khí, thân biết cảnh xúc chạm. Thì đôi Ngũ Song thức biết 5 cảnh cũ; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, sắc thinh khí vị xúc. Mấy cái kia biết cảnh Pháp, ngoài Ngũ Song Thức ra biết 5 cảnh ngũ ra.

Thì mình phải biết là Tâm Khai Ngũ, hay Tâm Khai Ý, Tâm Đổng Lực, Tâm Na Cảnh nó ngoài 5 cảnh kia. Nhãn thức chỉ biết cảnh sắc, nhĩ thức biết cảnh thinh thôi, chứ không bước qua chức năng nào khác được. 

Thì trong quyển tóm tắc Nội Dung Vô Tỷ Pháp của Ngài Tịnh Sự.

Thì khi hỏi Tâm Khai Ý Môn 

Trong phần Lộ Trình Tâm, Lộ Ý Môn Đổng Lực Dục Giới bắt cả 6 cảnh, có 5 cảnh ngũ hiện tại.

Hỏi Lộ Ý Môn Đổng Lực Dục Giới.

Lộ Ngũ Môn là xuyên qua 5 cửa (5 đôi Thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) là Lộ Ngũ Môn.

Còn Lộ Ý Môn là xuyên qua Lộ Ý thôi, giới và ý thức giới đều qua Lộ Ý Môn. Ý Môn biết cảnh Pháp thôi.

Thì có 5 cảnh ngũ hiện tại.

Trên bản đồ Lộ Trình Tâm.

Khi ta nói tới Đổng Lực là họ bắt cảnh thời hiện tại. Còn phần 5 đôi phía trước là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tiếp thâu, thẩm tấn, đoán định thuộc Lộ Ngũ Môn thì thuộc về quá khứ rồi. Còn phần sau thuộc về vị lai. 

Tâm Đổng Lực, Ngài khoanh tròn ghi chữ C là Đổng Lực 

Thì câu hỏi 1 của Phật tử: Trong lộ trình tâm, Lộ Ý Môn Đổng Lực Dục Giới bắt cả 6 cảnh (cả 5 cảnh ngũ hiện tại) hay chỉ biết cảnh Pháp ? (tức là 1 trong 6 cảnh đó thôi).

Thì Tâm Đổng Lực Ý Môn chỉ bắt cảnh Pháp thôi, chứ không có bắt cảnh sắc, cảnh khí, cảnh vị, mà đưa lại cho họ thì nếu cảnh ngũ hiện tại thì anh kia đã qua rồi, nên mình sai cái chỗ là  nhãn thức bắt cảnh sắc thì nó truyền qua tâm thức tiếp thâu rồi thẩm tấn, đoán định thì những cái đó mà đưa tới Đổng Lực thì là đã là quá khứ, còn anh Đổng Lực chỉ bắt hiện tại thôi thì lúc đó cảnh pháp lên.

Vậy thì khi.

Nếu ta nói theo lộ trình Na Tùng Lưu Hành là Lộ Ngũ Môn tiếp nối qua Lộ Ý Môn, khi Ngũ Môn bắt cảnh xong rồi truyền qua Lộ Ý Môn đưa tới để xử lý cảnh thì mình thấy.

để hình 061 - 11.35



Sát na đầu tiên là Khai Ngũ Môn, sát na thứ nhì là Nhãn Thức, sát na thứ 3 là Tiếp Thâu, sát na thứ 4 là Thẩm Tấn, sát na thứ 5 là Đoán Định, kế tiếp là 7 Tâm Đổng Lực. Nếu như cảnh cự đại (cảnh lớn thiệt lớn) thì nó có Na Cảnh, còn nếu không có cảnh lớn, tức là vừa hết phần Đổng Lực nó qua Hữu Phần (nó không có Na Cảnh). Còn nếu có Na Cảnh (cảnh dư) là khi có cảnh cực đại. Thí dụ, một quả bom rớt xuống phát ra tiếng nổ lớn, mình ở gần đó nghe chát chúa, thì sự nổ hết rồi nhưng có dư âm còn để lại trong tâm thức mình, và làm tai mình ù, đó là cảnh cực đại, cái đó thuộc Na Cảnh nó chạng lại có Tâm Đổng Lực.

Khi mình giải thích về Tâm thì mình phải giải thích như thế này:

Khi trái bom rớt xuống phát ra tiếng nổ thì Tâm Đổng Lực của mình là Tâm Sân (bị giựt mình) rồi Na Cảnh này không phải là ù tai, vì ù tai nó thuộc về sắc thân thuộc về sắc pháp, mà lúc này giựt mình hồi hộp hoảng hốt lo sợ, chứ không nói tới ù tai.

Ù tai thuộc về sắc pháp, có dư âm chạng vào Tâm mình là Na Cảnh hưởng cảnh của Tâm Đổng Lực dư đưa lại. Thì trạng thái tâm lý đó là trạng thái giựt mình hoảng hốt lo sợ chứ không ù tai.

Nên mình nói đúng pháp như vậy thì mới được.

Ngay lúc trạng thái giựt mình này thì nó thuộc loại pháp triền cái, nó là trạo hối, phóng dật và hồi hộp, hối hận, thuộc về triền cái, thì tâm này là Tâm Sân, và nó xử lý cái đó là cảnh pháp, pháp này là pháp nghịch, pháp bất thiện.

 Cũng vậy, thí dụ như mình đi trong màn đêm tối mịt mù không nhìn thấy gì, thì có một người xuất hiện, chẳng hạn như Chư Thiên xuất hiện ra làm mình giựt mình. Cảnh đó là cảnh đẹp có Chư Thiên là cảnh đẹp xuất hiện tới với mình làm mình giựt mình, thấy Chư Thiên mà Tâm Sân thì phải có Hữu Phần Khách. 

 Do đó có Tâm Hữu Phần khách ở đây.

3 nguyên nhân sinh tâm hữu phần khách. 

- 1 là người Dục Giới, tái tục bằng Đại Quả Hỷ Thọ.

- 2 là Đổng Lực bằng Tâm Sân.

- 3 là Cảnh Rất Tốt hoặc Vừa, hoặc Xấu.

- Vì Na Cảnh sanh không được, nên 1 trong 6 Tâm Na Cảnh Xã Thọ sanh ra can thiệp giữa Ưu và Hỷ.

Hữu Phần Khách này là trái độn.

Hữu Phần Khách chỉ có trong cõi Dục Giới. Cõi Sắc Giới, cõi Vô Sắc Giới không có.

Vì cõi Sắc Giới, cõi Vô Sắc Giới các vị Phạm Thiên an trú trong Định, các vị Phạm Thiên họ ở trong thiền. Chỉ có người cõi Dục Giới mới phóng dật, giựt mình hoảng hốt hay sợ hãi lên là của Dục Giới, nhưng gốc của họ, cái Tâm của họ tái tục Tâm Đại Quả Hỷ Thọ, tâm họ vui. Rồi Tâm Đổng Lực thì sân, cảnh thì đẹp, cảnh rất tốt, nhưng họ giựt mình. 

 Như hồi nãy Sư nói mình đang đi trong đêm tối đường vắng hoe, chợt có người vỗ vai làm mình giựt mình.

Thứ 3 là Cảnh Tốt, Cảnh Xấu. Vì Na Cảnh sinh không được, thì Tâm Hữu Phần Khách chen vô, đó là trái độn.

Thì Tâm Hữu Phần Khách là trái độn giữa cảnh thi đẹp mà Tâm Đổng Lực xử lý cảnh này là tâm sân. Nếu mà đẹp thì phải là tâm hỷ thì nó phải có trạng thái là tâm tham, nhưng nó lại lên tâm sân thành ra nó không chịu được phải có Tâm Hữu Phần Khách chen vô, mà Na Cảnh không có đủ điều kiện để sinh ra kịp lúc này, thì nó có Tâm Hữu Phần Khách xen lên, thì những cảnh đó thuộc cảnh pháp chứ không thể nào thuộc cảnh Ngũ được. Cảnh Ngũ chỉ nằm trong 5 đôi thức. Do đó, những cảnh đó thuộc cảnh pháp với Tâm Nhãn Thức bắt cảnh sắc thôi, Nhĩ Thức bắt cảnh thinh.

Thì câu hỏi của vị này hỏi là: ".... hay chỉ biết cảnh pháp, 1 trong 6 cảnh? ". 

Thì mình trả lời là: Họ chỉ biết cảnh Pháp thôi. 

Tâm Lộ Ý Môn Đổng Lực chỉ bắt cảnh Pháp thôi, còn những phần trước biết 1 trong 5 cảnh, nó thuộc Lộ Ngũ Môn thì nó biết như vậy, còn nếu qua Lộ Ý Môn nó còn rõ ràng hơn là nó chỉ biết cảnh Pháp thôi. 

Lộ Ý Môn thuộc về phần của cảnh Pháp.

Lộ Ngũ Môn nằm trong 5 cảnh sắc, thinh, khí, vị, xúc.

Như vậy thì:

 Như hồi sáng Sư có gợi ý cho quí Phật tử khi hành thiền, mình nói Tâm Thân Thức biết cảnh xúc thì khi cô ngồi thiền dùng đề mục sổ tức là niệm hơi thở thì Tâm Thân Thức bắt vô bằng cảnh xúc. Nhưng khi Tâm Thân Thức bắt qua Tiếp Thâu, Thẩm Tấn, Đoán Định vô Tâm Đổng Lực thì lúc bấy giờ Tâm Đổng Lực bắt cảnh Pháp.

Khi nó tới Đổng Lực nó đưa ra cảnh Pháp có 2 loại; Thiện, Bất Thiện. Xúc là vô tư, còn Đổng Lực thì tạo tác ra. Tại vì Tâm Thân Thức bắt cảnh xúc mà niệm hơi thở vô thì nó là một Tâm Quả Dị Thục rồi, mà đưa lên Đổng Lực mà khởi lên thiện hay tất thiện là tạo ra nghiệp lực.

Do đó, nếu quí Phật tử trong khi hành thiền, ngồi hay đi, đứng hay nằm mà ta không giữ được niệm với Tâm Đổng Lực này ta tạo ra, thiện hay bất thiện cũng vậy tạo ra vòng nghiệp lực liền.

Vậy thì, khi mình hít vô biết trạng thái hoan hỷ. 

Hoan hỷ có 2 loại: 

1. Hoan hỷ trong tham, trong ham thích, là hoan hỷ của bất thiện, thuộc về kiết sử, là thói quen của mình, thấy cảnh thích làm mình tham, cái đó mình không kiểm soát được, lúc đó mình không có trí và mình đang bị phóng dật

2. Nếu hoan hỷ với trạng thái tôi có niệm mà trí tuệ tôi biết là hoan hỷ của thiện.

Lúc bấy giờ nếu nhìn vô cảnh pháp này mới thấy được là có kiết sử hay là có niệm nó chen vô liền, nó lẹ và vi tế lắm và nó tấn công mình lẹ lắm một cách mau chóng mà mình không ngờ không thấy không biết. Do đó, đối với người sống theo kiết sử, sống theo thói quen nhiều dễ bị chết trong lúc hành thiền, không có thành công đâu.

chỉ có một là cho nó qua luôn là mình vuột cái tâm mình chạy đi nó không có kết quả gì hết, hai nữa là có là mình dính vô trong kiết sử của mình. 

Câu hỏi 2: Tâm Khai Ý Môn biết được 21 cảnh, như vậy, khi nào sự Khai Ý Môn trong Lộ Ý, phải chăng tâm này biết được luôn cả 5 cảnh ngũ hiện tại như trích trong đoạn cảnh Duyên; Pháp Vô Ký làm duyên cho Vô Ký bằng cảnh Duyên, Uẩn Vô Ký sắc trợ khai ngũ môn trong những trường hợp nào bằng cảnh duyên.

Abyākato dhamma : Pháp Vô Ký (chủ từ)

Abyākatassa dhammassa : Pháp Vô Ký (túc từ)

Ārammanapaccayena paccayo làm duyên theo Cảnh Duyên

paccayo ăn vô Abyākato dhamma 

Ārammanapaccayena ăn theo Abyākatassa

Pháp Vô Ký làm duyên cho Pháp Vô Ký theo mãnh lực cảnh duyên thì mình đưa về văn phạm.

Thì chữ paccayo ăn vô Abyākato dhamma ở phần trên

còn Ārammanapaccayena ăn theo Abyākatassa

Thì Pháp Vô Ký làm duyên cho Pháp Vô Ký theo mãnh lực cảnh duyên

paccayo = mãnh lực 

Ārammana = cảnh

paccayena = duyên

Họ lại ghi xuống là họ muốn chính cái chỗ Tâm Khai Môn. Ở trong phần cảnh duyên có phần Khai Môn là

 Abyākata khandhā

Iddhividhañāṇassa = thần túc trí

cetopariyāñāṇassa = tha tâm trí

Pubbemivāsānussati = túc mạng tùy niệm trí

Anāgataṃsāñāṇassa = Vị lai thắng trí (biết được tương lai của mình)

 āvajjanāya = Tâm khai môn

Câu hỏi 2: Tâm Khai Ý Môn biết được 21 cảnh, như vậy, khi nào sự Khai Ý Môn trong Lộ Ý, phải chăng tâm này biết được luôn cả 5 cảnh ngũ hiện tại như trích trong đoạn cảnh Duyên; Pháp Vô Ký làm duyên cho Vô Ký bằng cảnh Duyên, Uẩn Vô Ký sắc trợ khai ngũ môn trong những trường hợp nào bằng cảnh duyên. nó có ảnh hưởng đến 5 cảnh ngũ không ? 

Không có, trong Tâm Khai Môn có 2. Ngày xưa Ngài Tịnh Sự gọi là Khán Môn là ngó thấy. Nhưng không phải, sau này chữ  āvajja nó mở cửa, nó gọi là Khai Môn, nó mở cửa ra, nhưng người đứng ở cửa gặp người khách tới mở cửa ra. 

Chức năng của Tâm Khai Môn có 2 :

- Tâm Khai Ngũ Môn là mở cửa lộ Ngũ

- Tâm Khai Ý Môn là mở cửa lộ Ý và đoán định cảnh ngũ

 mở phần Tâm làm Mấy Sự

trang 13 quyển tóm tắt Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp

TÂM LÀM MẤY VIỆC (sự)

- Thẩm Tấn Xả Thọ làm 5 việc là Thẩm Tấn, Na Cảnh, Tái Tục, Hữu Phần và Tử.

- Đại Quả làm 4 việc là Na Cảnh, Tái Tục, Hữu Phần và Tử.

- Quả Đáo Đại làm 3 việc là Tái Tục, Hữu Phần và Tử.

- Thẩm Tấn Hỷ Thọ làm 2 việc là Thẩm Tấn vă Na Cảnh.

- Khai Ý Môn làm 2 việc là Khai môn và Đoán Định

- Khai Ngũ Môn làm 1 việc là Khai Môn.

- Nhãn Thức làm việc Thấy.

- Nhĩ Thức làm việc Nghe.

- Tỷ Thức làm việc Ngửi.

- Thiệt Thức làm việc Nếm.

- Thân Thức làm việc Đụng

- Tiếp Thâu làm việc Tiếp Thâu.

- Tâm Thiện, bất Thiện, Tiếu Sinh, Đại Tố, Siêu Thế, Thiện Đáo Đại và Tố Đáo Đại đều làm việc Đổng Lực.

--------------------------------------------------

Thì Tâm Khai Ý Môn làm 2 việc là Khai Môn và Đoán Định.

Vậy thì nó làm có 2 việc thôi là mở cửa Lộ Ý và việc Đoán Định, chứ nó không biết về 5 cảnh.

Nên quí Phật tử phải cẩn thận:

- chức năng của Tâm làm bao nhiêu sự, 

- sự có mấy Tâm biết, 

cũng như là cảnh, 

- chức năng của Tâm biết bao nhiêu cảnh, 

- cảnh có bao nhiêu Tâm biết

Thì  nằm ở trong quyển  Nội Dung Vô Tỷ Pháp chương III

 Thì Tâm Khai Ý Môn không biết gì tới lộ Ngũ.

Thí dụ. Trong phòng bác sĩ chuyên môn, đầu tiên người bệnh nhân vô gặp người tiếp tân, người này thụ lý hồ sơ của bệnh nhân hay giấy tờ của bệnh nhân đem tới. Thì người tiếp tân nói người bệnh nhân cần khám tai mũi họng, thì người tiếp tân đưa qua người Tiếp Thâu, rồi người Tiếp Thâu đưa qua Thẩm Tấn, người Thẩm Tấn coi hồ sơ biết là bệnh nhân cần coi về tai nên đưa qua Đoán Định, người Đoán Định là người đứng trước cửa bác sĩ, người Đoán Định làm 2 chức năng; 1 là nhận hồ sơ thấy đúng rồi không sai, 2 là mở cửa cho vào gặp bác sĩ, chứ không làm việc gì đụng chạm với cảnh bên ngoài, cảnh ngũ không có, người làm trạng thái đoán định là quyết đoán, quyết định và họ có một cái sự cuối cùng của họ thôi

Thì khi đoán định mà quyết đoán đoán định đúng hay sai thì Tâm Đổng Lực liên đới ảnh hường. 

Do đó, Tâm Đoán Định nằm kế bên Tâm Đổng Lực.

Câu hỏi của Phật tử hỏi nó có ảnh hưởng đến 5 cảnh ngũ không ? - Không, nó chỉ biết vị trí đoán định thôi, còn 5 cảnh ngũ nó không biết, nó chỉ làm 2 sự thôi; mở cửa Lộ Ý nếu nó thuộc về Lộ Ý. Còn nếu thuộc về Lộ Ngũ thì nó là Đoán Định chứ nó không biết cái gì đằng trước đó.

