072 Paṭṭhāna
HT Sán Nhiên giảng ngày 02 tháng 9, 2023
Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng 072 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ.
Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.
Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.
Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh
Namo Buddhaya
Minh Hạnh
ABHIDHAMMAṬṬHA SAṄGAHA
TỔNG HỢP NỘI DUNG VÔ TỶ PHÁP
Tập III: Chương VI-VII-VIII
Trang 400
PHƯƠNG THỨC VIỆC THUYẾT GIẢNG
Việc trình bày Liên Quan Tương Sinh của Đức Chánh Đẳng Giác để trong Tương Ưng Bộ Kinh, đã có phân loại với bốn phương thức ở việc trình bày. Bốn phương thức ấy là:
1/. Trình bày từ đầu đi đến cuối: Tức là kể từ Vô Minh đi tuần tự cho đến Lão Mại – Tử Vong là nơi cuối cùng; được gọi Tự Thủy Chí Chung Thuận Thuyết (Ādipariyosāna anulomadesană).
2/. Trình bày từ giữa đi đến cuối: Tức là kể từ Thọ đi tuần tự cho đến Lão Mại – Tử Vong là nơi cuối cùng; được gọi là Tự Trung Chí Chung Thuận Thuyết (Majjhimapari yosānaanulomadesanā).
3/. Trình bày từ cuối đi đến đầu: Tức là kể từ Lão Mại – Tử Vong đi thụt lùi lại tuần tự cho đến Vô Minh là nơi cuối cùng; được gọi là Tự Chung Chí Thủy Nghịch Thuyết (Pariyosanaadipaţilomadesanā); chẳng hạn như Jätipaccayā jarāmaraṇam, bhavapacca yā jāti v.v. avijjāpaccayā saṅkhārā - Sinh làm duyên Lão Mại – Tử Vong; Hữu làm duyên Sinh v.v. Vô Minh làm duyên Hành.
4/. Trình bày từ giữa đi đến đầu: Tức là kể từ Ái Dục đi thụt lùi tuần tự cho đến Vô Minh là nơi cuối cùng; được gọi là Tự Trung Chí Thủy Nghịch Thuyết (Majjhimaādi paṭilomadesanā); chẳng hạn như Ime ca bhikkhave cattāro āhārā kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? Ime cattāro āhārā taṇhānidānā taṇhāsamudayā taṇhāj ātikā taṇhāpabhavā. Taņhā kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? Vedanänidānā vedanā samudayā vedanājātikā vedanāpabhavā v.v. Saṅkhārā kiṃni dānā kiṃ samudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā? Avijjānidānā avijjāsamudayā avijjā jatikā avijjapabhavā - Dịch nghĩa: Này Chư Tỳ Khưu, cả Tứ Vật Thực này có cái chỉ làm căn nguyên, có cái chỉ làm xuất sinh, có cái chỉ làm Nhân cho sinh khởi, có cái chỉ làm cái Nhân tiên khởi ? Giải đáp rằng: Cả Tứ Vật Thực này có Ái Dục làm căn nguyên, có Ái Dục làm xuất sinh, có Ái Dục làm Nhân cho sinh khởi, có Ái Dục làm cái Nhân tiên khởi. Ái Dục đây, có cái chỉ làm căn nguyên, có cái chỉ làm xuất sinh, có cái chỉ làm Nhân cho sinh khởi, có cái chỉ làm cái Nhân tiên khởi ? Giải đáp rằng: Ái Dục đây có Thọ làm căn nguyên, có Thọ làm xuất sinh, có Thọ làm Nhân cho sinh khởi, có Thọ làm cái Nhân tiên khởi.
Hành đây, có cái chỉ làm căn nguyên, có cái chỉ làm xuất sinh, có cái chỉ làm Nhân cho sinh khởi, có cái chỉ làm cái Nhân tiên khởi ? Giải đáp rằng: Hành đây có Vô Minh làm căn nguyên, có Vô Minh làm xuất sinh, có Vô Minh làm Nhân cho sinh khởi, có Vô Minh làm cái Nhân tiên khởi...v.v. Và như vậy gọi là Tự Trung Chí Thủy Nghịch Thuyết (Majjhimaādipaṭilomadesanā).
Trang 401
NHỮNG LỢI ÍCH ĐƯỢC ĐÓN NHẬN TỪ VIỆC THUYẾT GIẢNG
THỂ THEO CẢ TỨ PHƯƠNG THỨC.
1. Việc trình bày thể theo Tự Thủy Chí Trung Thuận Thuyết để làm thành lợi ích trong việc giải thích đến những người bất liễu tri, không hiểu biết trong việc sinh khởi của tất cả Chúng Hữu Tình, đã phê phán sai lầm với những sai biệt, đã phán quyết rằng không có cái chi làm tác nhân cho sinh khởi; và để cho hiểu biết rằng việc sinh khởi của tất cả Chúng Hữu Tình, (1) ắt hẳn là phải nương theo tác nhân riêng biệt của từng mỗi người, (2) và để cho thấu hiểu việc sinh khởi của những thể loại tác nhân này, rằng là sinh khởi hiện hành theo thứ tự.
2. Việc trình bày thể theo Tự Trung Chí Thủy Thuận Thuyết để làm thành lợi ích đối với một vài nhóm người chẳng tin rằng một khi tất cả Chúng Hữu Tình đã chết đi, thế rồi sẽ lại phải đi tái sinh trong Hữu vị lai nữa. Những hạng người này sẽ được nhận thức đến 5 Nhân Duyên, đó là Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu, Vô Minh và Hành là chỗ nương náu, là sinh trú đối với mình. Và một khi đã có tác nhân hiện tại rồi, thì nhất định sẽ phải có quả báo trong thời vị lai. Và quả báo ấy chính là Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ; và được gọi là tất cả Chúng Hữu Tình ấy vậy.
3. Việc trình bày thể theo Tự Chung Chí Thủy Nghịch Thuyết để làm thành lợi ích cho tất cả mọi người được trông thấy Pháp làm tác nhân của sự khổ đau; đi theo thứ tự kể từ Sinh v.v. cho đến Vô Minh. Là để cho hiểu biết rằng sự khổ đau có Lão Mại, Tử Vong, Sầu Muộn, Bi Ai, Khổ Đau, Não Hại mà tất cả Chúng Hữu Tình đang phải đón nhận từng mỗi ngày đây, hiện khởi lên được cũng do nương vào Sinh làm Nhân. Nếu đã không có Sinh rồi, thì những thể loại khổ đau này cũng không sinh khởi lên được. Một khi đã trông thấy Sinh rồi, thì cũng cho thấy tác nhân làm cho Sinh được sinh khởi, ấy là Nghiệp Hữu. Một khi đã trông thấy Nghiệp Hữu rồi, thì cũng cho thấy tác nhân làm cho Nghiệp Hữu được sinh khởi, ấy là Chấp Thủ; để cho được trông thấy tác nhân nối tiếp đi theo thứ tự từng bậc cho đến Vô Minh. Một khi đã trông thấy Vô Minh rồi, thì cũng sẽ được hiểu biết rằng đích thị chính Vô Minh này là chủ vị của tất cả mọi tác nhân.
4. Việc trình bày thể theo Tự Trung Chí Thủy Nghịch Thuyết để làm thành lợi ích cho hiểu biết đến Nhân Quả theo thứ tự làm chỗ xuất sinh xứ của cả Tứ Vật Thực được coi như là người dẫn dắt của tất cả Chúng Hữu Tình; kể từ Hữu Quá Khứ cho đến Hữu Hiện Tại. Tức là: (1) Sắc thân của tất cả Chúng Hữu Tình có được tồn tại, tăng trưởng to lớn lên được, là cũng bởi do nương vào những Vật Thực làm thành người dẫn dắt. (2) Tất cả Chúng Hữu Tình có sự cảm thọ an lạc, khổ đau, thản nhiên, là cũng bởi do nương vào Xúc, là việc tiếp xúc giữa Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý với Lục Cảnh. (3) Tất cả Chúng Hữu Tình hành động tạo tác ở cả Thiện Hạnh và Bất Thiện Hạnh, là cũng bởi do nương vào Tư Tâm Sở làm người thúc đẩy dẫn dắt.
Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Tâm Cơ, Nữ Giới Tính, Nam Giới Tính và việc tiếp xúc Cảnh, việc thụ hưởng Cảnh, việc ghi nhớ Cảnh v.v. những thể loại này sinh khởi lên được, là cũng bởi do nương vào Thức Tái sinh làm người dẫn dắt. Đối với trong Thời Chuyển Khởi, sự tham lam, sự sân hận, sự si mê, sự chấp ngã, sự thấy sai, sự đố kỵ ganh tỵ v.v hoặc sự sùng tín, sự hiểu biết, sự bi mẫn, sự tưởng nhớ v.v. những thể loại này sinh khởi lên được, là cũng do nương vào Thức Chuyển Khởi làm người dẫn dắt.