Trở lại, ta xác định lại là cảnh ngũ chỉ có 5 đôi thức biết, ngoài chức năng của nó, những Tâm khác không biết và không để ý tới. Tâm nào biết cảnh đó. Thì anh Đoán Định ngồi trước cửa phòng bác sĩ để mở cửa cho bệnh nhân.

Câu trả lời là Tâm Đoán Định chỉ làm 2 việc là mở cửa Lộ Ý và đoán định Lộ Ngũ.

Còn phần Cảnh Duyên thì nó sâu lắm, nó không nằm ở trên phần gọi là Sự và Sở của Tâm thôi.

Tâm Khai Môn  āvajjanāya nằm trong Lộ Ý hiện bày theo cảnh Duyên về các Thắng Trí ;

Iddhividhañāṇassa = thần túc trí

cetopariyāñāṇassa = tha tâm trí

Pubbemivāsānussati = túc mạng tùy niệm trí

Anāgataṃsāñāṇassa = Vị lai thắng trí (biết được tương lai của mình)

 āvajjanāya = Tâm khai môn

nằm ở trong góc độ này là góc độ của người hành thiền họ sắp sửa hiện bày Thắng Trí.

Tâm Khai Môn mở cửa cho hiện bày Thắng Trí trong 5 cảnh là Lộ Ý Môn mà Cảnh Kiên Cố. Những Thắng Trí là Cảnh Kiên Cố là cảnh Thiền, đắc Thiền, đắc Quả, họ mới có.

Mình đang nói qua phần Sự, Sở của Chương III của Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp kéo qua Cảnh Duyên thuộc về Paṭṭhāṇa.

Câu hỏi 3: Trong Lộ Thuần Ý Môn khi nào có Hữu Phần vừa qua, khi nào không có Hữu Phần vừa qua ?

Nói tới Hữu Phần vừa qua hay không có Hữu Phần vừa qua là ta nói trong Lộ Cảnh chứ không nói Lộ Thuần Ý Môn. Nếu nói Lộ Thuần Ý Môn và Hữu Phần vừa qua là Na Cảnh Cực Đại, nó có Hữu Phần vừa qua, hay là cảnh có đó là cảnh không rõ thì thì nó có vừa qua nhiều lên.

Thuần Ý Môn nó nằm trong Lộ Ý mà khi nào nó có cảnh Hữu Phần vừa qua. Nó có trường hợp mình đang ngủ say, nghe tiếng gõ cửa văng vẳng mà mình không thức, tại vì mình đang ngủ say, cái Tâm của mình có nghe nhưng không đủ để cho mình thâu được cảnh đó rõ thì cái vừa qua, vừa qua, vừa qua, nó không vô lộ để mình thức dậy.

 Còn nếu như cảnh Lộ Ý Môn mà chỉ có một vừa qua rồi Khai Ý Môn mở rồi bắt đầu nó là vô Đổng Lực liền là cảnh lớn cảnh rõ (minh hiển), Lộ Ý Môn thuộc minh hiển, còn Ngũ Môn là cự đại là lớn và rõ. Do đó thì cái nào vừa qua, người đang ngủ say hay ở đàng xa. 

Thí dụ Sư làm ở cuối vườn rồi ở trên đây kêu Sư nghe không rõ, Sư chạn tới chạn lui Sư nghe không rõ, trường hợp đó thuộc về ý chứ không thuộc về cảnh Lộ Ngũ. Lộ Ý này mình không nắm được cảnh đó thì Lộ Vừa Qua sinh lên 2 sát na 3 sát na 7 sát na sinh lên mà nó vô Lộ không được.

Khi nào nó có Hữu Phần vừa qua và không có Hửu Phần vừa qua ? Tức là nó thuộc loại nằm trong lộ và ngoại lộ và cảnh nó không rõ và trong vị trí là bắt không được cảnh.

Tâm Hữu Phần Khách là người đó tánh thường hay sân nên dể nẩy sinh Tâm Sân.

Tâm Sân, đừng bao giờ nghĩ Tâm Sân là bực tức cau có giận dữ, mà chỉ giựt mình cũng là Tâm Sân.

Vậy thì mình hỏi có ai giựt mình không ?  Cái đó là tập khí của mình hay là thói quen của mình.

Thí dụ. người bạn gọi: "Chị, đi về" không nghe, đó là hữu phần vừa qua. 

Người bạn vỗ vai nói lớn: "Chị, đi về", mình bị giựt mình vì cái vỗ vai, đó là Tâm Sân khởi lên trong cái giựt mình đó. Không phải giận vì làm mình giựt mình, nhưng vì thói quen vì bất ngờ không kiểm soát được. 

Nên chữ Tâm Sân mình đừng bao giờ nghỉ rằng trạng thái giận dữ, nóng nảy, hay là cau có, mà chỉ có giựt mình cũng là Tâm Sân. Thì lúc đó nếu không có Hữu Phần Khách thì trạng thái đó là vỡ tim ngất xỉu. Nên tâm Hữu Phần Khách để giữ Tâm họ quân bình trở lại.

Tâm Hữu Phần Khách là người có trạng thái không có thụ lý cảnh một cách quân bình, họ phản ứng mạnh và mãnh liệt. Giống như 2 bên đang tranh cãi nhau, bắt đầu nóng lên thì có trái độn chen vô giảng hòa.

Thì anh Khai Ngũ Môn chỉ mở lộ ngũ thôi, còn anh Khai Ý Môn làm được 2 chức năng, 2 Sự, 2 việc, tức là mở Lộ Ý và Đoán Định cảnh Ngũ.

Câu hỏi 4: 8 Tâm Đại Thiện với bậc Thánh Hữu Học có 3 Tâm Sở Giới Phần; Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, hay còn gọi là ngăn trừ phần.

Thánh Hữu học (Sekkha) có 3 là:

- Sơ Quả (Thất Lai)

- Nhị Quả (Nhất Lai)

- Tam Quả (Bất Lai)

Thánh Vô Học có 1 là bậc Vô Sinh Alahan.

Vậy thì khi câu hỏi đặt lên: 8 Tâm Đại Thiện của bậc Thánh Hữu Học có 3 Tâm Sở Giới Phần; Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, hay còn gọi là ngăn trừ phần.

Giới có 3 là : Giới Nguyện, Giới Ngăn Ngừa, Giới Sát Trừ.

Như vậy thì Giới Ngăn Trừ Phần có 3 là Giới Nguyện, Giới Ngăn Ngừa, Giới Sát Trừ.

Thì đối với Giới Ngăn Trừ Phần coi lại phần Tâm Sở, 3 Tâm Ngăn Trừ Phần nó có bất định mà đi riêng, nhất định mà đi chung, nó có 2 phần đó. Coi lại Chương II phần Tâm Sở, thì mặt bất định mà đi riêng là những người phàm, tam nhân và hữu học. Nhất định mà đi chung là Vô Sinh. Các vị Alahan khi mà họ nói, đi đứng nằm ngồi thân, ngữ, ý của các bậc Alahan là luôn luôn nằm trong sát trừ, ngăn trừ phần, không bao giờ đi riêng hết, lời của họ nói ra là phải có Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng. Cái hành động nuôi mạng của họ là có Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, luôn luôn nó đi chung.

Còn các vị Phàm Tam Nhân

Phàm Nhị Nhân, phàm Vô Nhân không biết cái này nhiều, chỉ biết phần Giới Nguyện thôi.

Chứ còn Giới Ngăn Ngừa và Giới Sát Trừ phài là Tam Nhân (3 nhân; Vô Tham, Vô Sân, Vô Si) hay là 3 Bậc Thánh Hữu Học (Sơ Quả (Thất Lai), Nhị Quả (Nhất Lai), Tam Quả (Bất Lai) thì họ mới có.

 Ở trong phần, mở phần Tâm Sở Ngăn Trừ Phần, 3 Tâm Sở thì mấy cô biết được. 

Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp, Tập 1 - Chương (I-II-III-IV)

Trang 225 

25 TÂM SỞ TỊNH HẢO CÓ 4 PHẦN PHỐI HỢP

19 Tâm Sở Tịnh Hảo Biến Hành (Sobhaṇasãdhäraṇacetasika) từng mỗi Tâm Sở phối hợp được trong 59 hoặc 91 Tâm Tịnh Hảo, là 24 Tâm Dục Giới Tịnh Hảo, 27 Tâm Đáo Đại, 8 hoặc 40 Tâm Siêu Thế, tính thành 1 phần.

3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần (Viratīcetasika) từng mỗi Tâm Sở phối hợp được trong 16 hoặc 48 Tâm, là 8 Tâm Đại Thiện, 8 hoặc 40 Tâm Siêu Thế, tính thành 1 phần.

2 Tâm Sở Vô Lượng Phần (Appamaññãcetasika) từng mỗi Tâm Sở phối hợp được trong 28 Tâm, là 8 Tâm Đại Thiện, 8 Tâm Đại Duy Tác, 12 Tâm Sắc Giới (trừ 3 Tâm Ngũ Thiền), tính thành 1 phần.

1 Tâm Sở Trí Tuệ (Paññäcetasika) phối hợp được trong 47 hoặc 79 Tâm, là 12 Tâm Dục Giới Tương Ưng Trí, 27 Tâm Đáo Đại, 8 hoặc 40 Tâm Siêu Thế, tính thành 1 phần.

-------------------------------------------

Mình coi thấy

3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần có bao nhiêu Tâm Sở phối hợp. Bắt đầu mình mới coi vô phần phối hợp, chia ra những phần Tâm Sở mà nó Ngăn Trừ Phần nó làm việc.

Những nguyên nhân làm cho Tâm Sở Tịnh Hảo phát sinh lên thì mấy cô phải nhớ là có 8 nguyên nhân nội bộ.

trang 220

8 THỂ LOẠI NGUYÊN NHÂN NỘI BỘ

1. Tông Tộc (Kula): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến tông tộc của mình.

2. Niên Linh (Vaya): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến niên linh của mình.

3. Đa Văn (Bãhusacca): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến sự giáo dục của mình.

4. Chủng Tộc Ưu Tú (Jãtimahatta): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến chủng tộc ưu tú của mình.

5. Tôn Sư Kiệt Xuất (Satthumahatta): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến Đức Phật, Cha, Mẹ, Tôn Sư, Giáo Thọ.

6. Di Sản Trân Quý (Dãyajjamahatta): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến di sản của Đức Phật, của Cha Mẹ mà tự bản thân sẽ phải tiếp thọ những thể loại di sản ấy.

7. Trác Tuyệt Phạm Hạnh Giả (Sabrahmacarimahatta):  Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến hảo bằng hữu đã từng kết giao.

8. Dũng Cảm Tính (Sūrabhãva): Tàm quý tội nghiệt, úy cụ tội ác do nghĩ đến lòng dũng cảm và sự an phận thủ kỷ của mình.

-----------------------------------

 8 nguyên nhân sinh ra có Tâm Sở Tịnh Hảo, có tàm quý tội nghiệt với sợ hãi với tội ác. 8 nguyên nhân đó có Tâm Sở Tịnh Hảo.

Trang 221 

CHÁNH NGỮ (SAMMĀVĀCĀ) HIỆN HỮU 3 ĐIỀU:

1. Thuyết Chánh Ngữ (Kathãsammãvãcã): Là việc nói ngôn từ tốt đẹp có Giới Pháp để kỳ vọng sự lợi ích đến cho người lắng nghe, chẳng hạn như Giáo Thọ dạy đệ tử v.v..

2. Tư Tác Ý Chánh Ngữ (Cetanasammãvãcã) : Là người có Tư Tác Ý Thọ Tri Giới Luật (Cetanãsamãdãnasīla) rằng sẽ loại trừ khỏi Ngữ Ác Hạnh (Vacīducarita), có việc bất vọng ngữ v.v.

3. Ngăn Trừ Chánh Ngữ (Viratīsammãvãcã): Là việc trừ liễu cả 4 Ngữ Ác Hạnh, có việc loại trừ vọng ngữ v.v. trong khi có Cảnh ứng đương sẽ trải bày trước mắt (Viramitabba vatthu).

------------------------------------------------

Chánh mạng hiện hữu 3 điều, thì những cái này họ làm những chức năng, thì những cái đó luôn luôn họ sống trong những điều mà chúng ta có lý do để nó sinh ra.

trang 223 

Kệ TRÌNH BÀY TÂM SỞ BẤT ĐỊNH VÀ TÂM SỞ NHẤT ĐỊNH

(ANIYATAYOGÏCETASIKA - NIYATAYOGĪCETASIKA)


Issãmaccherakukkueca     Viratikaruṇädayo

Nãnã kadãci mãno ca        Thīnamiddhaṃ tathã saha

Yathãvuttãnusãrena            Sesã niyatayogino

Saṅgahañca pavakkhãmi    Tesaṃdãni yathärahaṃ

Tật Đố (Issä), Lận Sắc (Macchariya), Hối Hận (Kukucca), 3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần (Viratīcetasika), Bi Mẫn (Karuṇä), Tùy Hỷ (Muditã) gom 8 Tâm Sở này phối hợp là khi có khi không, thỉnh thoảng, và không cùng nhau phối hợp, gọi tên là Bất Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Nãnãkadäcicetasika: khác biệt và tùy lúc Tâm Sở). Ngã Mạn (Mãna) phối hợp khi có khi không, gọi tên là Hữu Thời Tâm Sở (Kadäcicetasika). Cả 2 Tâm Sở Hôn Trầm (Thĩna), Thụy Miên (Middha) đây phối hợp khi có khi không, nhưng cùng nhau phối hợp, gọi tên là Cộng Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Sahakadäcicetasika: tùy lúc và cùng nhau Tâm Sở). 41 Tâm Sở còn lại, ngoài 11 Tâm Sở này, là Tâm Sở phối hợp một cách nhất định, gọi tên  là Nhất Định Tâm Sở (Niyatayogīcetasika).

Bây giờ trình bày việc đếm số lượng Tâm Sở theo Phần Phối Hợp (Sampayoganaya) vừa theo thích hợp.

Tâm Sở Bất Định (Aniyatayogīcetasika) ý muốn nói là Tâm Sở phối hợp với Tâm một cách bất định.

11 Tâm Sở Bất Định là Tật Đồ, Lận Sắc, Hồi Hận, Trạo Cử, Hôn Trầm, Thụy Miên 3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần, 2 Tâm Sở Vô Lượng Phản.

Tâm Sở Bắt Định có 3 thể loại là:

1. Bất Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Nãnãkadäcicetasika: khác biệt và tùy lúc Tâm Sở): Là Tâm Sở phối hợp được khi có khi không, thỉnh thoảng, và không cùng nhau phối hợp có 8 là Tật Đồ (Issä), Lận Sắc (Macchariya), Hối Hận (Kukucca), 3 Tâm Sở Ngăn Trừ Phần (Viraticetasika), 2 Tâm Sở Vô Lượng Phần (Appamaññãcetasika).

2. Hữu Thời Tâm Sở (kadäcicetasika) là Tâm Sở phối hợp được khi có khi không, có 1 là Ngã Mạn (Mãna).

3. Cộng Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Sahakadäcicetasika: tùy lúc và cùng nhau Tâm Sở) là Tâm Sở  phối hợp được khi có khi không, nhưng cùng nhau phối hợp, có 2 Tâm Sở là Hôn Trầm (Thĩna), Thụy Miên (Middha).

--------------------------------

Quí Phật tử thấy 

Tâm Sở Bất Định có 3 thể loại là:

1. Bất Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Nãnãkadäcicetasika)

2. Hữu Thời Tâm Sở (kadäcicetasika) 

3. Cộng Đồng Hữu Thời Tâm Sở (Sahakadäcicetasika)

Những cái này bắt được 3 Ngăn Trừ Phần.

Những Tâm Dục Giới Tịnh Hảo có Tâm Đáo Đại, Tâm Siêu Thế. Những Tâm này nó làm những chức năng của các Tâm Sở mà chúng ta học qua.

Đối với bậc Alahan họ luôn có Sát Trừ Phần, trong khi một vị Alahan thì Giới Ngăn Trừ Phần có 3 là Giới Nguyện, Giới Ngăn Ngừa, Giới Sát Trừ luôn luôn có với họ.

Còn đối với phàm tam nhân (3 nhân; Vô Tham, Vô Sân, Vô Si) cũng như các bậc hữu học thì khi có khi không khi họ sài Tâm Chánh Ngữ, sài Tâm Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, khi có khi không. chứ không có khắn khích. Nhưng đối với các vị Alahan coi như là khắn khích, đó là 1.

Thứ 2, với bậc hữu học và bậc vô sinh nó có Tâm Sở Ngăn Trừ Phần về Giới Ngăn Trừ Phần họ có khi họ ở trong 2 trường hợp ở trong Thiền Định, họ giữ Bát Chánh Đạo thì 3 cái Ngăn Trừ Phần có (Giới Nguyện, Giới Ngăn Trừ, Giới Sát Trừ) luôn luôn đi khắn khích.

Ngay cả phàm tam nhân mình đây vô trong Thiền Định mình không có Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng. Mình chỉ có Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định, tại vì mình ngồi thiền không có ngữ nghiệp.

Nhưng, đối với các vị hữu học (Sơ Quả (Thất Lai),  Nhị Quả (Nhất Lai),  Tam Quả (Bất Lai) và bậc Alahan, họ vô Thiền, họ sống trong Bát Chánh Đạo của các bậc Thánh họ sống đầy đủ hết, còn mình khi có khi không với lại bất định, mà đi riêng. 

Thí dụ, như mình xử dụng lời nói thì mình có Chánh Ngữ, mà Chánh Ngữ của mình một là trong Giới Nguyện là không phạm giới vọng ngữ. 