Cả Tứ Vật Thực - làm người dẫn dắt tất cả Chúng Hữu Tình cho sinh khởi lên và được tồn tại, tạo tác biết bao hành động suốt trọn cả kiếp sống - sẽ được sinh khởi lên, cũng do nương vào Ái Dục làm Nhân. Ái Dục sẽ sinh khởi lên được, cũng do nương vào Thọ làm Nhân. Thọ sẽ sinh khởi lên được, cũng do nương vào Xúc làm Nhân. Xúc sẽ sinh khởi lên được, cũng do nương vào Lục Xứ làm nhân. Lục Xứ sẽ sinh khởi lên được, cũng do nương vào Danh Sắc làm Nhân. Danh Sắc sẽ sinh khởi lên được, cũng do nương vào Thức làm Nhân. Thức sẽ sinh khởi lên được, cũng do nương vào Hành làm Nhân. Hành sẽ sinh khởi lên được, cũng do nương vào Vô Minh làm Nhân; để cho được nhận thấy Nhân Quả hiện hành đi theo thứ tự, bằng cách lấy Tứ Vật Thực làm nền tảng để quy định cho việc thẩm sát.
Kết luận rằng Pháp Liên Quan Tương Sinh đây, là Pháp Vận Hành Hoàn Bảo (Samantabhaddadhamma) tức là Pháp có sự hoàn bị tốt đẹp, vì lẽ cho dù sẽ trình bày bởi theo bất luận phương thức nào đi nữa, thì người đã được lắng nghe rồi ắt hẳn thành đạt sự lợi ích; tức là xác định được liễu tri Khổ Đế, đoạn tận Tập Đế, kiến tịnh Diệt Đế, tiến hóa Đạo Đế; và rồi chứng đạt đến Níp-Bàn. Một trường hợp khác nữa, Đấng Như Lai là Bậc Hảo Thuyết Giáo Kỳ Tài (Desanāvilāsapattapuggala) là Bậc có khả năng cải tiến việc thuyết giảng cho được hoàn hảo thích hợp.
--------------------------------------------------
trang 400
Câu số 1: Đức Phật đi từ đầu đi đến cuối: Tức là kể từ Vô Minh đi tuần tự cho đến Lão Mại.
Câu số 2 : từ Thọ đi tuần tự cho đến Lão Mại tử vong
Câu số 3 : Từ Lão Mại đến Vô Minh.
Câu số 4 : Ái Dục đi thụt lùi tuần tự cho đến Vô Minh.
Tại sao số 2 bắt từ Thọ ?
Câu số 2 giải thích ở trang 401
Câu số 2 ở trang 400 : Bắt đầu thuyết từ Thọ đi tuần tự cho đến Lão Mại tử vong.
Câu số 2 ở trang 401
2. Việc trình bày thể theo Tự Trung Chí Thủy Thuận Thuyết để làm thành lợi ích đối với một vài nhóm người chẳng tin rằng một khi tất cả Chúng Hữu Tình đã chết đi, thế rồi sẽ lại phải đi tái sinh trong Hữu vị lai nữa.
Câu này chỉ cho những chúng sinh có tà kiến, họ tưởng rằng chết là hết chứ không đi tục sinh lại thì Đức Phật Ngài mới thuyết từ Thọ cho đến Lão Mại tử vong. Thì những người chẳng tin rằng một khi tất cả Chúng Hữu Tình đã chết đi, thế rồi sẽ lại phải đi tái sinh trong Hữu vị lai nữa. Hữu Vị Lai là kiếp sống ở vị lai.
Những hạng người này sẽ được nhận thức đến 5 Nhân Duyên, đó là Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu, Vô Minh và Hành là chỗ nương náu, là sinh trú đối với mình.
Đối với những người tà kiến. Tà kiến có 3 loại : Vô Nhân, Vô Hữu, Vô Hành.
Thì người Vô Hữu Kiến họ tin chết là hết, họ cũng không tin bố thí, trì giới, tham thiền là nhân sinh ra quả phước báu, đó là Vô Hữu Kiến, họ tin không có phước, không có tội, không có tục sinh, họ tin chết là hết.
Có 2 vị tỳ khưu đệ tử của Đức Phật là 2 người bạn cùng tu với nhau tại một cánh rừng, một vị tu bên này bìa rừng, một vị tu bên kia bìa rừng nói với nhau cứ đến ngày 15 thì đốt lửa lên bên này thấy khói là còn sống, nhưng nếu có chết thì phải về báo cho biết là có sự tục sinh. Thì một ông chết rồi tái sinh vào cõi trời Đao Lợi, mà một ngày trên cung trời Đao Lợi bằng 100 năm dưới trần gian. Ông ở dưới trần gian không thấy báo hiệu thì nghĩ rằng không có tục sinh.
Thì vị Tỳ Khưu đệ tử Đức Phật mà còn rớt vô trong Vô Hữu Kiến. Vị Tỳ Khưu đến gặp Đức Phật trình bày Đức Phật nói : "ông rớt vô tà kiến rồi, thấy sai chấp lầm rồi."
Tại vì có đi tục sinh, còn nhân nào thì còn quả đó. Do đó, 5 pháp hành này Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu, Vô Minh và Hành chỗ nương náu, là sinh trú của chúng sinh . Nếu 5 pháp này còn hiện hữu còn tồn tại là còn phải tục sinh. Và một khi đã và một khi đã có tác nhân hiện tại rồi, thì nhất định sẽ phải có quả báo trong thời vị lai. Và quả báo ấy chính là Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ;
Do đó Ngài mới thuyết cách thức thứ 2 là vậy. Nhưng Thọ là những yếu tố không thể nào hoàn thành được, vì cái này là móc xích, Paticcasamuppada Thập Nhị Nhân Duyên là một giây chuyền mình không thể nào bẻ gãy được, nhưng quả báo ấy chính là Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ là một giây chuyền, mà Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu, Vô Minh và Hành thì không phải giây chuyền.
Do đó, từ đây khi mình lấy 4 phương pháp này là một kỹ thuật mà Đức Phật Ngài phá bỏ tư tưởng của ĐĐ Ananda sau khi ngồi thiền nói nghiệm về Liên Quan Tương Sinh thấy dễ quá. Đức Phật nói không dễ đâu, bậc Chánh Đẳng Giác thuyết mới được, còn hạng Thinh Văn chưa hiểu được đâu.
Nên 4 phương thức này Đức Phật Ngài thuyết mình học và nghiệm và biết cấu trúc của nó rồi mình mới nói được và mình mới giải quyết được Duyên Sinh Duyên Hệ theo các yếu tố này.
Do đó, nó cũng là mấu chốt để vô kiết sử thân kiến là cơ sở đầu tiên cho Sơ Đạo Sơ Quả.
Sư uyển chuyển trong các buổi học, hôm nay Sư thuyết cái này mai Sư thuyết cái kia, Sư trình bày cái này Sư giải thích cái kia là Sư áp dụng cái kiết sử của quí Phật tử chứ Sư không có một ước nguyện gì cho thế gian mà chỉ trong lớp của mình thôi, còn các vị dự thính bên ngoài nghe người ta có thể rút tỉa theo hoàn cảnh hay khía cạnh của họ. Chứ thực ở đây là Sư phá vỡ các kiết sử trong lớp mình thôi.
Thì bữa nay Sư nói cái này Sư có cái cấu trúc, cái cấu trúc đó là chỉ có Đức Phật Ngài trình bày còn mình thẩm thấu mình thấy thấu triệt được thì mình mới trình bày được.
Chẳng hạn đơn giản thôi, trong bữa ăn của quí Phật tử là Sư tìm ra được cái Thọ. Mà cái Thọ đó mấy cô ăn hay là mấy cô sinh hoạt cũng vậy Sư tìm ra được kiết sử của mấy cô, rồi Sư sửa trong mấy bài Sư giảng.
Nên cái này không phải là pháp hành thường, không phải là Vô Hữu Kiến thường, nên mình nói duyên hệ này là trong 12 yếu tố này kết hợp vô cái duyên này vô, cái duyên này chỉ là yếu tố thôi còn các duyên trong Paṭṭhāṇa nó mới là rễ mọc ra nó mới thành yếu tố này. Vô Minh duyên Hành cái rễ nó mọc ra cái duyên gì nó mới ra duyên hành là mình phải qua Paṭṭhāṇa . Còn Liên Quan Tương Sinh này là những yếu tố để mình hình thành ra.
bà Sonā có 10 đứa con có trai có gái, con trai có vợ là dâu của bà, con gái có chồng là rể của bà, bà với chồng bà có tiền của giàu có, chồng bà chết bà mới kêu 10 đứa con thành 20 vừa dâu vửa rể bà chia gia tài cho những người con và những người con sẽ lo cho bà, những đứa con đồng ý. Rồi mỗi ngày bà tới nhà những người con, mới đầu thì đứa nào cũng tiếp bà tử tế, nhưng từ từ giảm dần thưa dần, rồi lợt lạt, bà tới chúng không thèm chào hỏi săn sóc thì bà cảm nhận được, thì bà buồn tủi, bà nói cái này là duyên của ta chứ bà không lấy đó mà chê trách các con cháu bà, cái duyên của ta như vậy rồi giờ ta đi tìm về tâm linh của ta vì giờ ta không còn gì nữa. Thì bà đi tới gặp bà Gotami, dì mẫu của Đức Phật, là người trưởng Ni, bà xin với bà Gotami để đi xuất gia. Bà xuất gia trong tuổi già nên bà bị mấy người ni trẻ cười nhạo là bà không thể làm gì, nên giao cho bà nấu nước sôi cho các Ni trong chùa ai cần nước sôi thì việc của bà là nấu nước sôi, còn các việc khác như quét nhà, giặc dũ, thì các chúng Ni làm. Mà bà cũng làm không được vừa ý vì bà lớn tuổi.