Không phạm giới vọng ngữ mình là người đang giữ giới nguyện. "Tôi phải nói thật, tôi không nói dối" đó là đang giữ giới nguyện. 

Còn ngăn ngừa trong Thập Thiện, vọng ngữ, ly gián ngữ, thô ác ngữ, hồ ngôn loạn ngữ trong đời sống của mình nói, thì lúc bấy giờ là mình giữ cái Ngăn Ngừa, đối với phàm tam nhân, một trong 4 pháp về ác ngữ nghiệp mình không phạm vô, còn đối với các bậc hữu học, các bậc Alahan họ giữ.

Cũng vậy, Chánh Nghiệp, tức là Chánh Nghiệp này là hành động của họ, thân, ngữ, ý. Chánh mạng là việc nuôi mạng của họ, thì họ luôn luôn sống trong trạng thái có giới ngăn ngừa và các Alahan thì họ có cả 3 và nhất định là đi chung, còn các quí Ngài bất định mà đi riêng, tùy trường hợp khi có khi không. 

Như việc nuôi mạng, thì vì nuôi mạng mà họ phải nói, vì nuôi mạng mà họ phải hành động, thì Chánh Ngữ Chánh Nghiệp trong Chánh Mạng này họ phối hợp. 

Còn nếu như không vì nuôi mạng họ chỉ nói thôi, chẳng hạn người ta nhờ thuyết pháp, nói pháp, thì trong Chánh Ngữ của họ nói ra thì không có Chánh Nghiệp Chánh Mạng không có.

Còn các vị Sư hay các vị Thầy, hay các quí Phật tử thuyết pháp giảng đạo vì nuôi mạng, thì lúc bấy giờ mình có Chánh Ngữ ăn khớp vô việc nuôi mạng này.

Còn nếu như mình vì nuôi mạng mà mình không giữ được Chánh Ngữ thì mình phạm vô phần tà ngữ.

Do đó, phần 3 Ngăn Trừ Phần này trong câu hỏi bậc Thánh hữu học thì bất định đi riêng mà không có nhất định mà đi chung đến bậc Alahan thôi, đối với bậc Alahan luôn luôn tuyệt đối không có sai. Nhưng có một cơ hội cho các bậc hữu học khi họ là Thánh rồi, khi họ ở trong Thiền họ ở trong tu tập họ đi Bát Chánh Đạo đủ hết 8 chi của Bát Chánh Đạo.

Câu hỏi tiếp theo câu hỏi 4: qua Thường Cận Y Duyên câu Pháp Thiện làm duyên cho Vô Ký, 12 Tâm Bất Thiện có thể làm duyên cho 9 Tâm Quả Đáo Đại thời tái tục sinh về cõi Phạm Thiên không ?  Trong 129 chi pháp là 12 Tâm Bất Thiện, 27 Tâm Sở hiện hữu, 36 Tâm Quả cả 9 Tâm Đáo Đại.

 Qua phần Thường Cận Y Duyên 

Nicca Sila = giữ giới thường xuyên.

Đời sống mình ngắn ngủi nên khi sống mình phải giữ giới thường xuyên Nicca Sila đến đạo quả hay là cho kiếp sau mình được an lạc, đó là Thường Cận Y Duyên.

Bát Chánh Đạo thật ra không có phàm tam nhân. Bát Chánh Đạo gọi là Bát Thánh Đạo chứ không có Bát Chánh Đạo. Nhưng Đức Phật Ngài dạy 8 con đường này đi đến đạo quả con đường trung đạo Majjhima Patipada Magga thì Ngài vẫn cho người phàm mình hành Chánh Kiến Chánh Tư Duy.

Trong khi Ngài nói Ngăn Trừ Phần chỉ dành cho Alahan bậc vô sinh lúc nào họ cũng sống trong Bát Chánh Đạo thì 3 Ngăn Trừ Phần phần giới đạo.

Bát Chánh Đạo chia làm 3 là:

- Tuệ Đạo có 2 là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy 

- Giới Đạo có 3 là : Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng

- Định Đạo có 3 là: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định

Trong phần Bát Chánh Đạo hay Bát Thánh Đạo, Tuệ Đạo thuộc về Chánh Kiến, Chánh Tư Duy nó là mũi nhọn để cho mình hành đạo.

Vậy thì trong phần Giới Đạo Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng là các bậc Alahan họ là Thánh Đạo, từ ngữ gọi là Ariyasacca là Thánh Đế.

Ariyasacca là Thánh Đế

Ariyamagga là Thánh Đạo

Ariyaphala là Thánh Quả

Thì những cái này các vị Thánh nhân họ đi đứng nằm ngồi trong 4 oai nghi mà trong 3 nghiệp tạo tác thân, ngữ, ý họ luôn luôn sống trong Bát Thánh Đạo.

Thiền sinh hỏi: Đối với người phàm phu thì Giới Nguyện, Giới Ngăn Ngừa, Giới Sát Trừ dành cho bậc Alahan vô sinh. Nhưng theo lời Sư giảng thì mình luôn luôn phải nói mình có 3 giới, nhưng Giới Sát Trừ mình chưa thực hiện được thì mình có bị vọng ngữ không ?

HT trả lời: Giới Sát Trừ mình không bị vọng ngữ, mình sống luôn luôn trong Bát Chánh Đạo là mình có Sát Trừ rồi, nên mình tập cho mình tu tập. Mấy cô đứng ngoài thì đứng ngoài, còn mấy cô muốn hành thì hành, mình noi theo bậc Thánh nhân.

Trong quyển In this Very Life Ngài Pandita nói : "Ta rất là hạnh phúc sinh ra trong gia hệ của bậc Thánh tộc, do đó đường của bậc Thánh nhân đi đường của ta noi theo" Ngài Pandita nói rõ như vậy đó, mình không có bỏ, mình đứng ở ngoài không sai, mấy cô có quyền đứng ngoài.

Như ta nguyện Balamat, nguyện một Balamat được, nhưng tối cô nguyện 8 giới được hay 10 Balamat cũng được, tại vì mình không có phạm gì hết.

Chánh Ngữ có 4

Chánh Nghiệp có 3

Chánh Mạng có 7

Cái nuôi mạng của người xuất gia người tại gia phải ở trong cái này. Trong Chánh Mạng người cư sĩ tại gia có 5 điều không làm là không bán rượu, không bán thuốc lá, không bán thuốc độc, không bán vũ khí, không nuôi sinh bán tử. 5 điều đó người tại gia không làm, vì đó là tà mạng.

 Thứ 2 cần nhớ Bát Chánh Đạo là bánh xe có 8 căm và trong 8 cái căm đó quí Phật tử không được làm lỏng một cái căm nào hết, vì nếu như lỏng một cái căm thì bánh xe khi chạy sẽ bị lắc giống như bánh xe đạp nếu căm trùng quá thì khi chạy bánh xe sẽ bị lắc. 

Thì Bát Chánh Đạo là 8 cái căm mà người hành giả không cho nó lỏng bất cứ một trong 8 cây căm này, nếu mà lỏng 1 trong 8 cây căm này thì hành đạo không thành, mà còn thậm chí một trong 8 cái này mà đứt thì không có kết quả.

Chẳng hạn, mình đang hành đạo mà mình không có Chánh Ngữ, là mình bị đứt.

nuôi mạng không trong sạch, là mình bị đứt 

Do đó, phải cẩn thận. Mình đang chạy trên xe đạp mà các cây căm nó phải căng đều không được lỏng. 

Cũng như ta giữ Ngũ Quyền ; Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ phải cân bằng, không so le, không cái nào mạnh hơn cái nào yếu hơn. Ngài Pandita nói trên chiếc xe cỗ ngựa mà mình đi mà nó có con ngựa già vô dụng. Ngài Pandita nói nếu có 2 con ngựa một con ngựa mạnh một con ngựa già vô dụng (nag = con ngựa già) nó chạy không được thì nó không lôi được chiếc xe , thì trong Ngũ Quyền Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ, nếu 5 pháp quyền lực đó hay năng lực đó mà yếu một cái thì cỗ xe ngựa đi không được. Phải cẩn thận.

Qua phần Thường Cận Y Duyên.

Câu hỏi: Bất Thiện làm duyên cho Vô Ký. 12 Tâm Bất Thiện làm duyên cho 9 Tâm Quả Đáo Đại thời tái sinh về cõi Phạm Thiên giới có được không ?

9 quả Đáo Đại là 5 quả Sắc Giới + 4 quả Vô Sắc Giới.

12 Tâm Bất Thiện nó chỉ làm cho 7 Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân. Thì cái này nó xa lắm. Mà đối với Tâm Sắc Giới tâm thiện nào cho quả đó khắn khích nhau nó không rời. Đối với Tâm Đại Thiện thì nó cho 8 Đại Quả, cho 8 Quả Vô Nhân nữa, nó không rời. 

Nhưng đối với Sắc Giới, Vô Sắc Giới mà là 9 Tâm Đáo Đại thì là thiện nào vô quả đó khắn khích nhau.

Câu hỏi: Bất Thiện làm duyên cho Vô Ký. 12 Tâm Bất Thiện làm duyên cho 9 Tâm Quả Đáo Đại thời tái sinh về cõi Phạm Thiên giới có được không ?

Trả lời là:  Không có, mình nói về chi pháp mà, nó quá sức đi. Họ đưa  câu hỏi mà nó không vô một cái điểm tựa nào hết.

Giờ nói tới phần Thường Cận Y Duyên trước

Upanissāya paccaya 

Upanissāya Cận Y Duyên có 3 là : 

- Cảnh Cận Y Duyên = nó bằng với Cảnh Trưởng Duyên. Cảnh Trường Duyên có 2 là Cảnh Trường và Câu Sinh Trưởng

- Thường Cận Y Duyên

- Vô Gián Cận Y Duyên = bằng Alahan vô sinh

Thường Cận Y Duyên nó đi hết trong các lãnh vực của vòng luân hồi, nó là một lãnh vực mạnh mãnh liệt nhất của trong cái Vô Minh Duyên Hành, cho tới khi đắc đạo quả rồi cái Thường Cận Y là cái thói tiền khiên tật thân của họ vẫn chưa hết được. Phải cẩn thận.

Vị Tỳ Khưu Alahan nhảy qua giòng nước là Thường Cận Y, ông có tiền khiên đó bỏ không được, có người đem đi thưa với Đức Phật, Đức Phật nói vị Tỳ Khưu này là Alahan thiệt, nhưng do tiền khiên tật thân thường cận y duyên này có thói quen như vậy, hễ thấy vũng nước là nhảy, ngày xưa trong 500 kiếp ông là khỉ.

Nhưng mà Vô Gián Cận Y này là chỉ có các bậc Alahan họ khắn khích trong đường Đạo Quả họ tu tập.

Thế thì trong 3 Cận Y Duyên này, Cảnh Cận Y Duyên, Thường Cận Y Duyên, Vô Gián Cận Y Duyên, người phàm tam nhân hay người phàm nhân hay là bậc Thánh hữu học hay là bậc hữu học như ta đây có bao nhiêu loại duyên ? 

Vô Gián Cận Y Duyên là bậc Alahan họ sống luôn luôn tinh cần không gián đoạn. 

Cận Y Duyên nghĩa là gần gủi nương nhờ sát cạnh không rời xa mà nương vào cảnh gần nhau.

Thường Cận Y Duyên là thân, ngữ, ý luôn luôn sống với nhau, đó là Thường Cận Y. Thân, ngữ, ý của ta cận y với thân, ngữ, ý của người.

Cảnh Cận Y Duyên là Tâm của ta bắt gần với cảnh không rời.

Vô Gián Cận Y Duyên là liên tục không gián đoạn, nương tựa gần và không gián đoạn.

Cảnh Cận Y là Cảnh Trưởng.

Cảnh Trưởng có 2 là:

Tư Duy Duyệt Ý

Thực Tính Duyệt Ý / Bất Duyệt Ý

Thì phần Cảnh Trưởng Duyên thường thường nằm ở trong phần Duyệt Ý

Thí dụ như: Tư Duy Duyệt Ý là theo cái ý của mình là mình thích, nó thuộc cảnh trưởng của mình.

Rồi vô Thực Tướng Thực Tính của nó là Duyệt Ý là nó làm cho mình thức tỉnh, chẳng hạn như Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã là Thực Tính Duyệt Ý mình thích hay không thích cũng là của nó không ảnh hưởng gì hết.

Do đó, đứng về con người mà sống nhiều về tập khí thì họ sống trong Tư Duy Duyệt Ý.

Đứng về con người tu tập họ biết được sự thật, dù cho sự thật có phũ phàng hay có đau khổ nhưng sự thật đó làm cho họ thức tỉnh thì gọi là Thực Tính Duyệt Ý.

Cảnh Trưởng Duyên.

Những người nào họ đi tu hay trong đời sống hàng ngày của họ, họ càng có Cảnh Trưởng, họ càng có Cảnh Cận Y họ mới sống được, những người đó là họ bám chặt, chẳng hạn như người con bám chặt với người mẹ không rời, tại vì nếu ra khỏi người mẹ người con sống không nổi. Cảnh Cận Y giống như cây có rễ bám chặt dưới đất, nếu như nhổ nó khỏi đất là nó chết, đó là Cảnh Cận Y. Cũng như người nghiện thuốc lá, mùi thuốc lá là Cảnh Trưởng của họ là Cảnh Cận Y của họ, họ xa là họ chịu không nổi. Nên người sống trong Cảnh Cận Y tốt cũng có, xấu cũng có, cả 2 mặt. Tư Duy hay Thực Tính, Duyệt Ý hay Bất Duyệt Ý thì thường thường nó nằm trong phần Duyệt Ý nhiều.

Trong đời sống hành ngày mình nghiệm lại quí Phật tử có Cảnh Thường Cận Y Duyên không, có Cảnh Trưởng không ?

Nếu quí Phật tử sống trong Cảnh Cận Y trong phần giới luật thì người đó sống an toàn, rồi từ chỗ Cận Y đó mà coi như là Cảnh Trưởng của họ vừa nương tựa vừa là Cảnh Lớn mạnh của họ cho họ thức tỉnh, thì Thường Cận Y này thường hành theo, nương theo giới luật, chi pháp của giới luật, điều giới học họ có họ nương họ hành thường xuyên mà Vô Gián không rời.

Vô Gián Cận Y của bậc Alahan. Vô Gián Cận Y là Bát Thánh Đạo, họ sống trong Bát Thánh Đạo không rời, đi, đứng, nằm, ngồi họ sống trong Tuệ Đạo, Giới Đạo, Định Đạo, Chánh Ngữ, Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, họ sống luôn trong cái đó, rồi Vô Gián Cận Y, không gián đoạn, không rời.

Thí dụ như quí Phật tử nói sống trong Tam Bảo, sống trong Phật Pháp, sống trong Pháp Học, Pháp Hành, thì những cái đó là những Cảnh Trưởng hay là những suy nghĩ của mình, nhưng mình phải đưa vô khuôn khổ của nó như vậy.

Nếu sống trong Giới Luật thì khi người đã sống được, họ mới nói: giới luật còn mạng sống còn, sự sống còn hay đạo hạnh còn phạm hạnh còn, rồi từ đó xả thí, trì giới, tham thiền, bắt đầu phải đi qua con đường đó.

Do đó, trong Thường Cận Y Duyên có 2 trường hợp là thiện và bất thiện. Có người sống trong bất thiện, họ sống trong sự sát sinh, trộm cắp, tà dâm, hay là sống trong phạm giới, trong ác ngữ, ác hạnh, ác nghiệp, thì đó cũng là Thường Cận Y của họ.

Giống như người ăn trộm họ không rời khỏi cái nghề ăn trộm của họ là cái đó là Thường Cận Y của họ, mà cái Cảnh Cận Y của người ăn trộm đó là tài sản của người ta, là Cảnh Trưởng của họ, họ phải nương vào tài sản của người ta để mà họ lấy về cho họ được mà quyết làm, họ sống bằng nghề đó và thành Vô Gián Cận Y cho người ăn trộm.

- Cũng như người nói dối thì Cảnh Cận Y của họ là họ nói dối, họ thường nói dối là Thường Cận Y, và họ không rời việc nói dối là Vô Gián Cận Y.

- Giữ Giới, thường giữ Giới, nương vào Giới là Cảnh Cận Y, Thường Cận Y, Vô Gián Cận Y. 

- Hành Thiền, nương vào hành Thiền, liên tục hành Thiền không gián đoạn là Cảnh Cận Y, Thường Cận Y, Vô Gián Cận Y.

Vậy thì mình nói bây giờ mình nói mình nương vào cha mẹ, mình luôn không gián đoạn, không có, thì mình chỉ có Cảnh Cận Y.

Hay mình đang đi xa, mình đang đi đâu đó mình nhớ Cha Mẹ mình phải quay về mình nương, đó là Cảnh Cận Y. Còn Thường Cận Y là người đó không đi xa, luôn luôn gắng bó, Mẹ đi trước mình đi sau, Mẹ lên lầu mình lên lầu.

Vị Tỳ Khưu Cảnh Cận Y của anh là gì ? Giới, Định, Tuệ, không được rời, Cảnh Cận Y giống như người con mà đeo sát với người Mẹ, nương vào người Mẹ, và Thường Cận Y ở bên Mẹ, Vô Gián Cận Y là không rời, không gián đoạn.

Mình biết 12 Tâm Bất Thiện chỉ có 7 Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân thôi và nó trở lại Bất Thiện rồi tạo tác ra nữa. Do đó, hồi đó mình học là Tâm Bất Thiện nó không có thì giờ để hưởng.

Thí dụ, khi lọt xuống địa ngục, cảnh khổ vừa đụng vô là tâm sân sinh lên, nên không có thì giờ để hưởng.