Sau khi chúng Ni đi khất thực về bà nấu nước cho chúng Ni, sau đó chúng Ni về phòng thì bà bắt đầu đi kinh hành, bà vịn vô tường để đi kinh hành, bà niệm Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất Thống v.v... Bà đi theo Liên Quan Tương Sinh , Thọ duyên Hành, Hành duyên Thức v.v... bà đi hết vòng bờ tường.
Rồi bà qua khu Ni viện của bà Gotami có khu vườn cây trồng san sát nhau bà vịn từng cây để đi và giữ Tâm, và bà đắc Alahan. Bà trở về, thì mấy bà Ni coi thường bà vì không biết bà đã đắc Alahan, kêu bà sao bữa nay chưa có nước sôi, thì bà nói có liền và bà vận thần thông làm nước sôi lên, mấy bà Ni lúc đó biết bà này có thần thông, bà Gotami nói bà lão này đắc Alahan rồi.
Nếu như mình hiểu cách thức thuyết cách thức giảng cách thức trình bày, mình phải hành để mình đối xử với kiết sử thì mới thấm được pháp Liên Quan Tương Sinh này.
Cũng như người thuyết Liên Quan Tương Sinh trong một buổi giảng nào họ phải nhìn chứ không phải họ thuộc lòng nói theo hiểu của họ trả lời theo 4 cách thuyết này, đó là uổng công vô ích.
Ở trang 400
Phương thức thứ 3 từ cuối đi đến đầu: Tức là kể từ Lão Mại – Tử Vong đi thụt lùi lại tuần tự cho đến Vô Minh là nơi cuối cùng; được gọi là Tự Chung Chí Thủy Nghịch Thuyết (Pariyosanaadipaţilomadesanā); chẳng hạn như Jätipaccayā jarāmaraṇam, bhavapacca yā jāti v.v. avijjāpaccayā saṅkhārā - Sinh làm duyên Lão Mại – Tử Vong; Hữu làm duyên Sinh v.v. Vô Minh làm duyên Hành.
Thì ở trang 401, câu giải thích thứ 3 : Việc trình bày thể theo Tự Chung Chí Thủy Nghịch Thuyết để làm thành lợi ích cho tất cả mọi người được trông thấy Pháp làm tác nhân của sự khổ đau;
Câu "không có gì là tự nhiên" thuộc về Vô Nhân Kiến là tại vì mình không có hiểu được tác nhân tạo ra do đó mình chấp thủ vô cái đó nó tự nhiên, chứ thật ra nó có tác nhân hết.
"Pháp làm tác nhân của sự khổ đau". Chữ khổ đau mấy cô đừng bao giờ nghĩ chữ khổ đau là khổ cho người khổ cho mình. Không, Khổ đau chân lý là Khổ Đế chứ không phải chữ khổ đau này là đơn thuần. Nếu người học giả đọc đoạn này "Tác nhân của mọi khổ đau" là mình non lắm, mình phải hiểu là tác nhân của Khổ Đế.
"đi theo thứ tự kể từ Sinh v.v. cho đến Vô Minh. Là để cho hiểu biết rằng sự khổ đau có Lão Mại, Tử Vong Sầu Muộn, Bi Ai, Khổ Đau, Não Hại " Chỗ này là chế định
"mà tất cả Chúng Hữu Tình đang phải đón nhận từng mỗi ngày đây" từng mỗi ngày mình đón nhận sinh, lão, bệnh, tử, sầu bi, khổ đau, não hại, ,
"hiện khởi lên được cũng do nương vào Sinh làm Nhân." tức là mình nói do mình có sự sống này, mình được sinh ra, mình mới mang cái sinh, lão, bệnh, tử, hay là sầu, bi, khổ, não này. Không, mỗi cái nhân đều sinh ra từ Tập Đế, từng mỗi cái đó là cái sinh của samuppada là nhân sinh khổ đau.
Nếu đã không có Sinh của Pháp, còn nếu không có Sinh của kiếp sống là khác.
Thì bây giờ mình nói tại vì tôi có Sinh, cha mẹ Sinh tôi ra bây giờ tôi mới khổ đau như vầy, cái đó là kiếp sống.
Còn mỗi cái Sinh của mình lên mà mình muốn nghĩ cái này nghĩ cái kia cái Sinh đó cũng là cái nhân sinh ra khổ đau trong Sinh của Pháp. Cái này là Vô Nhân Kiến, Vô Hữu Kiến, Vô Hành Kiến.
"Nếu đã không có Sinh rồi, thì những thể loại khổ đau này cũng không sinh khởi lên được. Một khi đã trông thấy Sinh rồi, thì cũng cho thấy tác nhân làm cho Sinh được sinh khởi, ấy là Nghiệp Hữu."
Thì nghiệp hữu mình kéo trở lại một bhava là kiếp sống, nó có Sinh Hữu, có Nghiệp Hữu thì mấy cô nhớ lại Kammassakatā Nghiệp chủ và Nghiệp Hữu nó gần nhau. Mà nghiệp Chủ hay Nghiệp Hữu là có tác nhân, thì là mình có yếu tố tác động tạo tác nghiệp thì nó mới là chủ nghiệp rồi nó có sở hữu nghiệp.
Sinh cái gì lên thì có tác động, nó có tạo tác rồi, chứ đừng nói một kiếp sống này, như vậy thì mình mới sợ. Từ khi mình Sinh ra tới giờ mình bao nhiêu lần mình Sinh tạo tác trong mỗi Ý, Lời, Thân, chứ đừng nói trong kiếp sống này có cái Sinh ra của người mẹ cho mình Sinh ra mình khổ đau, mình làm mình khổ đau là nghiệp chủ của mình chứ ba mẹ không làm mình khổ đau.
"Một khi đã trông thấy Nghiệp Hữu rồi, thì cũng cho thấy tác nhân làm cho Nghiệp Hữu được sinh khởi, ấy là chấp thủ" Mình thấy được nghiệp chủ thì cũng thấy được tác nhân của nghiệp chủ. Từ đâu mà chấp hữu, mình chấp vô cái gì mình mới có cái đó.
Tách Upādāna ra khỏi nghiệp chủ, chấp thủ Upādāna nằm ở đâu trong tam nghiệp; quá khứ, hiện tại, vị lai, thì nghiệp chủ có chấp thủ này từ tác ý mình muốn.
"để cho được trông thấy tác nhân nối tiếp đi theo thứ tự từng bậc cho đến Vô Minh. Một khi đã trông thấy Vô Minh rồi, thì cũng sẽ được hiểu biết rằng đích thị chính Vô Minh này là chủ vị của tất cả mọi tác nhân."
Mình không biết mình vẫn làm, bởi mới có câu "điếc không sợ súng" hay "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ", mình không biết mình vẫn làm, có người nào sinh ra từ sáng đến tối ngồi yên không, không đứng thì đi, có ý nghĩa hết nhưng họ vẫn làm. Từ sáng thức dậy cho tới tối đi ngủ, thân, ngữ, ý, biết cũng làm, không biết cũng làm.
Thì gốc là Vô Minh duyên Hành. Mình tạo tác ra thì chấp thủ, từ chấp thủ ra nghiệp thủ, từ nghiệp thủ sinh ra sinh, lão, bệnh, tử, sầu bi ai.
Phân tích ra mình thấy mình nhìn khiếm diện, nhìn một bên, một chiều theo ý của mình thôi. Cách học của mình không nên như vậy, mỗi một cái phải đi sâu vô và phải thấu triệt.
Với 4 cách này mình mới thấy Pháp Samuppada Pháp Nhân Duyên là mốc xích đưa tới sinh tử luân hồi, cũng từ Pháp Samuppada này bẻ gãy mốc xích của sinh tử luân hồi này cũng nằm trong đó.
Nên Đức Phật Ngài nói "phiền não phát sinh lên, chính nơi đó diệt tắt", chứ không chạy đi đâu tìm để mà diệt tắt, cái đó là sai lầm là ảo tưởng.
Phiền não phát sinh nơi nào diệt tắt nơi đó. Nên có câu "Phiền não thị sinh Bồ Đề" , Bồ Đề là Giác Ngộ, do đó phiền não nơi nào sinh lên giác ngộ nơi đó liền.
-------------------------------
Trang 636
Câu hỏi 136 : Sát na mà Ngài đang thẩm sát Chi Phần Liên Quan Tương Sinh ở trong cả hai phía Xa Luân ấy là Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân đây, thì Ngài có những nghĩ suy như thế nào ? Cho lời giải thích.
136 Đáp : Khi thẩm sát Chi Phần Liên Quan Tương Sinh trong Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân - ở cả hai phía này rồi - thì cũng sẽ thấy hiểu được rằng Vô Minh, Hành, và Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu sinh ở trong Hữu trước đã được liết kê vào trong Tiền Hữu Luân, Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu, và Vô Minh, Hành sinh trong Hữu này, thì được liệt kê vào ở trong Hậu Hữu Luân. Đối với Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, và Sinh, Lão Mại - Tử Vong, ấy chính là tất cả Chúng Hữu Tình, kể từ bắt đầu khởi sinh cho đến khi tử vong trong Hữu Hiện Tại dây, thì được liệt kê vào trong Tiền Hữu Luân. Sinh, Lão Mại - Tử Vong và Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, mà sẽ sinh trong Hữu mới kể tiếp, ấy chính là tất cả Chúng Hữu Tình bắt đầu sinh khởi cho đến khi tử vong ở trong Hữu mới đấy, thì liệt kê vào trong Hậu Hữu Luân. Chỗ nói rằng Chi Phần Liên Quan Tương Sinh đang luân chuyển tuần hoàn, có nghĩa là sinh khởi nối tiếp hữu quan nhau giữa Hữu trước với Hữu này, và Hữu này với Hữu kế tiếp vậy.
------------------------------------------
Ở trong Xa Luân và Tiền Hữu Luân cái này cũng là cái cấu trúc Tiền Hữu Luân, Hậu Hữu Luân là sao.
Khi thẩm sát Chi Phần Liên Quan Tương Sinh trong Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân - ở cả hai phía này rồi - thì cũng sẽ thấy hiểu được rằng Vô Minh, Hành, và Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu sinh ở trong Hữu trước đã được liết kê vào trong Tiền Hữu Luân. Cái đó là cách thức thuyết không nằm trong 4 phương pháp thuyết mà nay nói về Tiền Hữu Luân hay Hậu Hữu Luân cũng là một cách thuyết của Liên Quan Tương Sinh.
------------------------------------
trang 636
137 Hỏi : Hãy giảng giải sự liễu tri khi đã được đón nhận từ ở cả hai Xa Luân.
137 Đáp : Tri kiến được tiếp thâu từ nơi việc trình bày sự hiện hành của cả Nhị Xa Luân (Bhavacakka vòng luân hồi):
Sự hiện hành của Liên Quan Tương Sinh như đã vừa đề cập rồi đây, chỉ cho thấy rằng khi đã có Hữu Hiện Tại thì cũng phải có Hữu Quá Khứ và Huxu Vị Lai tiếp nối. Sẽ nói là tất cả Chúng Hữu Tình sinh trú trong Hữu này thì cũng đã từng sinh từng chết đi, tính đếm quả là khôn xiết; và rồi sẽ phải lại thêm việc sinh việc tử nối tiếp đi nữa ở về sau, cũng tính đếm quả là khôn xiết, tương tự như nhau. Và trong việc tìm khiếm Nhân, tìm kiếm Xuất Sinh Xứ đã làm cho tất cả Chúng Hữu Tình phải thường luôn có sinh có tử đay, thì cũng chẳng cần phải đi tìm kiếm ở chỗ nơi nào khác, mà nó hiện hữu chính ở ngay trong bản thân của chúng ta. Ấy chính là những hành động tạo tác với Thân cũng có, với Ngữ cũng có, với Ý cũng có; và đích thị chính là có Vô Minh và Ái Dục làm Nhân. Như thế, Ngài Chú Giải Sư mới trình bày để ở trong bố Chú Giải Xua Tan Mê Mờ nói rằng: "Ke tạo tác Ác Hạnh thì dắt dẫn cho đi đến Khổ Thú; bởi do nương vào Vô Minh làm Nhân đặc biệt, và có Ái Dục làm Nhân phổ thông. Người tác hfnh Thiện Hạnh thì dắt dẫn cho đi đến Thiện Thú; bởi do nương vào Ái Dục làm Nhân đặc biệt, và có Vô Minh làm Nhân phổ thông."
Giải thích rằng kẻ đã tạo tác những Ác Hạnh, cũng do kẻ ấy chẳng trông thấy điều tác nghiệt của Ác Hạnh. Tức là việc tạo tác những Ác Hạnh đây, chẳng có mang lại sự an vui đến cho mình, chẳng có sự lợi ích chút nào cả, mà chỉ có hủy diệt đi sự lợi ích, và dắt dẫn cho quả báo xấu ác trổ sinh thôi. Việc chẳng được trông thấy những điều tác nghiệt đây, là cũng do bởi mãnh lực của Vô Minh làm người chi phối, che án bưng bít; và Ái Dục làm người cứ.
trang 637
mảng vui cho thực hiện. Cũng ví như bò kỉa đã bị thì đĩ khốc hình với việc lấy lửa thiêu đốt, rồi lại bị đánh đập bằng búa. Bò kia ất hẳn có trạng thái hành thân hoại thể giẫy giụa, quằn quại; và phải bị khát nước vô cùng. Khi gặp phải nước sôi mà người ta mang ra cho uống, thì cũng vội uống ngay tức thì. Khi đã uống nước sôi vào rồi, thì lại phải thụ lãnh sự thi đĩ khốc hình vô cùng khốc liệt thêm một lần nữa; vì lẽ nước sôi ấy đã làm bỏng cả miệng và cỗ họng đi. Thế nhưng bò kia cũng vẫn phải cố gắng uống vào, do bởi mãnh lực từ nơi nóng lòng, bồn chỗn lo lắng qua việc khát nước ấy vậy. Điều này như thế nào, thì kẻ cố gắng tạo tác những Ác Hạnh, đã làm Nhân dắt dẫn cho đọa sinh ở trong Cõi Khổ Thú, với mãnh lực từ nơi Vô Minh và Ái Dục, cũng dường như thế ấy.
Còn người đã tác hành những Thiện Hạnh, cũng do người ấy sợ hãi đối với sự khổ đau, sự vất và khốn khổ mà sẽ phải thụ lãnh ở trong Cõi Khổ Thú; và có kỳ nguyện sẽ được đón nhận sự an vui làm thành Nhân Loại, Chư Thiên, và Phạm Thiên. Kế tiếp, mới cố gắng nỗ lực thực hiện những Thiện Nghiệp Lực, có Xả Thí, Trì Giới, Tu Tập. Áy là những Thiện Sự rất hoan hỷ, dắt dẫn sự vui mừng phấn khởi đến cho mình. Ấy là điều hữu ích, mang lại quả báo tốt đẹp đến cho mình. Thế nhưng người ấy cũng vẫn không được trông thấy điều tác nghiệt trong Vòng Luân Hồi Khổ, đã làm cho phải luân hồi sinh tử, không thể nào trốn thoát được. Cũng ví như bò kia đã bị thì đĩ khốc hình với biết bao trường hợp sai khác, như đã vừa đề cập đến rồi, và đã có sự khô khát nước. Khí đã gặp được nước lạnh mà người ta mang ra cho uống, thì cũng liền vội uống ngay. Khi đã uống nước lạnh vào rồi, thì cũng có cảm thọ mát mẻ tười tỉnh, nguôi ngoai sự khô nóng, và sự khát nước Ấy đi. Điều này như thể nào, thì người cố gắng nỗ lực thực hiện Thiện Hạnh, đã làm Nhân dắt dẫn cho đi thọ sinh ở trong Cõi Thiện Thú với mãnh lực từ nơi Ái Dục và Vô Minh, cũng đường như thể ấy.
Sự hiện hành của Xa Luân có chủ vị làm người dắt dẫn ở phía trước và cả ở phía sau; tức là Vô Minh và Ái Dục dắt dẫn tất cả Chúng Hữu Tình quanh quản luân chuyển đi trong Cõi Giới thấp hoặc cao, vô cùng tận và chẳng có điểm cuối cùng. Cũng tựa như xe lửa có hai đầu bánh xe ở phía trước và phía sau, dắt dẫn đoàn tàu xe chạy leo lên núi cũng có, hoặc xuống núi cũng có, hoặc chạy quanh co khúc khuỷu theo sườn núi cũng có. Khi xe chạy lên núi thì sử dụng đầu bánh xe ở phía trước làm người dắt dẫn. Khi xe chạy xuống núi thì sử dụng đầu bánh xe ở phía sau làm người dắt dẫn, luân phiên thay đổi với nhau như vầy.
Với lý đo này Ngài Phụ Chú Giải Sư mới trình bày đến sự hiện hành của cả Nhị Căn Nguyên Luân Hồi luân phiên thay đổi tương tự với xe lửa có hai đầu bánh xe như sau:
Oggacchantova cuggacchaṃ Dusīso aggiko ratho.
Evaṃ bhavaratho yãti Ciraṃ saṃsāraañjase.
Dịch nghĩa: Xa Luân có hai đầu, đó là Vô Minh và Ái Dục, đã chạy đi lên đi xuống trong lộ trình của Vòng Luân Hồi. Tức là chạy xuống đến Cõi Khổ Thú cũng có, hoặc chạy lên đến Cõi Thiện Thú cũng có, suốt cả thời gian lâu dài. Cũng tương tự với xe lửa có hai đầu xe bánh xe đã chạy xuống cũng có, hoặc chạy lên cũng có, quanh quấn ở trên ngọn núi đường như thế ấy.
Lại nữa, từ ngữ Saṃsära (Luân Hồi) hoặc Saṃsäravaṭṭa (Vòng Luân Hồi) chẳng phải sử dụng cho việc sinh khởi nối tiếp nhau của Hữu Tình, của bắt luận người nào; mà dùng cho việc sinh khởi nối tiếp nhau của Uẩn, Xứ, Giới, và đích thị chính là Pháp Liên Quan Tương Sinh ấy vậy.