Với Tâm Đại Thiện mình có Tâm Đại Quả để mình hưởng, nó có Tâm Quả Thiện Vô Nhân để mình biết, nhưng ít ra mình có 8 Tâm Đại Quả này mình hưởng trong đời sống hàng ngày của mình. 

Còn anh Tâm Bất Thiện tham, sân, si khi trổ quả rồi là chưa hưởng đã tạo quả rồi.

Nên mình phải thấy khi mà tạo Tâm Bất Thiện, Tâm Quả thật ra mình không có hưởng mà tạo tiếp nữa, khổ chồng chất lên khổ, do đó mình mới sợ.

2) Thứ 2, 9 Tâm Quả Đáo Đại này chỉ có nó là kiên cố, là lộ trình tâm kiên cố, là Tâm nào cho Quả đó, Thiện cho quả Thiện.

Nên câu hỏi này không hợp lý.

Câu hỏi 5. Về sách Thanh Tịnh Đạo do Ngài Tịnh Sự dịch, điều này Sư có đề cập trong các buổi giảng. Con xin hỏi là Ngài Tịnh Sự có dịch đầy đủ cả bộ hay không ? Ở Việt Nam con tầm cầu nhưng chưa thấy. Con có một bộ sách photo từ chương 17 đến chương 19 có đề tên Sư Cả Tịnh Sự.

Về bộ Paṭṭhāṇa thì với Ngài Tịnh Sự thì Ngài muốn làm hết tất cả. Thứ nhất Ngài muốn làm xong bộ  Abhidhamma, đó là hạnh nguyện của Ngài , thì Ngài đã làm xong, rồi qua bộ Thanh Tịnh Đạo Ngài có dịch. Nhưng cái này mình phải nói thật là Ngài làm xong một cách tổng quát và kết quả cuối cùng là không dùng được. Lý do là Ngài dùng lối văn của Ngài, như 7 bộ Abhidhamma Ngài dịch xong rồi hiện trong phòng Sư có, người ta gửi qua cho Sư và với một lời chú thích xin nhờ Sư hiệu đính lại vì không học được với văn của Ngài.

Thành ra tất cả những cái không phải chỉ có chương 17 đến chương 19 không đâu, cái nào cũng có hết, ngay cả Liên Quan Tương Sinh Ngài cũng vậy. Thì trong phần Liên Quan Tương Sinh (Thập Nhị Nhân Duyên - paticca-samuppàda,) thì Ngài gọi là Cao Học rồi Ngài ra quyển sách Cao Học; Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Sắc v.v chứ Ngài không có giải thích ra.

Nên quyển Thanh Tịnh Đạo, thật ra ở VN mình chỉ có một người duy nhất làm xong 2 quyển là Ni Sư Thích Nữ Trí Hải dịch từ quyển của Ngài Nanamoli, mà trong 2 tập đó ngày hôm nay người VN cả Chư Tăng cũng không có dùng được tại vì Ni Sư Thích Nữ Trí Hải viết ngắn gọn, đó là điều Sư nói sự thật là vậy đó.

Sư có 4 bộ Thanh Tịnh Đạo: 1 bộ bằng ngôn ngữ Pali và Anh ngữ, 2 bộ của Thái ngữ, và bộ thứ 4 là của Miến ngữ. Bốn 4 đó khác nhau chút chút nó không giống nhau, có bộ chi tiết hơn, có bộ đầy đủ hơn, có bộ nặng về Abhidamma nhiều hơn, có bộ nặng về Pháp Hành nhiều hơn, nặng về Giới nhiều hơn. Tại vì Thanh Tịnh Đạo có 3, Visuddhimagga có 3 ; Giới Thanh Tịnh, Định Thanh Tịnh, và Tuệ Thanh Tịnh.

Do đó, nên trả lời câu này Ngài Tịnh Sự có đầy đủ bộ Thanh Tịnh Đạo, nhưng không dùng được.

Cũng như bây giờ trong phần 7 bộ Abhidhamma bên Viện Phật Học Vạn Hạnh gửi qua nhưng dùng không được. 

Chẳng hạn như Āsevanapaccaya  dịch là Trùng Dụng Duyên, tức là dùng đi dùng lại.

Thí dụ như cô sống với một Cảnh Trưởng của cô là bố thí, người sống với Cảnh Trưởng là bố thí từ khi họ sống cho đến ngày chết, từ khi mở mắt tới khi nhắm mắt ngủ họ sống là phải xả thí, không xả thí không được, họ thích xả thí, cái gì họ cũng tìm cách để xả thí. 

Mà xả thí có 3 cách; xả thí về thân, xả thí về lời, xả thí về ý.

Thí dụ như xả thí về ý là lúc nào cũng vậy đó, họ hành thiền, họ bỏ thời gian công sức của họ cho việc thiền, đó là xả thí về ý.

Xả thí về ngữ là họ nói Pháp, họ chỉ dẫn người này nấu ăn cũng là xả thí về ngữ.

Xả thí về thân thí dụ như có của họ cho, hay làm việc công đức giúp đỡ người khác, đó là xả thí về thân.

Thân xả thí, ngữ xả thí, ý xả thí, họ nguyện trước bàn thờ nguyện ngày 24 tiếng con nguyện xả thí thân ngữ ý thì họ lấy cái đó làm hoài.

Thì cái đó, ngày này ngày kia việc này từ thân qua ngữ qua ý họ làm với trạng thái lập đi lập lại gọi là Trùng Dụng Duyên Āsevanapaccaya. Pháp Thiện làm duyên cho Pháp Thiện là Trùng Dụng Duyên Āsevanapaccaya, nó thuộc về giống Vô Gián, liên tục không gián đoạn, hết xả thí ngữ đến xả thí ý, hết xả thí ý đến xả thí thân, hết xả thí vật đến xả thí công đức, xả thí Pháp, xả thí tài sản, họ lúc nào cũng xả thí hết, họ cho ra cho ra, họ không bỏn xẻn, không dính mắc, đó là họ xả thí. 

Thì cái đó gọi là Trùng Dụng Duyên Āsevanapaccaya, sống bởi sự lập đi lập lại này. Mà hồi trước Ngài dịch là Cố Hưởng. Mấy bậc trí giả nghe mà giựt mình, ủa sao Āsevanapaccaya dịch là Cố Hưởng nghĩa là mình tham, chữ Cố Hưởng nặng lắm.

Cho tới ngày hôm nay trong các quyển sách của Ngài dịch Ngài sửa là Trùng Dụng Duyên rồi, trong quyển Nội Dung Vô Tỷ Pháp Ngài dịch là Trùng Dụng Duyên rồi, nhưng trong quyển cũ đưa lên Viện Phật Học họ vẫn để Cố Hưởng, khi họ gửi qua cho Sư họ nói quyển này không dùng được. 

Bậc Alahan bậc Vô Sinh là Tứ Quả Ngài Trùng Dụng Duyên trong Pháp Thiền hưởng Níp-bàn trong Thiền Quả Duyên bởi pháp Trùng Dụng Duyên, thì mình nói Ngài Alahan Cố Hưởng Thiền Quả.

Trùng Dụng là lập đi lập lại chứ không phải Cố Hưởng./.


Tuesday, November 5, 2024

060 Paṭṭhāna - HT Sán Nhiên giảng ngày 27 tháng 5, 2023

                       060 Paṭṭhāna

 HT Sán Nhiên giảng ngày 27 tháng 5, 2023  


Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "060 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Câu hỏi 1 của Phật tử: Trong lộ trình tâm, Lộ Ý Môn Đổng Lực Dục Giới bắt cả 6 cảnh (cả 5 cảnh ngũ hiện tại) hay chỉ biết cảnh pháp ? (tức là 1 trong 6 cảnh đó thôi)

HT trả lời: Khi nói tới Thời (Kāla), thường trong 3 thời; quá khứ, hiện tại, vị lai trong một lộ trình tâm nào cũng vậy, thì trong giai đoạn đầu trước khi vô tới Đổng Lực, Thời (Kāla) chia làm 3, Thời này luôn luôn là Thời Quá Khứ, Thời Đổng Lực là Thời Hiện Tại, và Thời Vị Lai.

                         (I)         (II)               (III)

Thời (Kāla) <------------/ ---------------/ -------------->

                     quá khứ      Hiện tại         Vị lai

 Khi nói tới thời trong Lộ Trình Tâm, khi đưa vào trong Lộ Trình Tâm Đổng Lực thì thời đó tạo tác ra nghiệp báo, thì lúc bấy giờ : 

Hiện tại có 3 tới 4 phần:

Thứ nhất là, Hiện Tại nghiệp là Đổng Lực I

Thứ hai là, Hậu Hậu Báo Nghiệp là Đổng Lực từ 2 tới 6 

 Thứ ba là, Hậu Báo Nghiệp là Đổng Lực 7

Còn 3 giai đoạn này  không trổ sanh quả báo là Vô Hiệu Nghiệp Ahosikamma 

Nếu nói về Thời (Kāla), khi qua Lộ Ngũ Môn cũng vậy hay Lộ Ý Môn, tạo tác vô tới Đổng Lực là qua hiện tại.

Sau khi Khai Ý Môn xong rồi thì vô phần Đổng Lực liền, còn phần Lộ Ngũ Môn qua mấy giai đoạn sát na tâm, sát na thứ nhất là sát na Khai Ý Môn, tiếp thâu, thẩm tấn, đoán định thời kỳ đó là quá khứ, nó thuộc về Tâm Quả Dị Thục, thiện hay bất thiện tùy theo nghiệp tạo ra trong thời quá khứ nó bắt lấy cảnh lúc đó thuộc về quá khứ.

Nhưng khi qua tới phần Đoán Định Voṭṭhabbana gọi là Đổng Lực javana  tạo tác nghiệp lực thì đó là thời hiện tại. Nên trong bộ Paṭṭhāṇa nói Lộ Trình Tâm đều nói về 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai, nhưng cái đó là nói tổng quát, nhưng vô chi tiết thì mình chia thời theo Lộ Trình Tâm thì mình phải biết như vậy.


                         (I)         (II)               (III)

Thời (Kāla) <--------------/ ---------------/ -------------->

                     quá khứ      Hiện tại         Vị lai

                   

Nếu nói Thời này là Lộ Ngũ Môn thì sài Tâm Quả Dị Thục Vipakacitta quá khứ, Thiện hay Bất Thiện là do nghiệp duyên của nó. 

Rồi khi vô tới phần ảnh hưởng của  Đổng Lực javana lúc đó nó tạo nghiệp mới.

Còn phần Dị Thục Quả là thừa hưởng của quá khứ, cái cũ, chẳng hạn như Tiếp Thâu, Thẩm Tấn, Đoán Định bắt cảnh cũ của nó. Thì nó qua tới phần hiện tại, cái anh tạo ra Lộ Trình Tâm này sẽ tạo ra theo  tập khí của anh do tác ý của anh, do đó, thì lúc bấy giờ là anh tạo tác, rồi mình mới xét lại một tư tưởng thì tư tưởng đó sẽ diễn tiến ra 3 thời kỳ, tư tưởng trước, tư tưởng sau, thì tư tưởng trước thuộc về quá khứ, tư tưởng hiện tại đang cảm xúc hay đang hiện bày trong tâm thức của mình thì cái đó là hiện tại, nhưng nó cũng là quá khứ, nó đi qua cũng là quá khứ.

Khi nó rớt vô phần Na Cảnh. Thì phần Na Cảnh là sau khi hết Tâm Đổng Lực. Thì Na Cảnh là 8 Tâm Đại Quả, thuộc loại quá khứ. Quá khứ của vị lai nó tạo một Lộ Trình Tâm tiếp. Vì anh vị lai này trở thành quá khứ của lộ trình tâm kế và cứ tiếp nối như vậy giòng tâm thức luân chuyển trong 3 thời luôn luôn như vậy.

Nên nhìn thấy nó mình có một cái gút trong suy nghiệm là mình ăn đồ cũ và mình tạo ra cái mới, không bao giờ mình ngừng lại. Vật thực mình làm nhưng khi mình ăn khi mình thọ mình sài Tâm Đổng Lực mới.

 Nếu có Niệm thì Cảnh đó với Tâm Đổng Lực giữ lại cái của quá khứ vẫn giữ nguyên, còn nếu như tâm mình thiếu Niệm ngay sát na Đổng Lực mình phóng dật tâm mình tạo ra một cái mới và có nghiệp lực mới và mình không bao giờ mình ngưng được vòng nghiệp lực này tạo tác ra sự luân hồi lập đi lập lại, mình phải cẩn thận.

 Do đó, mình làm chủ được tình hình là mình phải có Niệm. Nếu mình không làm chủ được thì mình bị ảnh hưởng bởi nghiệp lực do sự tu tập của mình hay do tác ý của mình. 

Do đó, khi nói tới tác ý thì phải biết là một Lộ Trình Tâm đã kết thúc của 7 Tâm Sở biến hành trong một Lộ Trình Tâm hay trong một tâm thức. 7 Tâm Sở Biến Hành đi hết trong 121 Tâm. Thì trong khi nó tới tác ý thì nó phải trải qua Cetana là nghiệp báo gieo hạt giống trong đó, nó liền nhau, không thể tách rời nó được và không thể nào bẻ gãy nó được. 

Cetana (tư hay là tác ý) = Kamma (nghiệp)

Đức Phật nói chỉ khi nói tới Cetana tức là Tư hay là Tác Ý thì nó bằng với Kamma. Thì chỉ khi nào Kamma này mà mình cắt được là phải tu chứ còn không tu là không có cách nào tách ra được, tại vì Cetana xong nó nhảy vô tác ý thành ra một mãnh lực, và mình chấp anh tác ý khôn, tác ý dại, tác ý khéo, hay tác ý sai, nhưng thật ra Cetana ở trong đó và mình trách không đúng chỗ, do đó mình phải cẩn thận.

 Cetana này là nghiệp, nó là chủng tử, nó nuôi dưỡng lâu đời lâu kiếp.

Bây giờ mình nói Lộ Trình Tâm chia làm 3 thời, chỉ có 7 sát na chia ra 3 thời; thời hiện tại, thời vị lai, rồi nó tiếp tục trổ sinh ra cho tới ngày mình đắc quả Alahan, tới tâm tử của bậc Alahan mới hết, thế thì mình cứ sài tâm mới qua tâm cũ, tâm mới và tâm cũ.

Thí dụ như Ngài Mục Kiền Liên khi đắc quả Alahan rồi nhưng Ngài vẫn trả ghiệp trước giết cha giết mẹ trong thời quá khứ, lúc sắp sửa lâm chung 500 tên cướp vô giết Ngài, đó là hậu hậu báo nghiệp. Cũng như Đức Phật tới ngày Ngài viên tịch thì 3 tháng trước Ngài thọ bệnh kiết lỵ do cho thuốc lầm thời quá khứ Ngài vẫn phải trả.

Do đó, nghĩ tới Cetana này là Tư Tâm Sở là chủ mọi tạo tác nghiệp lực thiện hay bất thiện, hiệp thế hay siêu thế đều làm chủ hết. Mình nói ra là do Cetana này là Tư Tâm Sở tác ý, manasikāra chỉ là sai bảo thôi, mình học về 7 tâm sở thì mình biết nó là Tâm Sở Biến Hành, là nó không bao giờ  tách rời được khi tâm sinh thì nó tứ đồng 7 Tâm Sở này vô.  6 Tâm sở kết nó là biệt cảnh, có cảnh có, có cảnh không, thì nó không vô Tâm Sở Thọ, cái này là biệt cảnh. 13 Tâm Sở này gọi là Tợ Tha đi theo giống tính của tâm thức, nó chia ra nhưng chủ lực của 7 Tâm Sở này.

Thì khi đã nói tới Thời, thì Lộ Ý Môn hay Lộ Ngũ Môn. Có lần cô Diệu Pháp ở chùa Kỳ Viên cô hỏi: "có khi nào mình chặn nó được không, có bẻ gãy được không  ?" Không chặn, không bẻ gãy được, phải chịu nó qua một giai đoạn rồi mình tạo cái khác. 

Thí dụ: mình sai lầm một tư tưởng một suy nghĩ, mình phóng dật một cái thôi, thì bắt đầu cái sau mình chuẩn bị lại liền, thì cái đó được. Nhưng mình phải chịu cái kia. Chỉ khi nào nó rớt vô Ahosikamma vô hiệu nghiệp thì nó không trổ sinh nghiệp, còn ngoài ra nó lọt vô trong 3 giai đoạn nghiệp hiện tại, hậu hậu báo nghiệp, hậu báo nghiệp, thì vô phương. Thời nào cũng có, quá khứ, hiện tại, vị lai, nó chồng chất nhau xoay liên tục không ngừng.

Mình nói tới Thời là Thời Chế Định. Sư nói thời quá khứ atītākāla, thời hiện Tại, thời vị lai anāgatakāla, thời hiện tại (paccupannākāla). Nhưng đứng dưới góc độ Abhidhamma với Paṭṭhāṇa hay là Abhidhammattha Sangaha hay là Pháp Siêu Lý Paramatthadhamma là Chuyển Khởi chứ không nói đến thời hiện tại, tại vì mình đụng vô nó qua rồi, Thời luôn chuyển khởi, không có thời nào gọi là quá khứ, không có thời nào gọi là hiện tại, vị lai, đụng vô là chuyển rồi, Thời nó đi rất nhanh.

 Do đó, Thời mình nói chế định, thời quá khứ là ngày hôm qua, ngày hôm nay, ngày mai, là chế định. Thật ra đứng đây là mình đang có 3 thời.  Khi Sư  dịch tới phần Chuyển Khởi Pavatti, mình mới giật mình, mình sống trong ý niệm của mình, chứ mình không nắm được thời hiện tại, không có thời nào nắm bắt được hết. Người ta có nói câu: "Không ai tắm trên một giòng sông hai lần" 

Mình học về pháp Siêu Lý Paramatthadhamma chân lý của nó là sự thật thì nó không sài chế định được, mình qui ước với nhau đây là thời quá khứ, đây là thời hiện tại, đây là thời tương lai, chứ thật ra là Chuyển Khởi Pavatti, không bao giờ nắm bắt được.

Đối với Đức Phật, thì có khi Ngài phải sài ngôn từ là một thuở xưa, có thời kỳ khi nói về Jātaka bổn sinh của Ngài thì Ngài nói thời quá khứ. Thì đối với Đức Phật sát na tâm lúc nào cũng là hiện tại và đang hiện bày.

Nếu nói thời nào thì mình phải nói tới Lộ Trình Tâm cắt ra như vậy mới được và một lộ trình chỉ có 3 thời kỳ, một lộ trình như vậy tiếp nối nhiều lần lập đi lập lại mới ra một tư tưởng hay một ý niệm hay một suy nghĩ thì nó qua 3 thời, mà trong 3 thời đó chung trở lại chỉ là thời Chuyển Khởi Pavatti, không có thời nào là xác định,  khi ta nói tới quá khứ thì nó đã qua rồi, khi ta nói hiện tại thì nó đã đi rồi, nói tới vị lai nó đã tới rồi, đó là trong cách nói về Thời.

Mình nói cho kỹ cho chính xác thì mình viết xuống rồi mình coi lại Lộ Trình Tâm và trong pháp nào đó nếu ta nói siêu lý thì ta nói vậy, nếu ta nói đến chế định hay qui ước ta theo 3 thời; quá khứ, hiện tại, vị lai.

để hình 60.18.08



Do đó, có 2 cách giải thích. 

- Khi nói tới chế định (Pannatti) qui ước thì nói thời quá khứ, hiện tại, vị lai.

- Khi nói tới siêu lý Paramattha thì đó là thời kỳ chuyển khởi, bắt đó thì nó qua thời gian khác liền.

Lộ Trình Ngũ Môn, và Lộ Trình Ý Môn. Thì giai đoạn của Lộ Trình Ngũ Môn ở tiền Đổng Lực thì nó thuộc về quá khứ, vô Đổng Lực ngay đó là thời hiện tại, nhưng trong thời hiện tại đã chia 3 thời, và qua khỏi Na Cảnh bước qua giai đoạn tadālambana tức là qua phần Na Cảnh hay  trở lại Tâm Ngũ Phần nó thuộc vị lai của quá khứ của lộ trình mới, vị lai của lộ trình tâm này nhưng nó thuộc quá khứ của lộ trình tâm mới đó là giai đoạn. Nhưng đứng ở trong Lộ Ý Môn vừa Khai Ý Môn xong bước vô Tâm Đổng Lực là nó bắt hiện tại liền. 

Nên Đức Phật Ngài nói Ý Nghiệp Lực nằm ở trong phần Tâm Đổng Lực. Tuy nhiên đứng về siêu lý mỗi tâm đều có nghiệp lực, mỗi một sát na tâm đều có ý nghiệp lực, tại vì có Tâm Sở Tư Cetana nằm trong đó, nó gieo hạt giống.

 Do đó, mình nói như vậy thì mình nói rõ hơn.

Có cách người ta hỏi câu đó, mình hỏi người ta là nói theo Siêu Lý hay nói theo Chế Định thì họ sẽ cho ra, muốn nghe Siêu Lý thì mình nói theo Siêu Lý.

Thiền sinh hỏi: Trong mỗi một sát na đều có tư tâm sở Cetana trong đó rồi, thì như vậy có phải là giải thích cho mình là cái suy nghĩ cứ lập đi lập lại thì nó cho ra một hành động liền. 

HT trả lời: Nó ra một cái nghiệp liền.

Trả lời 2 cách, bạn muốn nói về chế định thì mình nói chế định, bạn muốn nói về siêu lý thì nói siêu lý, nói chế định có 3 thời, nói về siêu lý thì nó là chuyển khởi. có một thời thôi.

Thí dụ như nói về Giới Sila, thì nói giới cư sĩ, giới người tu sĩ, giới cho người tại gia, giới cho người xuất gia, đó là nói theo chế định. Nhưng nói Giới theo Siêu Lý thì chỉ có một là giữ Tâm thôi. Do đó, phải cẩn thận, mà nếu nói thì phải nói cho đủ, vừa cẩn thận và vừa cho đủ.

 Như vậy, mình sống đây thì mình sống theo cách nào ?

Khi người ta hỏi mình sống thế nào, thì quí Phật tử là mình đang tu thì mình nói lúc nào mình cũng sống trong Siêu Lý, lúc nào mình cũng sống trong thời Chuyển Khởi, thì mình mới thấy.

khi mình nói tới Sanh / Diệt nó cũng là qui ước của Chế Định.

Ngài Paṇḍita viết trong quyển In This Very Life, Ngài nói chữ concentration có 2  là momentary và continuous. Thì khi mình sống trong momentary là to be in the moment là anh đang ở ngay trong khoản khắc đó. Còn nếu như continuous là mình sống theo liên tục là của chế định.

Do đó, thì khi mà Niệm cũng vậy mà Định cũng vậy. Định có 3 sát na là: Cận Định, Sát Na Định, Nhập Định. Thì:

- Trong Cận Định đã có Sát Na.

- Trong Nhập Định đã có Sát Na

Nên Sát Na Định (momentary) là nằm ở trong lúc nào cũng có như trong lộ trình tâm lúc nào cũng có Tư Tâm Sở Cetana

Vậy thì, khi nói tới Chế Định, khi đang tập trung, đang nhận thức, đang có suy nghĩ, đang có tập trung một chỗ, mình đang sống trong thời hiện tại hay đang sống trong khoản khắc của sát na. Thì mình nói mình đang sống trong sát na mình mới có sát na định với sát na Niệm mình mới có sát na đạo sát na quả. Còn nếu mình sống trong tư tưởng thì mình có một Lộ Trình Tâm mình không có sát na đó. Bắt đầu rút lại, khi mình hiểu rồi. 

Tuần rồi mình học Lộ Trình Tâm; Thu Dung, Lập Thành, Ý Nghĩa, lập đi lập lại nhiều vòng, trong khi đó Đạo với Quả chỉ có một sát na, quí Phật tử làm sao lọc được trong nhiều vòng đó hay một lộ trình tâm đó, một sát na để có sát na Tâm Đạo, sát na Tâm Quả, bắt được cảnh Níp-bàn. Chỗ đó là mấu chốt, rất vi tế để nắm bắt được nó.

Mình đọc cái đó mình phải nghiệm liền. 

Một phẩy tay ngoắc người ta thôi hay mình nghe người ta gọi mình, lập đi lập lại nhiều vòng, trong khi đó con đường đến Đạo và Quả chỉ một sát na thôi, sát na Đạo sát na Quả.

Các quí Phật tử phải tìm ra được cái đó 

Thiền sinh hỏi: khi nói tới sát na Đạo, sát na Quả thì trước sát na Đạo sát na Quả để cho mình biết được, mình có 3 sát na, cái đó là Hữu Phần ?

HT trả lời. Không phải sát na Hữu Phần, nó là sát na Đổng Lực. 3 sát na trước cô nói là đúng, nhưng nó là Đổng Lực, nó không phải là Hữu Phần. Tâm Hữu Phần Bhavaṅga thuộc về Tâm Quả có Thuận Tùng, Cận Hành, Chuyển Tộc.

Thiền sinh: Nhưng trước khi vô sát na Thuận Tùng, Cận Hành, Chuyển Tộc nó phải có 3 cái Hữu Phần, nhờ cái đó nó thuộc quá khứ rồi, nhưng khi có cái đó mình mới biết được mình sắp sửa vô chuẩn bị Thuận Tùng.

HT trả lời: Không phải, nếu mình nói theo Lộ Trình Ngũ Môn qua Lộ Trình Ý Môn thì nó có vượt qua chấn động, nhưng cái đó nó đứng ngoài lộ  nhưng đưa vô sát na Tâm Đạo Tâm Quả là ở trong lộ thì nó thuộc Đổng Lực.

Thiền sinh: Tại vì ngay đó Lộ Ý Môn vừa 3 sát na của Hữu Phần, vừa qua chấn động nó vô ngay Lộ Ý Môn, nó vô luôn Đổng Lực, mà Đổng Lực đó có Đạo Quả.

HT trả lời: Không có,  lúc đó lộ trình bắt đầu diễn tiến từ lộ trình của Thuận Tùng tiếp nối qua lộ trình Cận Hành tiếp nối qua lộ trình Chuyển Tộc tiếp nối nhau.

Mình đọc một bài kinh của Đức Phật nói, hay của các quí Ngài nói,  mình nghĩ là lộ trình tâm mà Tâm Đạo chỉ có một sát na Tâm Quả, mà chắc chắn thuộc về Ý, chứ không thuộc về Hữu. Ngay cả ông Bà La Môn Bahiya bị con bò húc vào người chết ngã bên đống rác, ông đắc quả Alahan cũng phải Na Tùng Lưu Hành, khi bị đụng là thân thức rồi qua ngũ môn rồi qua ý môn là vô liền.

Do đó, khi không biết gạn lọc về tư tưởng của mình, không biết gạn lọc về lộ trình tâm của mình và mình không kiểm soát được những diễn tiến của tâm thức mình theo chức năng của tâm thức thì mình gieo hạt giống, Sư đã nói khi mình có sát na tâm sở tư là nó ra tác ý nó ra hiện bày liền

Quá khứ vừa qua, tới đây đổng lực này là của mình hay của nó, nếu của nó thì nó vẫn tiếp tục tạo ra theo tác ý của nó, còn nếu như mình chặn được thì lúc đó mình tạo ra đổng lực mới.

Thí dụ:

1) Thực phẩm ngon (thọ thực) ---> Tâm Đổng Lực 

Thực phẩm ngon, mình xác định lại là Tâm Đổng Lực 

giờ mình nói ngược lại

2) Thực phẩm dở (thọ thực) ---> Tâm Đổng Lực

Hai cái đó cho mình nghiệm ra một vấn đề mình làm chủ được Tâm mình thì cái đó theo tác ý chủ quan, nếu mình không làm chủ tâm mình được thì tác ý lúc đó mình rớt vô trong trạng thái bị động một cách khách quan và nó quyết định của cảnh.

Thọ thực thực phẩm ngon có 2 hạng: người tại gia, người xuất gia, người có tu, người không có tu Tâm Đổng Lực khác.

Thọ thực thực phẩm dở người xuất gia thấy vẫn tốt, còn người tại gia thì chê.

 Lúc đó tư tưởng nhìn trở lại thực phẩm là nó bắt cảnh cũ, nhưng nó nhìn xuống đó là cảnh của nó là cảnh nghiệp quả, nó không nhìn qua vật thực. Cảnh này là cảnh nghiệp của ta, ta đã vô tròng giờ ta phải thọ, họ giữ tâm của họ được.

Nếu như nhìn trở lại ta chưa từng thấy có thực phẩm này, tâm mình hiện ra liền theo cảnh đó liền.

Vậy thì, với 2 thí dụ này mình rút ra được phần Tâm Đạo, Tâm Quả. Của thực phẩm thì ra Tâm Đạo này, mà của nghiệp là  nắm bắt được hiện tại của Tâm Đạo này.

Tâm Đạo phát sinh lên của phần vật thực đưa tới hay là phần nghiệp mình đang có.

Tâm Đạo có từ trước hay Đạo có từ hiện tại.

Thực phẩm ngon Tâm Đổng Lực có từ trước hay Tâm Đổng Lực có ngay trong hiện tại.

Thực phẩm dở Tâm Đổng Lực có của quá khứ của thực phẩm dở hay của ngay hiện tại.

Từ 2 cái đó mình mới thấy là mình tắc nghẽn ngay chỗ đó không tìm ra được vị trí của mình, đừng nói tâm của mình có.

Trở lại,

Thực phẩm ngon quí Phật tử có Tâm Đổng Lực gì ? Đổng Lực này của thực phẩm ngon, hay Đổng Lực này của quí Phật tử có, không ảnh hưởng gì của thực phẩm ngon dở.

 Do đó, quí Phật tử thấy chỗ này thôi thì mình biết mình không có nắm bắt gì hết, thuận đâu là chạy theo cảnh đó.

Thực phẩm không ngon, đương nhiên Tâm Đổng Lực là than, nhưng không than, vì là người tu. Thực phẩm dở, đương nhiên là tâm sân rồi, nhưng không sân, vì là người tu nên không nề hà vấn đề ngon dở.

Thế thì khi đứng trong cảnh một người tu tập mà đang trong niệm người ta không ôm hoài quá khứ, và không nghĩ cảnh quá khứ người ta chỉ nghĩ hiện tại thôi, và họ làm chủ tâm thức của họ tạo tác ra nghiệp lực của họ chứ không để cho quá khứ tạo tác cho chủ động quyết định nghiệp lực của họ, không bị ảnh hưởng và không bị tạo tác ra nghiệp lực. Cái đó mình xác định được, không phân biệt người xuất gia hay người tại gia.

Mình giựt mình liền nếu nó chân thật thì mình thấy là Tâm mình đang phóng dật, không biết nằm ở đâu.

Trong mỗi sự việc, mỗi tình huống, mỗi phút giây, mỗi đối tượng, các quí Phật tử không xử lý được.

 Trong tứ nhân sinh Tâm, đọc lại chương I, Tâm Nhận Thức, 4 nhân sinh tâm nhận thức:

1. thứ nhất là sánh sáng, 

2. thứ 2 là thần kinh nhãn, 

3. thứ ba cảnh sắc, 

4. thứ tư là tác ý.

Tác ý là của mình, còn ánh sáng, thần kinh nhãn, cảnh sắc của mình không ?

Tứ nhân sinh tâm nhận thức

1. Thần kinh nhãn (Quả dị thục)

2. Cảnh sắc (bên ngoài)

3. Ánh sáng (bên ngoài)

4. Tác ý

Trong 4 nhân sinh Tâm Nhận Thức thì cái nào của mình. Giờ mình phân tích từ tâm nhận thức.

Thần kinh nhãn (Quả dị thục). Thần kinh nhãn là hệ thống thâu cảnh sắc của tâm thức mình tạo ra. Khi mình nói người này bị cận thị hay bị mù mắt, thì Thần kinh nhãn cho quả dị thục.

Cảnh sắc là quá khứ, hiện tại, là của mình hay của người, của bên ngoài.

Ánh sáng của ta hay của người, bên ngoài.

Thí dụ, nhìn cái bông.

cái bông là cảnh sắc 

ánh sáng để thấy được cái bông.

Thần kinh nhãn là quả dị thục

tác ý (đổng lực)

Tâm nhãn thức (quả dị thục) có 2 là bất thiện và thiện.

Khi ta nói Tâm Nhận Thức, 4 nhân sinh Tâm Nhận Thức, và Tâm Nhận Thức này là quả dị thục chỉ có 2 là quả bất thiện và quả thiện. Thì tất cả những nhân sinh ra nó thuộc về quá khứ hết và nó ảnh hưởng của một duyên nghiệp chứ không thể nào riêng được.

Tại sao mình có cảnh sắc này ? Không thể nói là không có nhân không có quả.

Tại sao mình có ánh sáng này ? Không có vô nhân vô duyên được.

Tại sao có thần kinh nhãn này ? Không có vô nhân vô duyên được.

Tại sao có tác ý này ? Không phải vô nhân vô duyên được.

 Nó có hết, trừ khi mình bác hết cái này, bác nhân, bác duyên thì mình là tà kiến, do chấp lầm, do kiến chấp của mình sai, thì phải cẩn thận.

Tất cả mỗi yếu tố này đều có yếu tố của nhân duyên, có nhân có quả hết.

Cảnh sắc này, ánh sáng này, thần kinh nhãn này, tác ý này, đầu tiên thuộc  quá khứ và nhân duyên của mình tạo tác ra trong đời quá khứ, không có ngẫu nhiên được, mình xác định.

 Tâm Nhận Thức đứng một mình, nó không thành tựu, nó phải qua một lộ trình Tâm Ngũ Môn mới ra được, một sự thành tựu của cảnh sắc. 

Tâm nhận thức không đứng một mình được, phải qua tiếp thâu, thẩm tấn, đoán định, rồi đổng lực. Tới khi tới tiếp thâu, thẩm tấn, đoán định, đổng lực, thì lúc bấy giờ nó vô trong đổng lực này.

Tiếp thâu tâm thân thức thẩm tấn, đoán định rồi tới đổng lực  trong thí dụ (1)

1) Thực phẩm ngon (thọ thực) ---> Đổng Lực 

Thì bắt đầu người ta hỏi lúc anh thọ thực phẩm này anh sài tâm quả dị thục, ngon hay dở nó là yếu tố, nhưng người ta hỏi tâm của anh và cái tạo tác ra, lúc đó mình nói sao ?

Nếu mình gạn lọc được mấy cái đó thì con đường Đạo Quả của mình ra được. Còn không gạn lọc được con đường Đạo Quả của mình không ra được.

Thọ thực phẩm thuộc thân môn, do lưỡi, thọ vật thực, sài Tâm Đổng Lực nào ?

Nếu quí Phật tử không ra được cái đó thì không ra được 10 tuệ Minh Sát Trí.

16 Tuệ Minh Sát Trí 

1. Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc.

2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.

3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā).

4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt.

5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.

6. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ.

7. Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành.

8. Nibbidā ñāṇa: Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản.

9. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát.

10. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành.