Như thế, Đại Giáo Sư Mahābuddhaghosācāriya mới trình bày để trong Bộ Chú Giải Aṭṭhasālinī rằng :
Khandhānanca patipāti Dhātuāyatanāna ca
Abbocchinnaṃ vaṭṭamānā Saṃsāroti pavuccati
Dịch nghĩa : Việc sinh khởi hiện hành liên tục nối tiếp nhau không gián đoạn của những loại Uẩn, Giới, Xứ đây, được gọi là Luân Hồi.
------------------------------------------
Xa Luân là bánh xe Luân Hồi.
Câu giải đáp câu hỏi 136 từ trang 636 cho đến trang 638 mới hết.
Trang 638 câu hỏi
A. 139. Hỏi : Cho lời giải thích trong tác nhân đã làm cho cả Tam Luân Hồi bị tận diệt.
139. Đáp : Nguyên nhân làm cho cả Tam Luân Hồi bị tận diệt:
Theo lẽ thường nhiên, cây cối thường tươi tốt và được phát triển lên, là cũng do nương vào rễ cái. Nếu như rễ cái đã bị hủy diệt đi rồi, thì cây ấy ngay tức khắc cũng sẽ phát sinh lên hiện trạng ủ rũ héo hon; và hệ quả kết cuộc thì cũng phải chết đi. Điều này như thế nào, thì Danh Sắc tức là tất cả Chúng Hữu Tình phát triển ở trong Vòng Luân Hồi vô cùng tận và không có điểm cuối cùng; là cũng do mãnh lực từ nơi Vô Minh và Ái Dục. Khi nào cả hai Vô Minh và Ái Dục đâ đã bị hủy diệt đi, với mãnh lực từ nơi Tâm Đạo Vô Sinh; thế rồi sự phát triển của Danh Sắc, và đấy cũng chính là việc luân chuyển của tất cả Chúng Hữu Tình, cuối cùng rồi cũng coi như đã tiệt diệt.
Như thế, Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya mới trình bày rằng : Tesameva ca mūlānaṃ nirodhena niujhati - Sự tận diệt những Căn Nguyên ấy thì sự Luân Hồi được chấm dứt.
Dịch nghĩa: Khi cả hai Căn Nguyên Luân Hồi đã tận diệt không còn dư sót với mãnh lực từ nơi Tâm Đạo Vô Sinh rồi, thì việc luân chuyển tuần hoàn từ nơi Liên Quan Tương Sinh, tức là cả Tam Luân Hồi cũng thường diệt tắt ngay tức thì.
--------------------------------------
Câu hỏi 139 : Cho lời giải thích trong tác nhân đã làm cho cả Tam Luân Hồi bị tận diệt.
Cách diệt Tam Luân Hồi, phiền lão luân, dị thục quả luân, nghiệp luân, 3 Luân Hồi làm sao diệt được, thì mình phải giải thích sau khi nắm được Tiền Luân và Hậu Luân thì mình đi sâu vô Tam Luân Hồi này bẻ gãy nó được mới ra được.
Thế thì khi mấy cô đang học hay đang hành hay đời sống hàng ngày mấy cô đang sống trong Tam Luân Hồi lập đi lập lại hoài, hết phiền não đến dị thục quả đã tạo ác nghiệp, nghiệp luân, quả luân, phiền não luân, làm sao để giải đáp những điều này.
Ở đây có giải thích, xem câu 139. Đáp : Nguyên nhân làm cho cả Tam Luân Hồi bị tận diệt:
Theo lẽ thường nhiên, cây cối thường tươi tốt và được phát triển lên, là cũng do nương vào rễ cái. Nếu như rễ cái đã bị hủy diệt đi rồi, thì cây ấy ngay tức khắc cũng sẽ phát sinh lên hiện trạng ủ rũ héo hon; và hệ quả kết cuộc thì cũng phải chết đi. Điều này như thế nào, thì Danh Sắc tức là tất cả Chúng Hữu Tình phát triển ở trong Vòng Luân Hồi vô cùng tận và không có điểm cuối cùng; là cũng do mãnh lực từ nơi Vô Minh và Ái Dục. Khi nào cả hai Vô Minh và Ái Dục đâ đã bị hủy diệt đi, với mãnh lực từ nơi Tâm Đạo Vô Sinh; thế rồi sự phát triển của Danh Sắc, và đấy cũng chính là việc luân chuyển của tất cả Chúng Hữu Tình, cuối cùng rồi cũng coi như đã tiệt diệt.
Như thế, Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya mới trình bày rằng : Tesameva ca mūlānaṃ nirodhena niujhati - Sự tận diệt những Căn Nguyên ấy thì sự Luân Hồi được chấm dứt.
Dịch nghĩa: Khi cả hai Căn Nguyên Luân Hồi đã tận diệt không còn dư sót với mãnh lực từ nơi Tâm Đạo Vô Sinh rồi, thì việc luân chuyển tuần hoàn từ nơi Liên Quan Tương Sinh, tức là cả Tam Luân Hồi cũng thường diệt tắt ngay tức thì.
Thiền sinh hỏi : Thưa Sư, giữa cái Nghiệp Hữu với Nghiệp Chủ khác nhau như thế nào ?
HT trả lời : Nghiệp Hữu và Nghiệp Chủ : Nghiệp Chủ tạo tác ra trong đó có Nghiệp Hữu. Nghiệp Hữu sinh trở lại làm Nghiệp Chủ nó dẫn dắt mình trong cái nghiệp báo.
Từ tác ý mình làm ra nghiệp, nhưng nghiệp có 2 loại : Nghiệp Hiệp Thế, Nghiệp Siêu Thế.
Nghiệp Hiệp Thế là nếu mình được sinh lại làm người hưởng phước vật, phước trí đầy đủ, nhưng phải luân hồi.
Nghiệp Siêu Thế là mình cắt đứt những luân hồi, Tam Luân hay Nhị Luân để mình không sinh tử nữa.
Thì nghiệp đó gọi là Nghiệp Chủ. Khi Nghiệp Chủ sinh ra Nghiệp Hữu. Nghiệp Hữu mới giải đáp được cái Nghiệp Chủ này với trạng thái mà mình có tác ý hướng tới.
Sư chia sẻ đời sống hàng ngày, sáng Sư nhờ cô Tịnh Nhẫn cho chim ăn cho mèo ăn, đó là những con mèo hoang tới xin ăn, rồi những con nai bị những nhà trong khu vực họ bắn chúng, chúng gồm chồng vợ con cái chạy vô ở dưới gầm thiền đường, bao nhiêu cây bông hoa chúng ăn hết cũng không sao, rồi những con chó nhà mình nuôi cũng cho ăn. Thì chỉ là phước vật thôi, rồi rải tâm từ ngay lúc mình bỏ vật thực xuống mình phải có tâm từ thì mình đã có phước đức, rồi phước trí khi mình bỏ vật thực xuống "nhân này là đạo quả Níp-bàn, nhân này diệt trừ khổ đau, nhân này diệt trừ sinh tử luân hồi" thì mình có phước trí trong khi bỏ xuống, chứ không phải ta sinh trở lại ta được tam phước, ta được đầy đủ nhân thiên, ta được đầy đủ phước, ta được sung sướng trong việc sinh tử này.
Đó là mình làm Nghiệp Chủ thì mình mới có là nghiệp hữu, nếu không có Nghiệp Chủ thì không có Nghiệp Hữu. Thì Nghiệp Hữu mình làm mà trước đó không có tác ý của trí thì là trạng thái của Hiệp Thế.
Đời sống hàng ngày mấy cô phải như vậy, thường mỗi ngày, đó là con đường của bậc Giác Hữu Tình Bodhisattva, đi đường nào cũng vậy, đường độc đạo hay Chánh Đẳng Giác cũng phải đi như vậy, cũng phải đi như thế, tam phước, nghiệp chủ, siêu thế, hiệp thế. Nếu sinh trở lại làm người chưa được giải thoát thì mình được đầy đủ phước vật phước đức phước trí.
Phước có 3 :
- Phước vật
- Phước đức
- Phước trí
Trong 3 cái đó mình luôn luôn tạo tác.
Phước Vật
Trong phước vật trong đời sống hàng ngày có 2 loại là : Hiệp Thế và Siêu Thế.
Hiệp Thế: Thì phước vật là tất cả thuộc về vật chất ; bàn, ghế, áo, quần, giầy dép, cơm ăn, nước uống, mình cho những người cần có, đó là thuộc về Hiệp Thế, kiếp sau sinh lên mình có đầy đủ các vật chất này, không có khiếm khuyết hay lo lắng vấn đề vật chất này
Siêu Thế: Khi muốn tiến về Siêu Thế về phước vật này thì tứ vật dụng. Tứ vật dụng này không nằm ở ngoài vật chất thế gian, mà nằm trong Tam Bảo, phước vật này là phước vật Siêu Thế.