11. Paṭisaṅkhā ñāṇa: Tuệ suy tư.

12. Saccānulomika ñāṇa: Tuệ thuận Tùng (thuận theo thực tế, tức thuận theo Tứ Diệu Ðế).

13. Gotrabhū ñāṇa: Tuệ chuyển tộc, vào lúc "chuyển thay dòng dõi" (tức từ phàm trở nên Thánh).

14. Magga ñāṇa: Ðạo tuệ.

15. Phala ñāṇa: Quả tuệ.

16. Paccavekkhaṇa ñāṇa: Tuệ ôn duyệt.


Tới số 10 là Hành Xả bao nhiêu biến động chứ đâu có đơn giản. Phân biệt danh sắc nó là trung tính, nó chỉ là phân biệt thôi, nhưng tới hết sinh diệt rồi hoại diệt, rồi bắt đầu tam tướng Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã tới, bắt đầu khổ đến cho tới phần thứ 10 quí Phật tử phải giữ Tâm Hành Xả trước nghịch cảnh.

Mình đọc kinh sách để có Tuệ Văn để có Tuệ Tu, mà Tuệ Tu đó phải chính xác, qua Tuệ Tư mình phải có xác định rõ ràng. Có Tuệ Văn, có Tuệ Tu nhưng Tuệ Tư đó mình quyết định, nếu không có quyết định Tuệ Tu đi theo sự Tu Tập của mình.

Thì bây giờ quí Phật tử thấy cửa ngõ Hành Xả, muốn qua Hành Xả thì mới qua tới Thuận Tùng, rồi Chuyển Tộc, rồi Đạo Quả.

Thì cửa ngõ Hành Xả là phải chặng đứng hết ở ngay Tâm Đổng Lực. Nếu không chặn đứng Tâm Đổng Lực này của Hành Xả Trí Vipassana ñāṇa thì không có cửa mà qua tới Thuận Tùng, Cận Hành đi tới Đạo Quả được.

Saṅkhārupekkhā ñāṇa Hành Xả Trí, là tuệ thứ 10 trong Vipassana ñāṇa. Mà trong tuệ thứ 10 Vipassana ñāṇa đó phải tu tập giữ tâm ở trong trạng thái xả thọ.

 Thiền sinh hỏi: Con có một thí dụ và con không biết con đứng ở chỗ nào ? Con kể một câu chuyện về bữa hôm anh Mai nằm ở nursing homes (viện dưỡng lão) mỗi ngày khi người y tá bưng mâm cơm tới, ổng không thử món gì hết mà ổng nói cơm dở không ăn. Con mới dỗ và nói bao nhiêu người làm cực khổ để ông có bữa cơm ăn mà ngon hay dở gì cũng phải ăn để mà uống thuốc, ông nhất định không ăn, ngày nào cũng vậy, thì con nói bây giờ ông không ăn tôi phải ăn tại vì không có bỏ, ngon dở gì không biết lúc đó phải ăn vì mình không bỏ thức ăn. Thì khi con ăn con biết thức ăn không vừa ý mình vì họ nấu theo Mỹ, mình không nghĩ rằng phải ngon mà mình phải ăn vì không thể bỏ được. Thì con không biết con đứng ở chỗ nào ?

HT trả lời: Đức Phật nói với các vị Tỳ Khưu: Này các vị Tỳ Khưu, có bà tín nữ đắc Nhị Quả, các vị Tỳ Khưu khi đến nhà đó lấy vật thực thì phải cẩn thận. Nhưng ngày các vị Tỳ Khưu tới lấy vật thực của bà cúng dường, thì thấy bà cầm cung tên đưa cho ông chồng đi săn.

Các vị Tỳ Khưu thắc mắc, bà này đắc Nhị Quả rồi sao còn đưa cung tên cho ông chồng đi săn là tiếp tay trong nghiệp sát sinh. Các vị Tỳ Khưu hoài nghi lúc đó bà đứng trong vị trí nào, và tâm nào bà đang ở trong đó, và nghĩ sao về tâm này vì bà đã là vị Thánh nhân.

Đức Phật Ngài nói cẩn thận, Ngài dặn dò các Chư Tăng Phật tử đừng khinh xuất để người ta chê bai chỉ trích Tăng đoàn của Ngài, Ngài nói chỗ này có Thánh nhân mình cẩn thận.

Cũng như mấy cô để ý, cứ mỗi lần đi qua Miến Điện Sư đều nói trong đoàn của Sư cẩn thận qua đó coi chừng có Thánh nhân, mình không khinh xuất được, không buộc là người đó xuất gia hay tại gia, người đó bán hàng hay người đó ở trong chùa, mình phải cẩn thận không khinh xuất trong thân, ngữ, ý của mình.

Thì bà đắc Nhị Quả, bà đắc Nhất Lai Tư Đà Hàm, bà sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí trong Phúc Hành Tông là cung kỉnh và phụng hành, chứ bà không làm gì sai, bà sống đúng với tâm chánh pháp và tác ý pháp, nghe lời chồng và thực hiện theo lời chồng, không có cãi, không có tâm bất thiện, bà đang sống đúng pháp chứ không phải sống đúng theo lịnh.

Vậy thì cô Tịnh Từ lúc cô đang thọ thực cô sài pháp Đại Thiện Tương Ưng Trí, cung kỉnh và phụng hành.

Lúc cô Tịnh Từ trả lời ông chồng rồi ăn thì sài tâm gì?

1) Thứ nhất, cô sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, cô sài Xả Thọ là đôi thứ 3 trong 8 tâm đại thiện

 đôi thứ ba

5) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

6) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng  Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

2) Thứ hai, cô đang thực hiện là Chân Tri Trước Kiến, là sửa tri kiến của cô lại, cô không cung kỉnh phụng hành gì hết, cô đang sống trong Chân Tri Trước Kiến, cô nhìn thấy Pháp và sống đúng như vậy không sai trật là Chân Tri Trước Kiến, chứ không có cung kỉnh phụng hành.

Cô sài pháp thứ hai nữa là tùy hỉ công đức, là hoan hỉ lúc nào cũng sống trong Pháp, có là mình hoan hỉ rồi, chứ không phân biệt ngon dở, thích hay không thích.

Cô phân tích ra biết được như vậy, nếu không phân tích được như vậy thì cô sống trong tâm si hoài nghi.

Một sát na thôi, đang Đại Thiện Tương Ưng Trí rớt vô si hoài nghi, rồi qua si phóng dật, tâm mình giao động không biết mình sài tâm gì, pháp này là pháp gì, mình đang đứng ở đâu. Chỉ một sát na là biến đổi mình. Mà cái đó thuộc về Tâm Đổng Lực. Tâm si vẫn thuộc Tâm Đổng Lực.

 Vậy tại sao ta để tâm đó xảy ra ? Mấy cô thiếu Tuệ Văn và thiếu Tuệ Tư. Do đó, Tuệ Tu hỏng, và không có kết quả cả tam tư.

Bữa nay ta học pháp này thì nghiệm lại trong quá khứ cũng như ngày hôm qua và trưa nay ta dùng thực phẩm ngon dở ta sài Tâm Đổng Lực gì ? Ta không có tu.

Khi Sư đưa dĩa trái cây, mấy cô nói: Sư soài này ngon soài này ngọt, mấy cô sài Tâm Đổng Lực của mấy cô  

Còn Sư đưa ra Sư sài Tâm Xả Thí Phúc Hành Tông, Đại Thiện Tương Ưng Trí, hỷ thọ. 

Còn cô đi ngược lại.

Mấy cô tới chùa mình đây là luôn luôn theo Pháp Hành, Sư lúc nào cũng xử dụng Pháp Hành với mấy cô được, mấy cô không biết. Mấy cô phải cẩn thận trong sự tu tập của mình. Đâu phải mình vô khóa tu đâu, trong đời sống hàng ngày có dịp, một tuần lễ mới trở lại học với Sư mà Sư không trắc nghiệm thì mấy cô vuột hết. Ngay phần thực phẩm ngon thực phẩm dở là mấy cô đã rớt rồi. 

Các quí Ngài trước khi đi tới Đạo Quả các quí Ngài nghĩ ta có Tâm Xả Thí Phúc Hành Tông, Đại Thiện Tương Ưng Trí, Hỷ Thọ khi cận tử lâm chung không, nếu mà không có thì ta phải giựt mình vì con đường tu tập ta chưa có kết quả, mình phải lấy tâm đó mới nghiệm ra được.

Các quí cô cứ làm như vậy: "Ta có Tâm Xả Thí Phúc Hành Tông, Đại Thiện Tương Ưng Trí, Hỷ Thọ trong phút cận tử lâm chung không ?" Thì lúc bấy giờ mấy cô biết dừng lại trong lúc hiện tại mình có đang xảy ra với hình thức này. Còn không mình cứ trôi lăn.

Khi mà Đạo và Quả. Đằng trước Đạo là Thuận Tùng, Cận Hành, Chuyển Tộc, cảnh gì nó có thì Tâm Đạo đó nó có theo đó.

 Phần Hành Xả.

Ở tuệ thứ 3 . Sammasana ñāṇa Phổ Thông Tướng, Phổ Thông Tuệ.

Tuệ thứ 3. Sammasana ñāṇa Phổ Thông Tuệ có 3 là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã. Là 3 đặc tướng phổ thông trên Danh và Sắc mình đã nhìn thấy được. Mình phải nhìn thấy 3 đặc tướng phổ thông trên Danh và Sắc mới được, chứ không phải trên hơi thở hay trên tâm thức.

Rồi từ đó đi tiếp tới tuệ thứ tư là Sanh Diệt Trí.

Tuệ thứ 4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ Sanh Diệt Trí.

Thì tuệ Sanh Diệt Trí này đi tiếp Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, chứ nó không đi theo Danh Sắc Sanh Diệt. Nếu đi theo Danh Sắc Sanh Diệt là đi theo chế định. Mà mình đi theo Tướng mình thấy.

Do đó, khi tới tuệ thứ 2 

Tuệ thứ 2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.

Các quí Ngài nói là Tiểu Tư Đà Hườn Cūlla Sotāpanna

Ngài Cundala Ngài nói tuệ thứ 4 mới là Cūlla Sotāpanna .

Ngài Paṇḍita, Ngài Janaka nói tuệ thứ 2.

Thế thì mình bắt theo Ngài Paṇḍita và Ngài Janaka nói tới tuệ thứ 2 thì đạt được  Cūlla Sotāpanna Tiểu Tư Đà Hườn. Cho dù kiếp này mình chưa đắc Đạo Quả nó không mất, kiếp sau mình trở lại tu tập cũng được. 

Lúc đó Nhân Quả, nhân sanh Danh Sắc:

 Tuệ thứ 2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên. 

Họ mới nhìn vô Danh Sắc này thấy Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, họ mới qua tới tuệ thứ 3

 Tuệ thứ 3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). (Phổ Thông Tướng)

Chứ không phải trên Danh Sắc nữa.

Khi các hành giả cứ đi tiếp chỗ Danh Sắc này thì không khi nào tới tuệ thứ 10 tuệ Hành Xả được

Tuệ thứ 10. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành.

Không thế nào hành xả được, mình bị rớt trong chế định, và tiếp tục đi theo kiết sử của mình, không qua con đường diệt kiết sử được. Mình tu tập là phải diệt kiết sử và bắt được thực tính. Nếu như mình đi tu tập còn nuôi kiết sử không bắt được thực tính thì con đường đi đó là con đường sinh tử.

Do đó từ tuệ thứ 4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt. Là sau khi mình trải qua một thực tính và một thực tướng.

Tới phần Hoại Diệt Trí, tuệ thứ 5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.

Rồi tới Bố Úy Trí tuệ thứ 6. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ.

Quá Hoạn Trí Tuệ thứ 7 Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành.

Quyết Ly Trí, Tuệ thứ 8. Nibbidā ñāṇa: Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản.

Dục Thoát Trí, Tuệ thứ 9. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát.

rồi tới Hành Xả Tri, Tuệ thứ 10 Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành.

Thì những tuệ này (từ tuệ thứ 4 đến tuệ thứ 10) đi với thực tướng chứ không đi qua phân biệt Danh Sắc nữa. Mình không còn phân biệt Danh Sắc nữa. Thì Đạo Quả mới ra được.

 Tới Đạo Quả lại có khía cạnh này.

Đạo Quả này, trong kinh Yamaka kinh Song Đối, bộ thứ 6 của Abhidhamma, sát trừ kiết sử chứng đắc Níp-bàn, một lúc 2 cái. Kiết sử nào mình diệt và Níp-bàn nào mình có.

 Sát trừ kiết sử; thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ. Níp-bàn; rỗng không, vô tướng, vô nguyện. Chứ không có Danh Sắc.

Đạo ---> diệt kiết sử

       ---> chứng tri thực tướng

 Nếu ta nói tới phần đầu tiên là con đường lộ chứng đắc Thất Lai tức là Tu Đà Hườn.

Vậy thì khi con đường đi tới Tâm Đạo là mình qui ướt rồi, Thuận Tùng, Cận Hành, Chuyển Tộc. Thì lúc bấy giờ kiết sử có hay lúc đó thực tướng có. 

Thuận Tùng, Cận Hành, Chuyển Tộc, lúc đó kiết sử đang có nó dằn co với tâm mình hay lúc đó thực tính thực tướng càng rõ hơn.

Lúc bấy giờ

1) Kiết sử đang dằn co ?

2) hay thực tướng càng rõ hơn ?

Giai đoạn đang đi tới Đạo.

Ông sadi đi bát với Ngài Xá Lợi Phất, đi qua một ụ đất thấy có dẫn thủy nhập điền hỏi Ngài Xá Lợi Phất cái này từ đâu mà có. Ngài Xá Lợi Phất nói từ Tâm mọi người mà có. Tâm con người làm ra được giòng nước chảy ra ruộng.

Đi một đoạn ông sadi thấy người ta làm bánh xe bò, ông hỏi Ngài Xá Lợi Phất:  ai làm ra cái này ?

Ngài Xá Lợi Phất trả lời: Tâm con người làm ra.

Ông sadi nói: Tâm con người làm ra cái bánh xe bò hả ?

Ngài Xá Lợi Phất nói: được.

Đi tới nữa thấy người ta làm mũi tên, ông sadi hỏi Ngài Xá Lợi Phất: ai làm ra cái này ?

Ngài Xá Lợi Phất nói: Tâm con người làm ra.

Ông sadi mới ngừng đi và nói: "Sư Phụ, bữa nay con không đi bát nữa". Ông sadi xin với Ngài Xá Lợi Phất không đi bát nữa, ông về cốc của mình và ngồi quán lộ trình đưa tới Đạo Quả.

 Lúc bấy giờ ĐĐ Xá Lợi Phất đi bát xong rồi đi về gõ cửa cốc để giao vật thực cho ông sadi đó, thì Đức Phật Ngài chận lại hỏi:

- Xá Lợi Phất hôm nay đi bát có vật thực không ?

- Thưa có.

- Nhiều không ?

- Có

- Đời sống an vui không ?

Đức Phật Ngài chận tại vì ông sadi đang đi tới Đạo Quả, nếu như ĐĐ Xá Lợi Phất gọi mà ông sadi ra mở cửa thì bị cắt đứt dòng tư tưởng đang tập trung. Đó là cái phước của ông sadi là có kết hợp với Đức Phật có Đức Phật Ngài trợ giúp.

Lúc bấy giờ Tâm Đạo của ông sadi đang ở tiến trình đắc Đạo Quả Alahan, đắc luôn 4 Đạo. Thì ông sadi đang ở trong tiến trình kiết sử dằn co hay là ông đang ở tiến trình thực tướng đang có.

Thế thì khi mấy cô tu mấy cô đi theo con đường nào ? đi theo con đường sadi đi hay đi theo kiết sử của mấy cô

Tâm trạng của mấy cô là muốn tu theo thực tướng nhưng kiết sử của mình vẫn còn. Mình muốn tu theo thực tướng mình thấy cuộc đời khổ đau nên mình muốn tu theo thực tướng thôi, còn kiết sử cũ của mình nó không buông mình nó dằn co giữ mình lại, do đó tu khó quá.

Tâm bắt mấy cảnh ?

Tâm bắt một cảnh

Mình có Tuệ Văn rồi mình có Tuệ Tư liền, mà Tuệ Tư này trong tri kiến của mình 

Tuệ Văn  /  Tuệ Tư  / Tuệ Tu

Tuệ Văn:

Thính Pháp

Thuyết Pháp

Tùy hỷ

Khi muốn trau dồi Tuệ Văn này thì mình đi 3 Phúc Hành Tông

Tuệ Tư:

Chân tri trước kiến

Phúc Hành Tông

Tuệ Tu:

Trạng thái ly dục

Hành xả

Phúc Hành Tông

Thế thì khi mình đi qua Tuệ Tư này phải đi Chân Tri Trước Kiến. Thì Chân Tri Trước Kiến này nó mới diệt Hữu Thân Kiến sakkāyadiṭṭhi bắt cảnh Chân Tri Trước Kiến thôi thì Hữu Thân Kiến sakkāyadiṭṭhi mất.

Qua Tuệ Tu, Ly Dục Hành Xả nó qua khỏi trạng thái Sanh Diệt, Hoại Diệt, nó bắt cảnh Ly Dục Hành Xả thôi. Thập Phúc Hành Tông.

và phần Thập Thiện là đi Đại Thiện Tương Ưng Trí và phần Ba La Mật là đi theo pháp Thập Ba la Mật.

Thì quí Phật tử không đi qua phần kiết sử mà chi đi theo Pháp thôi. 

Lấy Pháp diệt Pháp. Lấy Pháp tu Pháp.

Không bắt theo cảnh kiết sử.

Quí Phật tử nói:  Tôi còn nợ nhiều lắm, tôi còn nghiệp nặng lằm. Là quí Phật tử đang bắt cảnh kiết sử.

Còn quí Phật tử nói Thập Phúc Hành Tông, Thập Thiện Ba La Mật trau dồi cái đó, bắt cảnh đó thì mình đâu có nghĩ tới kiết sử, mình không nghĩ tới nghiệp báo. Đó gọi là Tác Ý Khôn Khéo.

Chân Tri Trước Kiến là quan trọng trong Thập Phúc Hành Tông. Chân Tri Trước Kiến chuyển đổi hết tất cả các kiến chấp của mình 

Chân Tri Trước Kiến diṭṭhujukamma là kiến thị hay thấy đúng. Cải chánh kiến thức (Diṭṭhujukamma), là tạo phước bằng cách trau dồi kiến thức, làm cho tri kiến được ngay thẳng, chánh kiến.

- Đứng góc độ Tuệ Văn  nó bắt cảnh Pháp thính pháp, thuyết pháp, tùy hỷ. 

- Đứng về Tuệ Tư nó bắt cảnh pháp Chân Tri Trước Kiến là kiến thị thấy đúng và Phúc Hành Tông.

-  Đứng về Tuệ Tu bắt cảnh pháp Trạng thái ly dục, Hành xả, Phúc Hành Tông

Mình tu tập đi theo pháp chứ không đi theo kiết sử.

Hết câu hỏi 1.

Câu hỏi 2: Tâm Khai Ý Môn biết được 21 cảnh, như vậy, khi nào sự Khai Ý Môn trong Lộ Ý, phải chăng tâm này biết được luôn cả 5 cảnh ngũ hiện tại như trích trong đoạn cảnh Duyên; Pháp Vô Ký làm duyên cho Vô Ký bằng cảnh Duyên, Uẩn Vô Ký sắc trợ khai ngũ môn trong những trường hợp nào bằng cảnh duyên.

HT trả lời: Khi nói tới Tâm Khai Ý Môn bắt được 21 cảnh thì phải coi trong phần Cảnh trong chương thứ 3 hay coi phần Tập Thị trong chương thứ 8 nói có bao nhiêu Cảnh, có 22 Cảnh, thì Khai Ý Môn bắt được 21 Cảnh nếu như cảnh nào bắt được.

 Nói chung là Tâm Khai Ý Môn bắt được bao nhiêu cảnh thì quí Phật tử phải biết được cảnh đó, cảnh pháp Siêu Thế, cảnh pháp Hiệp Thế, cảnh nội, cảnh ngoại, cảnh dục giới, cảnh sắc giới, cảnh vô sắc giới, cảnh hiện tại, cảnh quá khứ, cảnh vị lai, cảnh siêu lý, cảnh chế định, bắt được hết.

 Nếu như muốn nói Tâm Khai ngũ môn bắt được bao nhiêu cảnh thì mình coi có bao nhiêu cảnh trước và cảnh nào bắt được cảnh nào không bắt được, đa phần coi như Khai Ngũ Môn bắt được hết.

Tại vì khi đứng trong tam giới từ Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, khi còn sài tâm thì cái tâm đó có qua phần Khai Ý Môn nếu nó thuộc về ý. 

Vô Sắc Giới, Phạm Thiên nếu muốn vô trong phần thiền thì cũng vô Lộ Ý Môn, Khai Ý Môn xong vô Đổng Lực để vô sát na thiền đó, cũng bắt được cảnh đó.

Còn phàm nhân, cảnh phàm cảnh thánh, thì khi người phàm đi tới cảnh Thánh nhân. Khai Ý Môn mở của cho lộ trình đắc đạo, hưởng Quả Níp-bàn, khai ý môn bắt được.

Nếu nói tới cái đó, thì qua phần cảnh Duyên Paṭṭhāṇa. Hồi nãy mình nói tới phần đó ở trong Abhidhammattha Sangaha thì qua tới phần cảnh Duyên Vô Ký làm duyên cho Vô Ký.

Vô Ký Pháp (Abyākatadhamma) có 2 là: Duy Tác và Quả Dị Thục.

Vô Ký làm duyên cho Vô Ký thì mình nói 2 đối tượng đó là Duy Tác và Quả Dị Thục.

Duy Tác có 2 là Duy Tác Phàm, Duy Tác Thánh.

Duy Tác Phàm có 2 là Khai Ngũ Môn và Khai Ý Môn

Duy Tác Thánh có Alahan , Duy Tác vô sinh, chỉ có bậc vô sinh mới sài Tâm Duy Tác này.

Còn Duy Tác của mình là Duy Tác Phàm thì có Khai Ngũ và Khai Ý.

Còn phần Duy Tác Tiếu Sinh mình không có. Trong khi Duy Tác thuộc phần vô nhân thì nó có 2 cái Khai Ngũ Môn và Khai Ý Môn phàm nhân còn sài được, nhưng tới Tiếu Sinh là Duy Tác Vô Nhân là chỉ Alahan mới có thôi, còn mình đứng ngoài rồi.

Do đó, mình phải nói Duy Tác của mình là phàm, và chức năng hồi nãy hỏi về Tâm Khai Ý Môn là đang nói Duy Tác Phàm. Và Duy Tác Phàm làm duyên cho Duy Tác Phàm, hay Duy Tác Phàm làm duyên cho Thánh nhân.

Rồi Duy Tác Phàm Dục Giới làm duyên cho Duy Tác Dục Giới. Duy Tác Phàm Dục Giới làm duyên cho Duy Tác Phàm Sắc Giới, Duy Tác Phàm làm duyên cho Vô Sắc Giới cũng là cái loại đó, nên nó thuộc là Pháp Vô Ký làm duyên cho Pháp Vô Ký, Uẩn Vô Ký làm duyên cho Uẩn Vô Ký.

Nói tới Uẩn. Ta có 5 Uẩn: Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, Thức Uẩn.

Sắc thuộc vế Sắc Uẩn.

Thọ, Tưởng, Hành, Thức thuộc về Danh Uẩn.

Đứng góc độ của Vô Ký làm duyên cho Vô Ký thì chỉ là Uẩn Vô Ký thôi chứ không làm gì khác hết, chắc chắn không có phần Sắc Uẩn.

Pháp Uẩn Vô Ký làm duyên cho Pháp Uẩn Vô Ký. 

1 Uẩn làm duyên cho 3 Uẩn

3 Uẩn làm duyên cho 1 Uẩn

2 Uẩn làm duyên cho 2 Uẩn

Thí dụ: Thọ duyên cho Hành, Thức và Tưởng, 1 Uẩn làm duyên cho 3 Uẩn

Giờ mình quay ngược trở lại:

 Hành, Thức, Tưởng làm duyên cho Thọ, 3 Uẩn làm duyên cho 1 Uẩn

2 Uẩn làm duyên cho 2 Uẩn  - Thọ, Thức làm duyên cho Hành, Tưởng.

Mãnh lực cảnh duyên, mình bỏ 22 cảnh, 22 cảnh đó là chi pháp của cảnh duyên làm duyên cho Vô Ký này làm duyên cho Vô Ký kia.

Vô Ký - Vô Ký  - Pháp Cảnh Duyên

Cảnh Duyên là cảnh hiệp thế mấy cô bỏ vô.

Cảnh Duyên là cảnh siêu thế mấy cô bỏ vô.

Thì cảnh gì làm duyên cho cảnh đó thì Vô Ký hợp với cảnh đó.

Cảnh Dục Giới (sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp)

Cảnh Sắc Giới là vô cảnh thiền.

Cảnh Vô Sắc Giới.

Mình bỏ mấy cảnh đó vô thì tìm ra được pháp Vô Ký. Mình bỏ cảnh vô, tuần tự thay, thì Vô Ký ăn theo cảnh đó và nó ăn theo Uẩn, 1 Uẩn làm duyên 3 Uẩn, 3 Uẩn làm duyên 1 Uẩn, chung quanh trong ngũ uẩn thôi. mà mình loại ra Sắc Uẩn, nó thuộc về Danh Uẩn thì mình đi với 4 Uẩn là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. 

Và luân phiên nhau 1 Uẩn làm duyên 3 Uẩn tuần tự như vậy. Thì từ Cảnh ra hết. 

Đó là nói về pháp Siêu Lý nói về Uẩn.

Bây giờ khi ta nói về Pháp Chế Định thì lúc bấy giừ mình nói như vầy.

Sắc - bông hoa

         cảnh cây, trái

         vật thực

đó là mình nói theo chế định

Chức năng nào nổi lên thì mình nói rõ, nhìn thấy bông hoa mình thấy vui, mình thấy buồn, mình thấy thích, thấy hoan hỉ, lúc bấy giờ mình thấy Thọ hay Tưởng, rồi bắt đầu nó qua Thức ảnh hưởng theo cảnh và lúc đó Hành kết nối với Thọ và Tưởng, 2 Uẩn duyên 1 Uẩn.

Sắc - bông hoa

         cảnh cây, trái

         vật thực

Thấy bông hoa Tâm mình:

         Vui             -------->  Thức

          Buồn                        Hành

          Thích

           Hoan hỷ

           Thọ / Tưởng

đó là Thọ / Tường thì nó qua Thức với Hành kết hợp nhau nó hiện bày qua Cảnh của nó gọi là làm Duyên, không có "Tôi", "Ta" nào trong đây, chỉ có Uẩn và Pháp.

Tách ra xong rồi khi nhìn vô không có Tôi, Ta, thấy Pháp thôi, chính cái đó mình nhìn thấy thực tính và thực tướng. 

Nên học Paṭṭhāṇa nói tới pháp Vô Ngã

Học tới Lộ Trình Tâm là nói tới pháp Vô Thường.

Khi nói tới Paṭṭhāṇa là ta nói tới pháp Siêu Lý thì ta nói 2 cái này không có ngã không có Tôi Ta, chỉ có Pháp thôi, Uẩn này tới Uẩn kia, và Siêu Lý chỉ hiện bày như thế này thôi, và ráp vô cái này toàn là Tâm và Tâm Sở.  Tưởng này là Tâm Sở Tưởng, Thọ là Tâm Sở Thọ, Hành là 50 Tâm Sở còn lại, Thức là các Tâm Thức, không có "Tôi", "Ta".

Ta học Paṭṭhāṇa học tới Duyên Sinh Duyên Hệ là ta rút bản ngã ra. Còn học về Lộ Trình Tâm nó sinh diệt sinh diệt hết tâm này tới tâm kia mình thấy Vô Thường.

Muốn biết Vô Thường qua Lộ Trình Tâm. Muốn biết Vô Ngã qua phần Duyên Sinh Duyên Hệ.

Khi nói tới Vô Ký mình phải phân tích ra Pháp Vô Ký trước. Rồi từ Pháp Vô Ký mình mới tách ra phần Pháp Vô Ký nào của mình để mình học mình tu. Còn Pháp Vô Ký nào của người mình coi mình phải biết.

Pháp Vô Ký có 2 là Duy Tác và Dị Thục Quả, 2 cái kết hợp lại gọi là Vô Ký Abyākata

Duy Tác là kiriyā

Dị Thục Quả là vipāka

Kết hợp 2 cái gọi là Abyākata Vô Ký. 

Vô Ký là không để lại kết quả của nó, nó tạo tác nhưng không để lại quả, quả là quả Dị Thục rồi nó không để lại kết quả.

Còn Duy Tác là nó không tạo tác nghiệp báo nữa đối với bậc Alahan thì Duy Tác không để lại kết quả.

Còn Duy Tác mà Khai Ý, Khai Ngũ, nó đứng bên ngoài ngoại lộ nó chưa vô lộ do đó nó không cho nghiệp báo được.

Duy Tác kiriyā có 2 loại là Phàm và Thánh.

Mình là Phàm, có Khai Ngũ Môn và Khai Ý Môn

Duy Tác Thánh thì chỉ có bậc Alahan, với 3 Quả thấp; Tiểu Tu Đà Hườn, Tu Đà Hườn, A Na Hàm sài tâm Đại Thiện chưa sài Tâm Duy Tác được.

Rồi mình theo pháp đó mình vô. Vô Ký làm duyên cho Vô Ký, mình nói về mình vì mình đang tu tập thì mình nói về mình.

Rồi theo cảnh duyên, bỏ cảnh vô (cảnh Hiệp Thế, Siêu Thế, Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới) tùy hành giả. 

Giai đoạn nào nếu sài Siêu Lý thì dùng Uẩn. Nếu Chế Định thì dùng danh từ phổ thông nhân gian sài.

Thí dụ: mình nhìn bông hoa, hay nghe âm thanh, hay cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, mình bỏ vô. Thì lúc bấy giờ có những vui, buồn, thích, hoan hỉ, thì mình qua phần Uẩn nào mình bỏ vô.

Nhưng cốt lõi của Paṭṭhāṇa để mình lọc ra của Thọ với Tưởng (vui, buồn, thích, hoan hỉ), chỉ có Thức với Hành thôi, không có "Tôi", "Ta". Mình nhận thức được, từ đó khi nhìn lại Pháp trong Lộ Trình Tâm diễn tiến như thế nào Tâm Đạo của mình đi theo Thọ, Tưởng, Hành, Thức thì nó ra phần nó chứ không ra phần của mình, vì kiết sử không dính vô và nó không dằn co, chỉ có Pháp hiện bày.

1) Khó ăn ?

2) Khó uống ?

3) Khó ngủ ?

4) khó thức ?

Những cái khó này đều nằm trong cái khó của Chế Định, do mình đặt ra và kiết sử mình nằm trong đó, không có chi pháp, mà nói về chi pháp thì phải nói về Siêu Lý. Những cái khó này giờ mình nói 10 cái khó, 20 cái khó thì nó cũng là vậy, đặt vô kiết sử nào thì ra cái khó đó nó hiện bày dẫn dắt mình.

Khi ta nói khó ăn, ta sống với kiết sử ta mới trả lời, còn nếu ta sống trong Pháp thì nói tôi không khó ăn, không khó uống, không khó ngủ, không khó thức, những kiết sử này không có.

Như vậy thì khi khó ăn thì khó ăn của mấy cô thì Thọ hiện bày, hay Tưởng, Hành, Thức hiện bày ? thì mấy cô ra được Pháp của mình. Thọ mạnh thì Thọ Uẩn làm duyên cho Hành và Thức theo nó và nó theo cảnh hiệp thế của nó. Tùy theo kiết sử, tùy theo kiến văn của mình, kiến văn của mình thay đổi thì mình tìm ra kiết sử của mình đó.

 Một vị Thiền Sư hay các Giám Thị nghe các thiền sinh báo cáo lên trong khóa tu này có nhiều người khó ăn, thì vị Thiền Sư nhìn ra được cái kiết sử của những vị đó trong khóa tu này

Vị Thiền Sư theo pháp Hiệp Thế pháp thế gian thì ông thay đổi vật thực, là ông theo Hiệp Thế chạy theo Hiệp Thế, kiết sử chạy theo kiết sử, vừa lòng kiết sử đó không bao giờ tiến tu.

Còn vị Thiền Sư không thay đổi vật thực là ông đang tập cho các thiền sinh diệt kiết sử, họ phải vượt qua. Thì lúc bấy giờ họ đi với pháp Siêu Lý, họ chỉ lấy Pháp thôi và mình thấy mình có kiết sử, mình phải nhìn thấy Pháp thôi không còn chiều kiết sử mình nữa thì mới hết được, đó gọi là Chân Tri Trước Kiến sửa đổi kiến chấp.

Phần khó uống, khó ngủ, khó thức cũng vậy khó thấy cũng vậy, khó nghe cũng vậy, khó ngửi cũng vậy, khó biết cũng vậy, tất cả các cái khó đặt ra thì hành giả bỏ chi pháp này vô là ra. Đó là nói theo Chế Định.

Đến phần Siêu Lý cho qua, thì lúc đó người tu lọc Chế Định ra kiết sử sẽ rớt ra ngoài theo Chế Định đó thì nó chỉ còn Pháp Siêu Lý thì chỉ có thực tướng thôi chứ nó không có ảnh hưởng kiết sử nào, mình nhìn Pháp thôi. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là của nó chứ không phải "Tôi", những cái này hình thành ra một cái "Tôi" trong Chế Định.

Trở lại:

Pháp Vô Ký có 2 là Duy Tác và Quả Dị Thục.

Duy Tác có 2 là Phàm và Thánh.

Quả Dị Thục vipāka có 2 là Quả Dị Thục vô nhân, Quả Dị Thục hữu nhân.

Quả Dị Thục vô nhân có 7 bất thiện + 8 Thiện = 15 vô nhân

Quả Dị Thục hữu nhân có 8 + 5 + 4 + 20

Quả Dị Thục hữu nhân có:

 8 Đại Quả  --> Hiệp Thế

 5 Quả Sắc Giới  --> Hiệp Thế

 4 Quả Vô Sắc Giới --> Hiệp Thế

 20 Quả Siêu Thế ---> Siêu Thế

Bây giờ thay thế vào, Vô Ký làm duyên cho Vô Ký, muốn bỏ vô Duy Tác thì bỏ vô Duy Tác, Quả Dị Thục thì bỏ vô Quả Dị Thục.

Những cái đó phải cẩn thận, có Phàm có Thánh. Những cái đó đi tới từng chi tiết thì mình nhìn thấy được những chi tiết đó.

Quả Vô Ký của Hiệp Thế trong Lộ Trình Tâm, Lộ Trình Chiêm Bao Supina Vìthi là lúc bấy giờ Tâm mình sài là Tâm Quả. Khi ngủ chiêm bao là từ Tâm Quả. Khi ngủ say xưa thì không có lộ trình chiêm bao, ngủ chập chờn chập chờn, không ngủ tròn giấc, ngủ không được, vừa chớp mắt mình thiếp đi chiêm bao tới thì lúc đó 3 cảnh sẽ đến Lộ Trình Chiêm Bao là Cảnh Nghiệp, Cảnh Nghiệp Tướng, Cảnh Thú Tướng.