Như cô Hoa Huệ nói có một cái chùa có một ông Sư bên Miến Điện mới qua khoản 5, 10 hạ, còn trẻ lắm, người ta biết cô xả thí nhiều nên mời cô tới rồi cô gọi điện thoạt đến Sư Sư nói được, đợt vừa rồi mà cô Diệu Giác gửi tượng Phật đến ngôi chùa đó. Và Sư cũng chuẩn bị sẵn rồi, cô sẻ lên dự buổi lễ Katina này Sư sẵn sàng y áo 2 bộ
Đó là nghiệp chủ mới phát sinh ra cái này, giờ mình nghe cái này mình bỏ qua thì cái chủng tử hạt giống đó mất.
Do đó, khi mình dịch từ ngữ opportunity là cơ hội nhưng trong trường hợp này không dịch là cơ hội mà dịch là thời cơ, cái cơ hội đúng thời điểm này, chúng ta gọi là thời cơ. Cơ hội là có thời điểm, còn thời cơ là lúc nó đang tới hiện tại. Mình không làm theo cơ hội mà phải làm đúng thời cơ, mình không làm vì cơ hội mà mình làm đúng thời cơ.
Tứ vật dụng mà không biết và không có dịp làm .
Tứ vật dụng gồm có : chỗ ở, thuốc men, vật thực, y áo. Thì y áo mình không có thì mình may, còn chỗ ở không có thì mình cúng dường tịnh tài Tam Bảo để họ xây ngôi Tam Bảo, thì đó là tứ vật dụng thì sau này tái sinh mình có trú xứ mình có chỗ tu tập.
Khi mình nói phước vật mình đâu biết cái nào là Hiệp Thế cái nào là Siêu Thế, nhưng mình phải biết mình có tác ý với Siêu Thế là con đường của Tam Bảo thì con đường đó đi tới phước vật mà phước cùng tột của Siêu Thế của tứ vật dụng là Tứ Phương Tăng Tự, trong kinh Đức Phật nói rõ ràng. Hồi đó Ngài Tịnh Sự Ngài có trí nguyện là lập Tứ Phương Tăng Tự. chùa Siêu Lý ở Phú Định cũng là Tứ Phương Tăng Tự Siêu Lý, Trúc Lâm Ngài cũng lập Tứ Phương Tăng Tự Trúc Lâm, về sau khi Ngài mất các quí Sư mới tháo chữ Tứ Phương Tăng Tự xuống để trở lại chùa thường. Thật ra Ngài có tác ý muốn gieo hạt giống phước vật cùng tột là Tứ Phương Tăng Tự, tại vì trong Tứ Phương Tăng Tự là có tứ vật dụng. Bây giờ bên Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, các quí Ngài nói tới Catuddisa Sangha Vihara là các Ngài sợ với tới không nổi. Phước vật trong Tứ Phương Tăng Tự là cùng tột, mình không khinh xuất được.
Giống như Sư muốn chia sẻ với quí Phật tử, quí Phật tử muốn cúng dường cái gì cho Tứ Phương Tăng Tự là có phước vật cùng tột và là phước vật Siêu Thế. Thí dụ như quí Phật tử bây giờ cúng dường Kathina cho Tứ Phương Tăng Tự là có phước vật cùng tột, đơn thuần quí Phật tử không để ý hay không ai chỉ dạy nhưng quí Phật tử đã gieo hạt giống đó rồi thì nó sẽ rớt vô Khinh Thiện Nghiệp, trong 16 loại nghiệp, thì khinh thiện nghiệp là nhỏ không ai để ý tới, nhưng nó sẽ trổ sinh khi đủ duyên nó sẽ sinh ra. Từ trước đến giờ không nghĩ tới bây giờ mới nghe thì mình hồi ức lại nhớ lại thì sẽ phục hồi lại.
Quí Phật tử không cúng dường tứ vật dụng. Trong Pháp Hành, trong phước cúng dường trong Tam Bảo, trong đó có thuốc men, do đó khi mình có trường hợp, Sư cũng vậy thôi, Đức Phật Ngài cũng vậy thôi. Ngài có 3 bịnh nan y giờ mình mới biết, nhưng đâu có sách sử nào nói, Ngài bị vọt bẻ kinh niên, chuột rút cơ bắp tại vì Ngài đi nhiều, căn bệnh thứ hai là rối loạn đường tiêu hóa tại vì Ngài dùng trí nhiều thì Ngài bị bệnh rối loạn tiêu hóa, căn bệnh thứ ba là nhức đầu, Ngài bị 3 căn bệnh nan y đó suốt cho đến ngày viên tịch, kèm theo những nghiệp cũ nữa, chẳng hạn như cho thuốc lầm Ngài thọ bệnh kiết lị trong 3 tháng cuối rồi Ngài viên tịch Níp-bàn tại Kusinara.
Vậy thì khi quí Phật tử lâm bệnh, hay gặp khổ thì mình nói là mình đã tuyên bố phóng khí chưa, chứ đùng nói là tôi chưa xuất gia làm sao tôi có, cái đó là trật, mình tự cắt hạt giống mình. Mình nhớ lại liền có tuyên bố phóng khí (Nekkhamma), tôi có tứ vật dụng, không phải kiếp này mà kiếp trước, thì lúc đó quả bố thí thuốc men nó đến với mình, quả bố thí vật thực nó đến với mình.
Tuyên bố phóng khí = (renunciation), từ ngữ Pali là Nekkhamma
Tuyên bố phóng khí = Tuyên bố phóng khí (renunciation), từ ngữ Pali là Nekkhamma có ý nghĩa là bỏ đi, không ngó ngàn đến, lời tuyên bố bỏ đi, xa lìa tài sản của cải hàm ý của hạnh Ly Dục của Bậc Giác Hữu Tình Chánh Đẳng Giác, được thực hiện trước khi thoát ly hồng trần, vào chốn sâm lâm sống hạnh viễn ly, độc cư thiền tịnh.
Những bài giảng Phát Thú này đã được sưu tập lại trong Sưu Tập Pháp II mà Sư đã có phát hành rồi.
Nên Đức Phật khi đội quân ma hùa theo Ma Vương để xác nhận cái bồ đoàn là của Ma Vương, còn Đức Phật lấy Balamat của Ngài để xác nhận cái bồ đoàn là của Ngài. Thì quả địa cầu xác nhận Ngài có làm, có 8 lần quả địa cầu chấn động, lúc đó quả địa cầu xác nhận là có 20 tăng kỳ Ngài có tuyên bố phóng khí, thì quả mới trổ lại cho Ngài, nó thành ra lực lượng mà lực lượng đó mạnh hơn lực lượng của Ác Ma.
Do đó, quí Phật tử phải nhớ, trong khi bố thí vật thực, y áo, trú xứ, và thuốc men mình có làm, mình có tuyên bố phóng khí, xin cho quả phước trổ ra cho tôi để mà diệt trừ căn bệnh hay cái khổ đau này. Mình không sống với tha lực, phương pháp nhờ vào tha lực không có trong Phật Giáo, cầu này xin kia là không có. Mình phải tạo phước thì khi mình nguyện mới có được.
Những lúc Sư lâm nạn Sư nói Sư có tuyên bố phóng khí, Sư nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác từ trong tâm cho đến nói ra lời thì Sư có tuyên bố phóng khí, mà trong tứ vật dụng này Sư có làm.
Khi Sư ở VN, chùa dưới Sóc Trăng Sư Sư hỏi có ai dâng y chưa, Sư Cả trả lời không có ai dâng y, thì Sư đảm nhiệm việc dâng y, Sư dâng y hết Chư Tăng ở đó. Lúc Sư đi dạy học trong dịp mùa Vu Lan bên Bắc Tông, tại vì Sư Giáo Thọ tại trường hạ ở đó, họ cho Sư nhiều xấp vải, Sư đem tới bà thợ may nhờ bà may, tiền công may một bộ y là 25 ngàn rồi Sư đem tới cúng dường cho Chư Tăng ở chùa dưới Sóc Trăng. Rồi Sư Cả hỏi Sư còn y không, Sư nói còn, rồi Sư lấy thêm y để cúng dường cho mấy vị nào chưa có.
Mỗi năm Sư đi Miến Điện dự lễ hội không khi nào Sư đi với vali trống khi Sư về mang về rất nhiều y vì bên đó họ cúng dường cho Sư
Quả trổ lại liền, đó chỉ là về y thôi. Còn nói về tứ vật dụng như thuốc men, trú xứ cũng vậy, mình phải tạo thì mới được hưởng.
Trong Phật Giáo không có tha lực, không có cầu xin, không có sự ban ơn, mà tự mình làm mới có, Đức Phật Ngài cũng vậy, khi Ngài đi bát gặp ông Balamon đang phát vật thực cho các tá điền của ông thì gặp Đức Phật đi tới, ông Balamon nói muốn có vật thực thì đi cày, Đức Phật nói ta đã cày rồi nay ta gặt hái, Ngài không có nói láo, Ngài đã cày 20 tăng kỳ trong phước vật này.
Do đó mình mới hiểu được
Mình chiêm nghiệp 3 ân đức Phật Pháp Tăng, thì mình hưởng ân đức của Phật Pháp Tăng. Lúc đang chiêm nghiệp trở lại thì Tâm của mình Câu Sinh Nghiệp Duyên nếu quí Phật tử có tác ý đó, còn không có tác ý thì mình câu hình thức thôi. Mãnh lực duyên của Paṭṭhāṇa rất sâu sắc.