Lộ Trình Chiêm Bao khi mình ngủ vừa chớp mắt chập chờn thì cảnh tới. Thì cảnh tới mà rõ, người ta hỏi thấy cái gì ? Thì người nằm chiêm bao họ sẽ kể lại trong cái họ biết. Thì trong 3 cảnh là Cảnh Nghiệp, Cảnh Nghiệp Tướng, Cảnh Thú Tướng này cảnh nào rõ nhất mà họ thấy trước họ nhớ hoài, cái này là sài Tâm Quả Dị Thục.

Thí dụ: Ngủ nằm mơ thấy ma hay thấy người thân tới, hay thấy mình thi đậu ra trường, thì mình thức dậy nhớ lại.

Lúc đó Cảnh Nghiệp, Cảnh Nghiệp Tướng, Cảnh Thú Tướng mình luận ra.

 Cũng như Hoàng Hậu Maya trong giấc ngủ chập chờn bà thấy con voi 6 ngà ở trên trời bay vô người. Công Chúa Yasodhara đang nằm ngủ thấy con ngựa chạy từ ngoài cửa sổ phóng vô hí vang nơi đầu giường rồi nó  phóng ra ngoài cửa sổ. Cảnh đó là cảnh Nghiệp Tướng hay Thú Tướng mình phải luận ra.

Maya thấy con voi 6 ngà húc vào bụng. Sáng hôm sau vua Tịnh Phạn mới đem bàn với các vị Bà La Môn về giấc chiêm bao của Hoàng Hậu Maya, thì các vị Bà La Môn nói đó là điềm lành là điều kiết tường báo tin là Hoàng Hậu Maya thọ thai và là bậc vĩ nhân. Các vị Bà La Môn bàn luận như vậy, thì họ dựa vào điểm nào ? họ dựa vào kiến giải của họ để luận.

Cảnh chiêm bao chỉ có 3 cảnh, chứ không có cảnh sắc, thinh, khí gì hết, nó thuộc cảnh Pháp, và thứ 2 nữa người bắt cảnh chiêm bao đó, bắt 1 trong 3 cảnh Nghiệp, Nghiệp Tướng, Thú Tướng, buổi sáng người đó trùng tu lại và kể về giấc mơ đó. Thì đó là Vô Ký làm duyên cho Vô Ký  bắt cảnh duyên đó.

Tới khi cận tử lâm chung, 7 ngày trước khi lâm chung thì có cảnh Nghiệp, cảnh Nghiệp Tướng, cảnh Thú Tướng đến với người trong lúc cận tử lâm chung và lúc bấy giờ ở gần bên có bậc Thánh nhân hay bậc Thầy trợ niệm cho người này thoát khỏi nếu là cảnh bất thiện, họ phân tích ra, và nhắc nhở chính xác và có hiệu quả tốt cho người cận tử lâm chung đó.

Việt Nam mình có quan niệm sai trật, Sư nghe rất nhiều lần, lúc cận tử lâm chung họ nhắn nhủ người nhà là: "tôi xuống rồi bà cũng đi theo tôi nha", không bao giờ nghe nói đi lên hết, tất cả đi xuống hết, mà mình đi có 6 cảnh đi.. "Ta đi với nghiệp của ta.  Dầu cho tốt xấu tạo ra tự mình". Và cái cảnh đó mình quyết định, và chưa chắc cảnh Nghiệp Tướng đến, cảnh Thú Tướng có rồi nhưng một mãnh lực khác đến dẫn đi, phải cẩn thận.

 Vô Ký làm duyên cho Vô Ký, Vô Ký bắt cảnh duyên là chỗ này, nó rất là quan trọng và quyết định một tích tắc một sát na.

Bà mẹ suốt đời gây oan trái, nhưng chỉ nhớ cảnh mình nhuộm y cho con mà bà sinh thiên.

Phải cẩn thận khi ta học Pháp Vô Ký làm duyên cho Pháp Vô Ký theo Cảnh Duyên mà cái xác định nhất đó là cảnh cận tử lâm chung, cảnh duyên đó mình phải nắm bắt được mình mới làm được, cho mình và cho người thân mình, chứ không có cách nào khác hết.

Tại sao Hoàng Hậu Maya kể về chiêm bao của mình mà ông Bà La Môn nói đó là điềm lành, bậc vĩ nhân vào trong bụng bà có thai, bà Hoàng Hậu Maya lúc đó 56 tuổi, 2 vợ chồng mòn mỏi trông con mà không có, mới lấy dì mẫu Gotami để sinh con thay thế, và có con cùng một lúc với Hoàng Hậu Maya. Thì tại sao ông Bà La Môn nói được đây là điềm lành Hoàng Hậu Maya có thai.

Công Chúa Yasodhara thấy con ngựa nhẩy vô rồi nhẩy ra kể cho Sĩ Đạt Đa, Sĩ Đạt Đa không đem ra cho ông Bà La Môn bàn luận, mà Sĩ Đạt Đa nói điềm này là ta phải ra đi, nên bà Yasodhara nói quay trở lại thiếp kể cho chàng nghe nhưng Thái Tử đừng bỏ thiếp, Yasodhara trả lời chưa để Sĩ Đạt Đa trả lời  tại vì thấy ngựa ra cửa sổ.

 Có một đạo sĩ tên Asita. Khi hay tin Sĩ Đạt Đa ra đời, ông là một người thân tín của nhà vua nên xin được vào thăm hoàng tử. Đức Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho bồng hoàng tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Nhưng, trước sự kinh ngạc của mọi người, hoàng tử bỗng nhiên quay về phía đạo sĩ và đặt hai chân lên đầu tóc của ông.

Đang ngồi trên ghế, vị đạo sĩ vội vã chỗi dậy, chắp tay xá chào hoàng tử. Xong rồi đạo si thoạt tiên cười khan, cười rồi lại khóc. Vua Tịnh Phạn và mọi người ngạc nhiên. Vị đạo sĩ giải thích rằng cười vì thấy thế giới có bậc Chánh Đẳng Giác ra đời, và ông khóc vì biết rằng không bao lâu nữa ông sẽ chết và tái sanh vào cảnh giới Vô Sắc (Arupa-loka). 

Khi nghe đạo sĩ Asita nói như vậy vua cha bấn loạn lo lắng hoan mang, ngày hôm sau 108 vị Bà La Môn là những vị tướng số đặc sắc nhất của Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) tới coi tướng của hoàng tử, 107 vị dơ 2 ngón tay có nghĩa; một, là hoàng tử sẽ trở nên vị Chuyển Luân Vương. Hai, là Ngài sẽ xuất gia trở thành vị Giáo Chủ có một trong đời, 1 người duy nhất trong 108 người dơ 1 ngón tay, người duy nhất dơ 1 ngón tay là Kiều Trần Như Kondanna và quả quyết là Ngài xuất gia và trở thành vị Giáo Chủ trên đời chứ không là vị Chuyển Luân Vương.

Như vậy họ lấy cái gì mà bàn luận như vậy ? Là họ nhìn thấy Cảnh Duyên. Họ sài tâm gì mà họ nghiệm ra được ?

Thí dụ: Tối ngủ chiêm bao thấy cảnh mình bị một cái gãy răng.  Người nằm mộng kể lại, người nghe mới hỏi có máu hay không có máu, người kia nói thấy máu là người thân trong nhà có người mất, còn không máu là người không thân trong nhà mất. Người thân là vợ chồng cha mẹ mất, còn không phải người thân thì cậu dượng dì anh em bà con xa.

Thường thường nằm ngủ mà gãy răng có 2 trường hợp, gãy răng có máu và gãy răng không có máu. Thì lúc đó là họ đang nói cảnh đó là Cảnh Nghiệp, hay Cảnh Nghiệp Tướng, hay là Cảnh Thú Tướng.

Thì tại sao ông Bà La Môn nghe Hoàng Hậu Maya nằm mộng thấy con voi 6 ngà húc trong bụng mà nói là điềm mộng bà có thai ? Đó là, do 2 vợ chồng vua Tịnh Phạn luận nhau mấy năm dài mòn mỏi mong có con, bây giờ Hoàng Hậu Maya nằm mộng thấy con voi 6 ngà húc trong bụng, mà con voi có 6 ngà là một quí tướng là bậc vĩ nhân ra đời, thì ông Bà La Môn nói theo cảnh, cảnh Quả Dị Thục.

Thì cảnh 6 ngà đó là Thú Tướng, do đó, ông Bà La Môn bắt vô cảnh Thú Tướng nhưng ông biết được nghiệp của 2 vợ chồng đó sống trong hàng ngày mong mỏi trông con thì nghiệp đưa tới nghiệp tướng là một hiện tượng và đưa tới một sự hiện bày.

Thì khi trong đời sống hàng ngày mình nghĩ tới người thân mình nhiều, mình ưu tư cho người thân mình nhiều, tối mình ngủ mình thấy gãy răng chảy máu hay không chảy máu, thì mình liên tưởng tới người thân của mình nhiều hơn là mình, cảnh nó đến cho mình thấy từ cái đó. Do đó, ông giải mộng ông đi theo cái đó mà giải thích.

Do đó phải cẩn thận, nó nằm trong 3 cảnh; Cảnh Nghiệp, Cảnh Nghiệp Tướng, Cảnh Thú Tướng, nó thuộc về Vô Ký mà nó thuộc loại Cảnh Duyên, nó không có thực tiễn bằng Giống Câu Sinh, Nhân Duyên, Câu Sinh Trưởng Duyên, hay Vô Gián Duyên, hay là Thiền Sinh Duyên, không có, mà nó thuộc Cảnh Duyên. 

Khi mình đi theo Cảnh thì mình phải nắm bằng Cảnh chứ mình không đi theo phần khác được, và mình nắm bắt được. Nhất là khi cận tử lâm chung,  đầu tiên mình chửi người ta sau đó mình nằm ngủ mình thấy người ta tới chửi mình, đánh mình, rượt mình, mình thấy lửa đỏ, thấy hang đen, lúc đó là cuối cùng rồi.

Còn như người ta kể mới đầu vô tôi chửi nó, rồi sau tôi thấy nó chửi tôi, rồi sao nữa kế tiếp, không tôi không thấy nữa. Thì mình mới thấy 2 cảnh thôi. Cảnh Nghiệp là mình chửi, người ta chửi mình lại là cảnh Nghiệp Tướng, và chưa thấy kết quả của 2 cảnh này là Thú Tướng. Cảnh Thú Tướng là kết quả.

2 cái Cảnh Nghiệp và Cảnh Nghiệp Tướng là Nhân

Cảnh Thú Tướng là Quả của 2 Cảnh Nghiệp và Cảnh Nghiệp Tướng

- Mình ngủ nằm mơ thấy mình dạy học là Cảnh Nghiệp, 

- kế đến thấy người ta đem bông hoa hay quà đến tặng, là Cảnh Nghiệp Tướng,

-  kế đến thấy người cười / bà con - là Cảnh Thú Tướng.

Nhưng có những người nằm chiêm bao thấy đủ 3 Cảnh, có khi thấy 2 Cảnh thôi.

Nếu thấy 2 Cảnh xấu thôi, họ không qua cảnh kết thúc thì đó là Nghiệp. Còn nếu tốt thì đó là Phước.

Khi mình thấy Cảnh Nghiệp, Cảnh Nghiệp Tướng, Cảnh Thú Tướng, thấy 2. thấy 3, thấy 1, lúc đó mình phải coi cảnh đúng của họ với Tâm Quả Dị Thục của họ mình mới ra được nghĩa của cảnh mình có.

Hồi nãy Sư nói Cảnh vui, buồn rồi Sư nói qua Lộ Trình Tâm rồi qua chi pháp Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thì mình mới luận ra chứ không nói ngang.

Khi ta học về Pháp mình đừng đặt kiết sử mình vô mà mình đặt Tuệ Văn mình vô, đặt Tuệ Tư mình vô.

Tư có 2 là Tuệ và Tư Duy.

Tuệ là có Trí Tuệ trong Tư Duy

Tư Duy có kiết sử.

Tuệ là có Trí Tuệ trong Tư Duy, còn nếu mình không có Tuệ mà chi có Tư Duy không có Trí Tuệ thì lúc đó sống trong kiết sử.

 Như vậy trong đời sống hàng ngày quí Phật tử suy nghĩ trong Tuệ Tư hay suy nghĩ trong Tư Duy ?

Bắt đầu mình nói Tuệ Tư mình lên, Tư Duy mình lên.

Trong chiêm bao ảo là mộng không thật, rồi xuất chiêm bao ra khỏi chiêm bao là hết mộng, trong chiêm bao chỉ là ảo thôi, chỉ là tưởng thôi, vậy thì tại sao ông Bà La Môn luận giấc chiêm bao của Hoàng Hậu Maya, luận chiêm bao của Công Chúa Yasodhara chính xác 

Quí Phật tử sống trong Tư Duy, không có Tuệ Tư. Quí Phật tử sống trong Kiến Văn, không có Tuệ Văn. Đó là những kiết sử, những bậc Thầy hay người Trí như Đức Phật họ mới lọc ra cho các hành giả.

Quí Phật tử hỏi, Sư biết kiết sử, không phải là Sư biết Pháp mà Sư trả lời, Sư biết kiết sử của quí Phật tử Sư bỏ Pháp của quí Phật tử vô chứ Sư không trả lời theo kiết sử của quí Phật tử.

Khi quí Phật tử thấy 2 cảnh trong chiêm bao, Cảnh Nghiệp và Cảnh Nghiệp Tướng là quí Phật tử đang sống trong nghiệp báo, mà nếu như cảnh Thú Tướng rõ ràng luôn thì quí Phật tử đang sống trong quả báo, 2 cái trước là nghiệp báo, cái chót thuộc quả báo nó trổ sinh nó trở thành nimitta. 

Do đó, khi mà 2 cái trước đến rồi nó tắt liền không cho mình thấy thì cái đó mình trễ rồi, mình tới đó rồi không thấy nữa, ngưng rồi, thì người nghe họ sẽ đưa cái phước báu vô đẩy cái nghiệp này bắt cảnh này vô cái Nghiệp báo này để cho ra phước báu chứ không phải nghiệp báo.

Vậy thì khi ông Bà La Môn Bahiya 120 tuổi, 100 do tuần ông đi tới Đức Phật với thân thể tan nát hết, để xin Đức Phật nói Pháp.

- Bạch Đức Thế Tôn, con không còn tưổi thọ, xin Đức Thế Tôn cho con một bài Pháp để con tu tập.

Ông xin 3 lần Đức Phật nói: " không, Như Lai tới giờ đi khất thực rồi".

Đức Phật Ngài đâu có thiếu tâm từ tâm bi đâu có thiếu tứ vô lượng tâm mà Ngài trả lời không, tại sao Ngài tiếc. Nhưng ông Bà La Môn Bahiya không bỏ, ông lập lại. 

- Bạch Đức Thế Tôn, tuổi thọ con ngắn, tuổi thọ con gần hết, Đức Thế Tôn cho con pháp ngắn nhất.

 Đức Phật nói: "không, đi ra, Như Lai đi khất thực".

Lần thứ ba, Bahiya lại khẩn cầu. 

Đức Phật nói: "Này Bahiya, nghe như nghe, thấy như thấy, ngửi như ngửi, nếm như nếm, đụng như đụng, 5 Pháp nhớ chưa"

- Bạch Thế Tôn, con nhớ. 

- Bạch Thế Tôn, con xin xuất gia.

Đức Thế Tôn nói: "Chuẩn bị bát ta cho xuất gia?.

Thì Cảnh Nghiệp, Cảnh Nghiệp Tướng, xuất gia là Thú Tướng. Ông đi trên đường tìm bát thì bị bò húc ngã bên đống rác, Chư Tăng đi thấy Bahiya nằm bên đường thì là sinh thú nào ? Đức Phật nói không còn sinh thú nào vì ông đắc Alahan vô sinh". 

Vậy, Pháp nào ông bắt, cảnh nào ông bắt ?

Thì khi con bò húc vào ông, ông chỉ thấy như thấy, biết như biết Pháp với Pháp thôi ./.


------------------------------------------------

Chân Tri Trước Kiến  diṭṭhujukamma là kiến thị hay thấy đúng là tạo phước bằng cách trau dồi kiến thức, làm cho tri kiến được ngay thẳng, chánh kiến.


8 Tâm Đại Thiện  (Maha-kusala cittas)


đôi thứ nhất

1) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

2) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

đôi thứ hai

3) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Bất Tương Ưng Trí, Vô Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

4) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Bất Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)

đôi thứ ba

5) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

6) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng  Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

đôi thứ tư

7) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Bất Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

8) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Bất Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)

----------------------------------------------------

16 Tuệ Minh Sát Trí 

1. Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc.

2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.

3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). (Phổ Thông Tướng)

4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt.

5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.

6. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ.

7. Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành.

8. Nibbidā ñāṇa: Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản.

9. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát.

10. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành.

11. Paṭisaṅkhā ñāṇa: Tuệ suy tư.

12. Saccānulomika ñāṇa: Tuệ thuận Tùng (thuận theo thực tế, tức thuận theo Tứ Diệu Ðế).

13. Gotrabhū ñāṇa: Tuệ chuyển tộc, vào lúc "chuyển thay dòng dõi" (tức từ phàm trở nên Thánh).

14. Magga ñāṇa: Ðạo tuệ.

15. Phala ñāṇa: Quả tuệ.

16. Paccavekkhaṇa ñāṇa: Tuệ ôn duyệt.