Sư nghiên cứu trong Tam Tạng, Luật Tạng, Kinh Tạng, và Abhidhamma Tạng, thì phương pháp thực hành Pháp thì chỉ có Abhidhamma thôi, còn Tạng Kinh, Tạng Luật là những phương pháp không có chi tiết, chỉ có Abhidhamma mới thực hành Pháp nhất là bộ Paṭṭhāṇa Đức Phật phóng hào quang 6 màu khi nghĩ tới, Ngài phát sinh lên những hào quang Chư Thiên ở Tứ Thiên Vương, ở cõi Phi Phi Tưởng Xứ cho đến Vô Gián Địa Ngục đều thấy sáng hào quang.
Như bài Thế Gian Giải Lokavidù, thì mình chiêm nghiệm lại Thế Gian Giải dưới ân đức của Ngài thì mình Câu Sinh Nghiệp Duyên với Thế Gian Giải này thì mình sẽ mở trí mình.
Có 3 điều không thành tựu phước báu. ĐĐ Nāgasena trả lời vua Milinda trong kinh Milindapañha Sở Vấn Kinh.
Vua Milinda nói phước báu sinh ra có 3 điều không thành tựu :
1. Đọc như con vẹt
2. Đọc khi bị phiền não chi phối.
3. Ác nghiệp nặng
Những trường hợp đó thì mình chiêm nghiệm lại, tôi có làm, tôi có gieo trồng, tôi có cúng dường, tôi có tạo tác, tôi có xả thí, tôi có tuyên bố phóng khí thì mình mới lượm lại được. Không ai cứu mình hết. Cái đó nhanh nhất, lúc đó đâu có kịp để mình cầu cứu ai. Mình ngồi nhớ lại, trừ khi mình ngồi ngủ gục thôi.
Phước Đức
Như nói tới phước đức thì quí Phật tử có Tâm Từ ái bác ái, cùng tột của phước đức là rải Tâm Từ Mettā, thì kiếp nào mình sinh lên ai cũng thương mình hết đó không có ai ghét bỏ mình hết, ngay cả vợ chồng con cái là một chuỗi giây oan trái thương đó, giận đó, ghét đó, rồi làm hòa nhau "vô oan trái bất thành phu phụ" , thì người có Tâm Từ Mettā họ không có sinh ra chuyện đó nữa, người đó an trú an lành mọi chuyện suôi chèo mát mái, nhưng mọi chuyện sinh trở lại vòng luân hồi trong Tâm Từ mình được thương yêu mình không dứt ra đi được vì dính mắc.
Thì qua tới phần Siêu Thế thì Tâm Từ Mettā phải có upekkhā (Xả) thì mới ra được, Từ Bi Hỉ Xả (Tứ Vô Lượng Tâm) đó là Pháp Siêu Thế. Chứ còn không thì không ra, nếu mình sống trên đời mình có phước đức thì cột trói mình trong quả phước báu này.
Khi nói tới chữ Vô Thường (Anicca) , mình ngồi nghiệm ra không có người nào đồng thời điểm thời gian (Thời - Kāla) với mình hết.
(Thời - Kāla) Cha Mẹ / Con Cái - không bằng thời gian nhau. Thí dụ 20 tuổi, 30 tuổi người mẹ mới có con, thì con 1 tuổi thì người mẹ 30 tuổi, thì khi con lớn lên thì thời gian của người mẹ sẽ đi tới sự vô thường.
Nếu như Tâm Từ Mettā cột lại người mẹ sẽ vướng lại không ra được, cả hai luôn, mẹ đi không được, con không cho mẹ đi mà mẹ đi thì lại oan trái, giận, hờn, tức, sao mẹ bỏ con đi, nhất là người có một mình sẽ giận nhiều. Nhưng làm sao giữ được.
Đó là nói về Thời - Kāla
Nếu nói về Nghiệp - Kamma, thì không có người nào có nghiệp giống nhau hay bằng nhau, khác nhau thì mới ra Vô Thường, cái nghiệp lực nặng, nhẹ, nhanh, chậm. Nhưng đứng góc độ mình không thấy thì mình không hiểu được nghĩa Vô Thường này. Mà nếu như không hiểu được thì Tâm Từ Mettā sẽ là một gánh nặng hay là thảm họa cho mình dưới sự dính mắc trong phước đức của Tâm Từ Mettā nếu không có upekkhā Hành Xả khó mà rủ áo ra đi, gọi là thúc phược (Fetter - xiềng xích), bị cột lại không được đi.
Nhưng cái nghiệp không có, nó có Nghiệp Chủ của nó, nó có chủ nhân của cái nghiệp đó, mà mình không biết được thì mình rớt trong trạng thái Ái của mình sẽ khổ. Cái Từ Ái sẽ trở thành cái họa cho người có Tâm Từ mà không có Tâm Xả.
Nên khi có phước đức mà nó trở thành cái họa cho mình, thì đó là không phải, mà tại vì mình không có trí.
Thí dụ như một người giàu có mà họ có phước đức, họ có tâm từ ái nữa mà họ không có trí thì người đó sẽ bị lợi dụng. Họ giàu có mà họ có phước đức nữa, họ được mọi người thương yêu mến mộ nhưng họ không có trí thì họ sẽ bị lợi dụng, người xấu gặp họ hớp hồn họ là họ móc hết đưa ra, tại vì không có trí.
Phước Trí
Giờ mình qua phần Trí
Trong một ngày mình làm việc phước mình biết thế nào là Hiệp Thế, thế nào là Siêu Thế. Thì Siêu Thế trong phước đức là phải có Tâm Xả đi đôi với Tâm Từ. Tâm Từ phải có Tâm Xả, nếu Tâm Từ không thì sẽ làm khổ mình, mẹ với cha với con cũng vậy. Mình gieo cái họa cho con mình cho người thân của mình là mình lại tạo nghiệp nữa.
Thế gian này là một chuỗi oan trái, cha mẹ đi con cái khóc, nó không bao giờ hoan hỉ cho đi, nhưng nó không hiều là thời gian tuổi tác khác, cái nghiệp khác, chỉ có phước đức của người mẹ con cái lo lắng nuôi dưỡng, nhưng mình không tập cho nó cái xả sau này sẽ khổ.
Trong Phước Trí là quán tưởng sự chết, quán tưởng tử vong, đó là phước trí của Hiệp Thế, hay phước trí của Siêu Thế chỉ là Sinh và Diệt, có Sinh thì có Diệt.
Khi mình làm cái gì mình phải có tác ý. Nếu là phước trí là mình phải quán tưởng sự chết, tối nằm mình niệm "nay ta có sự chết là cuối cùng, tất cả chúng sinh có sự chết là cuối cùng, không ai thoát được."
Nhưng trong khi đó mình nhìn với trạng thái Hiệp Thế nhưng mình thấy hễ có Sinh là có Diệt, trong hơi thở cũng vậy có Sinh là có Diệt, trong nghĩ suy của mình cũng vậy, trong cái biết của mình cũng vậy có Sinh là có Diệt, nó ra cái khác nữa rồi.
Người trí không dính mắc bởi upekkhā Hành Xả, thì Sinh Diệt này tới Hành Xả Trí trong 9 Minh Sát Trí kia nó chưa đủ, tới phần trí cùng tột của nó là Hành Xả Trí, đi tới trạng thái saṅkhāra upekkhāñāna Hành Xả Trí ở trên mức của phước đức Tâm Từ Mettā + upekkhā kết qua phần Sinh Diệt Trí mới thực hiện được trong phước trí, trong cái làm phước của mình.
saṅkhāra là Hành hay là Hữu Vi.
saṅkhāra có 2 loại : Asaṅkhāra và Sasaṅkhāra
Asaṅkhāra là Vô Hành hay Phi Hành
Sasaṅkhāra là Hữu Hành hay Hữu Vi, Vi là tạo tác
saṅkhāra Hữu Vi là có tạo tác là Conditioned.
Unconditioned không đủ điều kiện, là Vô Vi
Thì phần gọi là Asaṅkhāra là Vô Hành, Sasaṅkhāra là Hữu Hành.
Không có tạo tác Asaṅkhāra là Vô Hành hay Phi Hành có 2 là:
1. Pháp Chế Định có 13 Danh Chế Định nāma paññaṭṭi và Nghĩa Chế Định aṭṭhapaññaṭṭi , nó thuộc về pháp Vô Vi.
2. Níp-bàn
Hai pháp này không có tạo tác.
Sasaṅkhāra là Hữu Hành hay Hữu Vi là có tạo tác, có Tâm, Tâm Hiệp Thế, Tâm Siêu Thế, Tâm Sở, và Sắc Pháp tạo tác, chỉ có Tâm Tử bậc Vô Sinh là không tạo tác, mà tạo tác một là để lại quả và tạo tác không để lại quả nó thuộc về Thiện và Vô Ký hay là Duy Tác.
Phần thứ 3 nó có Hành, có 3 loại Hành :
1. Thiện Hành
2. Bất Thiện Hành
3. Tối Thắng Hành.
Thiện Hành tạo tác ra những thiện phước.
Bất Thiện Hành tạo ra tội
Tối Thắng Hành tạo ra trạng thái Thiền Sắc Giới, Thiền Vô Sắc Giới.
Tối Thắng Hành là cho những người hành thiền Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Tuy nhiên góc độ của Tối Thắng Hành có mãnh lực không ai qua được nó là Vô Minh.
Thì khi mình nói tới phần Hữu Vi và Pháp Vô Vi thì phải nhớ là Vô Vi chỉ có 2 Pháp là Chế Định và Níp-bàn. Chế Định là mình nói trong nghĩa Danh Chế Định nó không để lại kết quả gì. Nhưng trong khi Tâm vô trong phần đó mới để lại kết quả. Thì trong Pháp Hữu Vi saṅkhāra
Thì khi nói tới Phước Trí mỗi tối trước khi đi ngủ niệm rằng: "Ta đây có sự chết là điều cuối cùng, tất cả mọi chúng sinh đều có sự chết là điều cuối cùng, không ai thoát khỏi cái chết." Niệm như vậy là mình đang đi Phước Trí của người Hiệp Thế xử dụng trong những Pháp Chế Định. Tuy nhiên nếu mình nói trong Phước Trí mà mình nhìn hít vô thở ra Sinh Diệt, nó có 2 lần Sinh 2 lần Diệt.
Một hơi thở có 2 lần Sinh 2 lần Diệt
để hình 072 - 1.30.11
Hít vô có Sinh / Diệt của nó
Thở ra có Sinh / Diệt của nó
Do đó, Sinh / Diệt mà người hành giả hay là người tạo Phước Trí họ thấy được từng mọi chi tiết của nó thì họ không chấp vô trong một trói buộc nào hay trong kiết sử nào ở trong trạng thái cái hiện Sinh cái hiện bày của nó, thì ăn vô phần Xả của Phước Đức xuống Xả của Hành Xả Trí.
Thì khi mình đi qua phần trong Minh Sát Trí vipassanā nñāṇa, Tuệ thứ nhất là Tuệ phân biệt Danh Sắc, tuệ thứ hai là tuệ phân biệt nhân quả của Danh Sắc. Tuệ thứ ba là Phổ Thông Trí về Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.
Thì mấy cái đó lấy những Phước Vật, Phước Đức, Phước Trí mình đi. Mình có Phước Vật mình đi qua, Phước Đức mình đi qua, Phước Trí mình đi qua.
Do đó, có những vị Thiền Sư, chẳng hạn như Ngài U Sīlānanda, Ngài Paṇḍita, thường hay hướng dẫn những khi người hành giả trong giai đoạn đi thiền hành rốt ráo, những khóa tu tĩnh tâm quyết liệt thì họ sẽ vướng vô nghiệp chủ của họ về cơn đau, cái đó là nghiệp chủ, các quí Ngài nói cơn đau là nghiệp chủ nó đến nó đòi, thì lúc đó các Ngài gạt bỏ ngã rẽ để giữ được tâm còn tập trung trong niệm thì họ cho rải tâm từ.
Mở cửa ngã rẽ ra Mettā Bhavana rải Tâm Từ, nhưng họ vướng trong Tâm Từ không có lối thoát tại vì nó nằm ở Phước Đức Tâm Từ Mettā + upekkhā kết qua phần Sinh Diệt Trí mới được./.
------------------------------------------------------
Dưới đây là phần tra khảo để bổ túc thêm từ các trang web Phật Pháp
MƯỜI SÁU TUỆ MINH SÁT - 16 Tuệ Minh Sát (Vipassanāñāṇa)
1. Nāmarūpapariccheda ñāṇa: Tuệ phân biệt danh-sắc.
2. Paccayapariggaha ñāṇa: Tuệ nhận biết nhân của mỗi sắc pháp và danh pháp cùng sự tương duyên giữa hai pháp.Tuệ phân biệt nhân duyên.
3. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt, nhận thức danh-sắc là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). (Phổ Thông Tướng)
4. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái sanh diệt (của các hành, tức của danh-sắc). Tuệ sanh diệt.
5. Bhaṅga ñāṇa: Tuệ quán chiếu trạng thái hoại diệt của danh-sắc. Tuệ diệt.
6. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ.
7. Ādīnava ñāṇa: Tuệ quán chiếu hiểm họa, tức quán chiếu trạng thái nguy hiểm của các hành. Quá Hoạn Trí, Bố úy trí: Cái trí thấy được sự đáng sợ của các hành. Khi hành giả tu tập về quán diệt sung mãn, sẽ thấy tính chất của các hành thật khủng khiếp, khi y muốn sống yên ổn.
8. Nibbidā ñāṇa: Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản. Quyết Ly Trí
9. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát. Dục Thoát Trí
10. Paṭisaṅkhā ñāṇa: Tuệ suy tư.
11. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, quân bình, thản nhiên đối với tất cả các hành. Hành Xả Trí
12. Saccānulomika ñāṇa: Tuệ thuận thứ (thuận theo thực tế, tức thuận theo Tứ Diệu Ðế).
13. Gotrabhū ñāṇa: Tuệ chuyển tánh, vào lúc "chuyển thay dòng dõi" (tức từ phàm trở nên Thánh).
14. Magga ñāṇa: Ðạo tuệ.
15. Phala ñāṇa: Quả tuệ.
16. Paccavekkhaṇa ñāṇa: Tuệ ôn duyệt.
----------------------------------------------
16 loại nghiệp
4 phần nghiệp mà mỗi phần có 4 loại thành 16 loại nghiệp
Kammacatukka: 4 Phần Nghiệp:
1- Kiccacatukka: 4 loại nghiệp có phận-sự của nghiệp.
2- Pākadānapariyāyacatukka: 4 loại nghiệp cho quả của nghiệp theo tuần tự.
3- Pākakālacatukka: 4 loại nghiệp cho quả của nghiệp theo thời gian.
4- Pākaṭṭhānacatukka: 4 loại nghiệp cho quả của nghiệp theo cõi giới.
I- Kiccacatukka: 4 loại nghiệp có phận-sự của nghiệp
1.1- Janakakamma: Sinh-quả-nghiệp là nghiệp có phận-sự cho quả trong thời kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp-hiện-hữu.
1.2- Upathambhakakamma: Hỗ-trợ-nghiệp là nghiệp có phận-sự hỗ-trợ cho nghiệp khác cho quả.
1.3- Upapīḷakakamma: Hãm-hại–nghiệp là nghiệp có phận-sự hãm hại nghiệp đối nghịch.
1.4- Upaghātakakamma: Sát-hại–nghiệp là nghiệp có phận-sự sát hại nghiệp khác.
II- Pākadānapariyāyacatukka: 4 loại nghiệp cho quả của nghiệp theo tuần tự:
2.1- Garukakamma: Trọng-yếu-nghiệp là nghiệp trọng-yếu có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau trước.
Nếu không có trọng-yếu-nghiệp thì cận-tử nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.
2.2- Āsannakamma: Cận-tử-nghiệp là nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung.
Nếu không có trọng-yếu-nghiệp và cận-tử-nghiệp thì thường-hành-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.
2.3- Āciṇṇakamma: Thường-hành-nghiệp là nghiệp thường hành hằng ngày đêm.
Nếu không có 3 loại nghiệp trên thì bình-thường-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.
2.4- Kaṭattākamma: Bình-thường-nghiệp là nghiệp bình thường kém 3 loại nghiệp trên, hoặc nghiệp trong kiếp quá-khứ. - Khinh tác nghiệp (Katattākamma), là nghiệp tạo tình cờ trong bình nhật với tư niệm yếu ớt, không chủ ý lắm, nghiệp này ít khi trổ quả, không quan trọng như trọng nghiệp, thường nghiệp và cận tử nghiệp.
III- Pākakālacatukka: 4 loại nghiệp cho quả của nghiệp theo thời gian:
3.1- Diṭṭhadhammavedanīyakamma:Hiện-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).
3.2- Upapajjavedanīyakamma: Hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả kiếp-kế-tiếp (kiếp thứ nhì).
3.3-Aparāpariyavedanīyakamma:Kiếp-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả kiếp sau tiếp tục (kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh-A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn).
3.4-Ahosikamma: Vô-hiệu-quả-nghiệp là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.
IV- Pākaṭṭhānacatukka: 4 loại nghiệp cho quả của nghiệp theo cõi giới:
4.1- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có 12 loại nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.
4.2- Kāmāvacarakusalakamma: Dục-giới đại-thiện-nghiệp có 8 loại nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.
4.3- Rūpāvacarakusalakamma: Sắc-giới thiện-nghiệp có 5 loại nghiệp cho quả tái-sinh trong 16 tầng trời trong cõi sắc- giới phạm-thiên.
4.4- Arūpavacarakusalakamma: Vô-sắc-giới thiện-nghiệp có 4 loại nghiệp cho quả tái-sinh trong 4 tầng trời trong cõi vô-sắc-giới phạm-thiên.
Đó là 4 phần nghiệp mà mỗi phần có 4 loại thành 16 loại nghiệp.
--------------------------------------------------
Danh từ Pàli Bhava-cakka hay Samsàra-cakka, có khi được phiên dịch là Bánh Xe của Đời Sống, có lúc cũng được gọi là Bánh Xe của sự Trở Thành (Bhava, Hữu) hay Bánh Xe của Vòng Quanh Sanh Tử (Samsàra, Luân Hồi).